II. VẤN ĐỀ CÚNG:
Vấn
đề Cúng là một nghi vấn không ít trong quảng đại quần chúng và cũng có
lắm người hành động sai lệch, thành thử vô tình làm mất giá trị của sự
Cúng Bái. Không gia đình Á Châu nào mà không có Cúng kỵ Tổ Tiên và cũng
không Quốc Gia nào mà không có Quốc Lễ, nhưng không được bao nhiêu người
hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của sự Cúng Bái. Theo Phật Giáo, Cúng Bái có
những ý nghĩa và giá trị như sau:
A. Ý NGHĨA CỦA SỰ CÚNG:
Cúng gọi đủ là “Cúng dường”, đó là danh từ của Phật Giáo. Danh từ này được chuyển ngữ từ hai chữ “Cung dưỡng” của tiếng Trung Hoa. Trước hết chúng ta cần hiểu hai danh từ: Cung dưỡng và Cúng dường.
a. Cung Dưỡng:
nghĩa là cung cấp và phụng dưỡng, tức là cung ứng theo sự nhu cầu về
vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo
v.v... Sự Cung Dưỡng ở đây có tánh cách bố thí với tình thương được mở
rộng, giúp đỡ những phương tiện cần thiết về đời sống cho những kẻ đang
cần sự hỗ trợ qua tinh thần vị tha của những người dư thừa.
b. Cúng Dường:
(Tiếng Phạm là: Pùjana) nghĩa là hiến cúng và dâng lễ, tức là dâng hiến
những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Cúng
dường ở đây có tánh cách chí thành, quy ngưỡng, tưởng niệm đến các Tiền
Nhân, các bậc Thánh Đức thâm ân mà kẻ dưới có bổn phận tri ân và báo ân.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CUNG DƯỠNG Và CÚNG DƯỜNG:
a. Cung Dưỡng:
nghĩa là phụng dưỡng, chăm sóc những người hiện đang sống trên đời với
tình thương sẵn có mà bổn phận làm người cần phải trang trải trong sự
quan hệ sanh tồn lẫn nhau, như phụng dưỡng cha mẹ, anh chị em, phụng
dưỡng đồng bào ruột thịt v.v...
Còn đối với những kẻ đã quá cố, tức là những người đã chết mất, chúng ta không dùng hai chữ “Cung Dưỡng” trong sự tế lễ để khiến mất đi lòng Tôn Kính ở đây chúng ta dùng hai chữ “CÚNG TẾ”
nhằm để thể hiện lòng thành đến với họ trong sự Lễ Nghi cung cách. Cúng
Tế nghĩa là đem lễ vật hiến cúng theo lễ nghi tế tự, như cúng tế tổ
tiên ông bà, cúng tế Thần Thánh v.v...
b. Cúng dường: nghĩa là tưởng niệm đến những bậc thâm ân, những Thầy chỉ đạo mà mình đã tri ân, đã quy ngưỡng với hành động Tôn Kính. Chúng ta không chỉ “Cúng Dường” cho những người hiện đang còn sống mà còn “Cúng dường” đến cho những bậc đã quá vãng, đã qua đời. Hơn nữa, trong Phật Giáo còn gọi là Cúng Dường Tam Bảo (Cúng dường Phật, Pháp, Tăng), cúng dường Thầy Tổ, cúng dường Trai Tăng v.v...
C. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ CÚNG:
Người
Việt Nam phần đông ít ai thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Cúng Bái.
Họ chỉ biết hành động theo tập tục cổ truyền của Ông Bà để lại mà bổn
phận con cháu phải giữ gìn Gia Bảo tinh thần ấy. Đó là một điều rất tốt
nhưng cũng rất tai hại cho những con cháu thiếu đức tin. Vì không hiểu ý
nghĩa Cúng Bái, người kế thừa Gia Bảo Tổ Tiên không giải thích được cụ
thể cho con cháu lãnh hội và còn làm lệch lạc giá trị cao quý của Truyền
Thống Văn Hóa. Hơn nữa, một khi gặp phải kẻ khác xuyên tạc, họ lại xem
thường và thiếu tâm thành trong sự Cúng Bái là hành động mê tín dị đoan.
Con
người mỗi khi làm điều gì bị bắt buộc nếu như không hiểu ý nghĩa về
việc mình đang làm thì xem như bị một hình phạt đau khổ rất lớn. Nhất là
đối với những kẻ có học thức, có trình độ Văn Hóa cao, họ đòi hỏi phải hiểu tường tận và cụ thể những
sự việc mà họ phải làm. Không ai có thể bắt buộc họ làm những việc mà
họ không hiểu. Đúng ra, họ rất muốn học hỏi và tìm hiểu tất cả những gì
có tánh cách Tín Ngưỡng và Văn Hóa, nhưng không được ai giải thích vấn
đề cho rõ ràng và thực tế. Nguyên do kẻ trên trước đã không hiểu Văn Hóa
và Tín Ngưỡng thì đâu thể nào giải thích cho hậu lai được thông suốt.
Cũng từ đấy, một số người lầm lạc khinh thường sự Cúng Bái và tỏ thái độ
thiếu Lễ Nghi cung cách với bề Trên mà thật ra họ rất cần đến sự giao
cảm giữa Tâm Linh của họ với Tâm Linh của các bậc Tiền Nhân qua sự
nguyện cầu. Vì lẽ không hiểu, đôi khi họ mượn duyên cớ Cúng Bái làm bình
phong nhằm mục đích họp bạn ăn uống vui chơi hơn là tưởng niệm để tri
ân và báo ân. Họ không thể nào tin được có Ông Bà hay Thần Thánh đến
hưởng đồ Cúng Bái. Giả sử trong khi Cúng Bái, con cháu nhìn thấy được
Ông Bà hay Thần Thánh hiện nguyên hình đến ăn uống giống như người sống
thì lúc đó họ sẽ đau khổ cực độ vì quá hoảng sợ mà con cháu lại tưởng ma
quỷ hiện và sẽ đốt nhà bỏ đi nơi khác. Nguyên do Ông Bà hay Thần Thánh
không còn hình tướng giống như người sống bình thường nữa.
Trên
thực tế, có những hiện tượng mà chúng ta bất lực trên lãnh vực quan
sát. Chúng ta chỉ hiểu biết những hiện tượng đó trên bình diện giả
thuyết để tìm đáp số cho đức tin. Chúng ta không thể nào nhìn thấy điện
thể trong không gian bằng sự quan sát. Chúng ta chỉ nhìn thấy điện trên
lãnh vực tác dụng. Nhưng điện tác dụng không phải là điện thể mặc dù
điện tác dụng được phát sanh từ điện thể trong không gian. Hơn nữa chúng
ta chỉ nhìn thấy sự vật bên ngoài bằng Ảnh Tử (Cause’s Images of
Illusions) ảo giác méo mó và không thể nào nhìn thấy mọi vật đúng với
giá trị và ý nghĩa của nó, nếu như không đặt quan niệm thương ghét vào.
Giả như chúng ta nhìn sự vật trên quan niệm thương ghét thì thấy vạn
pháp càng méo mó hơn. Chúng ta làm sao cụ thể hóa được toàn diện về phần
vật lý những thế giới siêu hình theo sự mong muốn. Khác nào chúng ta
nếu như có thể thì cũng chỉ hiểu biết được những chúng sanh hiện hữu
trong phạm vi Thái dương Hệ (Solar Systems) này mà thôi và ngược lại không thể nào biết
được những chúng sanh hiện hữu trong các Thái dương Hệ khác ngoài Thế
Giới chúng ta đang sống. Tại sao thế? Nguyên do chúng ta là con người
hiện đang sống trong Thế Giới gọi là Ngoại Giới có hiện tướng (Thế Giới
hiện hình tướng ra bên ngoài) hoàn toàn lệ thuộc vật chất thì không thể
nào thấy được chúng sanh đã và đang sinh hoạt trong những Thế Giới có
tánh cách Nội Giới không hiện tướng. Chúng sanh trong những Thế Giới Nội
Giới không hiện tướng đều được xây dựng nên bởi Tâm Thức và chúng nó
thì không bao giờ bị lệ thuộc chút nào về vật chất cả, mặc dù những Thế
Giới Nội Giới vô hình này và những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình kia rất tương quan chặt chẽ với nhau trong sự
duyên sanh. Những Thế Giới Nội Giới vô hình kia nếu như không có thực
chất để làm Nhân thì những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình này nhất định
không thể thành lập để làm Quả. Trường hợp đây cũng giống như Điện Thể
không gian ở trạng thái không hình tướng (Trạng thái không có hiện
tướng) nếu như không thật chất để làm Nhân thì Điện Dụng (Điện đã tác
dụng) sấm chớp ở trạng thái có hình tướng (Trạng thái có hiện tướng)
nhất định không thể phát sanh để làm Quả. Thể và Dụng, Nhân và Quả là
hai trạng thái rất quan hệ với nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời
trong chiều hướng duyên sanh để thành hình vạn pháp. Chúng ta chỉ biết
được vạn pháp từ nơi thành Quả, từ nơi tác dụng hiện tướng và ngược lại
chúng ta không thể nào quan sát được vạn pháp ở trạng thái Nguyên Nhân
cũng như ở trạng thái Thể Tĩnh không hiện tượng. Hơn nữa, con người nhìn
thấy vạn pháp qua Nhãn Quang (Lenz-lights) chiếu soi. Nhãn Quang nếu
như không chiếu soi thì con người không thể nhìn thấy vạn pháp. Nhưng
Nhãn Quang lại bị ảnh hưởng nơi Nhãn Căn (Giác quan con mắt) cho nên
chiếu soi không được tinh nhuệ. Trường hợp này cũng giống như dòng điện
bị ảnh hưởng bóng đèn nên phát ra ánh sáng không được đúng độ. Vã lại,
Nhãn Quang bị ràng buộc quá nhiều bởi ánh sáng mặt trời. Do đó con người
không thể nhìn thấy rõ sự vật về đêm. Ngược lại, một số loài động vật
như con mèo, con chó v.v... cũng nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang của
chúng. Nhưng Nhãn Quang của những loài động vật nói trên không lệ thuộc
bởi ánh sáng mặt trời và cũng như không bị ngăn cách bởi bóng đêm. Cho
nên chúng nó có thể nhìn thấy những hiện tượng vô hình cả ngày lẫn đêm
mà loài người không thể nào biết được. Nguyên do Nhãn Quang của loài
người không phải là Nhãn Quang của các loài vật kia. Khác nào ánh sáng
của mặt trời không phải là ánh sáng của mặt trăng. Như ánh sáng mặt trời
soi vào nhà, chúng ta mới thấy được vô số vi trần bay khắp nhà xuyên
qua ánh sáng. Trái lại, chúng ta nếu như không có ánh sáng mặt trời
chiếu soi thì không thể nào thấy được những vi trần nói trên hiện đang
bay lượn trong không gian. Như vậy, chúng ta mặc dù không nhìn thấy các
chúng sanh của những Thế Giới Nội Giới ở trạng thái vô hình, nhưng đừng
vội cho là chúng nó không có mặt trong vũ trụ bao la.
Vũ
trụ bao la có nhiều Thế Giới thì tất nhiên cũng có nhiều loại không
sanh hiện đang sinh hoạt trong đó. Các nhà Khoa Học chưa khám phá được
chúng, nhất là chưa biết được chút nào về lãnh vực siêu hình. Các nhà
Khoa Học chỉ biết lẩn quẩn trong Thái Dương Hệ (Solarsystem) có vật chất
này mà thôi và cũng chưa biết rõ tất cả Hành Tinh hiện có mặt trong
không gian. Trong không gian bao la, Thế Giới này được kết hợp bởi những
nguyên liệu không giống nhau như những Thế Giới khác, thành thử chúng
sanh ớ Thế Giới này không thể sinh hoạt nơi những Thế Giới khác và hình
tướg của họ cũng không giống nhau với các Thế Giới khác. Tương tợ như khối nước chính là Thế Giới của
loài cá và không khí chính là Thế Giới loài ngời. Khối nước và không
khí khác nhau cho nên loài người không phải là loài cá. Vì thế loài cá
không thể sống trong Thế Giới của loài người và ngược lại, loài người
cũng không thể sống được dưới nước giống như loài cá sinh hoạt.
Theo
Phật Giáo, vũ trụ bao la có hằng hà sa số Thế Giới, nghĩa là Thế Giới
nhiều như hạt cát của sông Hằng (sông Gange), trong đó chúng rất quan hệ
từng loại với nhau, đức Phật phân chia chúng thành ra ba nhóm khác nhau
theo sự quan hệ nói trên. Ba nhóm Thế giới gồm có: Dục Giới, Sắc Giới
và Vô Sắc Giới.
1 Dục Giới:
là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó đều do ái dục cực thịnh
tạo thành. Những Thế Giới này gồm có: Thế Giới loài người, Thế Giới Địa
Ngục, Thế Giới Ngạ Quỷ và Thế Giới Bàng Sanh (Súc Sanh).
2. Sắc Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh
sống trong đó cũng do ái dục và dục tưởng kết hợp sắc chất tạo thành.
sắc Chất ở đây thuộc thanh khí của Sắc Ấm một trong năm ấm tạo thành
Thân Thể và Thế Giới của Sắc Giới. Sắc Chất này không phải Trược Khí của
Sắc Uẩn, một trong Năm Uẩn tạo thành Thân Thể vâ Thế Giới của Dục Giới.
Sắc Uẩn thì nhơ nhớp tanh hôi. Còn Sắc Ấm thì trong suốt giống như chất
pha lê.
3. Vô Sắc Giới:
là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó chỉ do Nghiệp Thức kết
thành Thân Thể và Thế Giới. Những Thế Giới này muốn thấy được phải nhờ
đến Phật Nhãn mới quán thông. Mắt thịt của chúng ta không thể nào biết
được họ sinh hoạt trong những Thế Giới này.
Loài người còn không thể thấy được sự sinh hoạt, cách ăn uống của các chúng sanh trong những Thế Giới Địa Ngục, Ngạ Quỷ và A Tu La v.v. . . thuộc về cõi Dục thì làm sao biết được những chúng sanh trong các cõi Vô Sắc.
Hiện
tượng trong thế gian cho chúng ta nhận thức rằng, con người sinh hoạt
thường lệ thuộc quá nhiều nơi ánh sáng mặt trời cũng như ánh sáng đèn
cho nên không thể biết được những gì thuộc về bóng đêm, nghĩa là con
người muốn nhìn thấy được sự vật phải nhờ đến ánh sáng mặt trời hoặc ánh
sáng đèn chiếu soi. Ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn nếu như không
soi sáng thì con ngời không thể nhìn thấy được những sự vật của bóng đêm mặc dù những sự vật của bóng đêm vẫn
hiện có mặt trong thế gian. Ngược lại, những chúng sanh bị lệ thuộc
bóng đêm thì không thể biết được những gì của ánh sáng ban ngày, nghĩa
là chúng nó chỉ nhìn thấy được những sự vật thuộc về ban đêm. Như con
chim vạc, con rắn lục, con chim quốc v. v... chỉ nhìn thấy được những sự
vật của bóng tối thuộc về ban đêm và chúng nó không thể nhìn thấy được
những sự vật của ánh sáng thuộc về ban ngày giống như con người. Còn
những chúng sanh không bị lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời cũng như không
bị lệ thuộc bởi bóng tối thì có thể nhìn thấy những sự vật của ban ngày và những sự vật của ban đêm. Như con mèo, con
chó v.v... có thể nhìn thấy những sự vật cả ngày lẫn đêm không bị ngăn
cách, nghĩa là bóng tối và ánh sáng mặt trời không trở ngại cho sự sinh
hoạt của chúng. Trường hợp này cũng tương tợ như loài cá sống trên đất
liền thì bị chết khô và loài người sống dưới nớc thì bị chết ngạt. Ngược
lại loài rùa thì sống trên bờ hay sống dưới nước đều không bị trở ngại.
Sự ăn uống của những chúng sanh trong các cõi khác cũng thế.
Chúng
sanh đã có sự sống thì nhất định phải có sự hưởng thụ, nghĩa là họ phải
có sự ăn uống và sinh hoạt để tồn tại. Nhưng sự ăn uống của họ không
giống như sự ăn uống của loài người. Sự ăn uống của họ tùy theo nghiệp
quyết định.
Thí dụ: Cùng
một loại Thủy Tộc chuyên sống dưới nước như nhau,có giống thích ăn thịt
như là Cá Mập, có giống chuyên ăn nhớt như là Cá Nược và có giống chỉ
biết ăn rong nước như là Cá Cơm v.v...
Đức Phật nói: “Chúng sanh tùy nghiệp nhi thực”
nghĩa là chúng sanh do bởi nghiệp sai biệt nên ăn uống không giống
nhau. Theo Phật Giáo, chúng sanh trong các cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô
Sắc Giới có nhiều cách ăn. Những cách ăn của chúng sanh trong ba cõi
được chia thành chín loại khác nhau, gọi là Cửu Thực. Trước hết chúng ta
hãy tìm hiểu ý nghĩa và giá trị chín cách ăn nói trên.
D. VẤN ĐỀ ĂN:
Ăn, tiếng Trung Hoa gọi là Thực, tiếng phạn và tiếng Pali gọi chung là ÀHÀRA,
nghĩa là duy trì và nuôi dưỡng Thân Thể xác thịt của chúng sanh hoặc
Pháp Thân của các Thánh Nhân để hình thái được tồn tại, để tinh thần
được nẩy nở và phát triển lâu bền. Trong ba cõi, những thực vật để nuôi
lớn Thân Thể xác thịt thì gọi là món ăn của thế gian. Còn những thực vật
dể nuôi lớn Pháp Thân Trí Tuệ Giác Ngộ thì gọi là món ăn của xuất thế
gian. Thế Gian ăn có bốn cách và Xuất Thế Gian ăn có năm cách. Bốn cách
ăn của Thế Gian cộng với năm cách ăn của Xuất Thế Gian gọi chung là chín
cách ăn. Trước hết chúng ta tìm hiểu bốn cách ăn của Thế Gian. Bốn cách
ăn này được Kinh Tăng Nhứt A Hàm quyển 41 giải thích như sau:
Tứ Thực: (Nghĩa là bốn cách ăn của thế gian
tiếng Phạn là Catvàra-àhàràh, hoặc Ahàracatuska. Tiếng Pali là Cattàro-
àhàra). Bốn cách ăn này nhằm mục đích nuôi lớn Sắc Thân sanh tử trong
thế gian. Bốn cách ăn của Thế Gian gồm có: Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực và Thức Thực. Hình thức bốn cách ăn được giải thích như sau:
1. ĐOẠN THỰC:
(Tiếng Phạn là: Kavadim=Kàràhàra, Kavlì-kàràhàra. Tiếng Pali là:
Kabalinkàràhàra). Đoạn Thực còn có tên là Đoàn Thực, Kiến Thủ Thực và
còn có tên nữa là Tuy Thực. Ý nghĩa của những tên này được giải thích nh
sau:
a. Đoạn Thực: nghĩa là chia lương thực ra từng đoạn, từng phần để ăn nên gọi là Đoạn Thực.
b. Đoàn Thực:
nghĩa là nắm đồ ăn vo tròn đưa vào miệng để ăn nên gọi là Đoàn Thực.
Đây cách ăn của người An Độ thời xưa dùng tay nắm vắt đồ ăn bóc đưa vào
miệng.
c. Tuy Thực: nghĩa là vò nát đồ ăn hoặc bẻ ra từng mảnh để ăn nên gọi là Tuy Thực.
d. Kiến Thủ Thực: nghĩa là cầm lấy đồ ăn đưa vào miệng nên gọi là Kiến Thủ
Thực. Bốn hình thức ăn vừa giải thích đều nằm trong ý nghĩa của Đoạn
Thực được nêu ở trên. Theo Phật Học Đại Từ Điển quyển 4, Trang 3997-3998
Đoạn Thực được giải thích như sau:
ĐOẠN
THỰC: nghĩa là ăn uống bằng cách lấy mùi hương, chất vị và tinh thể của
xúc trần nơi sắc pháp để tươi nhuận và bổ ích cho các Căn trong thân
thể nên gọi là Đoạn Thực. Đoạn Thực có hai phần: Phần Thô và Phần Tế.
a. Phần Thô:
(Tiếng Phạm là Odàrika. Tiếng Pali là Olària), nghĩa là thể chất của
thực vật phổ thông để ăn được nằm trong cơm, trong miến, trong cá, trong
thịt.
b. Phần Tế:
(Tiếng Phạm là Sùksma. Tiếng Pali là Sukhuma), nghĩa là các thứ để uống
và các mùi thơm như là hương, dầu, sinh tô v.v... Nói tóm lại Đoạn Thực
nghĩa là ăn bằng cách dùng tay đem đồ ăn đưa vào miệng để nuôi dưỡng
Thân Thể, như loài người ăn v.v...
2. XÚC THỰC: (Tiếng Phạm là Sparsàkàràhàra. Tiếng Pali là phassà- Kàràhàra), cũng gọi là Lạc Thực và Ôn Thực.
a. Xúc Thực:
nghĩa là Khí quản cảm giác xuyên qua tinh thần làm chủ thể tức là Tâm
tác dụng tiếp xúc ngoại cảnh liền sanh ra cảm giác và ý chí để bồi dưỡng
và nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Xúc Thực. Nói cách khác, Xúc Thực
nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng thay thế tay chân tiếp xúc thẳng lương
thực không qua trung gian đưa vào, như cách ăn theo kiểu heo, gà, chó
v.v...
b. Lạc Thực: nghĩa là Tâm Sở xúc khi tiếp
xúc trực tiếp với cảnh vật đối tượng liền phát sanh hỷ lạc ưa thích để
nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Lạc Thực. Như người mê xem hát suốt ngày
mà không cảm thấy đói.
c. Ôn Thực: nghĩa là như chim Khổng Tước,
chim Anh Vũ v.v... khi sanh Trứng xong, liền đích thân trực tiếp ấp
Trứng cho đến khi nào Trứng nở thành con mới thôi. Chúng ấp Trứng nhầm
mục đích nuôi dưỡng sức ấm để sanh Lạc Xúc và Trứng nhờ đó mới nẩy nở
thành con, nên gọi là Ôn Thực. Con người tắm rửa, mặc áo cũng gọi là Xúc
Thực.
Nói
tóm lại, căn cứ nơi nghiệp lực của chúng sanh mà nhận xét, Xúc Thực ở
đây có nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng tiếp xúc thẳng lương thực mà
không dùng đến tay chân mang thức ăn vào miệng giống như cách ăn của
loài ngời.
3. TƯ THỰC:
(Tiếng Phạm là Manah-Samce=Tanàkàràhàra. Tiếng Pali là
Mano-Sance=Tanàkàràhàra), cũng gọi là Tác ý tư Thực (Ý Thực), Niệm Thực
(Ý Niệm Thực), Ý Chí Thực, Nghiệp Thực, nghĩa là tác dụng của ý Chí (tư)
mong cầu cho mình được trạng thái tốt đẹp và tồn tại tức là trạng thái
sanh tồn được kéo dài nên gọi là Tư Thực. Nói cách khác, Ý Thức thứ sáu
đối với cảnh sở duyên liền phát khởi tư tưởng mong muốn và phát sanh Ý
Niệm hy vọng các Căn (giác quan) được tiếp tục thêm lớn. Luận Thành Thật
cho là “Tư nghiệp hoạt mạng”, nghĩa là do Nguyện Lực của tư tởng khiến cho Mạng Căn sinh hoạt. Còn Đại Thừa Nghĩa Chương, tiết mục Đại 44, trang 620 giải thích rằng: “Do
Tư Nghiệp của quá khứ khiến Mạng Căn tiếp nối không dứt, nên gọi là Tư
Thực. Như thế, tất cả chúng sanh có sanh mạng đều do tư tưởng ở quá khứ
tạo nên, hoặc mang sống của họ đều do tư tưởng hiện tại tạo thành nên
gọi là Tư Thực”.
4. THỨC THỰC: (Tiếng Phạm là Vi-jnànàkàràhàra. Tiếng Pali là Vinnànà- kàràhàra), nghĩa là Tâm Thức hữu lậu nương nhờ nơi
Thức Alaya làm thể và ỷ lại vào thế lực của ba cách ăn ở trước để cồ
thể tạo tác quả báo cho kiếp sau nhầm mục đích duy trì thân mạng của
chúng sanh hữu tình không cho hư hoại, nên gọi là Thức Thực. Chúng sanh
hữu tình trong các cõi Vô Sắc và Địa Ngục thường dùng cách ăn này nên
gọi là Thức Thực.
Trong
bốn cách ăn nói trên, Tâm Thức sinh hoạt một cách linh diệu để duy trì
vạn pháp được tồn tại trong thế gian nên gọi là Thức Thực. Xúc Thực tư
Thực và Thức Thực đều thông cả ba cõi, nghĩa là chúng sanh hữu tình trong ba cõi phần nhiều sử
dụng ba cách ăn này nên gọi là thông cả ba cõi. Riêng Đoạn Thực chỉ hạn
cuộc trong cõi Dục, nghĩa cách ăn này chỉ dành riêng cho các chúng sanh
hữu tình trong cõi Dục sử dụng nhiều hơn.
Có
thể nói, Thức Thực là cách ăn bằng Tâm Thức và lương thực để cho Tâm
Thức sử dụng chính là hương vị của các pháp. Riêng những người bị chết,
sau khi bỏ Thân Thể xác thịt hôi tanh liền nương tựa nơi Thân Thể bằng
Tâm Thức nên gọi là Thức Thân và cũng gọi là Thân Trung Ấm. Những người mang Thức Thân thì họ ăn bằng cách
Thức Thực và lương thực của họ nuôi sống chính là hương vị của những đồ
cúng tế mà phần đông những chúng sanh trong các cõi Đia Ngục, Ngạ Quỷ, A
Tu La và cõi Trời thuộc Dục Giới đều thọ hưởng.
Như
chúng ta đã biết sự ăn uống của chúng sanh hữu tình trong năm cõi (Cõi
Trời, cõi Ngời, cõi Địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh) sở dĩ khác nhau
chính là do bởi chúng có nhiều hình thái được sanh ra từ nơi bốn loại
không giống nhau (loại sanh ra bằng trứng, loại sanh ra bằng bào thai,
loại sanh ra bằng chỗ ẩm thấp và loại sanh ra bằng
sự chuyển hóa từ hình tướng này sang hình tướng khác). Do đó so với các
bậc Thánh Nhân, bốn loại chúng sanh nói trên đều thuộc hạng phàm phu và
chúng ăn uống cũng khác với sự ăn uống của các bậc Siêu Đẳng. Bốn cách
ăn này của bốn loại chúng sanh hữu tình trong năm cõi cũng gọi là Bất
Tịnh Thực (Cách ăn không trong sạch).
Khác
hơn bốn cách ăn của các hàng phàm phu, năm cách ăn của các bậc Thánh
Nhân được gọi là Thanh Tịnh Thực (Năm cách ăn rất trong sạch) và cũng
gọi là Xuất Thế Gian Thực (Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian). Đây
là năm cách ăn của các đức Phật, của các vị Bồ Tát, các vị Duyên Giác và
các bậc Thinh Văn thường sử dụng. Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian
gồm có:
1. Thiển Duyệt Thực:
nghĩa là Hành Giả dùng phương pháp Thiền để bố ích Tâm Thần, tức là
những vị ấy hưởng đặng cái vui trong Thiền Định, nên gọi là Thiền Duyệt
Thực.
2. Pháp Hỷ Thực:
nghĩa là Hành Giả khi nghe pháp liền sanh tâm hoan hỷ, khiến tăng
trưởng thiện căn và lợi ích huệ mạng, nên gọi là Pháp Hỷ Thực.
3. Nguyện Thực:
nghĩa là Hành Giả vì muốn cứu độ chúng sanh đoạn trừ phiền não sớm
chứng quả Bồ Đề nên phát nguyện rộng lớn duy trì bản thân để thường tu
vạn hạnh, nên gọi là Nguyện.
4. Niệm Thực:
nghĩa là Hành Giả sau khi an định được Tâm ý, thường ghi nhớ mãi những
thiện pháp Xuất Thế mà mình đã chứng đắc không bao giờ quên, nên gọi là
Niệm Thực.
5. Giải Thoát Thực: nghĩa là Hành Giả khi
tu hạnh Thánh Đạo Xuất Thế của bậc Thánh Nhân đã đoạn được sự trói buộc
của Nghiệp Phiền Não và không còn thọ nhận sự bức bách hay bị chi phối
bởi khổ sanh tử nên gọi là Giải Thoát Thực.
Đây
là danh xưng năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian. Năm cách ăn này
được thiết lập là căn cứ nơi Pháp Hỷ của năng lực Thiền Định, của năng
lực Chánh Nguyện, của năng lực Chánh Tư Duy làm nền tảng. Hành Giả nhờ
năng lực Thiền Định, năng lực Chánh Nguyện và năng lực Chánh Tư Duy sau
khi đoạn được phiền não và được học hỏi Phật Pháp liền sanh ra Pháp Hỷ.
Pháp Hỷ thường nuôi dưỡng sanh mạng và bảo trì hạt giống Trí Tuệ, nên
gọi là Thực.
Năm
cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian cộng chung với bốn cách ăn của Thế
Gian nói trên trở thành chín cách ăn, gọi là Cửu Thực. (Hoa Nghiêm Kinh
Sớ, quyển 28 và Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 41).