Quy
y Thượng sư, Tam bảo, phát tâm bồ đề:
Quy y Phật, quy y
pháp, quy y tăng
Con nay phát tâm
chẳng vì mình mà cầu xin phước báu người trời, cầu quả vị Thanh văn, Duyên
giác, cho đến các địa vị Bồ tát quyền thừa, mà chỉ y theo đại thừa tối thượng,
phát tâm bồ đề, nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới, một lúc đồng được quả
vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. (3 lần)
[1]
Chân ngôn Tịnh thủ:
Án, ách mục yết tát
lạt di ma nghênh tô lỗ tô lỗ sa ha.
(Niệm thầm) Chân ngôn Đại
luân minh vương:
Nại ma tư đắc rị dã
thoát di cát nam, tát rị át đát tháp cát đạt nam, án, vi ra tích, vi ra tích,
ma ha tát cát ra, át tư rị, át tư rị, tát đát tát đát, tát ra đế, tát ra đế,
đắc ra di, đắc ra di, vi đà ma ni, phan tát nạp nhĩ, đắc ra ma nhĩ đích, tịch
tháp ngật rị, đắc lan nhan, tịch đề thoát di, sa ha. (7 lần)
[2]
Đại chúng phát tâm rộng lớn: [3]
Một lòng phụng
thỉnh, mười phương khắp pháp giới trong các quốc độ nhiều như vi trần, chư Phật
pháp tăng, Kim cang mật tích, vệ pháp thần vương, tám bộ thiên long, bà la môn
tiên, tất cả thánh chúng.
Duy nguyện, chẳng
trái bản thệ, thương xót hữu tình, giáng lâm đạo tràng.
Chúng hòa: Hương
hoa thỉnh.
Ấn hiện đàn nghi. [4]
Án, át tư rị, tát
giới rị hồng tát hồng bang hộc.
Nam mô quy y mười phương tận hư không giới
hết thảy chư Phật
Nam
mô quy y mười phương tận hư không giới hết thảy tôn pháp
Nam
mô quy y mười phương tận hư không giới hết thảy hiền Thánh tăng
Nam mô Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri,
Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian
giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế tôn
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam
mô Kim Cang Bất Hoại Phật
Nam
mô Bảo Quang Phật
Nam
mô Long Tôn Vương Phật
Nam
mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam
mô Tinh Tấn Hỷ Phật
Nam
mô Bảo Hoả Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam
mô Hiện Vô Ngu Phật
Nam
mô Bảo Nguyệt Phật
Nam
mô Vô Cấu Phật
Nam
mô Ly Cấu Phật
Nam
mô Dũng Thí Phật
Nam
mô Thanh Tịnh Phật
Nam
mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam
mô Ta Lưu Na Phật
Nam
mô Thuỷ Thiên Phật
Nam
mô Kiên Đức Phật
Nam
mô Chiên Đàn Công Đức Phật
Nam
mô Vô Lượng Cúc Quang Phật
Nam
mô Quang Đức Phật
Nam
mô Vô Ưu Đức Phật
Nam
mô Na La Diên Phật
Nam
mô Công Đức Hoa Phật
Nam
mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật
Nam
mô Tài Công Đức Phật
Nam
mô Đức Niệm Phật
Nam
mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
Nam
mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật
Nam
mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật
Nam
mô Đấu Chiến Thắng Phật
Nam
mô Thiện Du Bộ Phật
Nam
mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật
Nam
mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam
mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ
Ta La
Thọ Vương Phật
Nam
mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật.
Đồng
đẳng như vậy, chư Phật Thế tôn khắp mọi quốc độ thường trú ở đời. Nguyện xin các ngài thương tưởng cho con, để
con sám hối mọi thứ tội lỗi. Là trong
đời này, hoặc từ đời trước, vô thỉ sanh tử cho đến ngày nay, bao nhiêu tội lỗi
con đã làm ra, bằng cách tự làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mà
lòng mừng theo. Của tháp, của tăng, của
tăng bốn phương, mà con tự lấy, con bảo người lấy, con thấy người lấy mà lòng
mừng theo. Năm tội vô gián, mà con tự
làm, con bảo người làm, con thấy người làm mà lòng mừng theo. Mười thứ ác nghiệp, mà con tự làm, con bảo
người làm, con thấy người làm mà lòng mừng theo. Bao nhiêu tội lỗi con làm trên đây, hoặc là
che dấu, hoặc không che dấu, hoặc đáng sa đoạ vào trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, các đường dữ khác, cùng
với các xứ biên địa dã man, hết thảy tội lỗi con đã làm ra, đáng phải sa vào
những chỗ như vậy, ngày nay con xin sám hối tất cả. Ngày nay con xin chư Phật Thế tôn chứng biết cho con, thương tưởng
đến con, con lại đối trước chư Phật Thế tôn hết lòng chân thành, tác bạch như
vầy: Hoặc trong đời này, hoặc mọi đời
khác, con làm bố thí cho đến chỉ cho các loài súc vật một viên thực phẩm, hoặc
kính tuân giữ giới luật thanh tịnh, hoặc tu tịnh hạnh được bao thiện căn, tác
thành chúng sanh được bao thiện căn, tu hành tuệ giác được bao thiện căn, thành
vô thượng trí được bao thiện căn, tất cả thiện căn đã nói trên đây, con tập hợp
lại, đối chiếu suy nghĩ, đem hồi hướng cả về nơi tuệ giác vô thượng bồ đề của
Phật Thế tôn. Quá khứ, hiện tại và cả vị
lai chư Phật Thế tôn hồi hướng thế nào, con cũng nguyện làm hồi hướng như vậy. Nên sự sám hối mọi thứ tội lỗi, cùng sự tuỳ hỷ
mọi thứ phước đức, cho đến công đức thỉnh Phật Thế tôn, con nguyện thành tựu
tuệ giác vô thượng. Chư Phật Thế tôn
trong ba thì gian là bậc tối thắng đối với chúng sanh, là vùng biển cả công đức
vô lượng, nên con ngày nay qui mạng đảnh lễ.
Tất cả chư Phật trong ba đời
Ở
nơi thế giới khắp mười phương
Con
đem thân ngữ ý trong sạch
Khắp
lạy khắp cả không thiếu sót.
Sức
oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Phân
thân hiện khắp trước Như lai
Một
thân lại hiện sát trần thân
Mỗi
thân lạy khắp sát trần Phật.
Sát
trần Phật ở trong một trần
Đều
ngồi giữa chúng hội bồ tát,
Vô
tận pháp giới trần cũng vậy
Sâu
tin chư Phật đều đầy đủ,
Con
dùng tất cả biển âm thanh
Nói
vô tận lời chữ nhiệm mầu
Cùng
tận đời kiếp thuở vị lai
Khen
Phật biển công đức rất sâu.
Sắm
đồ tốt đẹp: nào tràng hoa
Kỹ
nhạc, hương, hoa cùng tàn lọng
Các
thứ trang nghiêm hơn hết vậy
Con
đem cúng dường chư Như lai.
Y
phục hơn hết, các thứ hương:
Hương
vụn, hương đốt cùng đèn đuốc
Mỗi
món đều như núi Tu di
Con
đều cúng dường chư Như lai.
Con
dùng tâm thắng giải rộng lớn
Tin
sâu tất cả Phật ba đời
Vận
dụng sức hạnh nguyện Phổ Hiền
Biến
khắp cúng dường chư Như lai.
Con
xưa đã tạo nhiều nghiệp ác
Đều
vì ba độc: tham, sân, si
Từ
thân, miệng, ý phát sinh ra
Tất
cả nay con xin sám hối.
Mười
phương hết thảy các chúng sinh
Nhị
thừa, hữu học cùng vô học
Tất
cả Như lai và bồ tát
Có
công đức gì con tuỳ hỷ.
Các
đấng soi đời khắp mười phương
Khi
mới thành tựu đạo bồ đề
Tất
cả nay con đều khuyến thỉnh
Chuyển
bánh xe pháp mầu vô thượng.
Chư
Phật nếu muốn nhập niết bàn
Con
xin thành tâm đều mời thỉnh
Cúi
mong ở lâu kiếp trần sát
Để
làm lợi lạc các chúng sinh.
Lạy
Phật, khen Phật, cúng dường Phật
Thỉnh
Phật ở đời, chuyển pháp luân
Tuỳ
hỷ, sám hối, bao thiện căn
Hồi
hướng chúng sinh cùng Phật đạo.
Nguyện
đem công đức hơn hết này
Hồi
hướng vô thượng chân pháp giới
Tam bảo bản thể và biểu tượng
Nhị
đế dung thông ấn tam muội
Biển
công đức vô lượng như thế
Con
nay thảy xin trọn hồi hướng.
Nơi
có chúng sinh thân, miệng, ý
Tà
kiến, phỉ báng, chấp ngã pháp
Như
thế tất cả các nghiệp chướng
Thảy
đều tiêu diệt hết không còn.
Mỗi
niệm trí trùm khắp pháp giới
Rộng
độ chúng sinh được Bất thoái
Nhẫn
đến hư không thế giới cùng
Chúng
sinh, nghiệp, phiền não có tận
Bốn
pháp như vậy rộng không ngần
Nguyện
nay hồi hướng cũng như thế.
Cáo bạch mười phương
Hết
thảy chư Phật
Bồ
tát bát nhã
Kim
cang, chư thiên
Thánh
hiền vô lượng
Trong
các nghiệp đạo.
Con
nay xin đem
Tâm
từ bi lớn
Nương
thần lực Phật
Kính
thỉnh mười phương
Tận
hư không giới.
Ba
đường, địa ngục
Và các cõi dữ,
Tất cả ngạ
qủi
Nhiều
kiếp đói khát,
Chư
ty Diêm la
Thiên
tào, địa phủ
Nghiệp
đạo minh quan
Bà
la môn tiên,
Người
chết lâu xa
Linh hồn đồng nội
Chư
thiên hư không
Cùng
các quyến thuộc
Nhiều
loại quỷ thần.
Cúi
xin chư Phật
Bồ
tát bát nhã
Kim
cang chư thiên
Thánh
hiền vô lượng
Trong
các nghiệp đạo
Nguyện
ban oai quang
Thương
hộ niệm thêm.
Khắp
nguyện mười phương
Tận
hư không giới
Thiên
tào, địa phủ
Nghiệp
đạo minh quan
Vô
lượng ngạ quỷ
Cha mẹ nhiều đời
Người chết lâu xa
Bà la môn tiên,
Tất cả oán kết
Cậy nhờ tài mạng,
Các thứ loại tộc
Khác loại quỷ thần
Mỗi cùng quyến thuộc,
Nhờ sức Như lai
Vào giờ phút này
Quyết định về đây
Được Như lai cho
Thượng diệu pháp vị
Thanh tịnh cam lồ
Uống ăn đầy đủ
Thấm nhuần ruộng thân
Phước đức, trí tuệ
Phát tâm bồ đề
Rời hẳn tà hạnh
Quy kính Tam bảo
Khởi lòng thương lớn
Lợi ích hữu tình
Cầu đạo vô thượng
Chẳng thọ luân hồi
Các quả ác khổ
Thường sanh nhà lành
Lìa các sợ hãi
Thân thường thanh tịnh
Chứng đạo vô thượng.
(Miệng thường thanh tịnh
Chứng đạo vô thượng
Ý thường thanh tịnh
Chứng đạo vô thượng.)
(Bạch như vậy, 3 lần.)
Chân ngôn Vận tâm cúng dường: [5]
Na
ma tát rị át, đáp tháp cát đích tỳ nha, nguyệt thuyết mục khế tỳ nha, án, tát
rị át tháp, kham ô thắc cát đích, tư phát ra nạp hề mạn, cát cát nại kham sa
ha.
(7 lần)
Chân ngôn Tam bảo thí thực: [6]
Án
át tư ra duệ cật triệt hồng. (3 hay
7 lần)
Chân ngôn Biến không: [7]
Án
sa phát át thuật tháp, tát rị át, tháp rị ma, sa phát át thuật đồ khanh.
(3 lần)
Án
già hồng. (7 lần) [8]
Chân ngôn Phụng thực: [9]
Án
già cát lỗ mục khán, tát rị át, tháp rị ma nam, già điệp da nô thắc, ban nạp nô
thắc, án già hồng, phát tra sa ha.
(3 lần)
Niệm thầm kệ Phụng thực:
Con nay phụng hiến cam lồ thực
Lượng
sánh Tu di không gì hơn
Sắc
hương mỹ vị đầy hư không
Thượng
sư, Tam bảo thương nạp thọ.
Kế
cúng hiển mật chúng hộ thần
Sau
rốt hữu tình trong pháp giới
Thọ
dụng no đủ sanh hoan hỷ
Trừ
đi ma chướng được an vui.
Nay
cầu thí chủ cùng quyến thuộc
Tiêu
tai thêm phước, thọ dài lâu
Chỗ
cầu như ý đều thành tựu
Tất
cả các thời được an lành.
Đại chúng tán niệm Tam bảo:
Thế tôn đại từ, diệu trang nghiêm
Thấy
biết tròn đầy nhất thiết trí
Biển
lớn phước trí đều cho khắp
Nay
con tán lễ chư Như lai.
Tự tánh bản thể lìa các dục
Nương
tựa hạnh này thoát nẻo khổ
Lý
diệu huyền rất là sâu xa
Nay
con tán lễ chư diệu pháp.
Bậc thắng giải trên đường giải thoát
Giữ
tịnh giới hạnh đáng cung kính
Ruộng
phước đẹp mầu sanh thắng xứ
Nay
con tán lễ đại chúng tăng.
Kế nhập định Quán Âm: [10]
Lắng lòng khép mắt quán tâm tư
Tròn
đầy trăng sáng lặng treo không
Tự
chủng phóng quang thành sen đoá
Trong
hoa có đức Quán Tự Tại
Tướng
tốt đầy đủ chẳng so bì
Tay
trái cầm nhành hoa sen báu
Tay
phải bày thế cánh sen khai.
Bồ
tát suy tư thân chúng sanh
Vốn
đủ tánh giác, dụ hoa sen
Thanh
tịnh pháp giới, không hoặc nhiễm
Tám
cánh sen đều có Như lai.
Như
lai nhập định già phu tọa
Mỗi
vị mặt hướng Quán Tự Tại
Cổ
mang vầng quang, thân kim sắc
Ánh sáng chói lọi rất rực rỡ.
Kế
tưởng hoa này lớn dần ra
Lượng
lớn bao trùm khắp hư không
Tưởng
hoa tuệ giác chiếu pháp giới
Hải
hội Như lai thật rộng lớn.
Nếu
tâm chẳng rời thiền định này
Thương
xót hết thảy chúng hữu tình
Hoa
tuệ chiếu soi thoát khổ não
Liền
như Bồ tát Quán Tự Tại.
Hoa
sen thâu nhỏ như lúc trước
Lại
kết Tự Tại Quán Âm ấn
Gia
trì bốn chỗ tụng mật ngôn
Tự
thân cũng là Quán Tự Tại .
Án át tư ra tháp ra
ma hột rị.
Kế kết ấn Phá địa ngục: [11]
Na
ma a sắc tra sắc tra, nhiếp đế nẫm, tam miệu tam bột tháp, câu chi nẫm, án tả
lặc nạp phạ bà tố, đề rị đề rị hồng.
Một
lòng phụng thỉnh: Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ đề, địa ngục chưa không, thệ
chẳng thành Phật, Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ tát ma ha tát.
Xin nguyện, chẳng
trái lời thề, xót thương hữu tình, bây giờ đêm nay, quang lâm pháp hội.
Một lòng phụng
thỉnh: Pháp giới sáu đường, cô hồn mười loại, Diện Nhiên thống lãnh chúng bệ lệ
đa, hà sa chủng loại dựa cỏ nương cây, ly mị vọng lượng, trệ phách cô hồn, vong
linh mình người, bà con quyến thuộc, các chúng.
Xin nguyện, nương
Tam bảo lực, nhờ bí mật ngôn, bây giờ đêm nay, về dự pháp hội.
Kế kết ấn Triệu thỉnh
ngạ quỷ: [12]
Án, tức nạp tức
cát, di bố duệ kiết sa ha.
Đã triệu thỉnh rồi, khắp đều vân tập, dùng lòng thương xót,
khen ngợi an ủi, khiến sanh hoan hỷ mà khao khát chánh pháp:
Các Phật tử khéo đến
Do từng kết thắng duyên
Nay gặp pháp hội đây
Chớ sanh lòng sầu lo.
Một lòng khát ngưỡng
pháp
Chẳng bỏ thời khắc này
Giới phẩm thấm ướt thân
Để mau thoát nẻo khổ. [13]
Kế kết ấn Triệu tội:
[14]
Án ma rị át ba bát,
yết rị sa nã, nguyệt tuất đà nạp, át tư ra tát đoả, tát ma na hồng tạt.
Kế kết ấn Tồi tội:
[15]
Án át tư ra, ba ni
nguyệt tư phổ tra da, tát rị át a ba da, ban tháp nã ni, bất ra mục kháp da,
tát rị át a ba da, cát đế tỳ dược, tát rị át, tát đoã nẫm, tát rị át, đáp tháp
cát đạt, át tư ra, tam ma da hồng, đát ra tra.
Kế kết ấn Định nghiệp:
[16]
Án át tư ra, cát rị
ma, nguyệt thục tháp da, tát rị át, a ngoã ra nã, nễ bồ tháp, tát để duệ nạp,
tam ma da hồng.
Kế kết ấn Sám hối diệt
tội: [17]
Án tát rị át ba
bát, nguyệt tư phổ tra, đát hạ nạp, át tư ra da sa ha.
Các Phật tử đã sám
hối rồi [18],
tội chứa nhóm trăm kiếp, một niệm quét sạch mau, như lửa cháy cỏ khô, diệt hết không còn dư.
Kế kết ấn Diệu Sắc
Thân Như lai thí cam lộ: [19]
Na ma tô lỗ ba da,
đáp tháp cát đạt da, đát điệp tháp, án tô lỗ tô lỗ, bát la tô lỗ, bát la tô lỗ
sa ha.
Kế kết ấn Khai yết hầu:
[20]
Án, na mô phát cát
ngoã đế, nguyệt bổ lặc, cát đắc ra da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, tôi
nay vì quí vị xưng tán danh hiệu cát tường của đức Như lai, có năng lực khiến
cho quí vị thoát hẳn cái khổ ba đường tám nạn, thường làm người Phật tử chân
thật và thanh tịnh của Như lai.
Nam mô Bảo Thắng
Như Lai. [21]
Na mô ra đát nột,
đát ra da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Bảo Thắng Như Lai, có năng lực khiến cho những trần lao
nghiệp hoả của quí vị thảy đều tiêu diệt.
Nam mô Ly Bố Uý Như
Lai. [22]
Na mô vi cát, đát
đắc ra nạp da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Ly Bố Úy Như Lai, có năng lực khiến cho quí vị thường được
an lạc, thoát hẳn sợ hãi, thanh tịnh khoái lạc.
Nam mô Quảng Bác
Thân Như Lai. [23]
Na mô phát cát ngoã
đế, nguyệt bổ lặc, cát đắc ra da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Quảng Bác Thân Như Lai, có năng lực khiến cho quí vị không
bị cái khổ cổ họng nhỏ như kim châm của loài ngạ quỷ, nghiệp báo lửa dữ không
còn thiêu đốt, mát mẻ thông suốt, uống ăn món gì cũng như là vị cam lồ.
Nam mô Diệu Sắc
Thân Như Lai. [24]
Na mô tô lỗ bát da,
đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Diệu Sắc Thân Như Lai, có năng lực khiến cho quí vị chẳng
chịu xấu xí, tướng mạo đầy đủ, tướng hảo viên mãn, thù thắng đoan nghiêm, cõi
trời nhân gian rất là đệ nhất.
Nam mô Đa Bảo Như
Lai. [25]
Na mô ba hổ ra, đát
nạp da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Đa Bảo Như Lai, có năng lực khiến cho quí vị đầy đủ tài
bảo, nhu cầu vừa ý, thọ dụng vô tận.
Nam mô A Di Đà Như
Lai. [26]
Na mô a di đát bà
da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu A Di Đà Như Lai, có năng lực khiến cho quí vị vãng sanh tịnh
độ cực lạc phương Tây, hoa sen hoá sanh, vào bất thối địa.
Nam mô Thế Gian
Quảng Đại Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như lai. [27]
Na mô lô ca uỷ tư
đế linh nại đệ, tức thuyết ra, bất ra phát da, đáp tháp cát đạt da.
Các Phật tử, nếu
nghe được danh hiệu Thế Gian Quảng Đại Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như lai, có
năng lực khiến cho quí vị thu hoạch được năm thứ công đức: một là trong các thế
gian là bậc đệ nhất hết thảy; hai là được con mắt bồ tát, đoan nghiêm thù
thắng; ba là uy đức quảng đại vượt qua tất cả thiên ma ngoại đạo, như mặt nhật
chiếu thế gian, lộ bày trên biển lớn, công đức thật cao dày; bốn là được tự tại
lớn, hướng tới như ý, như chim bay không trung, không có trở ngại; năm là được
kiên cố lớn, ánh sáng trí tuệ, thân tâm sáng suốt như ngọc lưu ly.
Các Phật tử, bảy
đức Như Lai đây dùng năng lực của thệ nguyện mà cứu giúp chúng sanh lìa xa
phiền não, thoát khổ ba đường, an ổn thường lạc. Một phen xưng danh hiệu của các đức Như Lai
đây thì ngàn đời lìa khổ, chứng đạo vô thượng. [28]
Kế tiếp cùng các vị
quy y Tam bảo: [29]
Quy y Phật, đấng
phước tuệ vẹn toàn.
Quy y Pháp, đạo
thoát ly tham dục.
Quy y Tăng, chúng
đáng được tôn kính.
Các Phật tử, quy y
Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi.
Do quy y Tam bảo
Như pháp vững hộ trì
Tự lìa đường tà kiến
Cho nên chí tâm lễ.
Kế kết ấn Tam bảo:
[30]
Án, sa kham.
Kế cùng các vị phát
tâm bồ đề. Các vị hãy lắng nghe.
Kế kết ấn Phát bồ đề
tâm [31],
(rồi phát nguyện rằng:)
Nam mô Phật, nam mô
Pháp, nam mô Tăng
Con nay phát tâm
chẳng vì mình mà cầu xin phước báu người trời, cầu quả vị Thanh văn, Duyên
giác, cho đến các địa vị Bồ tát quyền thừa, mà chỉ y theo đại thừa tối thượng,
phát tâm bồ đề, nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới, một lúc đồng được quả
vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. (3 lần)
Con đã phát giác tâm
Lìa
xa các tánh tướng
Uẩn,
xứ và giới thảy
Các
chấp thủ năng sở.
Chư
pháp đều vô ngã
Bình
đẳng như hư không
Tự
tâm vốn chẳng sinh
Do
tánh không vắng lặng.
Như
chư Phật, bồ tát
Phát
tâm đại bồ đề
Con cũng phát tâm đó
Cho
nên chí tâm lễ. (3 lần)
Chân ngôn Phát bồ đề tâm: [32]
Án,
bồ đề tiết đáp, một đát ba, đạt dã nhị.
Nay vì các vị phát tâm bồ đề rồi,
các Phật tử nên biết, tâm bồ đề đó từ tâm đại bi phát khởi, là chánh nhân thành
Phật, là căn bản của trí tuệ, có năng lực phá trừ vô minh phiền não, ác nghiệp,
chẳng bị nhiễm cảnh (lôi kéo) phá hoại.
Kế tiếp vì các vị kết ấn Truyền thọ
tam muội da giới. [33]
Kết
ấn Tam muội da [34], tụng
chân ngôn rằng:
Án, tam ma da tát đỏa noan.
Nay tôi truyền thọ tam muội da giới
cho các vị rồi, từ nay trở đi, các vị vào địa vị của Như lai, là đệ tử chân
thật của Phật, từ pháp hoá sanh, được pháp phần của Phật.
Kế
tiếp kết ấn Vô Lượng Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như lai [35], tụng chân ngôn Thí
thực:
Án, tát rị át, đát tháp cát đạt, a ngoã lô yết đế, noan, bà ra bà ra,
tam bà ra, tam bà ra hồng. (7 lần)
Này
các Phật tử, nay cùng các vị kết ấn chú rồi, biến thức ăn này thành vô lượng
thực, lượng như núi Tu di, lượng đồng với pháp giới, trọn chẳng thể hết.
Lại kết ấn trước mà tụng chân ngôn Nhũ hải:
Na
ma tát man đáp bột tháp nẫm noan.
Này
các Phật tử, nay cùng các vị kết ấn tụng chú rồi, do oai lực gia trì của ấn chú
đây, cùng tưởng nơi thủ ấn lưu xuất vị cam lộ làm thành biển sữa, chảy rưới
pháp giới, khắp giúp các vị và hữu tình sung túc no đủ. [36]
Tụng chân ngôn Chướng thí quỷ: [37]
Án
già hồng, tạt lạt di đảm, tát rị át, bất rị đích tỳ nha sa ha. (7 lần)
Các Phật tử, tuy là
có theo nhóm loại, vật phẩm phải được phân chia theo tình hòa hảo. Việc bố thí của tôi đây hết thảy không có
chướng ngại, bởi vì tôi không có tâm cao thấp, bình đẳng chia khắp, chẳng lựa
oán thân. Hôn nay, các vị chớ nên lấy
giàu khinh nghèo, ỷ mạnh hiếp yếu, ngăn trở kẻ cô, người trẻ, khiến không được
ăn, hoặc chia sẻ không đều. Nương theo
lòng từ tế của Phật, các vị phải thương tưởng giúp đỡ nhau, cũng như cha mẹ
thương nhớ đứa con vậy.
Này
các Phật tử, các vị ai cũng có cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, quyến thuộc, bạn
bè thân quen. Người có sự duyên đến
không được, thì các vị, những người con Phật, hãy mở lòng từ bi thương
nhớ. Mỗi người đều được trao tặng đồ ăn
thức uống, tiền tài, vật phẩm, lần lượt được bố thí sung túc no đủ, không có
thiếu ít, khiến phát đạo tâm, xa hẳn ba đường, vượt qua bốn dòng, nên xả thân
này, mau lên đạo quả.
Lại vì các vị đem
tịnh thực này phân làm ba phần: một là
bố thí cho giống ở dưới nước khiến được nhân không; hai là bố thí cho loài có
lông khiến được pháp tịch; ba là bố thí cho những chúng sanh ở tha phương mà
tình thức còn bẩm thụ, hình hài chưa hình thành, đều khiến sung túc, được vô
sanh nhẫn.
Kế kết ấn Phổ cúng dường, tụng chân ngôn Phổ
cúng dường: [38]
Án
cát cát nạp tam bà át át tư ra giải.
Này
các Phật tử, từ trước đến nay đã thọ những ẩm thực, đều là những thứ bán buôn
sinh mạng của nhân gian như rượu, thịt khô, tiền của, máu thịt tanh tưởi, đồ
cay hôi nồng. Những món ăn thức uống lâu
nay tiếp nhận đó, giống như thuốc độc, tổn hại nơi thân, chỉ tăng gốc khổ, làm
cho trầm luân biển khổ không biết lúc nào giải thoát. Tôi nương vào giáo pháp Như lai mà chí thành
buông xả tất cả, thiết lập pháp hội vô giá rộng lớn này. Các vị ngày hôm nay gặp được thắng thiện giới
phẩm này để thấm nhuần nơi thân, đó là do đời quá khứ các vị đã phụng sự chư
Phật một cách rộng lớn, đã thân cận bạn lành, cúng dường Tam bảo. Do nhân duyên này mà gặp được thiện tri thức,
phát tâm bồ đề, thệ nguyện thành Phật, không cầu quả vị khác. Người đắc đạo trước lần lượt độ thoát (người
sau). Lại nguyện các vị ngày đêm thường
hằng ủng hộ cho tôi mãn thành sở nguyện.
Việc thí thực này có được bao nhiêu công đức đều đem hồi thí khắp cả
pháp giới hữu tình, nguyện cùng chư hữu tình cùng đem tất cả phước báu này hồi
thí đạo quả vô thượng bồ đề, nhất thiết chủng trí, chớ mong quả vị khác, nguyện
mau thành Phật.
Kế tiếp kết ấn Phụng
tống [39],
tụng chân ngôn Kim cang giải thoát:
Án, át tư ra mục. [40]
Thần chú Phật đảnh tôn thắng đà la ni [41]:
Án
phổ long sa ha, án nại ma phát cát át đế, tát rị át đích ra tô kiết ra, điệp ,
nguyệt nhiếp sắt tra da, bột tháp da, đế nại ma, đáp đa tháp, án phổ long, phổ
long, phổ long, tịch tháp da, tịch tháp da, nguyệt tịch tháp da, nguyệt tịch
tháp da, á tát ma tát man, đạt át phát, tát tư phát, ra nạp cát điệp cát cát
nại sa phát, át nguyệt thuyết đề, á phiết thiên tán đa hàm, tát rị át đát tháp
cát, đạt sa cát, đạt át ra át tạt, nạp mỹ rị đạt phiết thích cai, ma ha mạt
đích ra, man đích ra ba đại, a ha ra, a ha ra, ma ma du tản tháp ra niết, tịch
tháp da, tịch tháp da, nguyệt tịch tháp
da, nguyệt tịch tháp da, cát cát nại, sa phát át, nguyệt thuyết đề, ô sắt ni
nhiếp, nguyệt tạt da bát rị thuyết đề, tát ha tư ra ra thích mị tả, tổ điệp
địch, tát rị át đát tháp cát, đạt át lô kiết niết, sa sí ba ra mị đạt bát liệt
bổ, ra niết tát rị át đát tháp, cát đạt ma, đế đáp xá phổ mị bất ra, điệp sắt
tra, địch tát rị át đát tháp cát đạt, hách ra đáp nha, thiết sắt tra nạp, thiết
sắc tra địch, ma đích rị, ma đích rị, ma ha ma đích rị, át tư rị, át tư rị, ma
ha át tư rị, át tư ra, cát da tam ha đát nạp, bát liệt thuyết đề, tát rị át
cát, rị át cát rị ma, át ra nạp nguyệt thuyết đề, bất la điệp ni át rị đát, da
ma, ma du rị, nguyệt thuyết đề tát rị át, đát tháp cát đạt, tát ma nha, thiết
sắt tra nạp, thiết sắc tra địch, án ma ni ma ni, ma ha ma ni, nguyệt ma ni,
nguyệt ma ni, ma ha nguyệt ma ni, ma điệp ma điệp, ma ha ma điệp, ma ma điệp,
sa ma điệp, đát tháp đạt phổ đát, cô trạch bát liệt thuyết đề, hề hề, tạt da
tạt da, nguyệt tạt da, nguyệt tạt da, tư
ma ra, tư ma ra, tư phát ra, tư phát ra, tư phát ra, da tư phát ra, da tát rị
át bột tháp, thiết sắc tra nạp, thiết sắc tra địch, thyết địch thuyết đề,
thuyết đề, bột đề, bột đề, át tư rị, át tư rị, ma ha át tư rị, sa át tư rị, át
tư rị, cát rị tỳ, tạt da cát rị tỳ, nguyệt tạt da cát rị tỳ, át tư ra tá lạt cát rị tỳ, át tốt lỗ thắc
phát vi, át tư ra tham phát vi, át tư rị, át tức rị niết, át tư lãm, phát át đa
ma ma, nhiếp rị lãm, tát rị át, tát nỏa nẫm, tạt cát da, bát liệt thuyết thiết,
phát át đa tát đỏa, di tát rị át, đạt tát rị át, cát đa bát rị thuyết đề, thật
triết tát rị át, đáp tháp cát đạt thật triết hàm, tát ma loát tát nhan, đa bột
thiết bột, thiết bệ thiết bệ, thiết phổ tháp, da phổ tháp, da nguyệt phổ tháp,
da nguyệt phổ tháp, da mô tạt, da mô tạt, da nguyệt mô tạt, da nguyệt mô tạt,
da tịch tháp, da tịch tháp, da nguyệt tịch tháp, da nguyệt tịch tháp, da tát
man đạt mô tạt, da mô tạt, da tát man đát ra thích mê, bát liệt thuyết đề tát
rị át, đát tháp cát đạt, hách ra đáp nha, thiết sắc tra nạp, thiết sắc tra
địch, ma đặc rị, ma đặc rị, ma ha ma đặc rị, ma ha ma đặc ra, man đích ra, ba đế,
sa ha.
Kệ Lục thú:
Các hữu tình đang
chịu khổ nơi đường địa ngục, nương lợi lành đây mà núi đao rừng kiếm biến thành
cội cây như ý, hòn sắt vòng lửa biến thành hoa sen bằng ngọc báu kiết tường,
giải thoát khổ báo địa ngục để rồi thành chánh giác.
Các hữu tình đang
chịu khổ nơi đường ngạ qủy, nương lợi lành đây mà quả báo trong miệng lửa cháy
đốt thân trở nên tươi mát như giọt cam lộ trong tay bồ tát Quán Thế Âm, tự
nhiên no đủ hoài và được an lành, giải thoát khổ báo ngạ quỷ để rồi thành chánh
giác.
Các hữu tình đang
chịu khổ nơi đường súc sinh, nương lợi lành đây mà những quả báo khổ đau vì bị
giết hại, nướng nấu, hành hạ, kéo cưỡi, ngu si … thảy đều xa lìa, chóng được
trí tuệ lớn cùng an lành, giải thoát khổ báo súc sinh để rồi thành chánh giác.
Các hữu tình đang
chịu khổ nơi nhân gian, nương lợi lành đây mà mong sao khi sinh ra thì như sự
giáng sinh của thái tử Tất Đạt Đa từ hông bên phải của Ma Gia phu nhân, nguyện
cho đầy đủ sáu căn, rời xa tám nạn, tu phước, tu tuệ cùng được an lành, giải thoát
khổ báo nhân gian để rồi thành chánh giác.
Các hữu tình đang
chịu khổ nơi đường tu la, nương lợi lành đây mà khổ báo ngã mạn, điên cuồng, ác
độc, ganh ghét, sân hận, hiếu chiến tự nhiên điều phục thành ra khiêm tốn, thật
thà, mềm mỏng, hiền hậu, được an lành, giải thoát khổ báo tu la để rồi thành
chánh giác.
Các hữu tình đang
hưởng vui ở trên cõi trời, nương lợi lành đây mà xem dục lạc như sự thúc đẩy
mau phát tâm bồ đề rộng lớn, không còn chịu những ưu não vi tế, tự nhiên sinh
tâm hoan duyệt, được an lành, giải thoát quả báo ở trên cõi trời để rồi thành
chánh giác.
Các bậc độc giác,
thanh văn trong mười phương, nương lợi lành đây mà từ bỏ tư tưởng tiểu thừa về
bốn đế, mười hai nhân duyên để xu hướng đại thừa, tu bốn nhiếp pháp, sáu độ vạn
hạnh, an lạc, giải thoát kiến chấp nhị thừa, được an lành, giải thoát để rồi
thành chánh giác.
Các bậc dũng thức
bồ tát ở địa thứ nhất, nương lợi lành đây mà lấy trăm phước trang nghiêm, viên
mãn tất cả hạnh nguyện, đốn siêu thập địa, chứng nhập địa vị nhất sinh bổ xứ
thù thắng, tam thừa mau chứng, cứu cánh thành chánh giác.
Kệ Phát nguyện hồi hướng:
Con
nguyện trong đời hiện tại và khoảng thời gian chưa chứng đạo bồ đề không gặp
những chướng nạn, ác duyên từ nội tâm hay ngoại cảnh, thường nghe Phật pháp, hằng
gặp thiện hữu, khéo làm việc lành, hạnh nguyện thành tựu.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện đến lúc
lâm chung, thức tánh không bị mê hoặc, vãng sinh Tây phương tịnh độ, diện kiến
Phật A Di Đà, nương nơi mặt trời trí tuệ và hào quang vô lượng của ngài, văn tư
tu chánh pháp, đoạn hoặc chứng chân, thương nghĩ về chúng sinh (vẫn còn đang
chịu khổ).
Con nguyện thường
gieo trồng, huân tập thiện căn không gián đoạn, cho dù là được sinh về các tịnh
độ của chư Phật nhờ tịnh nghiệp, hoặc không được sinh về cảnh giới của các bậc
thánh vì thiếu thiện căn, hoặc là theo nghiệp dẫn luân hồi đi trong sáu nẻo.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện đời đời
sinh vào những nơi có Phật pháp lưu hành để có cơ hội tu tập chánh pháp, không
bịnh, sống lâu, thọ dụng đầy đủ, tướng tốt đặc thù, trí tuệ biện tài, đủ bảy
công đức, được thân trượng phu.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện kiếp sau
đồng chân xuất gia, gặp được bậc thầy hiền thánh, gìn giữ ba món tu học là
giới, định và tuệ, trong tất cả thời vững chãi chánh niệm và chánh định, phụng
thờ các bậc thầy vĩ đại một cách hoan hỷ.
Tam
bảo tối thượng.
Con nguyện có được
bảy món thắng tài và bậc thiện tri thức tuyệt diệu, giống như mặt trời và ánh
sáng không thể tách rời dù chỉ sát na, lại nguyện con xả ly ngã mạn, nghi hoặc,
ác duyên cùng những độc tố tàn phá thân tâm, ít muốn biết đủ.
Tam
bảo tối thượng.
Con nguyện về
nương, cúng dường Tam bảo, là nhân bản nguyện và quả công đức, để cho ba độc:
tham dục, sân hận và ngu si dần dần tiêu trừ, học hạnh tiếp nhận tất cả như đại
địa tiếp nhận tất cả.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện quán
chiếu ảnh tượng sáu trần là như bóng nắng, huyễn hoá, hiểu rõ tự tánh năm dục
vốn không ô nhiễm, con lại nguyện thường không quên mất tâm bồ đề.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện tu học
tất cả giáo nghĩa đại thừa thậm thâm vi diệu, tinh tấn hành trì như lửa cháy
đầu, lại nguyện sau khi chứng được bồ đề rốt ráo không có gì trên, con nguyện
đem tứ nhiếp pháp để cứu độ sáu đường.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện học theo
hạnh nguyện đại bi của bồ tát Quán Thế Âm cứu độ tất cả chúng sinh trong đời ác
năm trược, cũng muốn học theo hoằng nguyện cứu khổ của bồ tát Địa Tạng trong
thời mạt pháp, lại nguyện tất cả hiền thánh, thiện thần hộ pháp chứng minh hộ
niệm làm cho Phật pháp trường tồn.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện chư thần
hộ quốc, chư thần hộ pháp, chư thần ở trong tháp miếu, bằng uy đức và chức
nghiệp của mình mà vây quanh bảo vệ đại kết giới, không cho các ma oán, ngoại
đạo, kẻ ác thừa dịp xâm hại, các loài rồng, quỷ, yêu tinh thảy đều hoảng sợ.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện tam tai,
ngũ trược đều được tiêu trừ, thất nạn, bát bố một niệm sạch không, lương thực
dồi dào, vạn vật xum xuê, bảy báu sung túc, năm vị đủ đầy.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện hiến
cúng tứ sự cúng dường khiến cho thọ dụng không thiếu thốn, tu tám phước điền,
an lạc thảnh thơi, lại nguyện mọi nơi việc Phật trang nghiêm, khắp chốn xe pháp
xoay hoài, mong sao tất cả hữu tình phước tuệ song tu, tăng trưởng viên mãn.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện vận dụng
sức thiện căn duyên khởi pháp tánh, nương nhờ sức nhiếp thọ của đức bổn tôn
thượng sư, sức oai thần của Tam bảo chân đế và mật chú, khi đã phát nguyện thì
hạnh nguyện mau thành tựu.
Tam bảo tối thượng.
Con nguyện đem tất
cả công đức có được hồi hướng cho tất cả chúng sinh cùng đạt đến nền tảng của
sự toàn hảo tối sơ, quán chiếu các pháp như huyễn hoá, mộng cảnh nên lý thể của
sự bố thí tam luân thảy đều không tịch.
Tam bảo tối thượng.
Kệ Kiết tường:
Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Đêm
ngày sáu thời thường an lành
Tất
cả các thời đều an lành
Xin
đức Thượng sư thương nhiếp thọ.
Nguyện
ngày an lành, đêm an lành
Đêm
ngày sáu thời thường an lành
Tất
cả các thời đều an lành
Xin
ngôi Tam bảo thương nhiếp thọ.
Nguyện
ngày an lành, đêm an lành
Đêm
ngày sáu thời thường an lành
Tất
cả các thời đều an lành
Xin
chư hộ pháp thường ủng hộ.
Nam
mô Tây phương Vô Lượng Thọ Như lai, cùng chư đại bồ tát, thánh chúng trong hải
hội liên trì.
Duy
nguyện, khắp cả pháp giới, tội lỗi của kẻ còn người mất thảy đều tiêu trừ, cùng
sinh tịnh độ.
Chú Bách tự Kim cang tát đoả:
Án
át tư ra tát đoả, tô tát ma da, ma nạp ba lạt da, át tư ra tát đoả, đế nô bát
đế sắt tráp, đắc rị sừ di phát ngoã, tô độ thúc di phát ngoã, a nô ra ngật đô,
di phát ngoã, tô bố thúc di phát ngoã, tát rị ngoã ta đề, di bất ra da sát, tát
rị át, cát rị ma, tô tạt di, mục đạt thích rị dương quách lỗ, hồng, ha ha ha ha
hộc, phát cát loan tát rị ngoã, đát tháp
cát đạt, át tư ra ma di môn tạt, át tư ra phát ngoã, ma ha tát ma da, tát đoả
a.
(Chú này có công đức vô lượng để cầu
xin bổ khuyết khi tụng đọc chư kinh mà tán tâm, lại trong danh cú theo tông mà
hồi chuyển, người tụng phải biết đó.)
Du Già Tập Yếu Diệm
Khẩu Thí Thực Nghi đến đây là hết.
(Phụ lục)
Văn Thập loại cô
hồn:
Nam
mô mười phương ba đời cùng tận hư không giới, thường trụ Phật pháp tăng Tam
bảo, bổn tôn Thượng sư, Mãng mẫu minh vương, hộ pháp thiện thần thế gian và
xuất thế gian, từ bi rộng lớn, thệ nguyện thâm sâu, uy lực khó lường, thấy hết
biết hết, nguyện tác chứng minh, xót thương hộ niệm.
Diêm la thiên tử ở
các địa ngục trong pháp giới, 18 ngục đế, 30 đại vương, 33 vương, 36 vương, 18
ngục chủ, a bàng đầu trâu, la sát mặt ngựa, Chủ Mạng quỷ vương, Vô Độc quỷ
vương, 9 ngôi 24 ty trợ vương, tiểu quan cai quản các bộ, thủ lãnh cầm gậy,
chúa tịnh, chúa nước, chúa sắt, chúa đất, chúa lửa, đồng tử thiện ác, tất cả
công tào ngục sứ, tất cả dạ xoa cởi ngựa cầm thương, sứ giả kiểm sát trên đất,
đế thích, tứ thiên vương, thái tử cùng chư tướng, 8 vương trong 6 ngày trai, 32
nhẫn quan, đại vương 4 nhẫn, đại thần 5 đường, lại cùng 10 loại cô hồn, đó là:
Một là, chúng cô
hồn quan viên, tướng sĩ, binh lính trong cả pháp giới vì nước quên thân, ra sức
hết lòng chiến đấu giữ gìn biên cương bờ cõi.
Hai là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn oan gia trái chủ vì thiếu nợ đền mạng, cô hồn truỵ thai
vì tình thức hệ thuộc sinh sản mà chết.
Ba là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn khinh bạc Tam bảo, bất hiếu cha mẹ, làm điều thập ác,
ngũ nghịch, tà kiến.
Bốn là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn đi tìm châu báu, buôn bán hải hồ, qua sông sâu chết chìm
chết đắm, vượt biển lớn thuyền lật thuyền tan.
Năm là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn mọi rợ man di sống chết nơi biên địa, tà kiến.
Sáu là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn phiêu lãng không nơi gởi thác do giã từ quê hương, lưu
lạc chết nơi tha hương.
Bảy là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn hoạnh tử vì thú nhai, trùng cắn, núi lở, cây rơi, tường
sập, nhà đổ, trầm mình, lửa đốt, thắt cổ, dao đâm, té sông, rớt giếng.
Tám là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn phạm pháp chết trong ngục tù, tử hình phân thây, bởi ức
hiếp hàm oan, cướp của giết người, chẳng tuân luật pháp.
Chín là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn số mạng bần tiện làm nô tỳ phục dịch, lao lực nhọc nhằn.
Mười là, trong cả
pháp giới chúng cô hồn không vợ không
con, không ai nương tựa, chết khổ đau vì đui điếc câm ngọng, tay chân cùi lở,
bịnh tật triền miên, ung thư tàn hại.
Lại trong khắp cả
pháp giới, quỷ vương Diện Nhiên thống lãnh bệ lệ bộ đa, trăm ức hà sa ngạ qủy,
trần sa chủng loại trong nhân gian mà mắt không thấy, tai chẳng nghe, hữu danh,
vô danh, nương nơi cây cỏ, dựa nơi thành thềm, hồn thức hàm oan, tinh linh phẩm
vật, tự tàn tự diệt, quân trận mất thân, không nơi gởi thác, di hài phơi bày, hồn
thiếu cúng tế, ly mị vọng lượng, trệ phách u hồn, các chúng linh thiêng.
Lại có quỷ đại lực,
quỷ yêu mị, quỷ não nhân, quỷ nội chướng, quỷ ngoại chướng, quỷ vô ngại. Lại có 9 loại, 10 loại, 36 loại quỷ chúng.
Duy
nguyện, nhờ sức Tam bảo Phật pháp tăng, sức duyên khởi pháp giới, sức đại bi
Quán Âm, sức thâm nguyện Địa Tạng, sức công đức quán chiếu, sức gia trì ấn chú
bí mật, sức xưng danh 7 vị Như lai, sức thiện căn tụng kinh pháp hội, nay xin
triệu thỉnh pháp giới chủng loại cô hồn ngạ quỷ, tất cả quyến thuộc, thảy đều
vân tập. Xin biến tất cả món ăn thức
uống khắp đầy hư không, trùm cả pháp giới, tất cả non cao đất rộng chảy ra dòng
nước mát trong, bao nhiêu sông hồ xanh biếc biến thành biển sữa mênh mông, 12
loài được pháp thực no đủ, 25 cõi vui đủ tròn đầy, ba nghiệp lắng soi, sáu căn
thanh tịnh, thân tâm nhẹ nhàng, tươi mát an vui, phước thêm trí sáng, cầu được
nguyện thoả, quy y Tam bảo, phát tâm bồ đề, tu hạnh bồ tát, thành tựu quả Phật.
Đại chúng cùng hoà: Tuỳ
nguyện mà thành.
Bởi
vì, minh quan đường xa mờ mịt, biển khổ sóng vỗ dập dồn, nếu chẳng nhờ công lực
của mật chú thì làm sao cúng hiến phách hồn trầm luân. Vì vậy, đặc biệt thiết lập pháp diên, thỉnh
mời tăng chúng tụng đọc chân ngôn bí mật, gia trì pháp thực nhiệm mầu, bao
nhiêu lợi ích thù thắng như vậy đều bố thí khắp cả vô biên.
Phục
nguyện: Nước đồng sôi sục biến thành ao
sen tám đức, lò than cháy bỏng hoá ra đài hương sáu màu, cây kiếm dày đặc làm
thành ba hội Long Hoa, núi đao hiểm nguy làm ra năm trời Thứu lãnh, nước đồng
trụ hoá pháp tràng cam lộ, cối sắt hoàn sắt thành bảo tọa ma ni, ngục tốt ngưu
đầu giữ tam thiện chứng được ba thân, trái chủ oan gia cởi thập triền thoát ra
thập ác, cha mẹ nhiều đời từ đây nhập thánh siêu phàm, tất cả chúng sinh từ đây
có được an lạc, bạn đạo tu tập tuỳ hỷ đàn na, ngộ bổn tánh Di Đà, rõ duy tâm
tịnh độ, khắp đồng pháp giới, tất cả chúng sinh, nhờ duyên lành này trọn thành
Phật đạo.
Tán Tam quy y:
Chí tâm tín lễ Phật
đà da, bậc lưỡng túc, tròn ba giác, đủ muôn đức, người trời thầy điều ngự, già
hồng, phàm Thánh đấng cha lành. Từ chân
giới, ứng giáng thần, thương hoá khắp, thời gian dọc ba đời, không gian ngang
mười phương. Nổi pháp lôi, gióng pháp
cổ, rộng nói pháp quyền thực, già hồng, mở lớn đường phương tiện. Nếu quy y tiêu diệt được, tiêu diệt được khổ
địa ngục.
Chí tâm tín lễ Đạt
ma da, pháp ly dục, cất bảo tạng, chứa ngọc hàm, kết tập nơi Tây vực, già hồng, phiên dịch truyền Đông
độ. Tổ sư hoằng, hiền triết giải, thành chương sớ, ba thừa phân đốn tiệm, năm
giáo định tông thú. Qủy thần vâng, long
thiên giúp, mê ngộ tay chỉ trăng, già hồng, trừ nóng cam lộ thật. Nếu quy y tiêu diệt được, tiêu diệt được khổ
ngạ quỷ.
Chí tâm tín lễ Tăng già da, bậc tôn kính, thầy
năm đức, chúng sáu hoà, lợi sanh làm sự nghiệp, già hồng, hoằng pháp là việc
nhà. Lánh phồn hoa, thường thiền toạ,
chốn lặng lẽ, che thân mặc áo nạp, lấp bụng ăn rau dưa. Bát thâu rồng, gậy can cọp, đèn pháp thường
soi chiếu, già hồng, ấn Tổ trao truyền nhau.
Nếu quy y tiêu diệt được, tiêu diệt được khổ bàng sanh.
Phật đản 2553
09.05.2009
[1]
Bạch ba lần rồi, dùng ngón áp út bàn tay phải nhúng vào nước thơm, hai bàn tay
xoa nhau, biểu ý kính ngưỡng. Không
phải đàn tràng thì có thể lược bỏ, hoặc có thể làm thêm chân ngôn trong kinh Bất Không Quyến
Tác. Khi xoa nước thơm trong lòng bàn
tay, niệm chân ngôn Làm sạch bàn tay (Tịnh thủ).
[2] Ấn
chú này, Cam Lộ Quân Đồ Lợi Bồ Tát Niệm Tụng Nghi ghi rằng: Hai lòng bàn tay xoa nhau, hai ngón trỏ thẳng
hướng, đâu nhau, hai ngón giữa tiếp giáp đầu hai ngón trỏ, các ngón áp út và
ngón út giao nhau ở lóng thứ nhất, hai ngón cái cùng chỉa thẳng. Kết ấn ngang tim, tụng chú trên. Tạp Chú Kinh ghi, tụng đà la ni này 3 biến
hay 7 biến, ngay lúc ấy thể nhập tất cả mạn đà la, việc làm đều hoàn
thành. A Súc Như Lai Niệm Tụng Pháp
chép, kết ấn ngang tim, tụng từ 1 đến 7 biến chân ngôn này thì như là tái nhập
đàn luân, được Thất niệm phá tam muội, được thân khẩu luật nghi của bồ tát và
thanh văn, các tội chướng như tứ trọng (sát, đạo, dâm, vọng), ngũ vô gián, v.v…
thảy đều được thanh tịnh.
[3]
Phải khiết tịnh thân tâm, khẩn cầu tha thiết qui y Tam bảo,
[4]
Theo Kiến Đàn Nghi ghi, nếu không có đàn Phật, phải kết ấn Chuyển Pháp Luân Bồ
Tát rồi mới phát bồ đề tâm. Ấn hiện đàn
nghi: Thiên Thủ Nhãn Tu Hành Nghi ghi rằng, hai
tay bắt ấn Kim cang quyền, hai ngón trỏ tiếp nhau, hai ngón út câu nhau, chuyển
vận thành liên hoa thủ ấn. Đem thủ ấn
kết trước thân, thì đàn tràng biến thành đại mạn đồ la trùm khắp hư không giới,
quán tưởng khắp hư không giới, Ngũ bộ chủ khách thị hiện rõ ràng. Việc này trong văn Kiến Đàn Thỉnh Thánh có
ghi. Sau khi cử tụng danh hiệu 35 đức
Phật, Bát nhã tâm kinh, thất chi gia hạnh (Phổ HIền hạnh nguyện), thầy thủ tọa
qùi xuống bạch Phật bài Khải cáo thập phương.
[5] Tô
Tất Địa Yết La Cúng Dường Pháp, quyển hạ, có ghi, vận tâm cúng dường là quán tưởng
trong khắp cảnh giới thủy lục có bao nhiêu tinh hoa không thuộc về ai, trong
khắp mười phương tận hư không giới, bao gồm vật báu cõi người, hương vân cõi
trời, hương đốt, đèn sáng, tràng phan, bảo cái, các loại kỹ nhạc, ca múa, xướng
ngâm, châu ngọc treo nơi lưới báu, các linh báu, màn hoa, bạch phất, chuông
khánh vi diệu, lưới căng yết ni, cây báu như ý, đám mây y phục, món ngon thượng
diệu bếp trời, hương thơm, lầu các thềm ngọc trang nghiêm, các loại trang sức
cõi trời, chuỗi anh lạc v.v.. Hành giả vận tâm quán tưởng các đám mây cúng phẩm
như vậy đầy dẫy hư không, chí thành dâng lên cúng dường một cách thù thắng và
mầu nhiệm. Đúng như pháp tụng chân ngôn
này và làm thủ ấn, quán tưởng cúng dường như trên thảy đều thành tựu. Thủ ấn tướng của chân ngôn này là chắp tay,
các ngón giao nhau, ngón cái bàn tay phài đè lên ngón cái bàn tay trái, đưa thủ
ấn lên trên đỉnh đầu. Hễ làm sự cúng
dường thì phải làm đủ pháp vận tâm này, nhất là trong đàn tràng Du già thì còn
phải tụng chân ngôn và kết thủ ấn. Trì tụng chân ngôn, vận tâm quán tưởng, chắp
tay để trên đỉnh đầu, mới gọi là viên mãn pháp vận tâm cúng dường.
[6]
Phụng hiến Tam bảo thí thực là trước kết ấn Tam tiêm (ba mũi nhọn): bàn tay
phải, ba ngón trỏ, giữa và áp út khép sát nhau, hướng thẳng lên, ngón cái và
ngón út đâu nhau; bàn tay trái xếp bằng, ngữa lên. Tụng chân ngôn 3 hay 7 biến, quán tưởng ba
đầu ngón tay phát ra ánh sáng lửa lớn, bàn tay chuyển động như quạt thổi thế giới chư qủy.
[7]
Quán tưởng đồ đựng thức ăn đều trống rỗng.
Ở nơi không xứ mà quán tưởng đồ đựng thức ăn lớn và qúi chứa đầy cam lộ.
[8]
Nhiếp thọ thành trí cam lộ.
[9]
Kết ấn Phụng thực: ngữa hai lòng bàn
tay, chạm nhau mặt bên, hướng ra trước, hai đầu ngón áp út chạm mặt bên, hai
ngón trỏ tiếp giáp bên hai ngón giữa, hai ngón cái tiếp giáp bên hai ngón trỏ,
như dáng dùng tay bụm nước. Quán tưởng
chư Phật và Thánh chúng thọ dụng hiến thực này tâm sanh hoan hỷ, cầu mong
nguyện sự đều được hứa nhận, hoặc rộng nghinh tiếp chư Thánh nhập đàn, đích thân
cúng dường, tán thán (chư Phật và Thánh chúng) rồi sau mới thí thực. Cúng dường là đem hương, hoa, đăng, đồ, quả,
nhạc mà hiến cúng.
[10]
Nhập Quán Âm định là nhập Quán
Tự Tại Bồ Tát Tam ma địa. Lắng lòng khép
mắt quán tưởng tự thân tròn đầy và thuần khiết như vầng trăng tịch lặng. Chính giữa vầng trăng ấy có tự chủng Hộc rị
phóng ra ánh sáng lớn, biến thành hoa sen tám cánh, trên đài hoa ấy có đức Quán
Tự Tại Bồ Tát, tướng hảo ngời sáng, khiết bạch, tay trái cầm cành hoa sen, tay
phải làm dáng cánh sen nở. Đức Bồ Tát trầm
tư, soi chiếu thấy rằng trong thân của tất cả hữu tình đều có sẵn đủ năng tánh của
sự giác ngộ, đó là pháp giới thanh tịnh, là Phật tánh không có nhiễm ô phiền
não. Ở trên tám cánh hoa sen đều có một
đức Như Lai ngồi kiết già nhập định, mặt hướng về Bồ Tát Quán Tự Tại với vầng
hào quang tỏa sáng mát dịu, toàn thân ngời sáng hoàng kim, quán tưởng hoa sen tám cánh này lớn dần ra, dung lượng biến
khắp hư không giới, tư duy rằng hoa sen tuệ giác này chiếu khắp hải hội chư Như
Lai, nguyện thành tựu sự cúng dường rộng lớn.
Nếu tâm chẳng rời thiền định này thì đối với vô biên hữu tình mà khởi
lên lòng bi mẫn sâu xa. Nguyện cho những
ai được ánh sáng của hoa tuệ giác này chạm đến thân thể thì giải thoát mọi khổ
não, đồng đẳng tướng hảo của Bồ Tát Quán Tự Tại. Rồi quán tưởng hoa ấy thâu nhỏ dần, dung lượng
bằng thân người, liền kết ấn Quán Tự Tại Bồ Tát, gia trì nơi bốn chỗ: đỉnh đầu,
miệng, yết hầu và tim, nơi mỗi ấn xứ như vậy đều quán thành chủng tử Hộc rị. Ấn tướng là hai ngón cái tựa thẳng
nhau, hai ngón trỏ chạm đầu cong hình cánh sen, các ngón còn lại tréo
nhau. Do kết ấn này, tụng chân ngôn, gia
trì bốn chỗ mà tự thân chuyển hiện thành hóa thân của Bồ Tát Quán Tự Tại.
[11]
Hai tay kết Kim cang quyền, hai
ngón trỏ chạm đầu, hai ngón út móc vào nhau, ba lần tụng (Do thử ấn chú), ba lần
chế khai (Hoát nhiên tự khai). Ấn chú
Phá địa ngục trích từ Kinh Phá A Tỳ Địa Ngục Trí Cừ Đà La Ni. Sách Diệt Ác Thú Vương Bản Tục cũng có nói về
ấn chú ấy. Từ thủ ấn này phóng xuất hỏa
quang, miệng tụng thần chú, từ miệng phun ra vô lượng hỏa quang, quán tưởng chữ Hộc rị màu hồng ngay trên tâm của vầng trăng, chữ
ấy phóng ra hỏa quang màu đỏ. Ba nguồn hỏa
quang đồng thời chiếu đến địa ngục A Tỳ v.v…
Ba lần tụng, ba lần chế khai thì các khóa ngục tự mở, tội nhân trong ấy
được giải thoát. A Tỳ địa ngục có nghĩa
là không ngăn dứt, không cứu vớt được, không phá vỡ được, tuy vậy khi hỏa quang
chiếu đến không chỉ địa ngục A Tỳ có thể bị phá vỡ mà cả địa ngục trong ngũ thú
cũng được khai mở. Đó là do sự chuyên
chú của tâm ý, và cũng là do sức oai thần của ấn chú này: Bao nhiêu cửa nẻo địa ngục các đường, do ấn
chú này bỗng nhiên tự mở.
[12]
Bàn tay trái làm tướng vô úy, bàn tay phải hướng ra trước, các ngón thẳng đứng
trừ ngón trỏ hơi cong như làm sự mời thỉnh.
Ấn và chú Triệu thỉnh nga qủi này lấy từ Diệm Xí Ngạ Qủy Mẫu Bản Tục. Tự thân quán tưởng Bồ Tát Quán Tự Tại, tưởng
chính giữa vầng trăng có tự ấn và tự mẫu Hộc rị màu hồng phóng ra ánh sáng
chiếu vào các tội nhân, miệng tụng thần chú thì các tội nhân kia nương theo ánh
sáng mà đi đến trước mặt vị hành giả.
[13]
Đã đến đạo tràng, nhiễu Phật ba vòng, gieo thân bày lễ cho đến làm sự hồi hướng
rồi, lại quay ra làm lễ chư Thánh chúng, lui ngồi một bên. Trong đàn tràng, từ đông môn đến nam môn là
chỗ ngồi của chúng địa ngục, từ nam môn đến góc tây nam là chỗ ngồi của chúng
ngạ qủy, từ góc tây nam đến tây môn là chỗ ngồi của nẻo súc sanh, từ tây môn
đến góc tây bắc là cung thất của cõi người, từ góc tây bắc đến bắc môn là chỗ
ngồi của Tu la, từ bắc môn đi đến đông môn là cư vị của chư thiên. Nếu không có đàn thất thì xếp theo thứ tự
thắng liệt từ trên tính xuống mà phân định chỗ ngồi. Mỗi khu vực chỗ ngồi có màu sắc để làm dấu,
như sách Khai Hợp Lục có ghi.
[14]
Hai tay ấn kim cang rồi đan kết
lại với nhau, (bằng cách hai ngón út và hai ngón áp út giao nhau), hai ngón giữa
thẳng đứng như kim, hai ngón trỏ cong như móc câu. Ấn và chú Triệu tội xuất từ kinh Câu Tội: Tự thân quán thành Bồ Tát Quán Tự Tại, tưởng
ngay giữa vầng trăng có chủng tự Hộc rị màu trắng phóng ra hỏa quang hình móc
câu, miệng tụng, tâm vin theo mật ngôn, câu nhiếp ba ác thú nghiệp của tất cả hữu
tình và cả ba ác thú nghiệp của tự thân.
Màu đen như mây mù, các tội chiêu vào lòng bàn tay biến thành hình tướng
ngạ qủi. Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm
Tụng Pháp có ghi: Ở ngay đầu hai ngón trỏ
quán tưởng có chủng tự Hộc rị, để câu kéo bao nhiêu tội chướng có trong thân của
mình và người. Tụng mật ngữ rồi, tưởng
hình dáng của tội chướng kia như con qủi thân sắc đen, tóc dựng đứng. Thủ ấn là hai bàn tay với các ngón tay ngang
bằng, tưởng câu kéo vào trong lòng hai tay, chỉ để hai ngón trỏ hình móc câu,
tưởng tọi chướng kia đi vào lòng hai bàn tay.
[15]
Tồi tội = diệt
tội. Tám ngón tréo nhau vào trong, hai ngón giữa dựng đứng. Ấn chú Tồi tội xuất từ Kinh Câu Tội: quán tưởng
tự thân là Quán Thế Âm Bồ Tát thân màu xanh, có tám tay, bốn mặt. Khuôn mặt phía trước màu xanh, khuôn mặt bên
phải màu vàng, khuôn mặt bên trái màu xanh lục, khuôn mặt đàng sau màu hồng. Hai tay chánh kết ấn Tồi tội. Bên phải, tay thứ hai cầm xử, tay thứ ba cầm
mũi tên, tay thứ tư cầm kiếm. Bên trái,
tay thứ hai cầm móc câu, tay thứ ba cầm cung, tay thứ tư cầm dãi lụa. Thân ngài phóng hỏa quang, ngồi trên hoa sen
nơi Nhật luân, chân phải đạp lên mình Ô Ma Phi (là một tôn vị thuộc ngoại viện
Kim cang bộ, vợ của trời Ma Hê Thủ La, mẹ của dạ xoa Tỳ Na) trong dáng sợ
hãi. Quán tưởng như vậy xong, tưởng ngay
giữa vầng trăng có chủng tự Hộc rị màu xanh phóng ra ánh sáng chiếu vào hình tướng
tương ưng của tội nghiệp. Hai ngón giữa
nhịp vào nhau ba lần để đập tan những hình thái tội chướng, niệm tụng mật ngôn,
tội tướng thảy đều bị đập nát khiến tiêu diệt không còn sót. Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Tụng Pháp có
ghi: Ở ngay đầu ngón giữa bàn tay phải
quán tưởng có chủng tự Đáp rị, ngay đầu ngón giữa bàn tay trái quán tưởng có chủng
tự Tra, lại tưởng phía trên hai chủng tự phóng ra ngọn lửa, kẹp giữ tội tướng
kia, tụng chú Tồi tội. Tụng mật ngữ
xong, dùng sức vặn vẹo tội tướng kia, như pháp búng tay, trái trên, phải dưới. Theo kinh Kim Cang Đảnh: thân làm ấn Hàng tam thế, quán tưởng độc cổ xử
(chày độc cổ: một pháp khí trong Mật giáo, hai đầu chày đều có một mũi nhọn, biểu thị cho tâm bồ đề phá trừ phiền não), lớn
tiếng niệm chân ngôn, hai ngón giữa nhịp vào nhau ba lần. Cũng trong kinh này phân biệt về nghiệp báo
có hai thứ (thiện, ác), trong ấy lại có chia ra hai thứ nữa là hiện hành thành
tựu và chủng tử thành tựu, trong hiện hành nghiệp lại có hai là định nghiệp và
bất định nghiệp. Thủ ấn Tồi tội này để hủy
diệt bất định nghiệp vậy.
[16]
Hai tay kim cang chưởng, hai
ngón trỏ cong hai lóng, hai ngón cái chạm vào đầu hai ngón trỏ, các ngón còn lại
đan xen lóng đầu. Ấn chú này xuất từ Bất
Động Bản Tục, có mười hai loại mà chư Phật chẳng thông với ấn sám hối định nghiệp. Tay kết ấn định nghiệp, tự thân tưởng quán Bồ
tát Quán Tự Tại, tâm tưởng trên vầng trăng có chủng tự Hộc rị màu xanh phóng
ánh sáng, miệng tụng, tâm tưởng mật ngôn chiếu vào chư qủi. Những nghiệp mà chư Phật chẳng thông sám hối
cùng với nghiệp ba ác thú của tự thân thì nhờ ấn chú này mà chuyển nặng thành
nhẹ. Nghiệp nặng là định nghiệp. Chuyển nặng thành nhẹ là chuyển diệt những
nghiệp quyết định thô trọng vậy. Hai thủ
ấn Tồi tội và Định nghiệp để tịnh hóa những nghiệp hiện hành thành tựu. Ấn chú Sám hối diệt tội để đoạn trừ những
nghiệp chủng tử thành tựu.
[17]
Hai nắm tay Kim cang, hai ngón trỏ cong hai lóng, hai ngón cái tiếp xúc hai đầu
hai ngón trỏ. Diệt Ác Thú Vương Bản Tục
có ghi, từ nơi tâm của vầng trăng tưởng chủng tự Hộc rị màu trắng phóng ánh
sáng chiếu khắp pháp giới tất cả hữu tình và làm cho những nghiệp nhẹ thảy đều
tiêu diệt. Ấn chú này để tiêu diệt những
nghiệp chủng tử nhỏ nhẹ
[18]
Trên kia đã triệu thỉnh, thông diệt tội chướng rồi, sau đây là rưới cam lộ để
khai mở yết hầu cùng với gia trì trừ báo chướng.
[19]
Cũng gọi là ấn Thí thanh lương:
bàn tay trái chuyển cổ tay hướng ra trước, tay phải ngón trỏ búng ngón cái ra
tiếng. Khi tụng chân ngôn này, tưởng
trên ngón giữa bàn tay trái có một chủng tự Noan lưu xuất nước pháp cam lộ bát
nhã, búng rảy vào không trung thì tất cả ngạ qủi, dị loại qủi thần đều được mát
mẻ, lửa dữ tự mất, ruộng thân thấm ướt, lìa tưởng đói khát. Ấn chú này xuất từ Nguyệt Mật Minh Điểm Bản Tục
và Tu Lỗ Ba Bản Tục: Tự thân quán tưởng
Bồ Tát Quán Tự Tại, trên giữa vầng trăng tưởng chủng tự Hộc rị màu trắng xuất
ánh sáng chiếu đến chư qủi thần, và trên ngón giữa bàn tay phải có một vầng
trăng, trên đó tưởng chữ Noan lưu xuất nước cam lộ trí bát nhã, ngón trỏ búng ngón cái, rảy vào không trung tạo
thành một trận mưa phùn rơi xuống thấm ướt thân qủi thần, lửa dữ tự mất, khắp
được mát mẻ, lìa tưởng đói khát, nghiệp báo chướng cũng hết.
[20]
Đây là ấn Khai yết hầu của đức Như lai Quảng Bác Thân. Theo sách Tức Hằng Lý cho biết pháp sư là vị
thầy vào được gia hạnh vị của bồ tát.
Tự thân quán tưởng Bồ tát Quán Tự Tại, tưởng chính giữa vầng trăng có
chủng tự Hộc rị màu trắng phóng ánh sáng vào mình chư qủi thần, tay kết ấn Thí
thanh lương, miệng tụng mật ngôn. Khi
bàn tay phải ngón cái và ngón giữa mở ra, đồng thời hoa sen nở trên lòng bàn
tay trái, tưởng cổ họng của chúng qủi thần tự khai mở, thông suốt không ngại,
có thể phát ra âm thanh, nghĩa là có thể niệm được danh hiệu chư Phật. Sách Tùy Văn ghi rằng, trên ngón cái bàn tay
phải có chủng tự A màu trắng lưu xuất nước pháp cam lộ bát nhã. Khi búng ngón giữa vào ngón cái bàn tay phải
ra tiếng, đồng thời hoa sen nứt nở thì cam lộ tràn đầy không trung, tưởng cổ
họng của chúng qủi thần tự khai thông, thân thấm ướt mát mẻ, không có chướng
ngại.
[21]
Đại chúng cùng với qủi thần đồng xưng Thánh hiệu. Hai tay Kim cang chưởng, các ngón út, ngón át
út và ngón giữa đan xen úp vào trong, hai ngón trỏ tựa đầu nhau, hai ngón cái
cùng thẳng đứng.
[22]
Bàn tay phải ngang úp xuống đất, ngón cái và ngón giữa chạm đầu nhau; bàn tay
trái đưa ngang ngữa lên trên.
[23]
Bàn tay trái co nắm lại, ngón cái và ngón trỏ đâu lưng nhau; bàn tay phải nắm
Kim cang, ngón cái và ngón trỏ chạm bụng nhau.
[24]
Bàn tay trái đưa ngang ngữa lên trên, ngón cái và ngón trỏ chạm nhau; bàn tay
phải cong giãn ra, cả bàn tay đều úp xuống.
[25]
Chắp tay theo hình dáng búp sen.
[26]
Bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, hai ngón cái chống lấy nhau, (hai ngón trỏ
cong chạm lên hai ngón cái).
[27]
Ngữa cong bàn tay phải, ngón cái và ngón giữa búng nhau; bàn tay trái ngữa lên
trên, năm ngón duỗi thẳng.
[28]
Xưng tán danh hiệu bảy đức Như Lai thì có được hai sự lợi ích: một là, trừ diệt các nghiệp chướng và báo
chướng; hai là, trang nghiêm người xưng niệm để làm cho vị đó thành đồ chứa
đựng chánh pháp (pháp khí).
[29]
Kết ấn Hư tâm hợp chưởng (chắp tay búp sen), tưởng ở trước Phật đảnh lễ, tiếp
nhận giới pháp.
[30]
Bàn tay trái nắm lại, ngón trỏ đội lưng lên, bàn tay phải nắm lại, áp sát lên
ngón trỏ bàn tay trái.
[31]
Hai tay Kim cang chưởng, hai ngón giữa (và các ngón khác đan xen) là thành búp
sen, đặt ấn ngay nơi tim, nên phát khởi ba tâm (trực tâm, thâm tâm và đại bi
tâm), bốn nguyện (tứ hoằng thệ nguyện hay từ bi hỷ xả), hoặc phát bồ đề tâm
bằng văn phát nguyện sau đây.
[32]
Tâm tưởng vầng trăng tỏa sáng dịu dàng, tịch lặng, không có ngăn che, chiếu
sáng lên thân chư qủi thần, miện tụng mật ngôn, tưởng chư qủi thần được bồ đề
tâm giới, hoặc tưởng chủng tự A vào khắp thân tâm.
[33]
Các vị đã làm thành đồ đựng chánh pháp lớn lao (đại khí) thì có thể gánh vác sự
truyền thọ giới pháp tam muội da qúi báu.
Theo kinh Đại Lạc Kim Cang Tam Muội, tam muội có nghĩa là bản thệ, còn gọi
là (đẳng trì) thời, cũng gọi là kỳ khế (hợp thời), cũng chính là mạn đồ
la. Mạn đồ la có bốn loại: một là Đại mạn đồ la, hai là Tam muội da mạn
đồ la, ba là Pháp mạn đồ la, bốn là Yết ma mạn đồ la. Tam muội da mạn đồ la
tổng nhiếp tất cả mạn đồ la. Tam muội da
còn gọi là tứ trí ấn: Đại trí ấn, Tam muội da trí ấn, Pháp trí ấn, Yết ma trí
ấn. Sách Thần Biến Nghĩa Thích chép, tam
muội da có nghĩa là bình đẳng, bản thệ, trừ chướng và kinh giác (giật tỉnh). Bình
đẳng: Khi Như Lai hiện chứng tam muội này thì thân ngữ ý của tất cả chúng
sanh đồng đẳng với Như Lai; thiền định, trí tuệ đồng đẳng với thật tướng thân;
cũng là nghĩa tất cánh đẳng (bình đẳng rốt ráo): lúc sơ phát tâm cùng khi viên
mãn trải qua các độ ba la mật đều bình đẳng rốt ráo. Vì vậy mà Như Lai có thể thốt ra lời thành
thật, xác quyết với chúng sanh rằng, những gì Ta nói ra đều không hư dối, cũng
làm cho chúng sanh nói ra lời nói thành thật này mà được tam mật gia trì, thành
tựu trang nghiêm vô tận, đồng đẳng với Như Lai.
Do nhân duyên này mà có thể tác thành sự nghiệp Kim cang, nên gọi là tam
muội da. Bản thệ: Khi Như Lai hiện chứng tam muội này, Ngài thấy tất cả
chúng sanh đều có năng tánh thành Phật, bèn phát ra lời thệ nguyện lớn rằng: Ta
nay phải từ cánh cửa phổ quát (phổ môn: đại từ bi) mà lập ra vô lượng phương
tiện khiến cho tất cả chúng sanh đều đi đến Vô thượng bồ đề, cho dẫu chúng sanh
giới có cùng tận chăng nữa thì sự nghiệp của Ta cũng không dừng nghỉ. Nếu có chúng sanh tùy thuận bản thệ của Ta,
cũng phát ra lời nói thành thật này, đều muốn lấy đó làm sự nghiệp, thì thành
tựu được Kim cang tánh, nên gọi là tam muội da.
Trừ chướng: Như Lai thấy tất cả chúng sanh đều có giới
pháp Như Lai (giới pháp Phật tánh), chỉ vì một niệm vô minh nên không biết,
không nhận ra được giới pháp ấy vẫn thường hiện tiền (nơi toàn bộ thân tâm của
chúng sanh). Vì vậy, Như Lai mới phát ra
lời thành thật rằng, Ta nay cần phải thiết lập các thứ phương tiện, khắp vì tất
cả chúng sanh đoạn trừ màng mắt. Nếu thệ
nguyện của Ta mà thành tựu được thì mong sao tất cả chúng sanh tùy thuận phương
tiện của Ta, cũng phát ra lời nói thành thật này, cho dẫu chỉ có một chúng sanh
thu hoạch vô cấu nhãn, hết sạch chướng cái (phiền não ngăn che), nên gọi là tam
muội da. Kinh giác: Như Lai biết rằng
tất cả chúng sanh đều rơi vào trong giấc ngủ vô minh, cho nên không hay biết,
không nhận ra những công đức của giới pháp Như Lai, vì vậy mà Như Lai phải nói
ra lời thành thật có thể cảm động chúng sanh, khiến chúng sanh tự tỉnh
ngộ. Với ý tự giật tỉnh này mà chư vị bồ
tát hiện tại phát khởi tư duy thiền định và học tập Sư tử tần thân tam muội (Sư
tử phấn tấn tam muội). Nếu có hành giả
nói ra một cách trực tiếp các tam muội này thì Ta cùng chư Phật cũng phải nhớ
giữ bản thệ, không được trái vượt, giống như vị quốc vương tự thiết đặt pháp kỷ
thì bản thân phải kính thuận làm theo, nên gọi là tam muội da. Đầy đủ các nghĩa vi diệu, sâu xa, rộng lớn như
vậy nên gọi là tam muội da.
[34]
Hai tay Kim cang đan xen nhau, hai ngón giữa thẳng đứng như kim. Căn cứ văn ý thì ở đây không có quán tưởng
riêng mà chỉ dùng ấn chú thì tự thành sự thọ giới. Như kinh Kim Cang Đảnh có nói: Nếu tụng chú này một biến thì như đã vào đàn
luân, chứng tam ma đề, tất cả thiện pháp thảy đều đầy đủ, tam tụ tịnh giới cũng
đồng thời viên mãn, thân đồng như Bồ Tát Phổ Hiền ngồi nơi đại Nguyệt luân, tất
cả chư Phật nhớ bản thệ xưa, quán sát hộ niệm.
Giả sử có người từng thọ giới của Phật, rồi có lúc sinh ác tâm mà phá
hủy giới, không thể thanh tịnh trở lại; nếu người ấy một phen tụng chú này bảy
biến thì những tội cấu phá giới đều được thanh tịnh, hết thảy giới phẩm phục
hồi như trước. Tất cả đàn pháp chưa từng
được thầy truyền thọ mà vẫn thực thi thì cho dẫu có tụng chú này bảy biến cũng
sẽ không thành được lợi ích của chánh pháp.
Căn cứ kinh Thần Biến và Nghĩa Thích thì, lấy sự quán trí ly niệm làm ý
mật. Kinh Thần Biến ghi: Nếu có người tộc tánh cư trú làm giới tử thì
nên đem thân ngữ ý hợp lại làm một.
Nghĩa Thích có ba sự giải thích:
1. Cùng duyên cùng thành giới
này, là tập hợp mọi phương tiện để thành tựu giới; 2. Bình đẳng, là như chư
Phật lấy ba nghiệp làm một, tức là an trú nơi pháp môn bình đẳng, vì vậy được
gọi là Tam thế vô chướng ngại trí giới.
Ở đây, sự trì giới dù sơ lược nhưng rất minh bạch: người thọ giới nếu ba nghiệp và phương tiện đều
chánh thuận ba bình đẳng xứ (:thân, khẩu, ý của Phật) nên biết đã đầy đủ tất cả
chư Phật luật nghi. 3. Chia cắt mạng
lưới chư tướng, là khi an trụ nơi bản tánh giới của thật tướng pháp giới bình
đẳng thì vô lượng ba nghiệp đều đồng nhất tướng, các mạng lưới kiến tướng (:
những phiền não phải được đoạn trừ ở giai đoạn kiến đạo) thảy đều trừ diệt, nên
được gọi là Trụ vô hý luận Kim cang giới.
Người ở trên cửa vòm cao thì có sự tin hiểu sâu xa, mô phỏng rồi tưởng nhớ,
như Tùy Văn Ký có chép, khi trao giới pháp, trong thủ ấn tưởng quán có chủng tự
Noan màu trắng, phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp để mời thỉnh tất cả hữu tình;
các hữu tình tình kia cũng mong được ánh sáng chiếu đến, như vậy giới pháp ba
la mật của chư Phật ba đời nhất thời viên mãn;
tưởng pháp giới thiện pháp là ánh sáng, ánh sáng ấy tuôn chảy, rót xuống
đỉnh đầu, chứa vào trong thân, thân ấy là thân Bồ Tát Phổ Hiền ngồi nơi đại
Nguyệt luân. Người con Phật đích thật là
người tiếp nối sự nghiệp của chư Phật.
[35]
Tưởng bàn tay trái như đang cầm đồ, trong lòng bàn tay trái có một chủng tự
Noan lưu xuất các thứ cam lộ pháp thực vô tận.
Bàn tay phải, ngón cái và ngón giữa búng nhau.
[36] Ấn chú trước (ấn Vô Lượng Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như lai và chú Thí thực) có năng lực lưu
xuất rất nhiều vật thực, biến thành rộng lớn.
Chú Nhũ hải (Biển sữa) này chỉ lưu xuất cam lộ tràn khắp sáu đường. Nên hiểu hai chú này, ý nghĩa gồm rộng và
lược. Rộng thì có tác dụng song đôi, như
văn ý ở đây. Lược thì chỉ có cái dụng
đầu tiên là lưu xuất ra vật thực rồi biến ít thành nhiều. Sách Tùy Văn Ký ghi, tụng chú Thí thực bảy
biến làm cho vật thực tăng thêm rộng lớn; tụng chú Nhũ hải ba đến bảy biến thì
lưu xuất cam lộ trí.
[37]
Đến đây là vào phần Chướng thí
qủi thí thực, còn gọi là Nhất đàn chỉ thí thực.
Tay phải cầm đồ đựng thức ăn sạch sẻ, chứa đầy nước sạch rồi chuyển cánh
tay, tụng chú này một biến hay bảy biến, những qủi làm chướng ngại sự thí thực
(chướng thí qủi) sẽ được no đủ, hoan hỷ.
Một lần búng tay, bấy giờhành giả dùng bàn tay phải cầm đồ đựng cam lộ,
mặt hướng về phương đông, đứng viết chữ trước đàn tràng, hoặc viết trên đất sạch,
hoặc ở trên đá, hoặc trong bồn gốm sạch mới, gọi là Vu lan bồn, hoặc viết lên sanh đài cũng được, hoặc viết lên suối, ao, sông, biển, trong
dòng nước chảy dài; chẳng được viết vào gốc cây thạch lựu, cây đào, vì quỷ thần
hoảng sợ, chẳng ăn được vậy. Trong đàn
tràng có thánh chúng, nếu minh vương muốn bố thí ẩm thực (cho ngạ qủy) thì ẩm
thực bố thí đặt trên sanh đài, thời gian bố thí là trước canh năm; còn chư
thiên muốn cúng dường chư Phật, thánh chúng thì thời gian cúng dường là sáng sớm
lúc mặt trời mọc. Nếu làm pháp sự cho quỷ
thần thì thời gian do con người định chọn, giờ Tý cũng được, hay theo phép tắc
căn bản của vị A xà lê. Từ lúc ngọ trai
đến hết một ngày, nếu chỉ gia trì pháp thuỷ lên các món ẩm thực, để bố thí cho
các loài thuỷ tộc, thú chạy, chim bay, thì chẳng cần chọn thời tiết, cứ việc bố
thí lúc nào tiện lợi. Nếu lập đàn pháp
thí thực cho ngạ quỷ nên chọn giờ Hợi là lúc thí thực. Nếu lấy thời ngọ trai mà thí thực cho ngạ quỷ
thì (việc thí thực ấy) chỉ là luống uổng công lao, cũng không kết quả, bởi lẽ
thời tiết không đúng, vọng sanh hư dối, quỷ thần chẳng ăn được vậy. Hành giả nếu chẳng từ thầy trao truyền (mà làm) thì tự rước tai họa, thành tội trộm
pháp.
[38]
Hai tay Kim cang chưởng, áp sát, hai ngón giữa cong hai lóng. Khi tụng chân ngôn nên tưởng ở chỗ khuất của
hai ngón giữa có chủng tự Án màu trắng, lưu xuất các thứ bảy báu, lầu các, cung
điện, tràng phan, bảo cái, hương hoa, ẩm thực, vô lượng bảy báu, các thứ nội
tài, ngoại tài của bản thân, đều hiến cúng cho chư Phật, Thánh hiền và bố thí
cho các hữu tình. Tưởng từ nơi thủ ấn
lưu xuất các cúng phẩm. Khắp hiến cúng Tam bảo và lục đạo chúng sanh. Sự hiến cúng khắp cả mang ý nghĩa pháp sự từ
trước đến đây được viên mãn chu toàn, Phật và chúng sanh đều bình đẳng hiến
cúng. Cúng dường xong, biểu ý mong ước ở
nơi ấn Phụng tống. Từ đây về sau là phản
ánh nguyện ước ấy, còn gọi là phổ thông cúng dường.
[39]
Hai nắm tay kim cang, hai ngón trỏ móc với
nhau, tuỳ tụng mà chế khai.
[40]
Tâm ý tưởng Phật, chư vị Như Lai hồi qui bản vị, chúng sanh sáu đường an vui
siêu thoát, là đem công đức thí thực mà hồi hướng cho tất cả. Đó là lẽ thường
nên biết vậy.
[41]
Tương truyền, vào đời Đường Cao Tông, niên hiệu Nghi Phụng (676), có vị cao
tăng nước Kế Tân tên là Phật Đà Ba Lợi đi đến non Ngũ Đài để lễ bái Thánh tích
thì gặp một lão ông từ trong núi đi ra khuyên, rằng ngài hãy trở về Thiên Trúc
đem bản kinh Phật đảnh tôn thắng đà la ni đến Trung Hoa mà lưu truyền cứu độ
chúng sanh thì mới mong cảm ứng được đức Văn Thù. Đến niên hiệu Vĩnh Thuần thứ 2 (683), ngài
Phật Đà Ba Lợi đi đến Trường An xin vua Đường Cao Tông cho dịch kinh ấy ra chữ
Hán, vua chấp thuận và sắc cho ngài Địa Bà Ha La (tức Tam tạng pháp sư Nhật
Chiếu) và vị quan tên là Đỗ Hành Khải cùng dịch bản kinh đó. Nhưng khi dịch
xong thì vua giữ lại trong cung. Ngài
yêu cầu vua trả lại bản kinh chữ Phạn, rồi đi đến chùa Tây Ninh, cùng với vị
tăng tinh thông chữ Phạn là ngài Thuận Trinh dịch sang chữ Hán với đề kinh là
Phật đảnh tôn thắng đà la ni kinh. Sau khi bản kinh này được lưu truyền, ngài
Phật Đà Ba Lợi đem Phạn bản đến non Ngũ Đài, vào hang Kim Cang rồi không thấy
trở ra. Tương truyền ngài được đức Văn
Thù thu nhận vào pháp hội của chư bồ tát.
Phật đảnh tôn thắng đà la ni là bài chú được đức Phật giảng cho thiên tử
Thiện Trú. Chuyện kể rằng, thiên tử
Thiện Trú trong 7 ngày nữa sẽ chết và thác sinh vào các thân bàng sinh như heo,
chó, cáo, khỉ, rắn, diều, quạ, rồi sau đó bị chịu khổ ở địa ngục. Sau đó nếu có đầu thai làm người thì cũng bị
mù cả 2 mắt. Thiện Trú đã đến vua trời
Kiều Thi Ca xin cứu. Kiều Thi Ca cầu
thỉnh đức Phật và ngài đã giảng cho bài chú ấy.
Bài chú này có khả năng làm cho tiêu trừ hết các chướng nghiệp và làm
cho tuổi thọ thêm lên. Có cả thảy 17 văn
bản liên hệ với Phật đảnh tôn thắng đà la ni nằm trong Đại tạng kinh. Các tràng kinh khắc bài chú Phật đảnh tôn thắng
gia cú linh nghiệm đà la ni do Đinh Khuông Liễn dựng lên vào năm Quí Dậu (973),
được tìm thấy tại vùng đất Hoa Lư qua nhiều đợt khai quật khảo cổ học cho thấy,
truyền bản mà Đinh Liễn đã dùng là từ bản của Kim Cang Trí, sơ tổ mật tông
Trung Hoa, và Bất Không, tổ thứ hai mật tông Trung Hoa. Phật đảnh tôn thắng đà la ni gia tự cụ túc
bản do Kim Cang Trí dịch (ĐTK 974C) và Nhất thiết Như Lai tôn thắng Phật đảnh
đà la ni gia cú linh nghiệm do Bất Không dịch được tìm thấy tại Đôn Hoàng. Mặc dù bài chú này nằm trong hệ tư tưởng Thai
tạng giới của mật giáo, nhưng vẫn được trì niệm trong các khóa tụng của các
thiền đường Trung Hoa vào thời vua Đường Đại Tông (763-775).
Na mô bạt
già phạt đế, đề lệ lô ca bát ra đế tì thất sắc tra da bột đà da, bạc già phạt
đế, đát điệt tha. Án, tì du đà da sa ma
tam mạn đa phạ bà sa, sa bá ra nõa yết đế ca ha na, sa bà phạ luân thuật địa a
tì tiến giả tô yết đa phạt chiết na, a mật lật đa sái kê, a ha ra a ha ra, a du
tán đà ra ni, du đà da du đà da, già già na tì thuật đề, ô sắc ni sa tì chiết
da thuật đề, sa ha sa ra yết ra thấp nhị san châu địa đế, tát bà đát tha yết đa
địa sắc tra na át địa sắc sỉ đế mộ điệt lệ, bạt chiết ra ca da tăng ha đa na
thuật đề, tát bà phạt ra nõa tì thuật đề, bát ra đế nỉ phạt đát na a du thuật
đề, tát mạt na a địa sắc sỉ đế, mạt nhĩ mạt nhĩ, đát đạt đa bộ đa câu đê bát
lợi thuật đề, tì tát phổ tra bột địa thuật đề, xá da xá da, tì xá da tì xá da,
tát mạt ra tát mạt ra bột đà át địa sắc sỉ đa thuật đề, bạt chiết lê bạt chiết
ra yết tì, bạt chiết lam bà phạt đô, ma ma (xưng tên …) tát bà tát đỏa tả ca da
tì thuật đề, tát bà yết đế bát lợi thuật đề, tát bà đát tha yết đa tam ma thấp
bà sa yết địa sắc sỉ đế, bột đà bột đà bổ đà da bổ đà da tam mạn đa bát lợi
thuật đề, tát bà đát tha yết đa địa sắc tra na át địa sắc sỉ đế, sa bà ha.
Trên đây
là thần chú Phật đảnh tôn thắng trích trong Tôn Thắng Phật Đảnh Đà La Ni Tịnh
Trừ Nghiệp Chướng Chú Kinh (ĐTK 970) do ngài Tam tạng pháp sư Địa Bà Ha La
(613-687), người Thiên Trúc, dịch vào đời vua Đường Cao Tông (650-683). Điều lưu ý ở đây là bản Phật đảnh tôn thắng
đà la ni của Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (ĐTK 1320), còn gọi là Phổ
Long chú, so với thần chú Phật đảnh tôn thắng dẫn trên thì hoàn toàn khác, khác
về ngôn cú và ngữ âm. Phổ Long chú có
hai bản, một là, trong kinh Nhất Thiết Như Lai Tối Thắng Tổng Trì, Bắc Tống
Tạng Bản; hai là, trong kinh Minh Triều
Nhân Hiếu Hoàng Hậu Mộng Cảm. Trong đàn
tràng Du Già, thầy thủ tọa tùy nghi sử dụng bản nào cũng được. (Ghi chú của
người dịch)