NGHI LỄ MỘT BỘ PHẬN CẤU THÀNH
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Thượng tọa Thích Chơn Minh
Ủy viên Ban Nghi lễ Trung ương
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Trị sự
Truởng ban Nghi lễ Phật giáo tỉnh Đồng Tháp
Chư
Tổ có dạy rằng: Nghi lễ dù là quan trọng nhưng vẫn chỉ là phương tiện
dắt dẫn chúng sanh vào đạo, chứ không phải là con đường thật sự đạt đến
giác ngộ.
Thật
vậy, vì Nghi nghĩa là dáng, mẫu, nghi thức, khuôn phép …; Lễ, nghĩa là
lễ giáo, lẽ bái, cúng tế, tôn thờ và cung kính… Vì vậy, Nghi lễ bao hàm ý
nghĩa vô cùng rộng, bao trùm cả hành vi, thái độ, tín ngưỡng, văn hóa,
ngôn ngữ, phong cách của con người. Với ý nghĩa đó, nghi lễ Phật giáo
không đơn thuần chỉ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng
thờ phụng.
Từ xa
xưa, Nghi lễ Phật giáo thường đi đôi với nhạc. Lễ và nhạc, tùy theo
truyền thống văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền mà phần
lễ nhạc của Phật giáo sẽ ảnh hưởng và biểu hiện cho phù hợp với truyền
thống ấy. Nghi lễ Phật giáo mang màu sắc lễ nhạc đặc thù của dân tộc, vô
hình trung nghi lễ Phật giáo ở mỗi quốc gia là một mãng cấu thành nền
văn hóa truyền thống của dân tộc, nên cần được đánh giá đúng và được bảo
tồn, phát triển.
Nét
độc đáo của nghi lễ trong đạo Phật là để bày tỏ lòng tôn kính đối với
các đấng đáng tôn kính. Khi nghi lễ được thực hiện thường là để cầu
nguyện, nhưng theo quan điểm Phật giáo thì sự cầu nguyện không phải là
van xin thần thánh hay bất cứ một thế lực quyền năng nào. Cầu nguyện
chính là tập trung dòng tư tưởng về một chổ, một niềm tin duy nhất; dồn
cả nghị lực, tinh thần để chuyển đổi quan niệm mê lầm, xấu ác trở nên
trong sáng và lương thiện. Vì thế, cầu nguyện chính là phương pháp nhìn
lại con người thật của mình, quán sát tâm mình và khử trừ mọi khát vọng
phàm tình, ích kỷ, ỷ lại, yếu đuối, nhỏ nhoi… Nói cách khác, cầu nguyện
là cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người. Theo nghĩa
đó, nghi lễ trong Phật giáo là lòng khiêm hạ, là bày tỏ sự kính thành.
Khi nghi lễ kết hợp với sự cầu nguyện là cách thức đãi lọc tâm tính, là
phát khởi những dòng niệm trong sáng, hữu ích, nung nấu ý chí, trau giồi
đạo hạnh cho chính mình và hướng đạo cho người.
Nếu
nói nghi lễ là biểu hiện của lòng tôn kính Tam bảo, có nghĩa là khi tâm
hồn con người chưa được khai phóng triệt để, trình độ chưa đạt đến độ
tự giác giải thoát đối với sự hệ luỵ của cuộc đời thì nghi lễ biểu lộ
lòng thành kính trong sạch đối với các bậc Đạo sư, đối với Phật pháp,
đối với Tăng già qua hành vi ngôn ngữ, đó là hành động tăng thượng tâm,
thiện pháp củng cố, ác pháp tổn giảm. Trong nghĩa rộng của nghi lễ thì
ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh đều là nghi lễ.
Nếu
nói nghi lễ là nghệ thuật triết lý, là vì triết lý của Phật giáo rất
cao siêu, nên đối với quần chúng Phật tử rất khó thâm nhập tinh tường.
Nên thông qua nghi lễ, đạo lý cao sâu được con người cảm nhận từ tình
cảm của con tim trước khi chuyển hóa thành nhận thức của khối óc. Trong
thực tiễn đã có những bài tán, kệ tụng rất thâm thúy làm xúc động và
rung động, chuyển hóa lòng người, làm cho tâm hồn người nghe sáng lên và
sáng lên mãi. Khi nghi lễ chuyên chở được đạo lý cao siêu ấy thì tín
ngưỡng của người con Phật trở thành pháp môn tu tập và phương pháp hành
đạo. Điều rất dễ cảm nhận, khi bất cứ ai vào chùa, trong không gian yên
tĩnh, tiếng chuông, tiếng mõ ấm áp vọng đều, những âm điệu và lời kinh
tiếng kệ khi cao vút, lúc trầm hùng, vỗ về dịu nhẹ…, tất cả những điều
ấy làm cho con người lắng dịu tâm hồn, tan biến tư dục, gát lại những
cuồng vọng phiền muộn âu lo. Quả thật, nghi lễ đã chuyên chở triết lý
của sự yêu thương vào lòng người một cách thẩm thấu êm dịu.
Nếu
xét nghi lễ như là phương tiện hoằng pháp độ sanh, bởi cuộc đời của tất
cả mọi con người đều vốn là vô thường, nên người ta thường hướng những
suy tư thầm kín bằng nghi lễ với tất cả tình cảm của mình, do vậy mà
nghi lễ sẽ dễ dàng đi vào lòng người hơn là những bài thuyết pháp đầy
triết lý. Vì là một pháp phương tiện, nên vị thầy khi ứng dụng nghi lễ
cần có những giới hạn nhất định, phải có thái độ vô chấp, và nghi lễ
thực hiện phải hội đủ yếu tố về nội dung, mang ý nghĩa giải thoát hơn là
sự thỏa mãn đơn thuần về mặt hình thức.
Nghi
lễ góp phần trì tâm kiên cố và trang nghiêm đạo tràng. Bởi vì, thực
hiện nghi lễ đúng cách sẽ có tác dụng làm cho tâm hồn định tĩnh, chuyên
chú và không còn bị ngoại cảnh chi phối. Trước một khung cảnh trang
nghiêm, nghi lễ thiền gia sẽ làm cho mỗi người có những rung cảm và ứng
xử thích hợp. Lúc đó, nghi lễ đã góp phần tạo nên không gian lễ nghĩa
hướng con người đến điều tốt đẹp một cách tự nhiên, trong không gian
hoàn cảnh cụ thể, chẳng hạn như khi tiến giác linh thì nghi lễ thể hiện
bi ai, ở trong tự, đền, miếu thì nghi lễ tạo thành không gian nghiêm
trang tôn kính… từ đó, giúp mọi người tự khép mình vào trong không gian
ấy, đó chính là cái “khung trời đạo đức”, tốt đẹp mà nghi lễ mang lại.
Như
chúng ta đã biết, nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp là nhiệm vụ cao cả
thiêng liêng của những người con Phật, thực hành nghi lễ đúng vẫn còn
chưa đủ mà khi thực hiện nghi lễ của Phật giáo đúng và phù hợp sẽ là
phương tiện hoằng pháp vô cùng vi diệu. Nhưng nếu không thấu triệt giáo
nghĩa, lại xem nghi lễ và thực hiện nghi lễ như là sự đáp ứng nhu cầu
thưởng ngoạn của quần chúng đơn thuần thì có thể là một tác hại làm pha
loãng những giá trị tốt đẹp của đạo Phật và tác hại đến xã hội. Do tính
chất của nghi lễ, suy cho cùng là phương tiện ưu thắng dễ cảm hóa lòng
người. Vì lẽ đó, nghi lễ nhất thiết phải có ý nghĩa và nội dung đúng
Chánh pháp, tuyệt đối tránh các khuynh hướng lệch lạc như sau:
- Xem nghi lễ như là một phương tiện mưu sinh.
- Xem nghi lễ như là sự biểu hiện của mê tín dị đoan.
-
Xem nghi lễ như là sự thỏa mãn cuối cùng của con người, là phương thức
để thể hiện sự “cầu khấn, van xin” mà lẽ ra nghi lễ chính là con thuyền
để chuyển tải những giá trị Chánh pháp vào tâm hồm con người qua con
đường cảm xúc và nghi lễ là bước đầu tiên trong con đường tìm cầu giải
thoát.
Ngày
nay nghi lễ Phật giáo trong nước ta ở ba miền đều có những nét đặc
trưng riêng. Tuy vậy, nhưng vẫn có giá trị chung, đó là một pháp môn tu
tập, là một phương tiện hoằng pháp lợi sanh, có tác dụng làm chuyển hóa
khổ đau, làm giảm áp lực của tham lam, sân hận, si mê. Do đó, chúng con
xin mạnh dạn nêu lên suy nghĩ của mình, kính bạch chư Tôn đức trong
ngành Nghi lễ Trung ương và Giáo hội cùng suy xét:
Thứ
nhất: Cần có sự thống nhất về giá trị và những vấn đề cốt lõi của nghi
lễ Phật giáo trên toàn quốc theo hướng giữ gìn và phát huy những giá trị
chung của nghi lễ, nhưng chấp nhận sự khác biệt mang tính vùng miền,
nhằm làm phong phú nghi lễ nhưng cũng đảm bảo tính quy cũ của Phật giáo.
Thứ
hai: Tổng rà soát để kịp thời có thay đổi những gì không còn phù hợp
trước sự phát triển của xã hội đương đại, nhằm bảo đảm cho nghi lễ vẫn
là nét văn hóa đẹp của Phật giáo, của xã hội và đáp ứng nhu cầu hoằng
pháp trong hoàn cảnh mới. Vì Phật pháp bất ly thế gian giác.
Thứ
ba: Thống nhất biên soạn bộ giáo trình Nghi lễ Phật giáo đưa vào hệ
thống đào tạo các Trường Phật học như là một môn học chính khóa theo
hướng đảm bảo nếu Tăng, Ni đã qua chương trình đào tạo từ Trung cấp Phật
học trở lên đều hiểu đúng, hành đúng các nghi lễ Phật giáo, vì nếu
không hiểu đúng, hành đúng nghi lễ Phật giáo thì vô tình tu sĩ có thể
biến nghi lễ thành mê tín dị đoan, làm quần chúng nhận thức sai lệch về
đạo Phật./.