NGHI LỄ và ỨNG DỤNG
Ban Nghi lễ Phật giáo Tỉnh Bình Thuận
A. Phần mở đầu:
Bất
kỳ một tôn giáo hay tổ chức xã hội đều có những lễ nghi biểu hiện cách
tôn trọng cung kính đối với quốc gia, lãnh thổ và trong đời sống thường
nhật. Tất cả những cách ứng xử qua lại với nhau đều có những khuôn phép
nhất định để duy trì thứ bậc và trật tự xã hội. Tùy theo phong tục tập
quán của mỗi quốc gia, lãnh thổ mà có những biểu hiện khác nhau để thích
ứng trong mọi sanh hoạt.
Tổ đức
có câu “Tiên học lễ, hậu học văn” đủ để nói lên rằng, từ ngày xưa đến
nay, cách thức ứng xử và trật tự xã hội đã được chú trọng lên hàng đầu
để duy trì đạo đức, ứng xử của mỗi con người, duy trì sự tôn trọng lẫn
nhau.
Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi không dám mạn đàm đến hết những phạm
trù của nghi lễ phép tắc, mà chỉ thu gọn trong một mảng nhỏ, đó là Nghi
lễ trong thiền môn, một lãnh vực không thể thiếu trong sanh hoạt tôn
giáo và ứng dụng trong đời sống của Tăng Ni và Phật tử. B. Nội dung:
I. Nghi lễ:
1. Định Nghĩa:
Nghi
lễ là điều quan trọng không thể thiếu trong kiếp nhân sanh nói chung,
giới Phật giáo nói riêng. Vì ngoài cơm ăn, áo mặc, nơi ở v.v… nếu không
có nghi lễ thì nơi đó, người đó thiếu phẩm chất, văn hóa, tư cách đạo
đức của con người.
Người
xưa nói: “Nghi tại tướng, Lễ tại tâm”. Cho nên, người tu sĩ trượng phu
xuất trần, phát túc siêu phương không thể không biết nghi lễ. Vì nghi lễ
là liên quan đến oai nghi, quy cũ thiền môn, bởi lẽ, “Hữu oai khả úy,
hữu nghi khả kính”. Nghi lễ được đánh giá là không nặng về âm thanh, tán
tụng, mà chính là đạo phong trang nghiêm, tâm thành cung kính, đó mới
là “Đạo tràng ư xứ xứ”. Hiểu một cách khác, lễ nghi là lòng khiêm hạ, là
bày tỏ sự kính thành; cầu nguyện là cách thức đãi lọc tâm tánh, là ban
ân, là phát khởi những dòng tâm niệm trong sáng, hữu ích, nung nấu ý
chí, trau giồi đạo hạnh cho mình và hướng dẫn kẻ khác. Với cách hiểu như
vậy, nghi lễ không phải chỉ mang màu sắc và âm hưởng của tán tụng, cầu
nguyện mà còn hàm nghĩa một cách rộng rãi về đường lối tu hành và độ
sanh, cũng có thể hiểu:
Nghi: Là dáng, mẫu nghi, nghi lễ, khuôn phép…
Lễ: Là lễ giáo, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính…
Như
vậy, nghi lễ có nghĩa rất rộng, bao trùm hành vi, thái độ, tín ngưỡng,
tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, phong cách của con người và xã hội. Trong
nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín
ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo.
Nghi
lễ Phật giáo cũng có hai phần Lễ và Nhạc. Tuỳ theo truyền thống văn hóa
nghệ thuật của mỗi miền mà phần lễ nhạc Phật giáo sẽ ảnh hưởng và biểu
hiện theo truyền thống ấy. Nghi lễ Phật giáo mang màu sắc lễ nhạc cổ
truyền của dân tộc, là một mảng của nền văn hóa truyền thống. Việt Nam
ta có ba miền, mang ba loại hình sắc của tập tục nên cũng có tương đồng
và dị biệt. Tuy nhiên, cũng không khác những ý nghĩa đã miêu tả.
2. Ý nghĩa của Nghi lễ:
a.
Tôn kính: Nghi lễ được hình thành từ xa xưa, trước thời Phật đã xuất
hiện những nghi thức tế tự, thờ cúng theo tập tục của Veda Bà la môn
giáo. Họ có những trường thi Upanisad để ca ngợi những thần linh theo
cách của họ. Khi đạo Phật du nhập qua Đông thổ (Trung Quốc), lại được tô
bồi bởi những nghi thức cung kính của nền văn hóa bản địa. Chưa ai xác
nhận được nghi lễ có từ lúc nào, mà chỉ biết đó là thể hiện sự cung kính
Tam bảo, cung kính với đấng cha lành bốn loại. Ít ai biết được rằng,
trong đời sống Thiền môn, mình học nghi lễ từ lúc nào, nhưng ai cũng
biết cách xưng tán Tam bảo hết sức cung kính như:
"Phật với chúng con
Tánh vốn thanh tịnh,
Nên sự cảm ứng
Thật bất tư nghì;
Như những viên ngọc
Ảnh hiện với nhau,
Thập phương chư Phật
Ảnh hiện nơi con,
Thân con hiện trước
Thập phương chư Phật,
Con đem đầu mặt
Lạy sát chân Phật".
Đó
là những động tác và những xưng tụng ngày nào chúng ta cũng thực hiện,
để mong được gần Phật trong thân và tâm. Với hình thức như vậy, chúng ta
đang nuôi dưỡng một tâm bình đẳng thanh tịnh, tâm như tâm chư Phật và
thân cũng như thân Phật.
b.
Lập nguyện: Văn phát tâm Bồ đề nói: “Nguyện có lập thì chúng sanh mới
độ được, tâm có phát thì Phật đạo mới thành”. Với người Phật tử, khi
trước Phật chúng ta lập lại những lời nguyện của mình để mong ước được
lợi lạc cho mình và tha nhân. Nguyện trước Phật là cách chúng ta làm cho
đức tánh từ bi được nuôi dưỡng, và chúng ta thường nghĩ rằng, qua lời
nguyện và cách cúng dường Phật ta nguyện làm được những đức tánh cao cả
mà chư Phật đã thành tựu.
"Hương thơm giữ giới,
Thiền định, tuệ giác,
Hương thơm giải thoát,
Cùng với hương thơm
Giải thoát thấy biết,
Làm thành đài mây
Chói sáng rực rỡ,
Bủa khắp pháp giới,
Hiến cúng mười phương
Các đấng Vô thượng,
Xứng với tự tánh
Làm mọi việc Phật,
Xông ướp chúng sanh
Phát tâm Bồ đề,
Thoát bỏ vọng nghiệp,
Thành Vô thượng giác".
Đó
là cách cúng dường và cũng là cách phát nguyện độ sanh, không gì bằng,
khi trang nghiêm quỳ trước Phật đài, tâm và thân lắng động cúng dường,
như vậy lối vào của giải thoát đã mở bày trước mắt.
c. Trang nghiêm đạo tràng:
"La liệt hương hoa kiến bảo đàn
Trùng trùng Phật cảnh nhất hào đoan
Tâm dung diệu lý hư không thiểu (tiểu)
Đạo khế chơn như Pháp giới khoan
Tướng hảo từ bi thu nguyệt mãn
Hóa thân đằng vận mộ vân phiền
Hương vân đôi lý chiêm ứng hiện
Vạn vật sum la hải ấn hàm".
Đó
là cách thiết trí cúng dường bằng tâm và vật, từ hình tướng đến nội
dung đã được tương ứng để tỏ tâm mình lên ngôi Tam Bảo. Đối với những
khoa nghi pháp sự, khởi đầu đều bằng những lời tán thán hết sức tha
thiết, cũng là một cách khai thị và khai tâm trong hoằng hóa độ sanh,
tôn vinh công hạnh của chư Phật. Tán thán công đức ấy cũng là một cách
làm cho chúng sanh được thấm nhuần tư tưởng Phật, trải nghiệm sự thực
hiện ấy qua khoa nghi. Nghi lễ cũng chính là hoằng pháp lợi sanh, âm
dương lưỡng ích, “Đạo sư ba cõi đại hiếu Thích Ca văn, bao đời phụng
dưỡng mẹ cha, nhiều kiếp tu hành thành Phật”.
Hay:
“Thỉnh sư na bộ đăng đài,
Đài vị cô hồn thuyết giới.
Đả cổ tam thông đăng bảo tọa,
Phật tử cô hồn tận siêu thăng”.
Đó là đức hạnh và tha lực từ bi của đàn tràng làm cho âm dương lưỡng lợi, tất cả đều được tắm gội trong pháp giới sum la.
II. Ứng dụng của Nghi lễ:
1. Các loại hình nghi lễ:
-
Cầu an: Là cầu nguyện an lành, vượt qua các tai ương hoạn nạn. Cầu an
cũng thể hiện quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân, nhất
là trong lúc mình không làm được gì khác hơn là cầu nguyện. Cầu an cũng
nói lên tinh thần đạo đức của người Phật tử khi đứng trước nỗi bất hạnh
của kẻ khác. Phật dạy: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”, năng lực của
tâm hết sức lớn. Cầu nguyện an lành là hình thức chia sẻ chân tình nhất,
tâm nguyện, hành động và thực hành tĩnh lặng, xua tan những mối lo âu
cho mọi người. Đó cũng là một cách để mọi người thực hành chánh niệm lời
Phật dạy.
-
Cầu siêu: Là cầu nguyện thân quyến đã qua đời được siêu thoát. Như vậy,
cầu siêu là biểu lộ sự quan tâm giúp đỡ cho người thân của mình. Sự
quan tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện.
Nhu cầu và thực hành cầu siêu nói lên nhân sanh quan và vũ trụ quan của
Phật giáo, vừa nhân bản vừa rộng rãi; chấp nhận ngoài thế giới hiện thực
nầy còn có thế giới khác, đó chính là san sẻ năng lượng của tâm khi
nhất tâm cầu nguyện điều gì với tâm nguyện lành, điều lành đó sẽ làm cho
cả người sống và người mất đều an lạc.
-
Cầu sám hối: Sám hối là tiếng nói của cõi lòng, tiếng nói của sự thật
bị bụi trần khuất lấp, đó là lúc hành giả trở lại chiêm nghiệm những
hành vi quá khứ đến hiện tại và tu tỉnh tương lai. Tất cả những yếu tố
đó làm cho hành giả tự mình xây dựng một tư duy hiện thực và trở thành
người giải thoát.
-
Cầu tiến bộ tâm linh: Là cầu nguyện mình được phát khởi thiện tâm, phát
huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướng, ma chướng để sớm thành tựu
được mục tiêu giải thoát của mình. Nhu cầu cầu nguyện tâm linh tiến bộ
nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến, nói lên ước vọng tìm kiếm chân lý.
Đó là
những loại hình nghi lễ thường nhật mà các Tự viện thường thực hành, nó
hàm tính rộng rãi, chứ không phận biệt đẳng cấp, tầng lớp, tùy theo
trường hợp để áp dụng.
2. Ứng dụng của Nghi lễ:
a.
Trong nhân gian: Trước khi Phật giáo du nhập, Việt Nam đã có truyền
thống thờ cúng ông bà. Truyền thống đó đã có tác động và làm thêm sinh
động, phong phú nền nghi lễ Phật giáo Việt Nam và nó được xây dựng trên
nền tảng như vậy nên trong mọi hoàn cảnh từ thứ dân đến vua quan đều đặt
nghi lễ lên hàng đầu. Nên văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc gặp
nhau, bổ sung cho nhau.
Đời
sống ngày càng nâng cao, khi cuộc sống được cải thiện, người ta sẽ quan
tâm đến mức độ hoàn thiện, quan tâm đến nghi lễ. Trải qua những vận
mệnh lịch sử, qua những biến cố, người Việt Nam vẫn giữ được truyền
thống, đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt, nên Phật giáo có mặt đầy đủ
trong tất cả bốn lãnh vực quan hôn tang tế, tuy nhiên, tất cả đều đặt
trong nguyên tắc truyền thống của tinh thần nhập thế tuỳ duyên bất biến.
Đa phần quần chúng đến với đạo thông qua con đường nghi lễ. Nghi lễ
được coi là cầu nối giữa con người và các cảnh giới khác; người làm công
tác nghi lễ mang trọng trách hướng dẫn Phật tử biết thờ kính Phật và
hiếu kính mẹ cha. Nghi lễ được biểu hiện qua các loại hình được nêu
trên, làm cho con người cảm thấy gần gũi với đạo Phật và bỏ được đi
những tập tính, tập tục qua tinh thần thân thiện và yêu chuộng sự sống,
giảm thiểu những khổ đau.
Mối
liên hệ của con người trong xã hội rất đa dạng. Qua đó, các mối liên hệ
tình cảm chiếm phần lớn như là: Cúng kỵ ông bà, cha mẹ, tổ tiên, ma
chay, hiếu hỷ, cúng âm binh cô hồn, thờ cúng thần thánh, cầu an, cầu
siêu, xây dựng nhà cửa, chúc thọ… Các nghi lễ tôn giáo và lễ hội truyền
thống như: Tết nguyên đán, rằm tháng giêng, lễ Phật đản, lễ vía Phật, Bồ
tát, lễ Vu lan, rằm tháng mười… Những nghi lễ như vậy chi phối mạnh mẽ
đến các sinh hoạt tinh thần, văn hóa của đời sống nhân dân. Quý Thầy
được quần chúng coi trọng và ngôi chùa là nơi diễn ra hầy hết các buổi
lễ ấy. Thông qua nhu cầu nghi lễ, chúng ta tạo được mối quan hệ gắn bó
giữa đạo và đời, giữa người tu hành với quần chúng nhân dân. Nhờ vậy,
chúng ta có thể chuyển hóa họ bỏ ác làm lành, sống có đạo đức, an lạc.
b.
Đối với Thiền môn: Nghi lễ không thể thiếu trong Thiền môn, tất cả các
Tự viện trên toàn quốc, dù theo truyền thống nào cũng chú trọng đến nghi
lễ, vì đó chính là đời sống của Tăng Ni, Phật tử. Nghi lễ trong Thiền
môn, chính là những nguyên tắc sống, làm nên những người con Phật, sau
đó mới trở lại cuộc đời hoằng hoá. Chính nghi lễ đã hướng người Phật tử
quay về nương tựa Tam Bảo, ngày nay, nghi lễ vẫn là phương tiện hữu ích
cho công cuộc hoằng pháp, vị doanh sự Tỳ kheo, làm công tác sứ giả Như
Lai, dùng đó để làm phương tiện giúp đời và thực hiện Phật sự. Nhu cầu
nghi lễ của quần chúng rất khó kiểm soát, có những yêu cầu về nghi lễ
rất phi lý nhưng không ai hướng dẫn hoặc mạnh dạn bác bỏ nên chúng tồn
tại một cách có hại. Người trụ trì vững chãi về nghi lễ và hiểu rõ ý
nghĩa của nó sẽ dễ dàng hướng dẫn quần chúng đi vào Chánh pháp. Bằng
ngược lại, mình sẽ làm công không cho tà đạo, tuyên truyền giùm họ những
nghi lễ vốn không được chấp nhận trong đạo Phật, điều đó dẫn đến sự pha
loãng phẩm chất tốt đẹp của đạo Phật. Khi hành lễ, chúng ta chú trọng
đến năng lượng tâm để chuyển hóa khổ đau. Khi một người phóng ra một
năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện, luồng năng lượng ấy sẽ
tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của đối tượng được cầu nguyện.
Người phát ra một năng lượng tâm linh, năng lượng ấy thuộc xu hướng nào
thì sẽ tạo ra một hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không
gian, mà ta gọi là tha lực. Tuỳ theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả
năng, hiệu quả lớn hay nhỏ.
Cầu
nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bi, vị
tha, do đó tạo nên “đức độ”. Tâm ta càng hướng về vô ngã vị tha thì mối
tương tác giữa tâm ta và tâm Phật sẽ chặt chẽ, tác động mạnh đến người
hay hoàn cảnh mình cần cầu nguyện, đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực.
Dĩ nhiên, không phải ai cầu cũng ứng, cũng được an. Mọi tác dụng cảm
ứng đều có điều kiện, nhân duyên có đủ hay không; một ngọn lửa bùng cháy
phải đủ các điều kiện cho sự cháy, vậy không nên coi cầu an là phương
pháp tối thượng mà chỉ là một “trợ duyên”, điều quan trọng vẫn là “nội
lực” hay “nghiệp lực”.
Giáo
lý Phật giáo lấy con người làm trung tâm hóa độ, thì nghi lễ cũng dùng
trong ý nghĩa đó, đối tượng tôn kính và chủ thể được tôn kính đầy đủ,
đây chính là một mảng thế giới quan tương duyên của Phật giáo.
C. Kết luận:
Nghi
lễ Phật giáo là một pháp môn tu tập cũng có tác dụng chuyển hóa khổ
đau, làm giảm áp lực của tham lam, sân hận, si mê. Mặt khác, đó là một
phương tiện hoằng pháp lợi sanh rất có hiệu quả. Suốt gần 2000 năm, đạo
Phật có mặt trên đất nước Việt Nam, nghi lễ Phật giáo đã tạo thành những
dấu ấn tín ngưỡng văn hóa, đã xây dựng nền đạo đức và truyền thống văn
hóa tâm linh của dân tộc.
Để
tiếp tục thực hiện tốt chức năng của nghi lễ Phật giáo trong thời hiện
đại, chúng ta cần phải quan tâm hơn về việc thay đổi những gì không còn
phù hợp, để làm cho nghi lễ Phật giáo vẫn là nét văn hóa đẹp của xã hội
và đáp ứng nhu cầu hoằng pháp trong thế kỷ mới./.