Tiên học lễ, hậu học văn
Phàm là học trò, khi mới bước vào học đường đều phải nằm lòng câu
nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”, điều đó nói lên phép tắc, lễ nghi là
điều tất yếu để có một cuộc sống hoàn thiện. Một xã hội văn minh phải là
một xã hội có lễ giáo. Phép tắc, lễ nghi từ lâu được xem là “quốc uy”
của một quốc gia. Một đất nước, một tổ chức xã hội hay tôn giáo mà việc
lễ nghi, phép tắc không đặt lên hàng đầu thì quả thật hỗn loạn. Bởi vậy,
từ lâu ông cha ta luôn xem nghi lễ là một thực thể không thể thiếu
trong công cuộc trồng người; lấy lễ nghi làm thước đo đạo đức cho nhiều
thế hệ và các giai tầng trong xã hội. Các triều đại phong kiến nước ta
xem nghi lễ là một bộ phận quan trọng trong bộ máy tổ chức nhà nước. Từ
thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn, Bộ Lễ là Bộ đứng hàng thứ 2 trong Lục
bộ (Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Công). Người đứng đầu
Bộ Lễ được gọi là Thượng thư Bộ Lễ hay Lễ bộ Thượng thư, tương đương với
vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ngày nay.
Ở các triều đại quân chủ nước ta, Bộ Lễ giữ việc lễ nghi, tế tự,
khánh tiết, yến tiệc, trường học, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu,
biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chầu mừng, tư thiên giám, thuốc
thang, bói toán, tăng tục, đạo đức, giáo phường, đồng văn nhã nhạc. Bộ
Lễ còn có chức năng trông coi việc tổ chức và kiểm soát vấn đề thi cử,
chọn người tài đức ra giúp triều đình; tương đương với Bộ Học thời cận
đại và Bộ Giáo dục hay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay.
“Ôn cố tri tân”, ngày xưa nghi lễ đã là một bộ phận không thể thiếu
trong hệ thống tổ chức của một quốc gia, ngày nay cũng không ngoại lệ.
Đối với một tôn giáo thì lễ nghi chắc hẳn phải đặt lên hàng đầu. Đạo
Phật, ngoài kho tàng triết lý sâu sắc còn có âm nhạc, lễ nghi để thức
tỉnh lòng người bỏ mê quay về bờ giác. Dùng lễ nhạc để ca ngợi công đức
chư Phật, chư Bồ tát, đồng thời còn là cách để diễn bày chân lý vô
thường, vô ngã và giá trị tự giải thoát.
Nghi lễ Phật giáo Việt Nam
Từ xưa, chư vị Tổ sư đã vận dụng giáo lý Phật đà một cách phong phú
vào nền văn hóa Việt Nam, quán triệt tâm lý hoàn cảnh của con người Việt
Nam nên đã lập ra những lễ nghi phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc để
phổ biến những bài kinh, câu kệ đưa vào những giai điệu âm nhạc dân tộc
nhằm mục đích khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Đồng thời hình
thành bộ môn nghi lễ có quy thức và được phổ cập trong chốn thiền môn,
giúp cho sự ứng phó đạo tràng luôn hài hòa với đặc tính quần chúng, làm
gắn bố thêm giữa đạo và đời. Nhờ vậy, lời dạy của chư Phật, Bồ tát và
chư vị Tổ sư đã và đang lan rộng khắp mọi miền đất nước, vang vọng trong
chốn thiền môn.
Nghi lễ Phật giáo là sự biểu hiện lòng tôn kính và tin tưởng của mọi
người đối với Tam bảo. Thực hành nghi lễ Phật giáo phải có hệ thống, bài
bản tùy theo tập quán của mỗi địa phương mà hình thành nghi lễ. Đây
cũng là một phương tiện đắc lực để dẫn dắt con người vào đạo, làm trang
nghiêm dung hạnh tu tập… Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, phương tiện bao
giờ cũng có hai mặt, nó có công dụng tốt nhưng cũng lắm bề tiêu cực. Nếu
chúng ta vận dụng nghi lễ Phật giáo để tuyên dương Phật giáo, lợi lạc
quần sanh thì đó là cội rễ của phước điền, ngược lại mượn nghi lễ Phật
giáo để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân thì tai hại vô cùng. Thực trạng nghi
lễ Phật giáo hiện nay đã và đang trở thành một bức tranh “sáng tối”
không rõ ràng, khiến người đời ngộ nhận cho rằng nghi lễ Phật giáo là mê
tín dị đoan. Bản thân chúng tôi cũng đã từng chứng kiến một vị Tăng sĩ
áp dụng nghi lễ trong buổi tế lễ tại tư gia của một đạo hữu, nhưng buổi
lễ không có chút gì mang nội dung nghi lễ Phật giáo, nếu không nói đó là
“tà môn ngoại đạo”!
Đây chỉ mới đề cập đến nội dụng thực hiện nghi lễ, còn về vấn đề pháp
phục, lễ nghi thì càng nan giải hơn. Chỉ riêng pháp phục phổ thông
trong Tăng Ni thôi cũng đủ để thành một bức tranh đa gam màu, nhiều
phong cách. Đó chưa nói đến việc sử dụng pháp phục trong nghi lễ một
cách tùy tiện và thiếu hiểu biết của một số Tăng Ni trẻ hiện nay. Chính
vì vậy, hơn bao giờ hết, vai trò của người làm công tác nghi lễ ngày nay
cần phải biết chuyển hóa như thế nào để vừa có thể duy trì tính truyền
thống cao đẹp của chư Tổ, vừa có thể khế hợp với thời đại.
Vai trò và chức năng của nghi lễ Phật giáo
Qua chứng tích lịch sử cho thấy, nghi lễ Phật giáo đóng vai trò khá
quan trọng trong quá trình hình thành nền văn hoá của dân tộc, từ văn
hoá vật thể cho đến các loại văn hoá phi vật thể như đạo đức, phong tục,
tập quán… Có thể nói, nghi lễ Phật giáo là một trong những nhân tố tạo
thành tính đặc trưng của văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng và văn hóa
dân tộc nói chung. Điều này không có gì phải bàn cãi trong việc thừa
nhận sức sống và vai trò của nghi lễ Phật giáo trong quá trình hình
thành, xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc. Một vai trò hết sức
trọng yếu khác của nghi lễ Phật giáo đó là chức năng hoằng pháp, xương
minh Phật pháp, phổ cập giáo lý Phật giáo trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.
Một thí dụ cụ thể để biện minh vai trò hoằng pháp của nghi lễ Phật
giáo, đó là sử dụng lễ nhạc - nghi thức tế lễ Phật giáo để làm phương
tiện dẫn dắt chúng sanh vào đạo hẳn là một liệu pháp hiệu quả mà từ xa
xưa các vị Tổ sư nhận chân được điều này. Do đó, tính đặc thù của nghi
lễ Phật giáo được chú trọng từ hàng trăm năm trước. Thế nhưng, so với
hiện nay thì vai trò nghi lễ Phật giáo được thực thi như thế nào? Chức
năng của ngành nghi lễ được đánh giá ra sao trong bộ máy tổ chức của
Giáo hội? Liệu Ban Nghi lễ có thực hiện hết chức năng của mình khi được
giao vai trò trọng yếu?... Rất nhiều vấn đề được đặt cho ngành nghi lễ
của GHPGVN hiện nay.
Tính từ khi thành lập cho đến nay, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã gần 30 năm, trải qua sáu nhiệm kỳ, nhưng Ban Nghi lễ vẫn
còn giậm chân tại chỗ, chưa có bước phát triển đột phá nào để hướng đến
sự thống nhất phương thức nghi lễ cũng như đề xuất các vấn đề thực thi
nghi lễ Phật giáo. Nguyên nhân thì có nhiều: do khách quan bởi thiếu sự
chủ động hay do cơ chế từ phía Giáo hội; do chủ quan bởi thiếu sự nhất
quán đồng thuận về những vấn đề mấu chốt của ngành nghi lễ… Có thể ví,
Ban Nghi lễ của Giáo hội giống như một bộ phận trong “Lục bộ” của thời
kỳ nhà nước quân chủ lập hiến, đó là Bộ Lễ. Vị đứng đầu nghi lễ Phật
giáo cũng phải như vị Thượng thư Bộ Lễ. Chẳng những chăm lo việc tế lễ,
nghi thức trong Phật giáo mà còn phải quan tâm đến vấn đề đạo đức, lễ
giáo, pháp phục… Từ hình thức và nội dung trong nghi lễ Phật giáo cho
đến đạo đức, phong tục, lễ nghi trong nếp sống thiền môn… tất cả phải
được thiết lập một cách có hệ thống, có căn cứ. Những âm thanh, điệu
thức của thiền gia phải được duy trì và sáng tạo. Những buổi lễ truyền
thống Phật giáo như Tết Nguyên đán, Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan, các ngày lễ
tưởng niệm chư vị tiền bối hữu công trong Phật giáo… phải được thực hiện
một cách thống nhất nhưng không tách rời truyền thống. Từng bước Việt
hóa những văn bản nghi lễ Hán văn để khế hợp với căn cơ và nhận thức của
đại đa số quần chúng.
Nên chăng, Giáo hội cần phải thành lập một trường giảng dạy về nghi
lễ Phật giáo hoặc có thể đưa nghi lễ Phật giáo thành một môn học chính
thức tại các trường Phật học để các Tăng Ni có điều kiện tiếp cận học
hỏi, hầu có những tư tưởng và cái nhìn đúng đắn về vị trí của nghi lễ
Phật giáo, đó cũng là một phương thức bảo tồn và phát huy các giá trị
nghi lễ Phật giáo. Thời xa xưa, lễ nghi Phật giáo được thầy trò truyền
dạy nhau bằng khẩu thính rất thô sơ nhưng kết quả không nhỏ, lại xuất
hiện nhiều vị xuất sắc, không như bây giờ rất đủ điều kiện giáo dục về
nghi lễ nhưng lại không có người diễn đạt xuất sắc lời hay ý đẹp của chư
Tổ truyền đạt. Ngành nghi lễ nên tìm nguyên nhân ấy, để cùng nhau phổ
cập bộ môn này trong Tăng Ni trẻ.
Ngày nay nhân loại đang bước vào thời kỳ đổi mới, những biến đổi trên
mọi lĩnh vực về đời sống vật chất và tinh thần là điều hiển nhiên, đó
là một thách thức thúc đẩy đất nước phát triển trên nhiều phương diện
kinh tế, văn hoá, xã hội. Việc tiếp thu tinh hoa văn hoá xứ người nhưng
vẫn bảo vệ giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc thì việc phát huy
vai trò nghi lễ Phật giáo là vấn đề lớn có ý nghĩa chiến lược. Điều này
đòi hỏi sự năng động tinh thần Phật giáo trong vai trò phát huy và dung
hợp những giá trị nhân bản bền vững của nghi lễ Phật giáo Việt Nam
trong đời sống văn hóa, tâm linh của một dân tộc. Thế nhưng, muốn xác
định những vai trò và vị trí của nghi lễ Phật giáo trong đời sống văn
hoá, tâm linh dân tộc, trước hết cần thống nhất nhận thức về bản chất
nghi lễ Phật giáo, sự tác động chi phối của nghi lễ Phật giáo trong nền
tảng đạo đức, thuần phong mỹ tục của một dân tộc. Điều đó, có nghĩa là
nghi lễ Phật giáo phải thích ứng và chứng tỏ được khả năng thâm nhập
trong thời đại mới. Nói cách khác, vai trò chính yếu của ngành nghi lễ
Phật giáo là phải hình dung về một nền văn hóa dân tộc hiện đại dựa trên
căn bản và tinh thần nhập thế của Phật giáo từ truyền thống đến hiện
đại.