Như vầy, một thời đức Thích Ca Mâu
Ni Như Lai trú ở hải hội thuyết pháp là đạo tràng Ba la, tịnh xá Lô Kê nơi đỉnh
Kim Cang Luân, núi Cô Đà, cùng với bất khả thuyết A tăng kỳ bốn chúng vây
quanh. Ngồi trên những tòa Kim Cang tám
góc có sư tử là chư vị Bồ tát nói pháp Phương quảng, trọn thời buông dục.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót các
loại chúng sanh trong nẻo ác mà muốn diễn nói Thân na Tất lợi đa Ma đà la Ban
giá Đà la ni [1], là thần chú đại bi tối thắng, vì
là pháp môn thiện xảo bí mật. Từ nơi tim
của Như lai mật phóng ánh sáng mặt trăng màu ngọc Ma ni, gọi là Nguyệt ái từ
quang, trên chiếu đến cõi trời Hữu đảnh, dưới soi tới địa ngục A tỳ, cho đến
mười phương thảy đều soi khắp; trong ánh sáng ấy mọi thứ đều sáng suốt, như
kính pha lê soi thấy ảnh tượng.
Đức Phật bảo các đại chúng: Thiện nam tử, các ông phải quán sát sự thọ
thân trong sáu nẻo đều là khổ não. Đại
chúng ở đây nương uy thần của Phật quán thấy việc đó rồi, cùng mở lời thưa
rằng: Chúng con đã thấy rõ ràng. Đức Phật dạy:
Tám khổ thế gian, kể không thể xiết; tai ương sáu nẻo, rất đáng sợ
hãi. Cớ sao vậy? Người trong thế gian không tin tội phước,
báng bổ cho là không có nhân quả, (do) điên đảo không biết, (thêm) tham lam
ganh ghét, nên sau khi mạng chung, đọa vào ngục Vô gián, chịu đủ các khổ, không
thể nghĩ bàn. Ra khỏi địa ngục lại rơi
vào đường ngạ qủy, đủ các ác nghiệp, thọ báo khác nhau. Do ác nghiệp mà thọ ba mươi sáu loại thân ngạ
qủy, đó là: qủy Bệ lệ đa, qủy Xa da, qủy Kiện đà, qủy Bố sắc ba, qủy Kệ bà da,
qủy A thâu giá, qủy Bà đa, qủy Ô đà ha la, qủy Đà la chất đa, qủy Chất đa, qủy
Bà lỗ da, qủy Thị vĩ đa, qủy Khởi sa kê đà, qủy Xà để, qủy Yết tra bố đơn na,
qủy Cưu bàn trà, qủy Tất xá giá [2], như vậy cho đến (ác nghiệp) nặng
nhẹ kẻ hở. Do ác nghiệp sâu nặng mà cảm
ra quả báo đói khát bừng lửa, ganh ghét hừng hực, thường tham uống ăn, chỉ nghĩ
nước uống, ngoài ra không biết, khổ đau thảm thiết, không nói nên lời. Cảm báo ra cái thân như đống lửa lớn, thân
lượng dù nhỏ dù lớn [3] đều là gầy gò tiều tụy, tay chân
yếu ớt, chân như cái chậu nứt vỡ, da thịt khô khan, mạch máu cằn cỗi, giống như
trái cây khô héo, bụng phình lớn như cái trống, cuống họng như mũi kim, hơi thở
không thông, thường có lửa dữ đốt cháy bên trong, đầu lâu ngang dọc năm núi Di
Lâu [4], lửa dữ hừng cháy chưa từng tạm
nghỉ. Khi thân di động, lửa cháy toàn
thân, làm cho đói khát, lửa lớn thiêu đốt bức bách thân tâm, đông tây chạy
đuổi, hú hí kêu gọi tìm kiếm thức ăn.
Giả thử thấy đồ ăn ngon, muốn chạy đến lấy, nhưng do nghiệp lực tham
giận khiến cho vị ngon tuyệt diệu biến thành máu mủ hôi thối chảy tràn. Tuy thấy sông lớn hay nước suối mát ngọt,
muốn qua lấy uống, thì bị các thủy thần dùng gậy sắt đánh đuổi. Giả như không có ai coi giữ, nước lạnh mát
ngọt biến thành lửa cháy, lại bị loài chim có mỏ sắt như diều hâu, chim ưng,
chim cắt mổ vào mắt qủy. Lại bị thú dữ
độc ác như cọp đói, sói đói, mãng xà, chó rừng, vồ túm cào xé, khổ không nói
được. Trên thân thể, những chỗ bị lông
tóc phủ kín đều bị mười tám ngàn sâu trùng nhỏ độc ác sống bám nơi lông cắn
rúc. Do sự đói khát thúc bách mà các ngạ
qủy càng thêm giận dữ, sẵn sàng tàn hại nhau, phá bộ não, lấy tủy sống cùng
nhau ăn nuốt. Trong năm trăm kiếp còn
không nghe được cái tên nước uống, huống chi được thấy. Những khổ não như thế, thí dụ không thể diễn
tả, toán số không thể tính được, tổng quát có thể nói là, trăm ngàn ức kiếp thọ
báo đầy đủ các thân ác nghiệp xấu kém.
Sau khi thoát khỏi cái thân ngạ qủy thì làm đủ loại thân thú vật bị nhốt
trong chuồng hay làm thân con trùng trong nhà xí, hoặc núp trong phần dưới của
thân con thú, các chỗ hôi thúi, dơ dáy.
Các thiện nam tử, làm thân ngạ qủy
là do đời trước ngu si điên đảo ngăn che, lưới tâm phiền não tham chấp giăng
khắp và chắc, chỉ ưa thích cái thói bóc lột người khác không biết chán đủ: cha mẹ vợ con đều không chu cấp, sư trưởng
dạy bảo coi như phân dơ, chẳng bao giờ giúp cho bà con, bạn bè, tôi tớ. Người bủn xỉn như vậy chẳng lo vô thường,
tiếc giữ tài vật, nói làm đó là cho trăm năm, lại thường dạy người tham cầu gom
chứa, chẳng biết vô thường lão bịnh cùng thân theo nhau. Đến lúc bịnh nặng, tự biết không còn sống
lâu, vẫn thường nghĩ thầm: Ta lúc sanh thời, cần khổ cầu tài, nếu sau khi chết,
thì các người ác ăn nuốt tài vật của ta như ăn nuốt lửa dữ, ở nhà cửa của ta
như ở nhà tối tăm. Khi khởi nghĩ như
vậy, do ác nghiệp mà la sát, ngục tốt biến làm người giận dữ, gom lấy của cải
một đời của người ấy, đem đến chỗ tội nhân, lấy lửa đốt hết, tội nhân (thấy đó)
sanh tâm hoan hỷ. Do nhân duyên như vậy,
trong đường ác nghiệp, thân trung ấm hiện ra, phong đại bắt đầu khởi động làm
cho mất đi hình thái hơi ấm, và khi đó các ngọn gió mang theo cái lạnh màu vàng
cũng phát động. Do gió ác phát động
khiến gân mạch co rút, trong miệng khô khan, mặt mắt trở nên vàng khè, răng
biến dạng thành răng cáo, thân thể suy nhược, bụng trương phình to, mạch máu
xanh vàng hiện, ăn uống không tiêu, thân thể gầy yếu, miệng đắng, nước tiểu
vàng, mắt nổ đom đóm chỉ thấy lửa sáng, cổ họng sưng tấy, hơi thở nghịch gấp,
đầu tim ghê thúi, ách chặn ngay cổ, tắt tiếng ngắn hơi, toàn thân ghẻ lở, máu
mủ thối rữa, chịu khổ sở lớn. Khi sanh
mạng sắp chấm dứt, lại khởi nghĩ như sau: Phải chi ta được một viên sắt nóng
chảy trong cổ họng, được một khối lửa lớn vào nằm trong thân, lại được một chỗ
tối tăm để tránh ánh lửa và trừ bịnh lạnh thì khoái biết mấy. Bấy giờ ngục tốt hóa làm vị lương y, đưa viên
sắt mà biến thành viên thuốc lớn, đặt vào trong miệng, bảo ngậm miệng
nhanh. Lại hóa xe lớn kết bởi hoa sen
bằng vàng, trên xe có đồng tử cầm phất cổ vũ, bịnh nhân thấy vậy tâm sanh yêu
thích, nghĩ viên thuốc nóng ấm này chắc trừ được bịnh lạnh, liền muốn đi về
phía trước xe, hơi đứt chết liền, sanh vào ngục thất Viên sắt của địa ngục Vô
gián. Trong đường đi của ngạ qủy, địa
ngục này là nơi cực kỳ khổ não. Ngục ấy
có một núi sắt, ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần, hướng đông của núi có
một lỗ nhỏ bằng cái đấu của nước Ma già đà [5], thoát ra khói đen, đã vào trong đó
thì bị trùng dao trùng kiếm rỉa ăn thân thể, khói mù mịt làm cho không thấy lửa
cháy, khắp nơi chướng ngại đuổi chạy, đầu đụng núi sắt, não vỡ tủy văng như làm
bể bình mứt. Viên sắt xuyên vào từ trên
đầu đâm ra ở dưới chân. Có thể nói tóm
là, một niệm chết đi, một niệm sống lại.
Đền tội xong lại sanh làm loài qủy ăn mũi dãi, loài qủy ăn máu mủ, từ
đây lần lượt chuyển sanh cho đến làm loài thần trong nhà xí, mong chờ lấy thứ
bất tịnh mà ăn nuốt. Hết quả báo này rồi
thì sanh trong súc sanh, chịu đủ các loại thân như chó, v.v... Thọ báo này xong
thì sanh làm người nghèo nàn, hèn hạ, lẻ loi nằm sương, ung thư, phung lác, run
rẫy, tiêu chảy, tự trang sức đời mình bằng mọi thứ suy tổn. Người này với bao ác kiến, lạnh đói mà chết.
Tướng trạng quả báo tốt xấu trong
loài ngạ qủy chỉ nghe nói đến thôi thì lông thân dựng đứng, huống là đích mắt
nhìn thấy. Do đó các ông phải khởi tâm
đại bi mà cứu khổ nạn kia. Vì sao phát
tâm cứu khổ? Các loài ngạ qủy đều là cha
mẹ, anh em trai, chị em gái của các ông trong quá khứ, do điên đảo ngu si,
không chịu cầu cái vui thoát tục, ưa đắm ba cõi, tạo đủ các tội, nghiệp lực cảm
báo sanh làm ngạ qủy, khổ não nung cháy không biết khi nào thoát ra, mất hẳn
thân người. Mất thân người nên lìa xa
thiện tri thức; lìa xa thiện tri thức nên che thêm lưới nghi, vĩnh viễn không
được Vô thượng bồ đề. Vì vậy nên biết,
thật đáng thương xót, các ông phải cứu khổ ách cho họ được giải thoát.
Bấy giờ trong chúng hội có một vị bồ
tát tên là Nguyệt Ái, đã từng huân tập hạnh đại bi như biển, nghe thấy việc
này, thân thể lay động, gân mạch co thắt, bi cảm đau buồn, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đầu mặt làm lễ, hai mắt ngấn lệ, bạch với Phật rằng: Than ôi, đức Bà già bà, xin dạy cho chúng con
phương pháp cứu hộ làm an ổn cho số đông.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo bồ tát
Nguyệt Ái: Tốt lắm, đại sĩ chính là đại
bi, là người tu tập đại bi, vì thương xót tất cả mà hỏi Như lai việc này, ông
phải khéo nghe. Thiện nam tử, Như lai có
pháp đại bi tối thắng thuộc đà la ni môn, tên gọi là Thân na tất lợi đa đại đạo
tràng hội cam lộ vị pháp, không thể nghĩ bàn, đủ đại từ bi, có uy thế lớn, có
thể phá tan núi nghiệp rộng lớn của chúng sanh trong đường địa ngục, súc sanh,
ngạ qủy; có năng lực làm cho vị bồ tát mau đắc các địa đi đến Như lai địa; lại
được thành tựu một trăm mười chủng loại tâm đại từ bi, khiến cho người thọ trì
hiện thân chứng được Đại bi luân đảnh vương đà la ni, là pháp môn tam muội của
đại bi lưu xuất từ Như lai tạng không thể phá hoại.
Thiện nam tử, đại thần chú này có
thể dập tắt lửa cháy dữ dội từ sự đói khát trong loài ngạ qủy, thí cho vị ngon
cam lộ mát trong, nhất định mau chóng trọn thành quả vị Vô thượng bồ đề. Thí như ánh trăng ban đêm trừ được sự um tùm,
đà la ni này cũng lại như vậy, Như lai sẽ nói, các ông phải buộc niệm, một lòng
lắng nghe, đừng cho quên mất.
Thiện nam tử, nếu có tỷ kheo, tỷ
kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ, và các chúng người trời, có ý
muốn thọ trì giáo pháp phương tiện này, thì cần phải mời thỉnh cùng tận mười
phương giới, tất cả ngạ qủy, thần chúng trong sáu nẻo, phải khởi niệm rằng:
Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da,
nam mô Tăng già da, nam mô bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Như lai, nam mô An trụ đại
địa chúng bồ tát, nam mô tất cả Long thiên thiện thần, nguyện đem uy thần,
thương thêm hộ trợ. Con nay mời thỉnh mười phương quốc độ, cùng tận hư không
giới, tất cả chúng hữu tình và ngạ qủy trong sáu nẻo, nương uy thần lực của Tam
bảo, đều đến chỗ con.
Nói lời này xong, mặt hướng phương
đông, liền tụng bảy biến thần chú Triệu thỉnh.
Bấy giờ, đức Thế tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà tuyên nói thần chú Triệu
thỉnh đà la ni, ngài liền nói chú ấy:
Na mô bồ đế rị, đát tha già đa da.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Mời thỉnh xong rồi, bấy giờ mười phương tất
cả ngạ qủy, qủy thần trong sáu nẻo đều đến tụ tập, chiêm ngưỡng hành giả. Hành giả khi ấy cần phải khởi đại bi tâm mà
nói lời rằng:
Các vị phải khéo nghe, nay tôi dùng
đà la ni này để mở cổ họng cho các vị, cho các vị sự khoái lạc mềm mại, mát
trong.
Bấy giờ, đức Thế tôn nói thần chú
Khai yết hầu đà la ni, chú rằng:
Án, bồ đế rị, ca đát rị, đát đa già
đa.
Tụng thần chú đà la ni này đủ bảy
biến rồi, do năng lực của thần chú mà cổ họng của các loài qủy được thông suốt,
lửa dữ liền tắt, không còn thống khổ, thân tâm yên ổn.
Bấy giờ hành giả trước nên bố thí
nước uống. Muốn bố thí nước thì vào lúc
sáng sớm hay thời gian trong ngày, cầm một chén nước sạch, mặt hướng phương
đông, tụng thần chú bảy biến, hướng về phương đông mà vun rảy nước vào không
trung. Do năng lực của đà la ni này mà
mỗi một giọt nước rơi xuống đất đều biến thành mười hộc nước cam lộ cõi
trời. Các loại qủy thần hưởng dụng no
đủ, hoan hỷ vô lượng. Bấy giờ, đức Thế
tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà nói liền thần chú Thủy đà la ni, chú rằng:
Na mô tô lô bà duệ, đát già tha đa
da, đát thiết tha, tô rô tô rô, ba ra tô lỗ sa bà ha.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Thiện nam tử, đây gọi là đà la ni thần chú
Thí nước cam lộ. Lại nữa, nếu chư thiên
và loài người muốn bố thí thực phẩm của mình thì mỗi ngày nên trước giờ thọ
trai, dùng cái bát hay đồ dung chứa tốt đẹp quí báu, như bát bằng vàng bạc, bát
bằng đồng, bằng sắt, bạch lạp [6], đá qúi, hoặc bát bằng lưu ly, pha
lê, các loại ngọc thạch; không có những thứ trên, thì dùng bát bằng gỗ, đá, gốm
nhưng phải thật sạch sẽ; không có nữa thì dùng quả bầu khô cũng được, để đựng
đầy sữa. Nếu không có sữa thì dùng nước
sạch cũng được. Hoặc lấy đồ ăn thức uống
có sẵn như cơm sữa, cơm nấu bằng nếp gạo, đại mạch, bánh, men rượu, cháo
v.v..., để vào trong bát, chớ để rau cà.
Ở dưới cây râm mát, trước tụng chú Triệu thỉnh, kế tụng chú Khai yết
hầu, như trên đã nói. Chú thực vào bát
bảy biến xong, đổ vãi dưới gốc cây, khi đó mười phương tất cả ngạ qủy nhờ uy
đức lực của đà la ni mà ăn uống được cả.
Thức ăn không còn biến hóa thành máu mủ nữa, cũng không bị sự ngăn cản,
ăn uống thoải mái, đầy đủ no nê, hết lửa đói khát bốc cháy, thân thể an lạc,
không có thống khổ. Lại có gió nhẹ, mềm
mại, mát mẻ lướt qua trên thân, tham cấu tiêu trừ, thân hết nóng khổ, an nhiên
khoái lạc. Các con trùng độc rúc rỉa
trên thân dưới lớp lông dài cũng tự rơi rớt, cũng không có những cầm thú hung
ác đến giành giựt cắn xé. Tâm ý dũng
mãnh an vui, do nhân duyên này, hết tội thoát được cái thân ngạ qủy, sanh trong
nhân loại chư thiên, hưởng được cái vui vi diệu, tự tại thù thắng. Nên biết rằng người bố thí thực phẩm được chư
Phật hết lòng ca ngợi. Bấy giờ, đức Thế
tôn liền tuyên nói thần chú Thí cam lộ thực đà la ni, chú rằng:
Na mô ta bà đát tha già đa, nam
phược yết đế, tam muội la tam muội la.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni
nói thần chú đà la ni tên là Đại bi tôn thắng xong, khi đó trời đất chấn động
sáu cách, ánh sáng tràn đầy nơi thế giới tam thiên đại thiên này, trời mưa rất
nhiều hoa báu cõi trời, và hương báu, chuỗi anh lạc, kỹ nhạc cõi trời cũng rắc
xuống như mưa. Ngay lúc đó, những khí cụ
trị tội của các ngục Vô gián trong sáu nẻo bỗng va chạm nhau, phát ra âm thanh
diễn đạt lý vô thường, khổ, không, giải thoát; vạc sôi lò lửa tự nhiên gãy đổ
tan nát; tất cả tội nhân tự biết đời kiếp trước của mình, ai cũng hưởng được
một sự vui vẻ y như cái vui cõi thiền thứ ba.
Ở trong đại hội, khi nghe đến đây, có người chứng được sơ quả cho đến có
người chứng quả A la hán, vô lượng trời người phát tâm Vô thượng bồ đề.
Bấy giờ, đức Thế tôn dạy bồ tát
Nguyệt Ái và các đại chúng: Đà la ni này
rất khó có cơ hội được nghe, huống chi được thấy (văn tự). Câu chi đức Như lai trong quá khứ và vị lai
đều cùng tuyên nói đà la ni này. Như nay
đây, Như lai là Thích Ca Mâu Ni cũng vì các vị mà khai thị tuyên nói đà la ni
này. Thiện nam tử, nếu chư thiên và nhân
loại thọ trì như pháp, nhưng chỉ với mục đích bố thí cho qủy thần bị đói khát
thúc bách, chẳng nghĩ đến chia cho người chết ngang trái [7], thì không được gọi là thần chú đà
la ni Đại bi tôn thắng. Vì sao vậy? Đà la ni này giống như ngọc báu Ma ni có thể
thỏa mãn tất cả ý nguyện, cũng như trăng sáng làm cho hoa Ưu đàm bát hé nở tươi
đẹp. Thiện nam tử, nếu có vị bồ tát
chẳng đắm nơi cái vui của mình, muốn cứu độ người, huân tu tâm đại bi vì lợi
ích an vui cho tất cả, thực thi bố thí như pháp, thì vị ấy đích thật là bồ tát
tu đại bi, vị ấy đã và đang thực hành hạnh Quán Âm, được tất cả chư Phật nắm
tay xoa đảnh, chư tôn bồ tát hết lòng ái hộ, tất cả hiền thánh coi như con đẻ,
chư thiên long thần theo hầu bảo vệ. Bồ
tát Nguyệt Ái nên biết, công đức của vị ấy cùng bồ tát Di Lặc đồng đẳng. Vì sao như vậy? Vị thiện nam tử ấy nếu có thể phát khởi cái
con người trượng phu, hằng ngày tu hành:
một ngày thí thực khiến cho ngạ qủy trong một thiên hạ đều được ăn uống;
nhiều ngày thí thực khiến cho hết thảy ngạ qủy trong sáu nẻo mười phương được
no đủ cả. Vị bồ tát này có được cái đống phước đức không thể nghĩ bàn, chẳng
thể so lường, ngoài tầm hiểu biết, tự nhiên chứng được Vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, nếu có người ngợi khen, đọc
tụng, biên chép đà la ni này thì người ấy vượt thoát sáu mươi ức kiếp vi tế
sanh tử thế gian, huống chi tu hành như pháp, không có lúc gián đoạn. Thiện nam tử, Như lai nay nói rõ ràng cho các
ông, người trì chú sẽ đối trước đức Phật Di Lặc mà chẳng quyết định được thọ ký
Vô thượng bồ đề rằng ở trong Hiền kiếp này thứ tự thành Phật, thì Như lai mắc
phải lỗi hư dối với chúng sanh. Từ khi
thành đạo cho đến nay, Như lai giảng kinh thuyết pháp không bao giờ có lỗi lầm
như vậy. Do đó bồ tát Nguyệt Ái nên
biết, các người ở thời kỳ mạt pháp sau này nghe được thần chú này mà thâm tâm
tin hiểu, thì các người đó khi chuyển thân sẽ được địa vị Chuyển luân vương,
trăm ngàn vạn kiếp thường nhận phước báu của bậc Phạn thiên, gặp Phật xuất thế
làm sự cúng dường vô lượng, tu các Phạn hạnh mà về lâu xa đạt được bờ mé của
tất cả thần thông, bằng phải thọ sanh thì được thân thể cứng chắc như Na la
diên, thọ mạng dài lâu, mang thân kim sắc, tự trang nghiêm bằng ba mươi hai
tướng đại trượng phu, được tiếng Phạn âm, có uy đức tự tại trong cả thế gian. Thiện nam tử, ai là người có trí, thấy lợi
ích như vậy nhưng chẳng thọ trì, nên biết người này tự đánh mất lợi ích lớn.
Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái nghe lời
Phật dạy rồi, hoan hỷ vô lượng, thưa với Phật rằng: Lành thay, đức Thế tôn đã cho chúng con sự
lắng nghe an tĩnh, con xin hỏi về đà la ni đại bi bí tạng, xin đức Thế tôn dạy
cho chúng con phương cách thế nào, thọ trì ra sao. Bấy giờ, đức Thế tôn mặt vui mỉm cười, quan
sát đại chúng, khen ngợi bồ tát Nguyệt Ái:
Tốt lắm, đại sĩ có thể hỏi Như lai việc này, hãy một lòng nghe nhận, Như
lai sẽ vì ông mà nói.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Nếu có người trời ưa vui tiếp nhận, thực hành
pháp môn đại bi, thì người ấy nên vào tháng trăng sáng, ngày mùng tám hay ngày
rằm, tắm gội nước thơm, xoa các hương thơm, mặc y trắng sạch, ăn ba bữa cơm
trắng [8], khởi tâm bi thương, thệ nguyện đem
sự an lạc cho các chúng sanh. Khi mặt
trời mọc ở phương đông, hay ban đêm lúc trăng tròn đầy, ở chỗ thanh tịnh, hay
đất có trăng soi, nên làm mạn đồ la nước thơm [9] bề dài ba khuỷu tay, dùng bùn thơm
bôi trên đất để trừ khử cát độc. Đàn
tràng mở ra bốn cửa [10], nơi bốn góc đàn để một bát sữa,
lại phải đặt bốn bình nước thơm đầy tràn ở bốn cửa đàn, trên miệng bình tùy lúc
cột những hoa, thảo mộc năm màu. Phải có
năm lư hương: bốn ở bốn góc và một ở trung tâm.
Nơi tòa ngồi chính giữa đặt một cái đèn đốt bằng dầu tô, và có thêm bốn
bát đựng đầy hoa, nước, gạo và cơm. Ở
chính giữa đàn làm một tòa ngồi hình hoa sen, dùng vải vóc tạp sắc bao phủ trên
đài, an trí hình Phật hay tượng Quán Thế Âm.
Cửa này thì đặt tượng Diêm la, v.v..., cửa phía đông thì bày tượng Chúa
trời. Nói tóm, dùng các thứ tràng phan,
bảo cái tương phản để nghiêm sức, lại đốt hương thơm A ca lỗ [11].
Như pháp kết đàn tràng rồi, hành giả đứng ở cửa tây, mặt hướng cửa
nam. Ở trước tòa ngồi đặt một lò lửa đốt
bằng than cứng chắc, lấy sữa tươi hòa với mật ong để vào trong bát. Hành giả thỉnh mười phương Phật và Trú Đại
Địa bồ tát, Kim Cang, trời rồng, qủy thần xong, buộc tâm không loạn, tưởng các
thứ khổ não của chúng sanh trong sáu nẻo, vẫn hướng về phía nam, tưởng thấy
cảnh khổ rồi, bi cảm tột cùng, mong muốn cứu giúp. Lại tưởng thân mình cởi đài hoa báu bay đến
chỗ khổ, sửa thân xoa bóp (cho chúng sanh), rơi lệ như mưa, muốn diệt lửa cháy,
càng thêm thương xót, đau thấu xương tủy [12].
Quán chiếu như vậy mười bốn biến xong, liền vào trong thiền định, được
địa vị người con thương nhất của Như lai.
Tưởng rồi xuất quán, mặt đối phương đông, triệu thỉnh mười phương tất cả
ngạ qủy. Tụng chú Triệu thỉnh mười bốn
biến xong, lại tưởng các loài qủy biến đầy cõi Diêm phù, kế đó tụng chú Khai
yết hầu để được giải thoát, rồi chú nguyện đàn tràng: nước thơm, sữa, cơm,
hương, hoa v.v..., chú nguyện xong đặt lại chỗ cũ. Hành giả khi đó cầm một chén nhỏ sữa tươi,
tụng chú Thí thực ba biến rồi vãi vào trong lửa. Như vậy tụng đủ một ngàn biến, khi đó chỗ đàn
tràng có vô lượng trăm ngàn na do tha mười phương ngạ qủy, tất cả tụ tập không
chừa chỗ trống, hoan hỷ ăn uống. Tất cả
hiện thân theo lời pháp ngữ của hành giả.
Nương theo tâm ý của hành giả, thí thực không có trái nghịch. Hành giả
liền vì ngạ qủy mà chỉ dạy lợi mừng [13] khiến được giải thoát. Bấy giờ, từ xa chư Phật hiện tại trong các
quốc độ mười phương ngợi khen hành giả và còn xa trao thọ ký bồ đề. Tất cả bồ
tát hoan hỷ thương nhớ; tất cả trời rồng, mỗi vị cầm hương, hoa, chuỗi anh lạc,
các thứ kỹ nhạc, từ xa hiến cúng hành giả. Hành giả do sức tu hành và sức uy
thần, chẳng rời tòa ngồi, liền đắc trăm ngàn na do tha đà la ni môn, trăm ngàn
câu chi tam muội môn. Thiện nam tử, tóm
yếu mà nói, người này, thân hiện tại lửa không đốt cháy, nước không nhận chìm,
độc không xâm hại, dao không tổn thương, chuyển tọa thọ thân liền đắc địa vị
Thập trụ, thành Như lai địa.
Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Đây gọi là Thí cam lộ vị đại đàn tràng
pháp. Nếu muốn mau chóng thể nhập các
địa, tam muội môn, đà la ni môn, v.v... và Vô thượng bồ đề, cần phải nhập đại mạn đồ la. Sự việc sẽ không thành tựu nếu có điều tệ
hại. Y pháp thực hành, như trên đã nói, chứng nghiệm tất cả vậy. Bấy giờ, đức Thế tôn vì đại bồ tát Nguyệt Ái
mà nói kệ rằng:
Đà
la ni môn này
Chư
Phật trước đã nói
Như
lai cũng diễn nói
Vì
lợi ích trời người.
Nếu
có người tin ưa
Nghe
trì chú như vầy
Ông
nghe công đức ấy
Ta
nay sẽ lược nói.
Nếu
ở ngàn ức kiếp
Rộng
tạo nghiệp bất thiện
Do
tụng trì chú này
Bảy
ngày được trong sạch.
Bồ
tát ở ức kiếp
Gom
chứa các phước đức
Do
tụng trì chú này
Bảy
ngày được thù thắng.
Nên
biết các pháp Phật
Phương
tiện không nghĩ bàn
Người
đắc mới thể biết
Lời
Phật không có hai.
Bấy giờ, đưc Thế tôn lại bảo bồ tát
Nguyệt Ái: Thiện nam tử, nên biết công
đức của người trì chú, nói không cùng tận, ông nên nhớ nghĩ, như pháp thọ
trì. Vì sao vậy ? Mỗi một chỗ Như lai nói kinh, cho dù nói pháp
thế gian hay xuất thế gian, bi điền vẫn là bậc nhất. Lại nữa Nguyệt Ái, Như lai vào một thời, vì
các Tỳ kheo nói: Có một người dùng tâm
thâm kính muốn hiến cúng cho Như lai món ăn thức uống, nhưng chưa kịp hiến
cúng, lại có duyên sự đem thức ăn đó bố thí cho con chó, Như lai tán thán người
ấy được phước vô lượng. Cho nên Nguyệt
Ái, hiến cơm cho một vị A la hán hay Bích chi Phật, hiện tại nhận được phước
báu có hạn lượng, chỉ được quả báo nhân thiên trong năm trăm kiếp. Khéo thí cho ngạ qủy một nắm thức ăn, người
ấy được phước đức của bồ đề phần: bồ đề
thì không có hạn lượng, nên phước thọ cũng không hạn lượng.
Ông nay lắng nghe, Như lai sẽ vì ông
mà nói công năng và hiệu quả của đà la ni này.
Có người bị tội nặng, nghiệp chướng xấu ác trói buộc khó thể đoạn trừ,
nếu mỗi ngày người ấy chú nguyện trong cháo sữa để thí cho ngạ qủy, làm đủ bảy
ngày, thì tất cả tội chướng đều được tiêu diệt không sót. Lại còn một cách, nếu có người bị bịnh rất
nặng và những bịnh qủy ám, nên làm ba chén cháo bột, chú nguyện bảy biến, ở nơi
đồng rộng thí cho các ngạ qủy, làm như vậy trong mười bốn ngày thì những bịnh
thống khổ liền được lành hẳn. Lại nữa,
nếu trong quốc độ mà có ác nghiệp, độc chất lưu hành, dân chúng bịnh dịch, cầm
thú chết ngang trái, chết non, thì nên làm lò lửa, lấy hột Tát lợi sát ba (bạch
giới tử) hòa trộn với váng sữa, mật ong v.v... , kêu tên các loài qủy như Hoa lợi đa, v.v..., sau đó lấy một
nắm hỗn hợp, chú nguyện, ném vào lò lửa.
Mỗi ngày còn phải tụng một trăm lẻ tám biến đà la ni, làm như vậy trong
bảy ngày rồi thì ác qủy hoan hỷ, độc chất được thu nhiếp, bịnh dịch được trừ
diệt. Lại nữa, nếu có người gặp cảnh
ngang trái, điều tiếng miệng lưỡi, thì nên lấy nước mật ong, chú nguyện bảy
biến, rảy rưới bốn phương, tất cả điều tiếng miệng lưỡi tự nhiên dứt sạch. Lại nữa, nếu biết kẻ oan gia với tâm báo thù, muốn mưu hại
mình, nên vào buổi sáng sớm vì các loài qủy mà dọn các món ẩm thực ngon, xưng
tên kẻ oan gia, thì các ngạ qủy bèn khiến kẻ ấy trước đó gặp phải suy yếu, tai
họa. Lại còn một cách, khi gặp những năm
đói kém, nên chú nguyện trong ngũ cốc, sữa tươi, v.v... một trăm lẻ tám biến,
ném để vào trong ao hồ, thì tức khắc đất nước được mùa, dân chúng yên vui. Lại còn một cách, nếu muốn có vị Tất để lợi
ma da [14] (để sai khiến), thì lấy váng sữa, sữa tươi, v.v..., mặt
hướng phương đông, chú tụng một ngàn biến, thí thực cho các ngạ qủy, kêu tên
qủy Xá đề đà, qủy Lam bà, v.v... thì các vị qủy kia sẽ đến ngay tức khắc, và
khi muốn họ lui đi thì cũng hô tên thì họ liền lui đi. Lại còn một cách, nếu có người muốn có được
các thứ tài bảo, nên dọn bày đồ ăn như trên, chú nguyện đủ mười ngàn biến, kêu
tên các loài qủy và nói lời cầu xin, thì vàng bạc, bảy báu rơi xuống thí cho
hành giả. Lại còn một cách, lấy sài hồ [15], gạo nếp, váng sữa, mật ong, v.v..., bốc một nắm hỗn hợp,
chú nguyện vào đó một biến, rồi ném vào lò lửa, làm đủ một ngàn lẻ tám mươi
biến, nhất định được tài vật lớn, tất cả mong cầu đều được như ý. Lại còn một cách, nếu muốn đầy đủ hạnh bố
thí, hành giả mỗi ngày thí cho ngạ qủy ẩm thực, làm đủ một trăm ngày, liền được
đầy đủ hạnh bố thí. Lại có một cách, nếu
người cầu thọ mạng kéo dài, tác pháp như trên, đủ một trăm ngày, liền được sống
lâu. Lại có một cách, nếu người muốn
hiện tại hình sắc đẹp ra, sức khỏe dồi dào, người khác có cái nhìn mỹ cảm, hoan
hỷ với mình, thì nên thí cho ngạ qủy mãn đủ một trăm ngày, ắt được như ý.
Như vậy lược nói, hết thảy sự cầu,
các thứ suy hoạn, đối trị mống ý, đều được tất cả. Những gì Như lai lược nói ra đây chỉ là chút
ít. Bấy giờ, đức Thế tôn lại bảo đại bồ
tát Nguyệt Ái rằng: Đà la ni kinh này
không thể nghĩ bàn, hoặc một kiếp tăng, hoặc một kiếp giảm, nói cũng không cùng
công đức chú ấy. Ở đời tương lai có
người trì tụng đà la ni kinh, nên biết người ấy bèn đã gom góp hai mươi thứ
loại phước đức lớn lao: Một là hiện tại
không bị đói khát, tật bịnh, nghèo khốn, suy họa phiền nhiễu thân tâm; hai là
những gì ăn uống, không ngon cũng thành thượng vị; ba là nếu có đi vào đồng
trống, trùng độc hòa chung dược thảo, trọn chẳng bị thương; bốn là qủy thần, la
sát, tinh mị, vọng lượng coi xem người ấy như là đức Phật; năm là chư Phật, bồ
tát, thiên tiên, long thần hộ vệ người ấy như giữ gìn tròng mắt; sáu là nếu có
bịnh dịch, do nghiệp hay không rõ ràng nguyên do, thì bịnh dịch ấy không lây
vào thân; bảy là thọ mạng tăng trưởng, nằm ngủ yên ổn, gặp việc cát tường; tám
là đi đường hiểm trở, đồng hoang, thiếu thốn cỏ nước, tự nhiên hợp ý; chín là
tướng mạo vui vẻ, da dẻ tươi sáng, không có sắc xấu; mười là người ấy thường
gặp bạn lành, cho đến bồ tát hóa hiện làm bạn lữ; mười một là ở đời vị lai thường sanh vào nhà
giai cấp Sát đế lợi và vua chúa; mười hai là đầy đủ sắc đẹp, sức khỏe, thọ
mạng, an vui, biện tài; mười ba là thường được hóa sanh trước chư Phật, bồ tát;
mười bốn là chỗ ở người ấy đang sống, kho tàng ẩn náu tự hiện; mười lăm là
người ấy luôn được người khác cung kính tiếp đãi; mười sáu là tài bảo của người
ấy không ai có thể đoạt mất; mười bảy là mong cầu sở nguyện của người ấy đều
được toại lòng; mười tám là người ấy không sanh vào thời kiếp nạn đói kém; mười
chín là thường sanh cõi trời, hưởng vui tôn thắng; hai mươi là thường dùng pháp
hỷ thiền duyệt, không có đói khát. Đó là
hai mươi thứ phước đức lớn lao.
Thiện nam tử, đà la ni này có uy đức
tự tại: Nếu thấy người đang đói khát,
mặt hướng về người đó mà tụng đà la ni này thì người đó liền được no đủ. Chú nguyện vào cây khô còn được xanh tươi,
huống là loài hữu tình sao không được phước.
Vì sự tối thắng của đà la ni này nên Như lai ân cần ba phen giảng nói,
nay giao phó cho ông, ông phải nhớ giữ, vì chúng sanh giảng nói, chớ cho quên
mất. Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái từ Phật
được nghe pháp phương tiện này, hoan hỷ hào hứng, liền lấy ngọc ma ni Tỳ lăng
già, chuỗi anh lạc và các hương hoa mà rải lên đức Phật, ở trước Phật dùng kệ
tán thán:
Đại
bi quán thế âm
Ca
lăng tần già âm
Dùng
các lời nói hay
Khai
thị pháp cam lộ.
Vì
muốn phá phục hết
Những
núi nghiệp rộng lớn
Bằng
cửa phương tiện này
Ân
cần giao phó con.
Con
theo lời Phật dạy
Cố
gắng rộng lưu bố
Chỉ
xin sanh trong pháp
Mau
thể hội pháp thân. [16]
Đức Phật nói kinh này xong, tất cả
hàng đại bồ tát, Kim cang lực sĩ, Thích đề hoàn nhân, Phạn vương, Tứ thiên
vương, các chúng trời rồng, qủy thần, nghe đức Phật tán thán, giảng thuyết Đà
la ni pháp thân na tất lợi đa cam lộ vị này, thảy đều hoan hỷ, vâng theo lời
dạy để tu hành.
Kinh Thí Ngạ Qủy Cam Lộ Vị Đà La Ni
Thần Chú
Nam mô bộ bổ lợi, đát tha yết đa da,
án tát bà tích rị đa yết la da, a già xoa, sa ha.
Đây là khế ấn của đà la ni: Đứng thẳng, hai bàn chân làm thành chữ thập [17], trước dùng tay trái ngữa ra, rũ xuống đầu gối, làm tướng
thí vô úy, kế đến bàn tay phải, ngón cái gập vào lòng bàn tay, bốn ngón nắm
lại, đưa đụng vòng ngọc đeo nơi tai phải [18], dùng phần không có đầu ngón để đong đưa qua lại,liền tụng diệu ngôn ba biến. Lúc đó, hành giả quán tưởng tất cả ngạ qủy,
ba mươi sáu bộ qủy thần đều vân tập, chắp tay chiêm ngưỡng hành giả. (Công đức của) diệu ngôn đà la ni này
là: Nếu có thiện nam tử, nữ nhân, đồng
nam, đồng nữ thọ trì, tán tụng đà la ni này thì hiện đời được mười thứ phước
đức. Những gì là mười ? Một là thuốc độc không thể trúng; hai là rắn
độc không dám cắn; ba là dao gậy không thể hại; bốn là vua quan không dám sân;
năm là mọi người đều yêu kính; sáu là trời rồng thường ủng hộ; bảy là y thực
đều sung túc; tám là dung mạo đoan chánh; chin là rời xa những sợ hãi; mười là
không thọ thân ba đường.
Án bộ bổ rị, già đát rị, đát tha yết
đa da.
Đây là khế ấn của đà la ni: Căn cứ theo ấn tướng mời gọi cùng cách đứng
như trên, rồi chắp tay mười ngón, đầu ngón chạm nhau, khoảng giữa các ngón xa
ra một tấc, phần cổ tay mở ra đặt ngang trái tim. Đây gọi là Đại bi tâm luân đà la ni
pháp. Khi kết khế ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến. Lúc đó, quán tưởng trên khế ấn có một viên
bảo châu ma ni bằng thủy tinh, phóng ánh sáng thủy tinh, chiếu chạm các loài
qủy, tất cả lửa dữ thảy đều tiêu mất.
Ánh sáng thủy tinh này vào trong miệng qủy thì cổ họng của chư qủy đều
được thông suốt, lìa các khổ não.
Nam mô tố lỗ ba duệ, đát tha yết đa
da, đát điệt tha, tô lỗ, tô lỗ, ba la tô lỗ, sa bà ha.
Đây là khế ấn của đà la ni: Ngồi bán già như cách ngồi của Chuyển luân
vương, trước dùng bàn tay phải làm dáng như nâng cần cổ (em bé), cách cần cổ
chừng một tấc, cùi trỏ đặt trên đùi phải, kế đến ngữa nghiêng bàn tay trái [19] duỗi năm ngón rũ trên đùi phải, làm dáng cho bú sữa. Khi làm thủ ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy
biến, quán tưởng tay trái năm ngón chảy
ra dòng sữa màu trắng, màu như bạch ngân, chảy mãi không dứt. Các loài qủy há miệng hứng sữa, đều được no
đủ. Thiện nam tử, người làm khế ấn này,
hiện đời được mười sáu thứ công đức.
Những gì là mười sáu ? Một là thọ
mạng dài lâu; hai là nhan sắc đẹp đẻ; ba là khí lực sung mãn; bốn là tâm thường
hoan lạc; năm là biện tài không ngưng; sáu là luôn không tưởng đói; bảy là
trong miệng thơm tho; tám là người đều kính ngưỡng; chín là thiên thần thị vệ;
mười là qủy Tỳ xá na hiện hình cung cấp; mười một là thân không bịnh hoạn; mười
hai là oai đức như vua; mười ba là ác nhân, ác qủy thấy đều hoan hỷ; mười bốn
là được phước thiên luân vương; mười lăm là mộng thấy chư bồ tát, la hán; mười
sáu là nơi chốn sanh ra, thế giới chấn động.
23.06.2009
(Mùng 1 tháng 5 nhuần Kỷ Sửu)
[1]
Đời Đường gọi là Thí ngạ qủy cam lộ vị đại đạo tràng hội đà la ni. Thân na = bố thí. Tất lợi đa = ngạ qủy. Ma đà la = cam lộ vị. Ban giá (vu sắt) hội = vô giá hội: pháp hội
thực hành tài thí và pháp thí một cách bình đẳng, không phân biệt hiền thánh, tăng
tục, sang hèn, trên dưới.
[2] Qủy
Bệ lệ đa = qủy đói, qủy Xa da = qủy hình
ảnh, qủy Kiện đà = qủy ăn hương, qủy Bố sắc ba = qủy đói ăn hoa, qủy Kệ bà da =
qủy ăn bào thai, qủy A thâu giá = qủy ăn
bất tịnh, qủy Bà đa = qủy ăn gió, qủy Ô
đà ha la = qủy ăn tinh khí, qủy Đà la chất đa = qủy tâm sân, qủy Chất đa = qủy
tâm ác, qủy Bà lỗ da = qủy ăn đồ tế tự, qủy Thị vĩ đa = qủy ăn thọ mạng của
người, qủy Khởi sa kê đà = qủy ăn thịt
mỡ, qủy Xà để = qủy ăn trẻ sơ sinh, qủy Yết tra bố đơn na = qủy thân có mùi hôi xương cháy, qủy Cưu bàn
trà = qủy giữ cung điện, qủy Tất xá giá
= qủy thần giữ nhà xí, ăn đồ bất tịnh.
[3]
Chỉ cho thân lượng cực dài lớn là một do tuần, cỡ nhỏ nhất bằng đứa bé biết
nói.
[4] Ý
nói cái đầu có thể lớn như ngọn núi. Thế
giới này lấy núi Tu di (sumeru) làm trung tâm, chung quanh núi Tu di có 7 vòng
núi vàng, vòng ngoài cùng là núi Di lâu.
[5] Ma
già đà (Magadha) tân dịch là Ma kiệt đà, cựu dịch là Ma già đà, là tên một nước
ở miền trung Ấn Độ.
[6]
Bạch lạp: hợp kim chì và thiếc.
[7]
Chết ngang trái: hoạnh tử. Kinh Dược Sư
kể ra có 9 thứ hoạnh tử.
[8]
Tam bạch thực: Ba bữa trắng, là ăn thức ăn làm bằng sữa, gạo, lúa mạch.
[9]
Hương thủy mạn đồ la: Còn gọi là Đàn địa.
[10]
Ban ngày thì dựng đàn bốn hướng, ban đêm thì dựng đàn hình trăng tròn.
[11]
A ca lỗ hương: Trầm thủy hương.
[12]
Hành giả nếu tâm chưa tương ưng thì quán tưởng các ngạ qủy như cha mẹ, vợ con,
những người mà mình thương yêu.
[13]
Chỉ dạy lợi mừng: Chánh văn là thị giáo
lợi hỷ. Đây là lối thuyết pháp của Phật
và bồ tát, theo đó thị là trình bày cho người nghe rõ thiện ác, tốt xấu; giáo
là thuyết phục người nghe bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt; lợi là chỉ ra sự
lợi ích của việc thực hành ấy; hỷ là tán thưởng sự thực hành ấy cho người nghe
vui mừng.
[14]
Tất để lợi ma da: Tất để lợi = tất điệt
rị: con gái, đàn bà. Ma da = ma la
(Màra): ác qủy cướp đoạt nhân mạng, gây nhiễu loạn, phá hoại thiện sự của loài
người. Đây là tên nữ qủy hộ trì cho
người trì chú.
[15]
Sài hồ: Thảo dược sống lâu năm, mùa hạ
nở hoa nhỏ màu vàng.
[16]
Chánh văn là Thảo phục dĩ vi Lô, nghĩa là Cỏ rồi sẽ làm Lô. Tạm hiểu, cỏ chỉ cho chúng sanh căn tánh nhỏ
bé, Lô là Tỳ lô giá na, chỉ cho pháp thân Phật.
[17]
Hai bàn chân thẳng góc với nhau.
[18]
Tay phải cong đụng dái tai phải.
[19]
Chánh văn là bàn tay phải, đùi phải, ngờ rằng là bàn tay trái, đùi phải, vì tay
phải đã làm dáng nâng cần cổ. Đây là Thí
nhũ mẫu thủ ấn.