Tại sao lại lạy ba lạy mà không lạy hai lạy, bốn lạy hay năm
lạy? Ba lạy chính là lễ lạy ba ngôi quý báu tức Tam Bảo: Phật, Pháp và
Tăng. Người đời thường xem vàng, bạc, kim cương, hột xoàn, dollars, và
danh lợi thế gian là quý báu. Nhưng thực tế cho biết những thứ này không
đem lại hạnh phúc chơn thực, không cứu được con người thoát khỏi sinh
lão bệnh tử. Nhưng với ba ngôi quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp, và Tăng có
năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử
luân hồi.
Phật là Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật là người đã
giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ
lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế
người Phật tử lạy cái lạy đầu tiên là để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ
và nhớ ơn Phật, cùng là thề nguyện sẽ theo gương Ngài mà tu hành để về
bến giác. Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng
chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận của các vị Bồ
tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy. Vì thế người
Phật tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp bảo nhằm bày tỏ lòng thành
kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời dạy của Phật, những lời dạy mà,
nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ,
đến bến bờ giải thoát. Tăng là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất
là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt
ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh.
Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo, từ các vị Thánh Tăng xuất thế đến
các vị Tỳ Kheo trụ thế tu hành chân chính, đạo đức trong sạch, và giới
luật trang nghiêm, để tỏ lòng thành kính và biết ơn những vị này đã sống
đời sống lý tưởng, đã hy sinh gia đình tiền của và danh vọng, đã xem
tiền bạc châu báu như rắn độc, danh lợi như đôi dép rách, sắc đẹp như
cạm bẫy, ăn ngon mặc đẹp như xiềng xích trói buộc, để tình nguyện thay
Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.
Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp và Tăng nêu trên, ba cái lạy cũng
còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi qúy báu bên trong chúng ta và trong mỗi
chúng sinh, vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt
(Phật tánh), đồng một pháp tánh từ bi và bình đẳng (Pháp tánh), và đồng
một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
Về cung cách lạy cũng có nhiều thứ. Người Ấn Độ cũng như Trung Hoa
có nhiều cách lễ lạy khác nhau. Riêng Phật giáo Việt Nam thường lạy theo
phương cách "Ngũ thể đầu địa", tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân
và cái đầu đụng mặt đất. Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong
tất cả các cung cách lễ lạy. Khi lễ lạy, người Phật tử đứng ngay thẳng,
hai chân khép sát vào nhau, hai bàn tay chắp sát lại nhau cho khít theo
thế hiệp chưởng (không phải thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất
tâm. Khi lạy Phật có người để hai tay trước ngực lạy xuống. Cũng có
người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống theo phương cách ngũ thể
đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang
nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn
tay. Đối với phụ nữ, thường là quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không đứng,
vì hình thể đặc biệt của phụ nữ, khác với nam giới nên thế đứng thẳng
trông hơi lộ liễu.
Trong đạo Phật bao giờ sự và lý cũng phải viên dung. Về sự thì như
trên chúng tôi đã trình bày. Chúng ta lạy Tam Bảo với tất cả thân tâm
thành kính nhớ ơn, thành kính nhớ ơn Phật, thành kính nhớ ơn Pháp, và
thành kính nhớ ơn Tăng. Thế còn cái tâm của chúng ta trong khi lạy phải
như thế nào? Nghĩ ngợi gì? Tưởng nhớ đến ai, đến cảnh gì, vật gì? Hay là
để tâm không nghĩ ngợi, không cầu mong điều gì? Để trả lời câu hỏi này,
thiết tưởng chúng ta hãy nhớ lại bài kệ "Quán Tưởng" mà chúng ta thường
tụng trước khi đảnh lễ:
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Đế Châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Đã được dịch ra là:
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thề nguyện quy y.
Như
thế thì bản chất Phật và chúng sinh vốn là "không tịch" lặng lẽ, tạm
gọi là chân tâm. Chỉ từ khi bắt đầu khởi niệm, là bắt đầu bị cuốn vào
dòng vô minh, rồi thức mới hoạt động, mới suy nghĩ, mới phân biệt ra cái
"ta" (năng) và cái "không phải ta" (sở), mới nảy sinh ra tình cảm yêu
ghét, tạo nghiệp, trả quả, xoay chuyển trong vòng sinh tử không thấy
đường ra.
Phật thương xót chúng sinh mê muội "... trong trí bồ đề mà không
thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc..." (Lời sám hối),
mới dậy cho chúng sinh tu hành để chấm dứt cái vòng luẩn quẩn đó bằng
cách trì giới, tham thiền, niệm Phật, trì chú, mục tiêu đều để giảm bớt
sự hoành hành của con vượn tâm, con ngựa ý, giảm bớt những thói quen
chấp trước, phân biệt, yêu ghét, từ từ đi tới định tâm. Khi tâm đã
"định" thì trí huệ bát nhã mới có dịp hiển lộ, mới được hưởng mùi vị cam
lồ của Phật Pháp. Đó là điểm đặc biệt của đạo Phật. Nếu chỉ dậy con
người ăn hiền ở lành thì nhiều tôn giáo khác đã làm, đức Phật thị hiện
ra đời là dư, không có gì đặc biệt đáng được tôn là Đấng Đại Giác. Chính
là vì Ngài đã "nhận" được cái tánh "không tịch" và tự mình dẫn đường
cho chúng sinh trong suốt 49 năm, còn để lại kinh sách làm bản đồ cho
đời sau nương theo tu tập mà trở lại được cái tánh "không tịch" ấy.
Kẻ nội thù dìm ta trong dòng vô minh chính là cái tâm sinh diệt suy
nghĩ liên miên này. Cho nên nếu muốn báo đền ơn Phật, vâng lời Phật thì
ít nhất là trong khi lễ lạy phải tuân theo lời Phật dạy, không suy nghĩ
gì cả, chỉ theo dõi hành động mà thôi, lễ xuống thì chỉ biết là lễ
xuống, đứng lên thì chỉ biết là đứng lên, chắp tay thì chỉ biết là chắp
tay, v..v... không có nghĩ đến bất cứ ai, không tưởng nhớ đến bất cứ cái
gì. Hễ một niệm tưởng dấy lên là ô nhiễm rồi, là hết "không tịch" rồi,
là từ "nhất niệm vô minh" trôi lăn vào dòng vô minh miên viễn rồi.
Nói tóm lại, "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người lạy và
đấng mình lạy, thể tánh đều vắng lặng bình đẳng. Thật tướng vạn pháp
đều thể hiện một cách bình đẳng, không phân biệt, không thấy có mình lạy
và người để cho mình lạy. Nếu khi lạy mà tâm còn vướng mắc một chút xíu
mong cầu, hay một chút tơ tưởng đến dòng họ tổ tiên, dù mỏng như một
sợi tơ cũng không đúng phép. Tâm phải ở trạng thái thanh tịnh vắng lặng.
Phật giáo Việt Nam đã thực hiện phép lý lạy này từ ngàn xưa, thiết
tưởng không có phép nào đầy đủ ý nghĩa và hợp với lý Bát Nhã hơn.