Tại sao? Vì do Ngài dạy dỗ, hướng dẫn mà ta biết được thế nào là
thiện phải làm, thế nào là ác phải tránh, thế nào là an tịnh thân tâm và
nhất là biết được thế giới Tịnh độ và đại nguyện của Phật A Di Đà, để
tin tưởng, hướng vọng và tu tập.
Những công đức ấy, những hiểu biết ấy, nhờ có đức Phật Thích Ca
dạy dỗ mà ta có được, nên ta phải hết lòng nghĩ về Ngài và kính lễ Ngài,
trước khi ta làm bất cứ thiện sự nào.
Thi kệ đỉnh lễ đức Phật Thích Ca:
Con đem tâm kính lễ
Đến đức Phật Thích Ca
Vị Bổn sư vĩ đại
Dạy con Phật Di Đà!
Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Thầy giác ngộ, có hạnh nguyện giáo hóa chúng
sinh nơi cõi Ta bà nầy. Ngài không phải chỉ có mặt với thế giới Ta bà
nầy hơn hai mươi sáu thế kỷ, mà đã có nhân duyên giáo hóa chúng sinh ở
nơi thế giới nầy từ lâu đời, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi thì Ngài hiện thân như một vị Quốc vương, một vị Hoàng tử,
một vị Trưởng giả, một vị Tể tướng, một vị giáo sĩ Bà la môn, hay một vị
Chuyển luân thánh vương; hoặc có khi Ngài hiện thân như một vị Tỷ kheo
giới hạnh thanh tịnh hay một vị Bồ tát có đầy đủ tâm đại từ và đại bi để
giáo hóa chúng sinh.
Nghĩa là Ngài đã từng có mặt ở nơi thế giới Ta bà nầy dưới nhiều
hình thức khác nhau. Và cách đây hai mươi sáu thế kỷ, Ngài xuất hiện
giữa thế giới nầy, với tư cách của một vị Bồ tát “Nhất sinh bổ xứ”.
Nghĩa là vị Bồ tát còn một đời nữa được bổ xứ làm Phật.
Đức Phật Thích Ca xuất hiện nơi cõi đời nầy với hạnh nguyện của một
vị Bồ tát “Nhất sinh bổ xứ” và đã thành Phật ngay giữa cuộc đời nầy.
Chúng sinh nơi thế giới nầy, gọi Ngài là đức Phật lịch sử và những ai
được trực tiếp hay gián tiếp được Ngài giáo hóa, đều gọi Ngài là vị Bản
sư, tức là vị Thầy căn bản hướng dẫn đời sống giải thoát, giác ngộ cho
chúng sinh ở nơi thế giới Ta bà nầy.
Không có đức Phật Thích Ca ra đời, giáo hóa chúng sinh nơi cõi
nầy, thì không ai dạy dỗ hướng dẫn cho ta thấy được tám yếu tố của Thánh
đạo, thấy được sự thật của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thấy được các pháp
duyên khởi là vô thường, vô ngã, không có tự tính; không ai chỉ cho ta
con đường ra khỏi sinh tử nghiệp báo luân hồi, đi tới Niết bàn tịch
tịnh.
Không ai chỉ cho ta biết, hiếu kính là đạo đức căn bản của con
người; Không có đức Phật Thích Ca, thì không có ai chỉ cho ta thấy rằng,
chính ta có Phật tính và hết thảy chúng sinh cũng đều như vậy và cũng
đều có khả năng thành Phật như Ngài; Không có đức Phật Thích Ca, thì
không ai chỉ cho ta biết rằng, tâm bồ đề là tâm của Phật, phát khởi tâm
bồ đề là phát khởi tâm Phật để thành tựu chúng sinh trang nghiêm cõi
nước Tịnh độ của chư Phật; Không có đức Phật Thích Ca, không ai chỉ cho
ta biết đến chư Phật mười phương và Tịnh độ của các Ngài; Không có đức
Phật Thích Ca, thì không có ai chỉ cho ta, con đường của hàng Thanh văn
và Bồ tát nhiếp phục vọng tâm để đi tới Phật quả.
Vì vậy, đức Phật Thích Ca là vị Bản sư vĩ đại của tất cả chúng ta, dù là ta đang tu tập bất cứ pháp môn nào mang danh Phật giáo.
Do
đó, trước khi thực hành các pháp Thiền, Tịnh, Mật, Giáo quán hay Luật
học,... ta đều phải đem hết thân tâm mà kính lễ bậc Thầy căn bản và vĩ
đại của chúng ta, tại sao? Vì Ngài là vị Thầy của hết thảy các pháp môn.
Hết thảy các pháp môn đều nương tựa từ nơi Ngài và cũng từ nơi Ngài mà
thành tựu.
Cũng vậy, pháp môn Tịnh độ do Ngài hướng dẫn, hạnh nguyện và cảnh giới Tịnh độ phương Tây của Phật A Di Đà cũng do Ngài chỉ dạy.
Đại nguyện thứ nhất: Cõi nước không có các đường xấu ác
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Các khổ trong lục đạo
Con nguyền được lìa xa.
Khổ căn bản ở trong lục đạo là khổ sinh tử. Lục đạo là sáu con đường luân hồi của chúng sinh. Sáu con đường ấy gồm:
Thiên đạo là con đường dẫn đến cõi trời, được dẫn sinh từ nơi
những thiện nghiệp bố thí, cúng dường, phóng sinh,... mang đầy ngã tính.
Nhân
đạo là con đường dẫn đến cõi người, được dẫn sinh từ nghiệp không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo và không uống rượu hay
sử dụng những chất làm tê liệt ý thức.
A tu la đạo là con đường dẫn đến cõi của các loài quỷ thần, được dẫn sinh từ nghiệp tranh chấp đúng sai, hơn thua, kiêu mạn,...
Súc sinh đạo là con đường dẫn đến cõi súc sinh, được dẫn sinh từ nghiệp si mê, cố chấp, mù quáng và tà kiến,...
Ngạ quỷ đạo là con đường dẫn đến cõi của loài ngạ quỷ, được dẫn sinh từ nghiệp tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, ty tiện,...
Địa
ngục đạo là con đường dẫn đến địa ngục, được dẫn sinh từ nghiệp giết
cha, giết mẹ, tàn hại người hiền lương, cản trở những việc tốt đẹp của
người, không tin nhân quả, chuyên tâm làm ác hại người tổn vật,...
Đệ tử Phật dù tu học bất cứ pháp môn nào, cũng nhắm tới đời sống xa
lìa sinh tử, thoát ly luân hồi. Được phúc báo sinh lên các cõi trời,
nhưng vẫn còn nằm trong nhân quả của sinh tử, nên hết phước báo, thì rơi
xuống lại làm đời sống của những loài thấp kém.
Vì vậy, đệ tử của Phật tu tập là để xa lìa được luân hồi ở trong
lục đạo chúng sinh mà nhất là không còn để đọa vào ba nẻo đường xấu ác
là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Đại nguyện thứ nhất của Phật A
Di Đà, khi còn tu nhân, Ngài nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật,
trong cõi nước tôi không có ba nẻo đường xấu ác là địa ngục, ngạ quỷ và
súc sinh”.
Vì vậy, đệ tử Phật tu học là để diệt khổ bằng cách diệt trừ nguyên
nhân của khổ vậy. Ba nẻo đường xấu ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh
chỉ là những thành quả do ba nghiệp nhân gồm thân, ngữ, ý liên hệ và bị
tác động bởi ba loại căn bản phiền não gồm Tham, sân và si, mà tạo ra ba
nẻo đường xấu ác ấy.
Nên, khi còn tu nhân, đức Phật A Di Đà đã quán chiếu thấy rõ, tính
liên hệ nhân quả của ba nẻo đường xấu ác, khiến Ngài phát khởi lên đại
nguyện nầy.
Đại nguyện nầy còn gọi là Quốc vô ác đạo nguyện, Tự
quốc vô khổ nguyện, Vĩnh tuyệt tam đồ nguyện, Linh quốc vô ác thú
nguyện, Vô khổ khổ nguyện, Quốc độ nghiêm tịnh vô chư ác thú nguyện,...
Do đó, ta lạy đức Phật A Di Đà mỗi ngày là mỗi ngày, ta có cơ hội
tiếp xúc với những hạt giống tạo thành những nẻo đường xấu ác nơi tâm
ta, giúp ta đình chỉ và chuyển hóa những hạt giống ấy, khiến chúng cùng
với ta đi về những nẻo đường Tịnh độ cao quý.
Đại nguyện thứ hai: Không bị rơi lại trong các đường xấu ác
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Nghiệp trói trong ác đạo
Con nguyền tự mở ra.
Ta
tu học là để biết được con đường thoát ra từ nghiệp. Ái là phiền não
liên hệ nghiệp. Chấp thủ là phiền não liên hệ nghiệp. Tạo tác theo khát
ái và chấp thủ, khiến ta hiện hữu và trở thành sinh tử luân hồi. Nghiệp
ấy dẫn ta vào ra trong sáu nẻo luân hồi, tới lui trong những con đường
xấu ác khổ đau, xuống lên trong ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc
giới. Dục giới là thế giới được tạo thành từ những tham dục của chúng
sinh. Sắc giới là thế giới được tạo thành từ những ái kiến và chấp thủ
kiến của chúng sinh. Vô sắc giới là thế giới hoạt khởi không có hình
sắc, nhưng chúng lại được tạo thành từ tưởng ái và phi tưởng ái của
chúng sinh.
Vì vậy, ta ngồi thiền là để cho những ái nghiệp ấy ở trong tâm ta
lắng xuống, khiến cho tâm ta luôn ở trong trạng thái yên bình. Ta tụng
kinh, niệm Phật, lạy Phật, trì tụng minh chú hay sám hối cũng vậy, cũng
là một cách khác của thiền tập, khiến cho những phiền não và nghiệp
chủng ấy lắng xuống trong tâm ta.
Mỗi khi tâm ta yên lắng, các phiền não không còn hoạt khởi, thì
nghiệp xấu không còn biết dựa vào đâu để tư niệm, thẩm lự, quyết định và
phát khởi. Hành động không bị nghiệp ràng buộc là hành động của con
người có đời sống tự do và giải thoát.
Nên, đại nguyện thứ hai, đức Phật A Di Đà, khi còn tu nhân, Ngài
nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư thiên và nhân loại ở trong
nước tôi, khi thân mạng kết thúc, không bị rơi vào ba nẻo đường xấu ác”.
Vì vậy, đại nguyện nầy còn gọi là Bất cánh ác thú nguyện, Bất cánh ác
đạo nguyện, Mệnh chung bất hướng tha quốc thọ khổ nguyện,...
Do
đó, mỗi ngày ta kính lễ đức Phật A Di Đà hay bất cứ đức Phật nào hoặc
bất cứ vị Bồ tát nào mà ta có nhân duyên, là để học hỏi hạnh tự giải trừ
ái nghiệp và xin các Ngài yểm trợ cho ta thực tập hạnh ấy, để vĩnh viễn
không còn bị rơi vào các nẻo đường xấu ác.
Đại nguyện thứ ba: Được thân sắc màu vàng như màu vàng kim loại
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Khiến nghiệp con tự tịnh
Chân thân sắc như vàng.
Vàng
là một thứ kim loại quý báu, không bị lửa đốt hại, không bị thời gian
phai màu và có nhiều tác dụng cũng như những hữu ích lớn trong đời sống
con người, vì sao? Vì các tạp chất và quặng đã được lọc ra khỏi vàng.
Nên màu vàng nơi vàng chỉ còn lại tinh chất của nó và không bao giờ bị
biến chất để trở thành màu của quặng hay tạp chất. Vàng được thế giới
con người sử dụng để bảo chứng cho tiền tệ và màu sắc của nó là chân
thật, sáng đẹp, không bị biến hoại.
Cũng vậy, sắc thân con người chỉ có giá trị và hữu ích, khi nào các
nghiệp bất thiện đã được tinh lọc, và chỉ còn lại thuần là tịnh nghiệp.
Tịnh nghiệp bảo chứng cho hạnh phúc và an lạc trong đời sống con người,
chẳng khác nào màu vàng ròng của kim loại chiếu sáng và bảo chứng cho
nội dung kim loại đã được tinh lọc không còn quặng và các tạp chất.
Tịnh nghiệp không những là nền tảng tạo thành chân thân bất hoại,
ánh sáng rọi chiếu vô cùng, mà còn là nền tảng để tạo thành vương quốc
tịnh độ của chư Phật nữa.
Do đó, đại nguyện thứ ba, khi còn tu
nhân, Phật A Di Đà nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư thiên và
nhân loại ở trong nước tôi, đều được sắc thân chân thật giống như màu
vàng tinh thuần nơi kim loại”. Nên, nguyện nầy còn gọi là Chân kim sắc
thân nguyện, Sắc tề đẳng nguyện, Đắc thân lạc nguyện, Thân giai kim sắc
nguyện, Thân chơn kim sắc nguyện,...
Vì vậy, ta kính lễ Phật A Di Đà mỗi ngày là để tinh lọc ác nghiệp
mà thành tựu thân thể của tịnh nghiệp, nhằm tương ứng với thân thể tịnh
độ của chư Phật vậy.
Đại nguyện thứ tư: Hình và sắc tương đồng
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Có thân đẹp tương đồng.
Thân
thể của chúng sinh thấp cao, đen trắng, xấu đẹp không đồng nhau là do
từ nơi nghiệp chủng thiện ác biểu hiện khác biệt của mỗi người và của
mỗi loài.
Thân thể chúng sinh ở thế giới Ta bà do nghiệp thiện ác tạo thành,
nên xấu đẹp không đồng nhau. Thân thể của hàng chư thiên và nhân loại ở
thế giới Tịnh độ phương tây, do đại nguyện của Phật A Di Đà và do tín
hạnh nguyện của hàng chư thiên, nhân loại ở thế giới ấy tạo thành, nên
khiến thân thể nào của chư thiên và nhân loại ở thế giới ấy, cũng có
hình sắc tương đồng phản ảnh nội dung của tín hạnh nguyện.
Do đó, đại nguyện thứ tư nầy, Phật A Di Đà, khi còn tu nhân nguyện
rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư thiên và nhân loại ở trong thế
giới của tôi có hình và sắc tương đồng với nhau”. Nên, nguyện nầy còn
gọi là Hình vô mỹ xú nguyện, Sắc tề đẳng nguyện, Đắc thân lạc nguyện,
Hữu tình dung nhan đẳng vô sai biệt nguyện,...
Vậy, ta kính lễ Phật A Di Đà, để cầu nguyện cho muôn loài, loài nào
cũng biết đem tâm chân thật tu hành, khiến cho tịnh nghiệp của họ mỗi
ngày, mỗi trở nên sâu lắng, rộng lớn và vững chãi, để có khả năng chế
tác ra cho họ, những thân thể xinh đẹp như muôn vạn loài hoa. Mỗi thân
thể của chúng sinh đều là mỗi loài hoa và mỗi bông hoa là mỗi đất trời
mênh mông xinh đẹp của tín, hạnh và nguyện.
Đại nguyện thứ năm: Biết rõ sinh mệnh đời trước
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Biết thân mạng đã qua.
Một
trong những bất hạnh lớn nhất của ta là ta không biết được ta là ai
trong hiện tại, trong quá khứ và ngay cả trong tương lai. Ta muốn biết
thân thể quá khứ và tương lai của ta như thế nào, thì ta hãy nhìn sâu
vào hành động của ta trong hiện tại. Vì sao? Vì thân thể hiện tại của ta
là kết quả từ hành động quá khứ của ta dẫn lại và thân thể của ta trong
tương lai, nó có mặt ngay trong những hành động của ta hôm nay.
Vì vậy, ta muốn biết thân thể quá khứ của ta từ một đời, cho đến
nhiều đời đã từng như thế nào, thì ta hãy nhìn sâu vào những chủng tử
đang vận hành ở nơi tâm thức ta. Mỗi chủng tử nơi tâm thức ta đang vận
hành và đang biểu hiện, đều mang theo trong nó những tính chất và ảnh
tượng của thân thể và thế giới, mà ta đã từng sinh hoạt, nhiều đời và
nhiều kiếp, trong quá khứ.
Biết được ta đã từng là gì trong quá khứ, thì mới có khả năng biết
được rằng, ta sẽ là gì trong tương lai và ta là ai trong từng khoảnh
khắc của hiện tại.
Do đó, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, để mỗi
ngày ta có cơ hội tiếp xúc với những chủng tử đang vận hành nơi tâm thức
ta, và qua nó, ta biết ta đã từng là gì trong quá khứ, để ta tiếp tục
nuôi dưỡng những hạt giống tốt đẹp ấy, bằng những hành hoạt hiện tại và
cũng ngay trong hiện tại nầy, ta lại có cơ hội cắt giảm, chế ngự và
chuyển hóa những hạt giống không lành mạnh trong quá khứ, khiến chúng
không còn có cơ hội tái hiện trong đời sống hiện tại và tương lai.
Biết được những nhược điểm của thân mạng quá khứ không phải để đau
buồn, mặc cảm mà để chấp nhận và chuyển hóa. Biết được những ưu điểm của
thân mạng trong quá khứ không phải để tự mãn hay kiêu hãnh mà để trân
trọng, nuôi dưỡng và phát triển cho đến chỗ toàn hảo.
Vì vậy, khi tu nhân, Phật A Di Đà, đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, chư thiên, nhân loại trong cõi nước của tôi, đều biết sinh
mệnh đời trước của mình, ít nhất là phải trăm ngàn ức triệu kiếp”. Nên,
đại nguyện nầy còn gọi là Túc mạng trí thông nguyện, Linh viễn thức túc
nguyện, Túc mạng thông nguyện,...
Do đó, mỗi ngày kính lễ đức Phật A Di Đà, là có cơ hội để ta tiếp
xúc với những gì ta đã có và đang có, nhằm nuôi dưỡng những gì tốt đẹp
mà ta đã có và đang có, cũng như chuyển hóa những gì không lành mạnh mà
ta đã có và đang có, đồng thời ta cầu nguyện cho muôn loài đều biết được
thân mạng của chúng đã qua, để từ đó cuộc sống của chúng, có cơ sở để
chế ngự, chuyển hóa và thăng hoa trong đời sống hiện tại và tương lai.
Đại nguyện thứ sáu: Có được thiên nhãn
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Mắt nhìn suốt hằng sa.
Cái
thấy của ta bị chướng ngại, khiến cho cái hiểu của ta đối với mọi người
và muôn vật cũng bị chướng ngại theo. Cái thấy và cái hiểu chướng ngại,
thì cái biết không thể thông triệt. Cái thấy và cái hiểu của ta không
thông triệt, khiến cho những hành xử của ta đối với mọi người và muôn
vật thường rơi vào những vụng dại, cực đoan, khuyết tật. Người tà ta lầm
là chính, vật huyễn ta tưởng là chơn, lăng xăng bỏ hình bắt bóng, phí
uổng phước báo làm người.
Do đó, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã phát nguyện rằng: “Nguyện
khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi, đều được
thiên nhãn, ít nhất là nhìn thấy trăm ngàn ức triệu cõi nước của chư
Phật”. Nên, đại nguyện nầy còn gọi là Thiên nhãn trí thông nguyện, Linh
thiên nhãn triệt thị nguyện, Đắc thiên nhãn lạc nguyện, Thiên nhãn chứng
minh biến kiến chư phương nguyện,...
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà, khiến tâm ta thanh tịnh, thần khí sáng
trong, nhãn căn thanh tịnh, để nhìn thấy suốt thông tính tướng, thể
dụng, nhân duyên, nghiệp quả của muôn vật, không phải chỉ ở đây mà xuyên
suốt mười phương; không phải chỉ có trước mắt, mà xuyên suốt ba đời và
không phải chỉ một đối tượng mà xuyên suốt hằng sa muôn vật của muôn
ngàn ức triệu cõi nước.
Do đó, mỗi ngày lạy Phật, ta không phải chỉ lạy cho ta, mà còn lạy
Phật thay cho mọi người và muôn vật, mong cho ai cũng có cái tâm an
tịnh, cái nhìn xuyên suốt, cái hiểu chính chơn đối với hằng sa muôn vật,
thấy rõ được tịnh độ tự tâm và tịnh độ chư Phật, tùy nguyện mà vãng
sinh.
Đại nguyện thứ bảy: Có được thiên nhĩ
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Tai nghe thấu thiên hà.
Cái
nghe của ta bị chướng ngại, khiến cho cái hiểu của ta đối với muôn vật
cũng bị chướng ngại theo. Cái hiểu chướng ngại, thì cái biết không thể
nào minh triệt. Cái hiểu không minh triệt, thì sự nói năng và hành xử
của ta đối với mọi loài và muôn vật có nhiều lầm lỗi, thiếu sót.
Cái nghe của ta bị chướng ngại, nên ta không nghe được tự tính nơi
ta đã nói gì với ta mỗi ngày, và ta không nghe được tự tính nơi muôn vật
đã nói gì cho ta mỗi ngày; Cái nghe của ta bị chướng ngại, nên ta không
nghe được tự tướng nơi ta và tự tướng nơi muôn vật đang nói gì với ta
mỗi ngày. Tính và tướng nơi ta và muôn vật mỗi ngày đều có nói cho ta,
nhưng ta không nghe, vì tính nghe nơi ta bị vô minh trùm phủ, bị ngã
chấp bao vây và bị ngã tưởng đánh lừa, khiến cho ta bị đánh lừa bởi tà
thanh, huyễn tướng, nên không nghe được chân ngữ, không thấu triệt tính
tướng, thể dụng, nhân duyên của mọi ngôn từ.
Do đó, khi tu nhân, Phật A Di Đà nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành
Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi, đều được thiên nhĩ, ít
nhất là nghe và thọ trì được hết lời thuyết pháp của chư Phật trong trăm
ngàn ức triệu cõi”. Nên, nguyện nầy còn gọi là Thiên nhĩ trí thông,
Linh thiên nhĩ đồng thính nguyện, Đắc thiên nhĩ lạc nguyện, Thiên nhĩ
viễn văn chư Phật pháp âm nguyện,...
Vì vậy, mỗi ngày ta lạy Phật không phải chỉ lạy cho ta mà lạy thế
cho cả mọi loài và muôn vật, mong cho ai, cho loài nào cũng có khả năng
nghe được tự tính chân thật của chính nó, để không còn bị cái nghe lừa
dối, mà chính ngay nơi cái nghe, lại có thể giác ngộ được giáo thể chân
thật của tịnh độ chư Phật.
Đại nguyện thứ tám: Thấy được tâm người
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Tâm thông hiểu tự tha.
Trong
đời sống hàng ngày, ta chỉ biết cái bên ngoài của mình không chưa đủ,
mà còn phải biết cái bên trong của mình nữa. Biết được cái bên trong của
mình, chính là biết được cái tâm mình. Tâm là chủ nhân ông của thân.
Tâm bận rộn, thì thân thể không thể nào thảnh thơi được; Tâm phiền não,
thì thân thể không thể nào có an lành được; Tâm đau khổ, thì thân thể
hao gầy và bệnh hoạn; Tâm an lạc, thì thân thể kiện khương, thần trí
sáng suốt, thì ta mới hiểu được tâm người và đời sống của ta mới đi lên
và lâu dài.
Ta không muốn ai làm ta đau khổ, thì người khác cũng vậy, họ không
muốn ai làm cho họ khổ đau. Ta không muốn ta bị kẻ khác tàn hại, thì
những kẻ khác họ cũng không muốn ai tàn hại họ; Ta không muốn ta bị mất
tài sản, thì người khác, họ cũng không muốn tài sản của họ bị mất; Ta
không muốn ai tước đoạt hạnh phúc riêng tư của ta, thì người khác cũng
vậy, họ không muốn những hạnh phúc riêng tư của họ bị những kẻ khác tước
đoạt; Ta không muốn ai nói dối với ta, thì người khác cũng vậy, chẳng
có ai muốn những kẻ khác nói dối với mình; Và không một ai muốn người
khác làm cho mình nghiện ngập, mất hết nhân cách và tài sản, thì những
người khác cũng vậy, họ không muốn ai làm cho họ nghiện ngập, mất hết
tài sản và nhân cách.
Ta có cái biết ấy, là ta có cái biết về tâm ta và tâm người. Ta có
cái hiểu ấy, là ta có cái hiểu về tâm ta và tâm người. Lại nữa, tâm ta
có những điều xấu, thì tâm người cũng vậy và tâm ta có những điều tốt,
thì tâm người cũng vậy. Xấu và tốt đều có sẵn nơi tâm của mỗi chúng ta.
Chỉ có khác nhau là vì người nầy có điều kiện để biểu hiện mà người kia
chưa có đủ điều kiện để biểu hiện đó thôi. Khi ta biết được tâm mình và
tâm người, thì ta rất dễ có tâm độ lượng và từ bi để tu tập.
Do đó, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà đã nguyện rằng: “Nguyện khi
tôi thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi đều được tha tâm
trí, ít nhất là biết được tâm niệm của chúng sinh trong trăm ngàn ức
triệu cõi nước”.
Nên, đại nguyện nầy cũng còn gọi là Tha tâm trí thông nguyện, Minh
giám tha tâm nguyện, Đắc tha tâm lạc nguyện, Tha tâm tất tri nguyện,
Kiến tha tâm trí nguyện,...
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà hay bất
cứ đức Phật và Bồ tát nào mỗi ngày, là để cho ta có cơ hội nhìn lại tâm
mình, nhằm hiểu được mình, và qua tâm của mình, mà hiểu được tâm của
người.
Và mỗi khi tâm mình và tâm người đều thông, giúp cho ta biết rằng,
cái xấu của tâm mình có thể tạo ra những ảnh hưởng xấu đến tâm của những
người khác và tâm xấu của những người khác cũng có thể tạo ra những ảnh
hưởng xấu đến tâm mình. Và cũng vậy, những cái tốt nơi tâm mình, có thể
ảnh hưởng đến tâm của người khác, và những cái tốt nơi tâm của những
người khác, cũng có thể ảnh hưởng đến tâm của mình, khiến cho những hạt
giống tốt nơi tâm mình sinh khởi.
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà, mỗi ngày để cho mọi cái xấu nơi tâm ta
lắng xuống, chân tâm nơi tâm ta hiện bày, để cho nó có thể cộng thông
và hội nhập chân tâm thanh tịnh của hết thảy muôn loài.
Đại nguyện thứ chín: Có được thần túc
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Thân chơi muôn dặm xa.
Tâm
ta bị chướng ngại, thì thần khí bị vẩn đục, lòng tham khởi lên, thân
thể sà xuống, các nghiệp như sát hại, tà dâm, trộm cắp sinh khởi tự trói
vào thân, nên ta mất thần lực.
Vì vậy, ta lạy Phật mỗi ngày, khiến cho thân nghiệp của ta nhờ đó
mà lắng yên, ý nghiệp duyên theo mà thuần tịnh, các sóng thức tan biến,
biển tâm vắng lặng, tính giác hiển lộ hiện tiền. Nương vào tính ấy mà
khởi hạnh nguyện từ bi, chỉ ngay trong một niệm hiện tiền, mà ứng thân
có mặt cùng khắp cả mười phương vô biên thế giới, làm hết thảy thiện sự,
trên thì cúng dường, phụng sự chư Phật, dưới thì làm lợi ích cho hết
thảy chúng sinh, mà không có bất cứ một sự chướng ngại nào.
Nên, ta đem tâm vô ngã và thanh tịnh mà lạy một Phật là có cả muôn
vạn đức Phật cho ta lạy, ta đem tâm vô ngã và thanh tịnh, mà lạy một vị
Bồ tát là có cả ức triệu Bồ tát hiện tiền cho ta lạy. Với tâm ấy, ta chỉ
cần xướng danh hiệu của một vị Phật hay một vị Bồ tát để lạy là liền có
muôn ngàn danh hiệu Phật và Bồ tát đang hiện tiền trong cái lạy của ta.
Do đó, lạy Phật với tâm thanh tịnh không còn nhân ngã, bỉ thử, thì
ta lạy một Ngài là tất cả các Ngài đều có mặt cho ta lạy và ta lạy một
thân, thì cả pháp giới thân cũng một lúc cùng với ta kính lễ. Cùng một
lúc ta có mặt trong các Ngài và các Ngài cũng cùng có mặt trong ta. Cùng
một lúc ta có mặt khắp vô lượng, vô số, vô biên quốc độ của chư Phật
mười phương. Nên, cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà cách thế giới của ta mười
vạn ức cõi Phật về hướng Tây, chẳng có gì là xa mà ta không đi tới
được!
Vì vậy, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã nguyện rằng: “Nguyện khi
tôi thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi đều được thần túc,
ít nhất trong khoảng một niệm, dạo khắp đến trăm ngàn ức triệu cõi
Phật”.
Nên, đại nguyện nầy còn gọi Thần túc vô ngại, Thần cảnh trí thông, Linh thần tấn tốc nguyện, Thần túc thông nguyện,...
Do
đó, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, để tâm ta không bị phiền não làm
chướng ngại, không bị ái nghiệp làm tán mất thần khí, khiến ta đạt được
thần túc vô ngại, chỉ trong khoảnh khắc mà thân thể biến khắp mười
phương.
Đại nguyện thứ mười: Không chấp thân thể
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Bỏ buông tâm chấp ta.
Chấp
ta là chấp các hình sắc nơi thân nầy là ta và là của ta; các cảm giác
nơi thân tâm nầy là ta, và là của ta; các tri giác nơi thân tâm nầy là
ta và là của ta; các tâm hành nơi thân tâm nầy là ta và là của ta; các
nhận thức nơi thân tâm nầy là ta và là của ta. Chính những cái chấp thủ
ấy, làm cho ta không có tự do, làm cho ta thất vọng và khổ đau.
Nên, ta muốn có đời sống tự do, thì ta phải biết buông bỏ những
chấp thủ đó. Ta muốn không bị thất vọng bởi đời sống, thì ta phải biết
buông bỏ những chấp thủ đó và ta muốn vượt ra khỏi những khổ đau, thì ta
phải biết buông bỏ những chấp thủ đó.
Đức Phật A Di Đà, khi còn tu nhân, Ngài nguyện rằng: “Nguyện khi
tôi thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi, không khởi lên ý
tưởng tham chấp thân thể”.
Vì vậy, đại nguyện nầy còn gọi là Vô
hữu ngã tưởng nguyện, Lậu tận thông nguyện, Linh bất khởi lậu nhiễm
nguyện, Vô tham trước nguyện, Bất tham kế thân nguyện, Bất khởi tưởng
niệm tham ái thân nguyện, Đắc lậu tận lạc nguyện,...
Nên, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày là để ta có cơ hội thực tập hạnh
buông bỏ mọi ý tưởng chấp thủ về ngã. Thực tập buông bỏ sự chấp thủ ngã
là sự thực tập khó nhất. Tham, sân, si, kiêu mạn và nghi ngờ, có từ nơi
tâm chấp ngã của ta. Ta buông bỏ tâm chấp ngã, thì tham, sân, si, kiêu
mạn, nghi ngờ và các tùy phiền não nơi tâm ta đều bị rơi rụng tất cả.
Chấp ngã thì ta bị các âm thanh, huyễn tướng lừa phỉnh, dối gạt;
buông bỏ tâm chấp ngã, thì những thứ đó hết cách lừa gạt được ta.
Vì
vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, là ta cầu nguyện cho ta và cho muôn
loài tu tập thấy rõ pháp tính vốn không, để tất cả đều có khả năng bỏ
buông tâm chấp nhân ngã.
Đại nguyện của Phật A Di Đà (Phần 2)
Thích Thái Hòa
An
tâm là tâm an trú vững chãi ở trong thiền định cho đến khi chứng nhập
Niết bàn. Đây là nội dung lời nguyện thứ mười một của đức Phật A Di Đà,
khi đang còn tu nhân Ngài nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư
thiên, nhân loại ở trong nước tôi, đều an trú ở trong thiền định cho đến
khi chứng nhập Niết bàn”.
Đại nguyện mười một: An trú thiền định đến chứng Niết bàn
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
An tâm chứng Niết bàn.
An
tâm là tâm an trú vững chãi ở trong thiền định cho đến khi chứng nhập
Niết bàn. Đây là nội dung lời nguyện thứ mười một của đức Phật A Di Đà,
khi đang còn tu nhân Ngài nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư
thiên, nhân loại ở trong nước tôi, đều an trú ở trong thiền định cho đến
khi chứng nhập Niết bàn”.
Niết bàn là trạng thái của tâm an tịnh. Tâm ấy không còn là nơi tập
hợp và sinh khởi mọi thứ phiền não. Nên, đại nguyện này còn gọi là Trụ
chính định tụ tất chí bồ đề nguyện, Chứng đại Niết bàn nguyện, Vô thượng
Niết bàn nguyện,...
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, là ta làm cho lời nguyện ấy
của Ngài, có mặt một cách thực tế và sống động, ngay ở trong đời sống
hàng ngày của ta. Nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, làm việc, nói
cười, thở vào, thở ra, co duổi thân thể..., tất cả mọi động thái ấy, ta
đều phải thực tập chính niệm để có định tâm và khiến giác tâm trong ta
sáng ra. Ta phải có định tâm ngay ở nơi những động thái ấy, và duy trì
sự định tâm đó liên tục và phát triển lớn mạnh cho đến chỗ toàn giác.
Toàn giác trong mọi không gian, toàn giác trong mọi thời gian, toàn
giác trong mọi tâm niệm, toàn giác đối với các cảm giác, toàn giác đối
với mọi hành động và toàn giác khi tiếp xúc với mọi đối tượng. Toàn giác
như vậy là Phật. Niết bàn là cảnh giới thường trú của Phật. Phật và
cảnh giới của Ngài tương ứng với nhau và có mặt trong nhau. Nên, Phật
cũng gọi là Niết bàn và Niết bàn cũng gọi là Phật. Phật và Niết bàn bất
nhị.
Nên, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày là mỗi ngày, ta đều có cơ hội,
biến đại nguyện của Ngài có mặt ngay trong đời sống của ta, tâm ta an
trú vững chãi vào định, qua thiền định mà các phiền não được nhiếp phục
và chuyển hóa, Niết bàn hay tịnh độ đích thực của chư Phật từ đó mà hiện
ra cho ta.
Đại nguyện mười hai: Có được ánh sáng vô lượng
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Xin nguyện cho muôn loại
Có nguồn sáng tỏa xa.
Ánh sáng
rất cần thiết trong đời sống của con người và muôn vật. Không những vậy,
ánh sáng còn là một trong những điều kiện giúp cho con người và muôn
vật thành tựu về cái thấy một cách hoàn hảo. Ta có đôi mắt, nhưng không
có ánh sáng, thì ta vẫn không thấy được gì.
Ánh sáng vật lý còn có những tác dụng nhất định trong đời sống con
người, huống chi là những ánh sáng xuất phát và thành tựu từ đại nguyện.
Ánh
sáng của Phật A Di Đà là ánh sáng sinh khởi và thành tựu từ đại nguyện
bồ đề, nên ánh sáng ấy vượt tầm ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và ngọn
đèn.
Ánh sáng mặt trời có tác dụng soi chiếu ban ngày, ánh sáng mặt
trăng có tác dụng soi chiếu ban đêm và ánh sáng của ngọn đèn có tác dụng
soi chiếu trong nhà, nhưng những loại ánh sáng ấy không thể soi chiếu
xuyên suốt tâm thức của con người và vạn loại chúng sinh, còn ánh sáng
của đại nguyện bồ đề, do Phật A Di Đà trải qua vô số kiếp tu tập mà
thành tựu, chúng không những xuyên suốt mọi vật thể mà còn xuyên suốt
mọi tâm thể, không những xuyên suốt mọi hiện tượng mà còn xuyên suốt
tính thể của mọi sự hiện hữu, không những xuyên suốt mọi kết quả mà còn
xuyên suốt mọi nguyên nhân và mọi tác duyên của mọi hiện hữu nữa.
Nên, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, ánh sáng của tôi chiếu khắp cả mười phương không có hạn
lượng”.
Ánh sáng không có hạn lượng, đại nguyện này còn gọi là
Quang minh vô lượng nguyện, Quang minh biến chiếu vô số Phật quốc
nguyện, Tự thân quang vô hạn nguyện, Phật quang vô biên nguyện,...
Thực tập theo đại nguyện này, ta nguyện cẩn thận không làm khuất
lấp ánh sáng của những người khác và luôn luôn biết sử dụng những ánh
sáng vật lý, tâm lý, hiểu biết và giác ngộ để hiến tặng cho mọi người và
muôn vật dưới những hình thức khác nhau.
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày là để ta có cơ hội tiếp xúc,
học hỏi và thành tựu loại ánh sáng này của Ngài, khiến ta có khả năng
soi chiếu để thấy được “bản lai diện mục” của tự thân cũng như hết thảy
muôn vật, tránh được mọi vấp ngã trong khi nghĩ, nói và làm.
Đại nguyện mười ba: Sống lâu vô lượng
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Nguyện con và muôn loại
Thân mạng sống dài lâu.
Sống
lâu là ước muốn muôn thuở của mọi người và muôn loài. Nhưng làm thế nào
để ta có thể sống được dài lâu? Sống bạo động và hận thù, sống lo lắng
và bận rộn, sống với tâm ý đa dục, nghi ngờ và sợ hãi, thì làm cho thọ
mạng bị thương tổn, bệnh hoạn phát sinh, đời sống ngắn lại.
Ta sống với tâm từ bi, với lòng hỷ xả, với hạnh ít tham muốn và
biết đủ, khởi phát lòng thương yêu và tôn trọng sự sống, không tàn hại
muôn loài là ta tạo ra nhân duyên của sự sống lâu. Sống lâu để làm lợi
ích cho chúng sinh, đem lại ánh sáng, niềm tin và sự hy vọng cho hết
thảy muôn loài.
Nên, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, thọ mạng của tôi là vô lượng”.
Đại
nguyện này còn gọi là Thọ mạng vô lượng nguyện, Đắc thọ cửu trú nguyện,
Thọ mạng vô cùng nan khả trắc lượng nguyện, Trường thọ nguyện,...
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày là ta nuôi dưỡng và phát triển
nhân duyên sống lâu theo đại nguyện này. Và qua nhân duyên của đại
nguyện này, mà ta quán chiếu để thấy rõ tự tính A Di Đà hay Phật tính
nơi mỗi chúng ta, chưa bao giờ từng sinh và cũng chưa bao giờ từng diệt.
Chính tính ấy là thọ mạng của ta và cũng chính từ nơi tính ấy, mà khi
nhân duyên hội đủ, thì vô số hình hài của ta biểu hiện, và khi nhân
duyên phân tán, thì hình hài ta lại ẩn tàng nơi tính ấy.
Do đó, ta lạy Phật A Di Đà là ta có cơ hội tiếp xúc và trở về với
thọ mạng không hề sinh diệt nơi ta. Thọ mạng ấy chính là tự tính A Di Đà
nơi mỗi chúng ta vậy.
Đại nguyện mười bốn: Chúng Thanh văn vô số
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Nguyện sống đời tịnh hạnh
Như vô số Thanh văn.
Tịnh hạnh là hạnh ly dục của hàng Thánh giả Thanh văn. Đối với hàng
Thánh giả này, họ được đức Phật trực tiếp giáo hóa bằng thanh âm và qua
thanh âm của Phật diễn bày về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà họ giác ngộ được
tự thân thực tại, nguyện không nghĩ và không làm bất cứ điều ác nào,
khiến cho các phiền não nơi tâm họ được vĩnh diệt, nên họ có đời sống
giải thoát an vui và thanh tịnh. Đối với các vị Thánh giả Thanh văn như
thế ở cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là vô số. Số lượng Thanh văn nhiều
như vậy là do đại nguyện của Ngài mà cảm nên.
Khi còn tu nhân, Ngài đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật,
trong cõi nước tôi, số lượng hàng Thanh văn không thể nào tính hết”.
Nên,
đại nguyện này còn gọi là Thanh văn vô số nguyện, Nhiếp đa quyến thuộc
nguyện, Quyến thuộc Thánh giả vô số chúng đa nguyện,...
Vì vậy, ta kính lễ Phật A Di Đà mỗi ngày, để mỗi ngày ta có thể
tiếp xúc được với hạnh Thanh văn nơi Ngài đã từng thực tập và chứng đắc,
đồng thời ta cũng có thể tiếp xúc với hạnh Thanh văn của vô số các vị
Thánh giả đang tu tập và hành đạo nơi thế giới Tịnh độ của Ngài, để nuôi
dưỡng và thắp sáng tịnh hạnh mỗi ngày của ta trong đời sống. Và chúng
ta lấy tịnh hạnh, làm bà con thân bằng quyến thuộc trong đời sống của
chúng ta.
Đại nguyện mười lăm: Chư thiên-nhân loại thọ mạng lâu dài
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Nguyện chư thiên, nhân loại
Thọ mạng được dài ra.
Thọ
mạng của nhân loại vỏn vẹn chỉ có trăm năm, nhưng trong trăm năm ấy,
chẳng có mấy ai sống đủ. Thọ mạng của chư thiên, tùy theo phúc báo của
từng cõi trời, mà dài lâu hơn cõi người, nhưng quá ngắn ngủi so với thọ
mạng của chư thiên, nhân loại ở nơi thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà.
Kinh Hoa nghiêm nói: “Một đại kiếp của cõi Ta bà, chỉ bằng một ngày một
đêm của cõi Tịnh độ Phật A Di Đà mà thôi”.
Sở dĩ, chư thiên và nhân loại của cõi Tịnh độ, Phật A Di Đà sống
lâu như vậy, là do đại nguyện của Ngài cảm nên. Khi còn tu nhân, Ngài
nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong
nước tôi, đều sống lâu vô hạn, ngoại trừ những vị có nguyện lực riêng”.
Nên, đại nguyện này, còn gọi là Nhân thiên trường thọ nguyện, Quyến
thuộc trường thọ tùy nguyện tự tại nguyện, Đắc trường thọ nguyện,...
Vì
vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, để ta có cơ hội tiếp xúc với phúc
báo về thọ mạng dài lâu của chư thiên, nhân loại ở thế giới Tịnh độ, và
ta mong rằng, qua sự tu tập của ta, ta cũng có thể thành tựu được phúc
báo ấy, để có điều kiện thực tập công hạnh theo các đại nguyện và đại
hạnh của chư vị Bồ tát và Phật. Chư thiên, nhân loại cõi Tịnh độ Phật A
Di Đà, sống lâu là để có điều kiện thực hành đại nguyện, đại hạnh vậy.
Đại nguyện mười sáu: Không nghe tên xấu
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Những ngôn từ bất thiện
Vĩnh viễn nguyện tránh xa.
Những
ngôn từ bất thiện đều có gốc rễ từ nơi tâm ý tham lam, sân hận, si mê,
kiêu mạn, nghi ngờ và tà kiến mà biểu hiện, khiến chúng cướp mất sự an
lành của tự thân và người khác.
Nên, ta thực tập đời sống với tâm vô tham, vô sân, vô si, khiêm
tốn, chính tín và chính kiến, thì tự thân ta không thể phát ra những
ngôn từ bất thiện đối với người và đồng thời tạo ra những nhân duyên
tốt, khiến cho những ngôn từ bất thiện nơi người khác không thể phát ra.
Khi còn tu nhân, đức Phật A Di Đà đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước tôi, không nghe những ngôn
từ bất thiện”.
Đại nguyện này còn gọi là Vô chư bất thiện nguyện, Quyến thuộc thiện nguyện, Chúng vô ác danh nguyện, Ly cơ hiềm nguyện,...
Vì vậy, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày là mỗi ngày, ta tạo ra nhân
duyên tốt đẹp cho thân ngữ ý của ta và của người, khiến cho môi trường
sinh hoạt của ta và người, mỗi khi mở miệng nói ra điều gì, đều tự toát
ra ngữ ngôn chân thật, từ ái.
Đại nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Thấy mười phương chư Phật
Đồng tính ấy hiện ra.
A
Di Đà là thọ mạng vô lượng; là ánh sáng vô lượng; là công đức vô lượng.
Thọ mạng ấy, ánh sáng ấy, công đức ấy đều từ nơi tự tính thanh tịnh mà
hiện ra, nên xưng tán danh hiệu Phật A Di Đà cũng chính là đang ca ngợi
tự tính thanh tịnh ở nơi bản tâm mình. Tự tính thanh tịnh của chư Phật
mười phương với tự tính thanh tịnh nơi bản tâm mình xưa nay không sai,
không khác.
Chư Phật mười phương cũng từ nơi tính ấy, mà phát khởi đại nguyện
giáo hóa chúng sinh, có nhiều danh xưng khác biệt, có nhiều cõi nước bất
đồng, nhưng tất cả cũng đều từ nơi thể tính thanh tịnh mà hiện ra. Nên,
tuy bất đồng, nhưng cùng nhất thể.
Nên, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã phát nguyện rằng: “Nguyện
khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật đều tán dương danh
hiệu của tôi”.
Đại nguyện này còn gọi là Chư Phật xưng dương
nguyện, Chư Phật đồng tán danh tự nguyện, Chư Phật xưng tán nguyện,
Nhiếp pháp thân nguyện, Tuyển trạch xưng danh nguyện,...
Vì vậy, mỗi ngày ta lạy danh hiệu Phật A Di Đà là chính ta đang lạy
danh hiệu, mà chư Phật mười phương xưng tán ca ngợi, vì trong danh hiệu
ấy là nhiếp hội hết thảy danh hiệu mười phương vô lượng chư Phật, và
cũng chính là ta đang lạy tự tính thanh tịnh pháp thân nơi ta và làm cho
tự tính nơi thân ấy sáng ra mỗi ngày.
Đại nguyện mười tám: Mười niệm vãng sinh
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Với một lòng mười niệm
Tịnh độ tự hiện ra.
Ta
muốn khi lâm chung, có được đầy đủ năng lực của định và tuệ, để có thể
duy trì được mười niệm đối với danh hiệu Phật A Di Đà ở trạng thái của
tâm thuần nhất, thanh tịnh, không tạp loạn, thì ta phải biết thực tập và
duy trì năng lượng chính niệm ấy, trong mỗi ngày qua, đi, đứng, nằm,
ngồi, ăn uống và ngay cả trong mọi hoạt động ở nơi những công việc, để
tạo thành chủng tử nhất tâm, nhất niệm thuần thục ngay ở tâm ta.
Nếu không như vậy, thì giờ phút sắp lâm chung, tâm sẽ buông lơi,
các phiền não khởi lên, làm cho tâm ta bị nhiễu loạn, ma cảnh hiện tiền,
mà Phật cảnh bị biến mất, khiến bấy giờ tâm thức ta mù mịt, một niệm
còn bất giác, làm sao mà có thể giác tỉnh được một tâm mười niệm, để
Phật cảnh hiện tiền ngay đó, mà vãng sinh hay ngay đó, mà tự tính A Di
Đà hiện ra cho ta thể nhập!
Nên, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, chúng sinh ở trong mười phương khi lâm chung, tin tưởng
muốn sinh về cõi nước tôi, chí tâm niệm mười danh hiệu của tôi, thì liền
được vãng sinh”.
Đại nguyện này còn gọi là Niệm Phật vãng sinh nguyện, Nhiếp thủ chí
tâm dục sinh nguyện, Nhiếp thượng phẩm nguyện, Thập niệm vãng sinh
nguyện, Chí tâm tín nhạo nguyện,...
Vì vậy, trong đời sống hàng
ngày, ta phải kính lễ Phật A Di Đà để cho đương niệm của ta, gắn liền
với danh hiệu và bản nguyện của Ngài; và danh hiệu cũng như bản nguyện
của Ngài đi vào trong ta, thuần hóa những chủng tử trong tâm ta, khiến
mỗi sát na tâm ta, đều là mỗi sát na của tâm Tịnh độ và mỗi sát na tâm
ta, đều là tương ứng với tâm và nguyện của Phật A Di Đà.
Đại nguyện mười chín: Thánh chúng tiếp dẫn
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Khi con đổi thân khác
Phật, Bồ tát hiện ra.
Phật
là tự tính giác ngộ nơi ta. Từ nơi tự tính ấy mà Phật hiện ra và Bồ tát
là do thấy được tự tính ấy, mà phát khởi đại nguyện, tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sinh, nên Bồ tát cũng từ nơi tự tính giác ngộ ấy mà
hiện ra vậy.
Vì vậy, ta muốn sinh về Tịnh độ, được Phật A Di Đà, Thánh chúng
Thanh văn và Bồ tát hiện ra đón ta trong khi lâm chung, thì trước hết ta
phải tin rằng, ta có Phật tính và chư Phật cũng từ nơi tính ấy mà hiện
ra, các vị Bồ tát trong mười phương thế giới, cũng từ nơi tính ấy mà
phát khởi đại nguyện; ta phải tin rằng, tâm là chủ tể của muôn vật, tâm
ta tịnh thì mười phương thế giới đều tịnh, tâm ta uế, thì ta ở đâu là uế
độ có mặt ở đó cho ta.
Ta phải tin như vậy, và ta phải phát khởi hạnh nguyện đúng như niềm
tin của ta, thì ta có mặt ở đâu là Phật và Bồ tát cũng như cảnh giới
Tịnh độ của các Ngài đều hiện ra và có mặt ở đó cho ta, giúp ta đổi mới,
những nghiệp chướng cũ. Đại nguyện của chư Phật và Bồ tát lúc nào cũng
sẵn sàng đón tiếp ta về Tịnh độ của các Ngài, nếu ta phát khởi tâm bồ đề
và hết lòng tin vui ưa thích.
Nên, khi còn tu nhân, Phật A Di Đà, đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, chúng sinh ở trong mười phương phát tâm bồ đề, thực hành
các công đức, muốn sinh về nước tôi, thì khi họ lâm chung, tôi và đại
chúng đều hiện ra vây quanh trước mặt họ để tiếp dẫn”.
Vì vậy, đại nguyện này còn gọi là Lai nghênh dẫn tiếp nguyện, Nhiếp
thủ tu đức dục sinh nguyện, Nhiếp trung phẩm nguyện, Lâm chung hiện
tiền nguyện, Thánh chúng lai nghênh nguyện, Lâm chung nghênh tiếp
nguyện, Hiện tiền đạo sinh nguyện,...
Do đó, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày với tâm bồ đề và bằng Tín Hạnh
Nguyện, là ngay trong mỗi ngày, ta đều có thân tâm mới, ngay trong mỗi
giờ ta đều có thân tâm mới và ngay trong mỗi khoảnh khắc thân tâm ta đều
mới. Thân tâm ta mới, vì Phật, Bồ tát luôn luôn có mặt trong ta và
quanh ta, để yểm trợ cho ta đổi mới và giúp ta thoát ra từ vỏ trứng của
vô minh phiền não, đưa ta đi về với quê hương Tịnh độ đích thực được tạo
nên từ đại nguyện của các Ngài.
Đại nguyện hai mươi: Muốn sinh toại ý
Con đem tâm kính lễ
Đức Phật A Di Đà
Thành tựu thân như ý
Từ đại nguyện sinh ra.
Thân
thể của ta từ nghiệp lực sinh ra, thì không thể nào thoát khỏi các khổ
của sinh, già, bệnh, chết. Từ nghiệp lực sinh ra là từ nơi ái, thủ, hữu
mà có mặt. Thân thể ta đã sinh ra từ gốc rễ như thế, thì không sao
tránh khỏi được đại họa sinh tử luân hồi. Sinh tử luân hồi là tai họa
lớn nhất của hết thảy chúng sinh. Vì sao? Vì ở trong ấy, thì chúng sinh
không thể nào thấy được mặt mũi của mình là gì; chẳng bao giờ biết mình
là ai; không biết được biên cương sinh tử của mình là ở nơi nào; và hoàn
toàn mất hết năng lực tự chủ.
Vì vậy, tu tập là để cho đời sống của ta không sinh ra từ nghiệp
lực, mà sinh ra từ bản nguyện và đại nguyện. Bản nguyện là nguyện được
thiết lập trên căn bản của tâm bồ đề với đầy đủ hai chất liệu của trí
tuệ và từ bi. Đại nguyện là từ nơi bản nguyện, mà phát triển thành những
hạnh nguyện rộng lớn, tùy theo điều kiện tu học của mỗi chúng ta.
Phật A Di Đà, khi còn tu nhân, Ngài đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi
thành Phật, chúng sinh ở trong mười phương, nghe danh hiệu của tôi,
chuyên tâm nhớ đến nước tôi, bằng cách gieo trồng những cội công đức,
chí tâm hồi hướng sinh về nước tôi, thì liền được toại nguyện”.
Nên, đại nguyện này cũng còn gọi là Nhiếp thủ văn danh dục sinh
nguyện, Nhiếp hạ phẩm nguyện, Văn danh hệ niệm tu phúc tức sinh nguyện,
Chí tâm hồi hướng nguyện, Dục sinh quả toại nguyện,...
Thân được
sinh ra từ ý nguyện, thân ấy gọi là thân như ý sinh và nó được nuôi lớn
bằng đại nguyện, vì vậy nó sinh ra và lớn lên trong tự do. Không có tự
do, thì không thể có hạnh phúc và an lạc. Tự do ở đây không phải là
những thứ tự do được quy ước bởi những điều kiện của chính trị, mà là sự
tự do thoát ra từ phiền não hay thoát ra từ những hạt giống ái, thủ và
hữu ở nơi tâm ta.
Thân thể được tạo nên từ tâm bồ đề và từ đại nguyện bồ đề, được gọi
là thân thể như ý. Thân thể ấy sinh ra ở đâu, thì Tịnh độ có mặt ở đó.
Tịnh độ có mặt ở đâu, thì tự do, hạnh phúc và an lạc có mặt ở đó. Và
Tịnh độ có mặt là để cho thân ấy sinh ra.
Nên, ta lạy Phật A Di Đà mỗi ngày, qua những đại nguyện của Ngài,
là để thai nghén thân ấy và khi nhân duyên Tịnh độ hội đủ thì như ý thân
sinh ra cho ta.