Mặc dầu vào thời kỳ này với sự ra
đời của Thiền phái Trúc Lâm, hẳn nhiên việc thực tập hành thiền là
phương thức tu tập được xem trọng yếu để kiến tính thành Phật. Tuy nhiên
phương thức niệm Phật vẫn được Thiền phái Trúc Lâm khuyến cáo mọi giới,
mọi thành phần trong xã hội cần phải nỗ lực tu tập, tinh tấn hành trì
mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh là điều đáng nói.
Thiết
nghĩ, kể từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam đến thời Lý thì quá trình
hình thành hội nhập và phát triển đã hội tụ đầy đủ các tông thiền,
tịnh, mật trong diễn trình sinh hoạt tâm linh của cộng đồng người Việt.
Vì thế, có thể nói phương thức niệm Phật cũng đã được giới Phật tử nước
ta quan tâm thực hành từ lâu lắm rồi. Mục đích của niệm Phật là nhất tâm
bất loạn và cũng để cầu vãng sinh về nước Cực lạc của Phật A Di Đà.
Ở
Trung Hoa, ta thấy giáo lý niệm Phật được ngài Huệ Viễn khởi xướng đầu
thế kỷ thứ V, chú trọng vào phương pháp quán niệm. Tại nước ta, vào thời
Lý, năm 1057, một tượng Phật A Di Đà bằng đá cao hai thước rưỡi tây đã
được một lang tướng của vua Lý Thái Tông thực hiện tại núi Lạn Kha,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tượng Di Đà này vẫn còn ở chùa Phật Tích,
Bắc Ninh. Bia đá chùa Phật Tích vẫn còn ghi về sự tích kiến tạo ngôi
tượng này[1].
Sách
Thiền Uyển tập anh, cũng ghi nhận ngoài việc thiền sư Không Lộ tôn trí
tượng Phật A Di Đà để phụng thờ, còn đề cập đến việc thiền sư Tịnh Lực
là một người đã chứng đắc pháp “niệm Phật Tam muội” nhờ công phu niệm
Phật mà được đại định. Thiền sư cũng dạy các môn đồ của mình không nên
cầu sự chứng ngộ từ bên ngoài và nếu muốn diệt trừ các ác nghiệp thì nên
áp dụng phương pháp niệm Phật bằng cả tâm lẫn miệng. Rõ ràng chủ trương
niệm Phật theo giáo lý tông phái Tịnh độ ở nước ta đã được phổ biến và
hành trì trong các ngôi tự viện có thể đã được vận hành trước thời Lý,
nhưng có thể khẳng định đến thời Lý thì pháp môn niệm Phật đã đi vào đời
sống thực nghiệm tâm linh trong sinh hoạt của mọi người dân Đại Việt.
Đến
đời Trần, trên tinh thần hợp nhất các tông phái thành Phật giáo Nhất
tông, lấy tông thiền làm hệ tư tưởng chính để sinh hoạt và phát triển
Giáo hội, nhưng các nhà lãnh đạo Phật giáo cũng như các nhà lãnh đạo
quốc gia bao gồm những thiền gia, thiền sư, đồng thời cũng là những vị
vua như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung và Tam Tổ Trúc Lâm
vẫn thừa kế các pháp môn tu tập truyền thống vốn đã được định hình và
phát triển như niệm Phật để đưa vào chương trình sinh hoạt và tu tập
trong các thiền môn.
Căn
cứ vào tài liệu Khóa hư lục, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Tam Tổ thực
lục, Cư trần lạc đạo phú... của Phật giáo Nhất tông đời Trần, chúng ta
thấy tiến trình hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm đã tác động
vào đời sống nước ta trên nhiều lĩnh vực. Cũng qua các tài liệu nói
trên, chúng ta cũng tiếp cận được đời sống sinh hoạt tu tập Thiền qua
nhiều phương thức khác nhau như niệm Phật, bái sám, tọa thiền nhưng mang
sắc thiền là dấu ấn lớn của Phật giáo Việt Nam trong quá trình tiếp
biến và hội nhập phát triển mang bản sắc Việt.
Và
như thế Thiền phái này dưới sự lãnh đạo của các nhà khai sáng Thiền
phái, đã thiết lập một đời sống tu tập thực nghiệm tâm linh cho các hành
giả, mục đích cuối cùng là giác ngộ ngay giữa cuộc đời theo quy tắc
Thiền môn, mà được sử sách ghi lại. Người học thiền có thể dùng các
phương thức thiền khác nhau, nhưng cuối cùng là tìm thấy sự giác ngộ ở
đời này. Ngay từ buổi đầu, Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Thánh Tông
rồi Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang và các vị thừa kế Thiền phái
đều nhất quán quan điểm như thế.
Phương
thức thiền có khác nhau là do căn cơ, căn trí khác nhau, nhưng chân lý
chỉ là một. Do đó, mỗi tác phẩm trước tác của các vị trong Thiền phái
đều bàn đến những khía cạnh khác nhau về Thiền. Đặc biệt, trong các tác
phẩm ấy, pháp môn niệm Phật đã được đề cập đến như là một phương thức
hành thiền được hướng dẫn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, hợp
với từng căn cơ đối tượng tham thiền học đạo. Mục đích cuối cùng là
kiến tính thành Phật.
Thực
tế, vào đời Trần, trong một bối cảnh lịch sử cả dân tộc quyết tâm xây
dựng một đất nước Đại Việt độc lập, tự chủ, hưng thịnh, bền vững không
chỉ trên biên cương lãnh thổ mà còn trên nhiều phương diện, lĩnh vực
khác nhau. Ta chẳng ngạc nhiên gì khi Trần Thái Tông vị vua đầu tiên đời
Trần, cũng là thiền gia chứng ngộ đề xuất với chính mình cũng là lời
khuyến cáo với mọi người “hãy lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của
mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình”. Do đó, mọi người cần phải giữ
tâm thanh tịnh, không để bụi trần cấu bẩn làm cấu bẩn tâm nhằm phát huy
tinh thần sẻ chia ý muốn và tấm lòng của mình đối với mọi người trong
gia đình và bên ngoài xã hội. Tất cả không ngoài mục tiêu là cùng nhau
xây dựng và bảo vệ đất nước với cuộc sống tốt đời đẹp đạo.
Mục
đích niệm Phật theo Thiền phái Trúc Lâm là loại bỏ niệm xấu thay vào đó
là niệm tốt để tâm trở nên trong sạch hoàn toàn. Con người sống trong
một xã hội đầy biến động, việc cần xác định trước tiên nói như trong tác
phẩm Khóa hư lục qua bài Niệm Phật luận là tâm luôn phải khởi niệm
thiện, khi niệm thiện khởi thì niệm ác không có cơ duyên hiện khởi “Tâm
khởi điều thiện tức tức là điều thiện. Niệm thiện khởi thì thiện nghiệp
báo ứng lại”. Vì vậy, con người cần có những niệm thiện, những niệm tốt,
ý nghĩ lành thì không cách gì hơn là niệm Phật. Niệm Phật nhằm có khả
năng xử lý những sai lầm, ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý. Trong
bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết “Ư niệm Phật thì chánh thân đoan
toạ, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất
đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm,
thị tức ý nghiệp dã.”[2] (Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay,
không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân
chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú
ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý.).
Công năng niệm Phật là thế, nhưng phương thức hành trì của mỗi đối tượng
dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp. Thực tế, theo Trần Thái Tông
nói, trong xã hội có có ba hạng người ứng với ba loại trí: thượng trí,
trung trí, hạ trí, ứng với ba cách thức hành trì niệm Phật.
Cách
thứ nhất dành cho bậc thượng trí là những người tự thân biết tâm mình
chính là tâm Phật, sống trong bụi trần mà không nhiễm trần, không cần tu
niệm thêm gì cả. Chính họ là những người đã được giác ngộ, tâm không
còn sự nhiễm ô, sống trong đời mà không nhiễm bụi đời, an nhiên tự tại,
mà đóng góp cho đời, đúng như bài Niệm Phật luận ghi“Thượng trí giả, tâm
tức thị Phật, bất giả tu thiêm. Niệm tức thị trần, bất dung nhất điểm.
Trần niệm bản tịnh, cố viết như như bất động, tức thị Phật thân. Phật
thân tức ngã thân thị, vô hữu nhị tướng; tướng tướng vô nhị, tịch nhiên
thường tồn, tồn nhi bất tri, thị vi hoạt Phật.” [3] (Bậc thượng trí thì
tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Ý nghĩ là bụi trần không
vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn tịnh, cho nên nói “như như không động
là thân Phật”. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng và
tướng không phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại mà không
biết, đó là Phật sống.).
Cách
thức thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc trung. Đây là thành phần
thứ hai trong xã hội. Người có căn trí bậc này thì phải huy động ý chí,
dùng niệm thiện để đẩy lùi các niệm ác, không cho chúng có cơ hội xuất
hiện. Cuối cùng, họ cũng đạt được trình độ như người có trí tuệ cao hơn
“Trung trí giả, tất tạ niệm Phật, chú ý tinh cần, niệm niệm bất vong, tự
tâm thuần thiện. Thiện niệm ký hiện, ác niệm tiện tiêu. Ác niệm ký
tiêu, duy tồn thiện niệm. Dĩ niệm ý niệm, niệm niệm diệt chi. Niệm diệt
chi thì, tất quy chính đạo. Mệnh chung chi thì, đắc Niết bàn lạc.”
[4](Bậc trung trí ắt nhờ niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà
không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý
nghĩ ác sẽ bị tiêu tan. Ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ
thiện. Dùng ý nghĩ mà ý thức về nghĩ thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết. Khi
ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở về chính đạo; lúc mệnh hết qua đời sẽ
được niềm vui cõi Niết bàn.).
Cách
thức thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí, đông nhất trong xã hội.
Đối với những người này, tâm họ chỉ hướng về nước Phật, mong sao thoát
khỏi những bụi bặm ở đời này. Khi lâm chung lòng thanh tịnh, thác sinh
về Phật quốc “Hạ trí giả, khẩu cần niệm Phật ngữ, tâm dục kiến Phật
tướng, thân nguyện sinh Phật quốc; trú dạ cần tu, vô hữu thoái chuyển.
Mệnh chung chi hậu, tuỳ kỳ thiện niệm đắc sinh Phật quốc; hậu đắc chư
Phật sở tuyên chính Pháp, chứng đắc bồ đề, diệc nhập Phật quả” [5] (Kẻ
hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật,
thân nguyện sinh ở nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thối chí
thay đổi, như vậy đến khi mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được
sinh ở nước Phật; sau đó lĩnh hội chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng
được Bồ đề cũng được Phật quả).
Tuy
căn trí mỗi hạng người khác nhau nhưng sở đắc giải thoát phải là một.
Trong ba cách thức niệm Phật, Trần Thái Tông đánh giá cao phương thức
hành trì niệm Phật sau cùng vì nó được xây dựng trên một nền tảng vững
chắc, thích hợp với quần chúng số đông. Ông khuyến cáo mọi người hãy bắt
đầu tẩy rửa thân tâm từ cách thức này, hai cách kia nói thì dễ nhưng
thực sự đòi hỏi căn duyên cao, không phải ai cũng thực hiện được: “Ba
hạng trí ấy nông sâu khác nhau, nhưng cái nhận được là một…Kẻ hạ trí lấy
niệm làm bậc, lấy sự tinh tiến làm thang, chú ý đến thiện duyên, nguyện
sinh vào nước Phật. Nếu chuyên cần không nhác, tâm tính thuần thục thì
sau khi chết sinh vào nước Phật. Kẻ học ngày nay đã nhận thân người, ắt
ba nghiệp đều có. Thế không dùng niệm Phật để cầu sinh vào nước Phật,
chẳng cũng khó sao! Như muốn niệm Phật hãy lấy cách của hạ trí làm đầu”,
đúng như tinh thần mà Trần Thái Tông viết trong Khóa hư lục.
Và
như vậy, niệm Phật trở thành phương thức tu tập loại bỏ tập khí dần
dần, hướng đến thuần thục để tâm trở nên tịch tịnh. Nhà vua có lý khi
nhắm vào thành phần đông nhất của xã hội là bậc hạ trí. Đối tượng để tu
tập là nhớ nghĩ về Phật. Tập trung nghĩ vào một đối tượng là một hình
thức “chỉ”, sâu hơn nữa thấy rõ tâm thức ấy biểu hiện những hành động
gì, có sai trái thì phải sám hối. Đây là một hình thức “quán”. Khi đã
quán thấy rõ sự vật, tỉnh thức với những việc sai trái thì sẽ điều
chỉnh. Đây là một phương thức “chỉ quán song tu”, thực chất là những
bước đi đầu tiên của thiền.
Sự
vận dụng pháp môn niệm Phật truyền thống vào việc hành thiền, chứng tỏ
Thiền phái Trúc Lâm khéo léo hướng quần chúng bước vào con đường thiền
đi từ thấp đến cao, chú tâm hướng nội, tìm lại Phật thân. Đây là kết quả
biến đổi từ một nội dung mang màu sắc tịnh độ sang sắc thái “thiền” mà
vua cố tình xây dựng và phát triển dòng thiền Trúc Lâm. Chủ trương này
đã thành hiện thực qua việc các thư tịch cổ còn lại minh chứng. Trong
Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung tờ 34b4-6 có ghi lại một bài thất ngôn
tứ tuyệt Thị tu Tây phương bối [6]:
“Tâm nội Di Đà tử má khu, (Thân báu Di Đà tại đáy lòng,
Đông tây nam bắc pháp thân chu. Bốn phương thân pháp tỏa mênh mông.)
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt Cả trời chỉ thấy vừng trăng quạnh
Sát hải trừng trừng dạ man thu” Đêm lắng vào thu vũ trụ trong)
Đến Trần Nhân Tông, phương thức niệm Phật theo quan điểm thiền, được ghi lại trong Cư trần lạc đạo phú, ở hồi thứ hai:
“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.” [7]
Từ
đây ta có thể nói nếu trong buổi đầu đời Trần, Trần Thái Tông đề xuất
phương thức niệm Phật theo phong thái thiền mà không nói rõ niệm danh
hiệu Phật nào qua văn bản Niệm Phật luận thì đến khi Tuệ Trung Thượng sĩ
của Tuệ Trung và Cư trần lạc đạo phú của Phật hoàng Trần Nhân Tông xuất
hiện trên văn đàn Phật giáo Đại Việt thì ta biết danh hiệu để mọi người
niệm là Phật A Di Đà. Rõ ràng, cách niệm Phật, danh hiệu Phật và lý
giải tư tưởng niệm Phật của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông và
mọi người sau này trở thành phổ biến mang phong thái thiền.
Không
còn gì để bàn luận thêm nữa! Chủ trương niệm Phật để đoạn tận các điều
ác, cho đến khi nào đạt tới vô niệm là tối hậu. Vô niệm là phạm trù lớn
của Thiền tông mà bất cứ hành giả nào cũng phải trải nghiệm chứng đạt.
Nói như ngài Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713) trong “Chứng đạo ca” là “Thuỳ
vô niệm, thuỳ vô sinh” [8], Trần Thái Tông cố tình trích dẫn để kết
thúc phần nhập đề của bài Niệm Phật luận. Phương thức niệm Phật theo
tinh thần Thiền tông từ đó trở thành phương thức hành thiền và phát
triển cho đến ngày nay trong các Thiền đường Việt Nam. Nói chung, phong
cách thiền của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần theo phương thức niệm Phật
là tùy duyên và hết sức tự tại. Với phương thức hành thiền niệm Phật như
vậy, là nhằm nói lên chủ đích mà Thiền phái Trúc Lâm hướng đến việc
kiến tạo đời sống tâm linh cho mọi người được an lạc, hạnh phúc đời này
và đời sau, góp phần xây dựng và phát triển đạo pháp và dân tộc Đại Việt
ngày mỗi hưng thịnh, vững bền.
[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1974, tr. 184.
[2] Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr.84.
[3] Viện Văn học, Sđd, tr. 84.
[4] Viện Văn học, Sđd, tr. 84.
[5] Viện Văn học, Sđd, tr. 84.
[6] Viện Văn học, Sđd, tr. 242.
[7] Viện Văn học, Sđd, tr. 505.
[8] Viện Văn học, Sđd, tr. 84.
Thích Phước Đạt