MÙI HƯƠNG TRẦM


Nguyễn Tường Bách (Ký Sự Du Hành Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng) Nhà Xuất Bản Trẻ TP. Hồ Chí Minh 2003
05/06/2011 15:29 (GMT+7)
Số lượt xem: 9029
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

PHẦN THỨ TƯ
TÂY TẠNG HUYỀN BÍ 1
 

Đức hạnh cao quí 
Tổ tiên Tây Tạng 
Từ Liên Hoa Sinh đến Tông Khách Ba
Nóc nhà thế giới
Đền Jokhang 

ĐỨC HẠNH CAO QUÍ 

"Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là chỉ có tín tâm, không mấy người có trình độ hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì "Jokhang" tại Lhasa là thiêng thiêng hơn cả. Trong đền có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo [1]Rinpoche (Đức hạnh cao quí). Tượng Phật này được mang từ Trung quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một công chúa lấy một nhà vua Tây Tạng thời đó. 

Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đền Jokhang và của tượng Phật thiêng thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben đượÏc lên đường đi Lhasa để tận mắt được chiêm bái thánh địa này. 

Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người bị hớp hồn trong các con đường của "thành phố chư thiên" này...Nhìn thấy điện Potala, Ben thật xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai lạt-ma. Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật là tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng quí trọng nhất như Sera và Drepung, nơi đào tạo tăng sĩ. 

Ben nhủ thầm: "May mắn thay cho ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này". Sau đó Ben vào đền Jokhang và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thật và toát ra một cảm giác tôn quí thầm lặng mà vĩ đại. Ben quì lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào cũng hầu như mắc kẹt với đôi ủng cũ kỹ và chiếc mũ đầy bụi của Ben cứ rơi xuống đất. 

Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tương đang mỉm cười yên lặng và nói: "Hỡi Jowo Rinpoche, hãy coi chừng dùm các thứ này để cho con yên tâm tiếp tục chiêm bái". Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi tỏa sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa thành tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời. 

Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben.Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: "Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quí của ta xứ Kongpo!".Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ suất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị "Đức hạnh cao quí". 

Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về đến trước. Khi có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: "Ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai". Người ta kể thêm rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng lên và mang bức tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi vòng quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Đền Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị "Đức hạnh cao quí" thì ở rất gần họ" [2]. 

Khi dịch câu chuyện này, lòng tôi xúc động vì một lẽ: ai cũng có thể đến với đức Phật cả, đạo Phật không có lệ tuyển sinh. Chàng Ben có thể nhờ Phật coi chừng đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ đầy bụi của mình, chàng vô tư mời Phật về nhà để chiêu đãi con heo mập mạp nhất. Phật nhận lời và nghiêm túc giữ đồ cho chàng, vui vẻ nhận lời mời về thăm chàng, trong lúc Ben không biết tí gì về đạo Phật, cả chủ trương cấm sát sinh cũng không. Phật ra đời vì "nhân duyên lớn", để đến với thế gian, đến với những người cần đến mình, không hề phân biệt ai hơn ai kém.

Ngài đến cuộc đời không chỉ vì Xá-lợi-phất đại trí mà vì tất cả mọi ai còn bị vô minh vây phủ. Không có sự chọn lọc ai mới được là đệ tử của Ngài, ai cũng có quyền xem Ngài là thầy cả, ai cũng có quyền mời Ngài về nhà. Còn sự bình đẳng nào lớn hơn ? Giáo pháp thâm sâu của Phật thì không mấy ai hiểu ngộ, chỉ dành cho các vị đại thượng trí, còn lòng từ bi của Ngài thì lan tỏa vô phân biệt như ánh mặt trời, đó là cảm nhận của tôi. 

Tôi tìm hiểu thêm về nội dung câu chuyện hóm hỉnh này và khám phá thêm nhiều điều mới mẻ. Nhà vua Tây Tạng lấy công chúa Trung Quốc được kể trong truyện là một vị vua tên là Tùng-tán Cương-bố [3] , ông trị vì khoảng từ 617 đến 649 sau công nguyên. Ông lên ngôi năm 13 tuổi và chính là người kiến tạo kinh đô Lhasa. Các đời vua trước ông đóng đô ở lũng Yarlung, trên bờ sông Tsangpo, cách Lhasa khoảng 90km về hướng đông nam. Tùng-tán Cương-bố đã thiết lập nên một nước Tây Tạng hùng mạnh, trải dài từ nam Mông Cổ đến chân Hy-mã lạp-sơn. Nhiều nhà Phật học [4] so sánh Tùng-tán Cương-bố với A-dục-vương của Ấn Độ sống mười thế kỷ trước đó. 

Đầu tiên nhà vua Tùng-tán Cương-bố cầu hôn công chúa Nepal, con vua Amsuvarman thời đó và được nhận lời. Nàng Bhrkuti lên đường đi Tây Tạng, mang theo tượng Bất Động Như lai [5], đến xứ đầy tuyết lạnh vắng người, trong đó chưa mấy ai biết đến đạo Phật. Bhrkuti được dân Tây Tạng yêu mến, được gọi là Belsa hay Trisung, có nghĩa "bà hoàng Nepal". Sau Bhrkuti, Tùng-tán Cương-bố lại cầu hôn một công chúa khác, đó là nàng con gái Văn Thành của nhà vua Đường Thái Tông của Trung Quốc.

Đường Thái Tông vốn là nhà vua mộ đạo lý, là kẻ đã tha tội vượt biên của Huyền Trang và hỗ trợ cho ông hoàn thành công trình dịch kinh. Thái Tông gọi người Tây Tạng là "Thổ Phiên", chê "man di", không chịu gả con, lấy cớ đã hứa gả công chúa cho nhà vua nước Thổ Cốc Hồn [6]. Tùng-tán Cương-bố liền đánh đuổi Thổ Cốc Hồn, đem quân đến tận Tùng Châu đe dọa Thái Tông. Ông cho người gửi đến cho Thái Tông một phẩm vật đặc biệt, đó là một thứ vũ khí được dát bằng vàng, yêu cầu nhà vua Trung Quốc "suy nghĩ lại".

Cuối cùng Thái Tông đồng ý, cho Văn Thành lên đường đi Tây Tạng, đó là năm 640. Vì việc này mà Trung Quốc rất ức Tây Tạng, gọi biến cố đó là "Thổ Phiên nhập khấu" (Thổ Phiên vào cướp). Văn Thành mang theo về nhà chồng một bức tượng "trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu", đó là một bức tượng của thái tử Tất-đạt-đa. Văn Thành cũng được dân Tây Tạng yêu mến, được gọi là "bà hoàng Trung Quốc". 

Tùng-tán Cương-bố và hai nàng công chúa không phải người thường. Nhà vua được xem là hiện thân của Quán Thế Âm, đến Tây Tạng để tạo cơ duyên cho giáo pháp. Trong thế kỷ thứ bảy, lúc tại Trung Quốc, Phật giáo ở trong thời đại hoàng kim vào đời nhà Đường thì triều đại của Tùng-tán Cương-bố là kỷ nguyên mở đường cho giáo pháp vào Tây Tạng. Hai "Bà hoàng" đều là hiện thân của nữ thần Tara, vị bồ-tát được dân Tây Tạng tin tưởng. Tara được xem được sinh ra từ "nước mắt" của Quán Thế Âm, nàng công chúa Nepal là nữ thần Tara sắc lục, Văn Thành của Trung Quốc là vị Tara sắc trắng. Nhờ các tượng Phật của hai nàng công chúa mang đến mà các ngôi đền được xây dựng, đó là cơ sở vững chắc đầu tiên của đạo Phật. 
  
 

H 45: Tranh diễn tả Tùng-tán Cương-bố và hai nàng công chúa: Nhà vua ngồi trong thế bán già (Ardhaparyanka), tay mặt ngửa ra ngoài bắt ấn cứu độ, trên đầu mang hình A-di-đà, vị Phật liên hệ mật thiết với Quán Thế Âm. Vì thế nhà vua được xem là "ý niệm" của A-di-đà và là hiện thân của Quán Thế Âm. Bên mặt phía dưới là công chúa Nepal, quấn áo sari. Bên trái là công chúa Trung Quốc, mặc áo lụa ngắn. Cả hai cầm bình bát đựng xá-lợi Phật[7] 
 
 

Dù Văn Thành là người thường hay hiện thân của bồ tát, nàng đã mang lại cho Tây Tạng một báu vật còn được gìn giữ đến ngày nay, đó là bức tượng Tất-đạt-đa. Bức tượng này chính là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quí), được thờ trong một ngôi đền tại Lhasa. Đền này mới đầu được gọi là Trülnang, về sau mang tên Jokhang. Đó là ngôi đền và bức tượng được kể trong đầu chương này. 

Đền Jokhang ngày nay vẫn còn và ai cũng được chiêm bái vị "Đức hạnh cao quí", người không phân biệt ai là vị đại trí Xá-lợi-phất, ai là chàng Ben thật thà miền quê Kongpo, là người nhận lời mời thọ thực của một ông đồ tể. Đức hạnh cao quí đã thể hiện thành tâm vô phân biệt. Đó là lý do chính thôi thúc tôi tìm đường đến Lhasa Tây Tạng để đảnh lễ Tất-đạt-đa.
 




TỔ TIÊN TÂY TẠNG

Nếu ngày trước Govinda hay David-Néel đi Tây Tạng rất khổ nhọc thì ngày nay người ta đến xứ này tương đối dễ dàng, nhất là thủ đô Lhasa. Khách có thể từ Kathmandu, thủ đô Nepal, bay đi Lhasa, mỗi tuần hai chuyến. Nhưng cách đi hay nhất là đến Thành Đôâ, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, từ đây khách có thể dễ dàng đi thăm viếng Tây Tạng. Muốn đến Thành Đô ta có thể lấy máy bay từ Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng tiện nhất cho khách nước ngoài là từ Bangkok. Ngày nay mỗi ngày có một chuyến bay Bangkok-Thành Đô bằng đường bay South West Airlines của Trung Quốc, thời gian bay khoảng gần ba tiếng đồng hồ. Thành Đô lại là kinh đô nước Thục ngày xưa, là nơi khách có thể tham quan Nga Mi sơn, Lạc sơn, nên đến Thành Đô, khách có thể phối hợp nhiều lộ trình tham quan hết sức thú vị [8]. 

Từ Trung Quốc khách có thể đi Tây Tạng nhưng phải có giấy phép đặc biệt. Vì thế hầu như tất cả mọi người đều phải đi trong các tour do các văn phòng du lịch tổ chức. Thành Đô là nơi tập trung khách đi Lhasa vì từ đó mỗi ngày có một chuyến bay với South West Airlines. Từ Bắc Kinh, Trùng Khánh cũng có chuyến bay đi Lhasa nhưng mỗi tuần chỉ hai ba chuyến không đáng kể. 

Từ Thành Đô đi Lhasa, tôi bay từ đông sang tây. Ra khỏi Thành Đô không bao lâu một vùng núi non bát ngát đã xuất hiện, đó là lưng dựa hiểm yếu của nước Thục ngày xưa. Vùng núi non thỉnh thoảng được cắt bởi những hẻm sâu vực thẳm mà một trong những hẻm núi hiểm trở đó là thượng nguồn sông Cửu Long. Ôi, đã có một ngày tôi được bay trên đầu nguồn Cửu Long. Từ Thành Đô ta còn có một con đường bộ đi Lhasa. Tuyệt diệu thay nếu đời tôi được đi con đường đó, con đường băng núi bạt ngàn vượt qua vùng Đông Tây Tạng với những trang huyền sử. Con đường đó cũng dẫn đến suối nguồn của Cửu Long Giang mà tôi mơ ước được một ngày nếm vị ngọt của nó. 

Hôm nay tôi sẽ đến Lhasa, "thành phố của chư thiên", nằm trên độ cao 3685m. Trên độ cao này không khí đã khá loãng, tôi chịu nổi không ? Tôi đã lên Zugspitze, đỉnh cao nhất nước Đức chưa đầy 3000m, đã đến Nga Mi sơn cao khoảng 3100m. Thế thì Lhasa phải là chỗ cao nhất xưa nay tôi chưa đến, độ cao của nó vượt hơn đỉnh Hoàng Liên sơn của ta khoảng nửa cây số. Tây Tạng là một một xứ sở kỳ dị, lớn rộng như Tây Âu, độ cao trung bình của nó khoảng 4500m. Dân của họ hết sức thưa thớt, quen sống vùng rẻo cao, ít người xuống được bình nguyên. Nguồn gốc của họ là từ đâu ? 

Thời kỳ xa xưa của Tây Tạng chìm sâu trong bóng tối của lịch sử, như nhà Phật học người Ý Giuseppe Tucci [9]  nói, "không có bao nhiêu dữ liệu mà phải đoán mò từ những truyền thuyết tôn giáo". Thế nhưng nhiều nhà địa chất và khảo cổ quả quyết rằng, đất Tây Tạng ngày xưa vốn nằm dưới đáy biển! Cách đây khoảng 40 triệu năm, bán đảo Ấn Độ di chuyển, va chạm vào lục địa châu Á mà đội lên thành Hy-mã lạp sơn và cao nguyên Tây Tạng ngày nay. Vì thế mà ngày nay người ta vẫn còn tìm thấy nhiều dấu vết của động vật sống dưới biển đã hóa thạch và nhiều hồ Tây Tạng là hồ nước mặn. 

Tổ tiên người Tây Tạng, theo lời của chính họ, là một con khỉ ! Con khỉ đó không phải tầm thường, nó là một hiện thân của Quán Thế Âm, tìm đến một hang động lạnh lẽo trên núi cao để thiền định. Thế nhưng gần đó có một nàng ma nữ, gặp khỉ nàng khóc lóc than thở về mối cô đơn hiu quạnh của mình. Động lòng từ bi, khỉ chịu chung sống với ma nữ và sinh sáu người con và đó là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng. Ngày nay người Tây Tạng vẫn tự thấy mình là sự tổng hợp của lòng từ bi dịu hiền của khỉ và sự lì lợm tham lam của ma [10]. 

Tây Tạng có một số lượng dân cư hết sức thưa thớt. Thủ đô Lhasa ngày xưa, trước khi Trung Quốc xâm nhập năm 1959, chỉ có khoảng 30.000 dân. Thành phố lớn thứ hai là Shigatse với khoảng 12.000 dân, thứ ba là Gyantse với khoảng 8000 dân. Toàn bộ dân tộc Tây Tạng chỉ gồm khoảng 5-6 triệu dân. Có lẽ không ai quan tâm đến dân tộc này và chỉ xem họ chỉ là một chủng tộc hoang sơ sống trên rẻo cao nếu Tây Tạng không có một nền văn hóa độc đáo.

Trong nền văn hóa vô song đó đạo Phật đóng một vai trò chủ đạo, nhưng đạo Phật tại đó cũng không còn là Phật giáo Ấn Độ, cũng chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, mặc dù mối liên hệ với hai vùng văn hóa đó hết sức mật thiết. Từ một xứ sở tưởng chừng như hoang sơ đó đã sinh ra và phát triển thành một trường phái Phật giáo thâm sâu, vừa đầy tính lý luận khúc chiết vừa đầy tính mật tông ảo diệu. Đến thời đại hiện nay Phật Giáo Tây Tạng tương đối còn sức sống trong lúc Phật Giáo tại Ấn Độ và Trung Quốc đã suy tàn. 

Máy bay hạ dần độ cao, bay ngược dòng một dòng sông có chiều dài tổng cộng khoảng 2900km. Bên trái dưới máy bay là dòng sông Yarlung Tsangpo, một dòng sông anh em của Trường Giang, Hoàng Hà, Cửu Long. Nguồn của nó là dưới chân Ngân Sơn, ở miền tây Tây Tạng. Đối với Tây Tạng, Tsangpo cũng quan trọng như Trường Giang với Trung Quốc. Nó phát nguồn từ một mạn-đà-la vĩ đại quanh Ngân Sơn [11] , tên của nó có nghĩa "chảy từ hàm ngựa", chảy từ đông qua tây, bọc quanh một ngọn núi tuyết cao trên 7700m rồi thẳng đường phía nam, lúc này nó mang tên Brahmaputra, xuyên qua Bangladesh chảy ra Ấn Độ dương. 

Tsangpo chính là nơi các nhà vua Tây Tạng xây dựng cơ đồ. Theo truyền thuyết, một ngày nọ trong năm 313 trước công nguyên, có một vương tử Ấn Độ thất thế phải chạy ngược lên Hy-mã lạp sơn. Đó là thời kỳ hùng mạnh của triều đại Maurya tại Ấn Độ, có lẽ vị vương tử này vì thế mà lánh nạn chăng. Vượt tuyết sơn đến Tây Tạng thì ông gặp dân chúng sống trong hang động, họ hỏi ông từ đâu tới. Vì bất đồng ngôn ngữ ông đành chỉ tay lên trời. Dân chúng tưởng ông từ trên trời giáng thế nên công kênh lên vai, tôn ông làm vua. Đó là vị vua đầu tiên, Nyatri Tsenpo. Vị vương tử may mắn này đưa văn minh Ấn Độ vào Tây Tạng, cho xây cất nhà cửa và đặt kinh đô bên dòng Tsanpo, thung lũng Yarlung. 

Khi Nyatri Tsenpo chết thì huyền sử chép "theo một sợi dây mà lên trời"và sáu đời vua sau ông cũng theo cách đó mà giã từ nhân thế. Thế nhưng đến đời vua thứ tám, Drigum Tsenpo thì "dây dứt", nhà vua này được chôn tại Yarlung và từ đó về sau lăng mộ các nhà vua Tây Tạng đều ở Yarlung cả, ngày nay vẫn còn. Đến đời thứ 23, lúc đó là khoảng năm 371 sau công nguyên, thời nhà vua Totori Nyentsen, "trên trời bỗng rơi xuống nóc điện nhà vua"kinh sách bằng tiếng Phạn không ai đọc được. Trong một giấc mộng nhà vua được biết rằng, năm đời sau mới có vị vua đọc và hiểu được kinh sách. Đó chính là vị Tùng-tán Cương-bố nói trong chương trước. 

Tùng-tán Cương-bố lên ngôi, nước Tây Tạng hưng thịnh chưa từng có và cùng với hai nàng công chúa nước ngoài, ông không những "đọc và hiểu" kinh sách tiếng Phạn mà còn xây đền tháp, gửi người đi tu học ở Ấn Độ, dịch kinh sách. Căn cứ trên tư tưởng Phật Giáo, nhà vua ban bố "Thập thiện" và "Thập lục yếu luật" để dân chúng thi hành. Nhiều học giả cho rằng, kể từ đây nước Tây Tạng mới thoát khỏi tình trạng hoang sơ man dã.
 

TỪ LIÊN HOA SINH ĐẾN TÔNG-KHÁCH-BA 

Sau khi Tùng-tán Cương-bố mất, nước Tây Tạng vẫn hết sức cường thịnh, thế nhưng Phật giáo rơi vào tình trạng suy thoái. Hai đời sau Tùng-tán Cương-bố là một nhà vua tên là Khí-lệ Tú-tán (sống khoảng đầu thế kỷ thứ 7), vị này cầu hôn được một nàng công chúa Trung Quốc tên là Kim Thành. Kim Thành là một đệ tử Phật giáo thuần thành, mang về Tây Tạng nhiều vị sa-môn và kinh sách. Nhưng quan trọng nhất là bà đã tặng cho dân tộc Tây Tạng một người con trai xuất sắc, đó là Trisong Detsen [12], là vị vua đã chính thức cho Phật giáo du nhập Tây Tạng. Thời đại của ông được xem là thời đại Phật giáo du nhập lần thứ nhất và cũng kể từ đây, lịch sử Tây Tạng không thể tách rời với các giai đoạn truyền bá của đạo Phật. 

Trisong Detsen lên ngôi năm 12 tuổi, thời đại của ông còn huy hoàng hơn cả thời Tùng-tán Cương-bố. Đây là thời gian mà Tây Tạng xâm chiếm cả Thanh Hải và Tứ Xuyên của Trung Quốc. Nhà Đường Trung Quốc cũng phải run sợ "thổ phiên" ở Tây vực, hàng năm phải nộp triều cống cho Tây Tạng. Thậm chí năm 735, vì Trung Quốc thiếu phẩm vật, Tây Tạng đem quân vây cả Trường An. Thế nhưng Trisong Detsen để lại cho đời sau không phải là những chiến tích mà là công lao du nhập Phật giáo vào Tây Tạng mà việc đầu tiên là mời Tịch Ho [13] . Tịch Hộ là một cao tăng thuộc phái Trung quán tông, là viện trưởng viện Phật học Siêu Giới [14]. Lúc Tịch Hộ đến Tây Tạng là lúc nơi đây vừa bị thiên tai dịch bệnh hoành hành. Các cận thần của nhà vua lấy cớ đó cho rằng Tịch Hộ chỉ mang tai họa cho Tây Tạng. Nhà vua khẩn cầu Tịch Hộ hàng phục ma quái nhưng ông từ chối và cho vua hay chỉ có một người có đủ thần thông khắc phục, đó là Liên Hoa Sinh [15]. 

Tương truyền rằng Liên Hoa Sinh sinh ra trong một hoa sen tại miền linh địa Ô-trượng-na [16] , một vùng tây bắc Kashmir. Ông là người hay sử dụng thần thông, chú thuật để nhiếp phục ma quái. Vừa đến biên giới Tây Tạng, Liên Hoa Sinh được đón tiếp bằng bão tuyết, mưa đá, bằng các tai họa thiên nhiên do các lực lượng ma quái thù địch gây nên. Trong thời kỳ đó người Tây Tạng phần lớn đều theo đạo Bon (Bổng giáo), đó là tôn giáo thờ các vị địa thần, thần núi, thần sông, ma quái, kết bạn với họ và cũng sử dụng họ như âm binh. Dựa trên tâm lý này, Liên Hoa Sinh thi triển thần thông nhiếp phục các lực lượng này và thậm chí đưa các vị thần này về với chính pháp, cho họ có một chỗ đứng trong hệ thống Phật giáo. Liên Hoa Sinh để lại dấu ấm sâu đậm nhất trong lịch sử Tây Tạng, ông là người sáng lập dòng Ninh-mã [17], để lại vô số bí lục [18] về các phép tu học hành trì. Người Tây Tạng xem Liên Hoa Sinh chính là hóa thân của Thích-ca mâu-ni. 

Nhà vua Trisong Detsen, được xem là hóa thân của Văn-thù sư-lợi, tận mắt chứng kiến khả năng phi thường của Liên Hoa Sinh và trở thành đệ tử của ông. Theo lời Liên Hoa Sinh, nhà vua cho mời Tịch Hộ trở lại Tây Tạng và ba vị này là những người chính thức đặt nền móng cho Phật Giáo Tây Tạng bằng cách bắt đầu cho học tập và phiên dịch kinh điển và xây dựng đền Tang Duyên [19] năm 775. Đền này nằm ở phía đông Lhasa, cách khoảng 50km, đang từ từ hiện ra dưới cánh máy bay.. 

 

[20]

Lịch sử cuối đời của Liên Hoa Sinh ra sao thì không ai rõ, có người nói ông về lại Ấn Độ sau khi xây dựng chùa Tang Duyên, có kẻ cho ông ở lại Tây Tạng lâu hơn. Dù sao thì đời của Liên Hoa Sinh được phủ bằng một tấm màn huyền thoại và điều đáng chú ý là người Tây Tạng vẫn xem ông hầu như còn hiện diện đâu đó, còn thiền định trong hang động lạnh lẽo hay đang sống dưới dạng của một con người ẩn danh. 

Trong những năm cuối của thế kỷ thứ tám có một cuộc hội nghị quan trọng, được gọi là "cuộc tranh luận tại Lhsasa", nó để lại dấu vết quan trọng trong nền Phật Giáo Tây Tạng. Đó là cuộc tranh luận giữa Thiền Tông Trung Quốc và Trung Quán Tông Ấn Độ mà cuối cùng phái Trung Quán thắng thế. Đó là thời kỳ hoàng kim của thiền Trung Quốc mà vị đại diện tại Lhasa là Đại Thừa hòa thượng. Đại Thừa hòa thượng chủ trương "đốn ngộ trực chỉ, phóng khoáng giáo hóa, bài xích giáo nghĩa, chống diễn dịch phân biệt" [21] .

Phía Trung Quán có một vị luận giải rất xuất sắc, đó là Liên Hoa Giới [22] , học trò của Tịch Hộ. Cuộc tranh luận này xảy ra năm 792 với sự có mặt của nhà vua, phe nào thắng sẽ trở thành quan điểm chính thống của Phật Giáo Tây Tạng. Như ta có thể tự đoán ra, Thiền Tông với chủ trương "bất lập văn tự" không thể nào tranh cãi nổi với phái Trung Quán chuyên biện luận khúc chiết từ thời Long Thụ. Thế là quan điểm Trung Quán thắng thế và điều đó để lại ảnh hưởng không nhỏ đến ngày nay. 

Sau Trisong Detsen hai đời là nhà vua Relbachen, trị nước từ năm 815 đến 836. Ông được xem là hiện thân của Bồ-tát Kim Cương Thủ [23] và trong thời kỳ này, Phật giáo thịnh hành chưa từng thấy. Vô số đền đài được xây dựng, kinh sách được biên dịch, tăng sĩ Ấn Độ được mời đến Tây Tạng giáo hóa, tăng sĩ Tây Tạng được gửi đi nước ngoài học tập. Đây cũng chính là hiểm họa vì triều đình quá sức ưu đãi Phật giáo làm nhân dân oán hận. Đó chính là điều đã từng xảy ra tại Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5, thời Đạo Vũ Đế. Cuối cùng Relbachen chết năm 836, lý do không rõ, có thuyết cho rằng ông bị ám hại. Và cũng tương tự như thời kỳ sau Đạo Vũ Đế tại Trung Quốc, người nối ngôi Relbachen là một nhà vua tên gọi là Lang Darma, vị này lên ngôi liền đốt phá chùa chiền, tiêu diệt tăng sĩ. Đây là pháp nạn lần thứ nhất tại Tây Tạng. 

Bất bình trước cảnh giáo pháp bị tru diệt, một tăng sĩ Tây Tạng có tên là Belgyi Dorje [24] giả trò biểu diễn múa võ, hạ sát nhà vua năm 842. Sau đó Tây Tạng rơi vào nội loạn, Trung Quốc chiếm lại được đất đai đã mất nhưng rồi bản thân nhà Đường cũng bị tiêu diệt năm 905. 

Khoảng cuối thế kỷ thứ 10, tại tây Tây Tạng có một vương quốc gọi là Guge bắt đầu quan tâm lại đến Phật Giáo và cho tăng sĩ qua Ấn Độ tu học, trong số đó có một vị đáng chú ý là Rinchen Sangpo [25] . Vị này có thể được xem là Huyền Trang của Tây Tạng, đi Ấn Độ ba lần, tu học tại đó tổng cộng 17 năm và đem về Tây Tạng vô số kinh sách. Nhưng nếu Huyền Trang chỉ là nhà dịch kinh thì Rinchen Sangpo còn là người xây dựng khoảng 108 tu viện tại miền tây Tây Tạng, trong số đó có tu viện Tholing nổi tiếng, còn giữ được đến ngày nay. Rinchen Sangpo xuất chúng như thế nhưng ông còn tôn một vị tăng sĩ trẻ hơn mình khoảng 25 tuổi làm thầy, đó là A-đề-sa [26]. 

A-đề-sa là một tăng sĩ tiếng tăm lừng lẫy, là giảng sư tại viện Na-lan-đà và Siêu giới. Ông đến Tây Tạng lúc đã 60 tuổi, tổng hợp giáo pháp của Trung Quán và Duy Thức, hòa hợp quan niệm của Đại Thừa và Mật Tông, viết bộ Bồ-đề đạo đăng luận [27] nổi tiếng. Đó là thời kỳ được xem là lần thứ hai truyền bá đạo Phật vào Tây Tạng, lần đầu là với Liên Hoa Sinh và Tịch Hộ. Khoảng vài trăm năm sau A-đề-sa, Phật Giáo Tây Tạng phát triển vượt bực, đồng thời tự chia ra nhiều hệ phái. 

Khoảng đầu thế kỷ 12, nước Mông Cổ sản sinh một nhân tài kiệt xuất, đó là Thành Cát Tư Hãn. Bây giờ đến lượt Tây Tạng run sợ trước sức mạnh của Mông Cổ và chịu lệ thuộc. May thay, người Mông Cổ cũng như Tây Tạng, rất quí trọng nền lạt-ma giáo nên vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt bảo hộ Tây Tạng, cử một vị lạt-ma làm đại diện cho mình tại đây. Chế độ tăng sĩ nắm quyền bính bắt đầu từ đây và do đó mà sinh ra vô số phiền toái mà về sau ta sẽ biết.

Trong thế kỷ thứ 14, đại sư Tông-khách-ba [28] ra đời, nhà cải cách tôn giáo quan trọng nhất, là người xây dựng nền Phật Giáo Tây Tạng của ngày nay. Ông là người chỉnh đốn lại giáo luật, soát xét lại toàn bộ kinh điển và cũng là người xây dựng nhiều đền tháp quan trọng. Ông chính là người sáng lập tông phái Cách-lỗ [29], là tông phái của Đạt-lai lạt-ma và Ban-thiền lạt-ma còn truyền đến ngày hôm nay. Trong các đền đài của Phật Giáo Tây Tạng, sau Thích-ca mâu-ni ta thường gặp tượng của Liên Hoa Sinh và Tông-khách ba. 

Sau Tông-khách-ba thì dòng tái sinh của Đạt-lai lạt-ma được xem là người lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng. Các vị lạt-ma này đều được xem là hiện thân của Quán Thế Âm, mỗi một vị là thân tái sinh của vị trước. Vị Đạt-lai lạt-ma thứ 14 hiện nay sống tại Ấn Độ và cũng là người đại diện quan trọng nhất của Phật Giáo thế giới. Tác phẩm của ông ngày nay tràn ngập thế giới, luận giải của ông về Trung Quán là xuất sắc và thâm sâu nhất không ai bằng. Tôi được gặp ông tại Bonn, đã nghe ông giảng những điều hết sức giản dị về Phật Giáo. Tiếng nói ông có một âm vang sâu thẳm và quen thuộc. Tiếng cười của ông sảng khoái và có chút hóm hỉnh, hầu như hé cho tôi thấy những gì ông đang đấu tranh cho quê hương Tây Tạng của ông chỉ là một chuyện thế tục mà ông phải làm, thật ra không hề quan trọng. 

Hôm nay tôi đến quê hương của ông, sẽ đi thăm bái điện Potala. Theo huyền sử, tên Potala chính là trú xứ của Quán Thế Âm tại Nam Ấn Độ, thế nên Phổ Đà sơn ngoài khơi Ninh Ba chính là tên chữ Hán của Potala để chỉ trú xứ của Ngài tại Nam Hải Trung Quốc. Tôi đã đến Phổ Đà sơn, vài hôm nữa sẽ đến Potala tại Tây Tạng, sẽ làm trọn một vòng đảnh lễ Quán Thế Âm.

NÓC NHÀ THẾ GIỚI 

Máy bay hạ cánh ở sân bay nằm tại thị trấn Gongkhar, cách Lhasa khoảng 120km về phía nam. Đây hẳn là sân bay xa trung tâm thành phố nhất mà tôi đã từng đi. Thế nhưng đó là điều may cho tôi vì Gongkhar nằm trên bờ nam của sông Yarlung Tsangpo mà con sông này thì tôi muốn tận mắt mình nhìn thấy. 

Tôi ra khỏi cửa máy bay với tâm trạng ít nhiều hồi hộp, dưỡng khí đâu cho tôi thở ? Thế nhưng tôi quên ngay băn khoăn khi thấy cảnh vật hiện ra. Tôi nhìn quanh và nhận ra rằng đây là một vùng lũng thấp của Tây Tạng, xung quanh là sườn núi thoai thoải. Trên sườn núi những vệt nắng rõ nét làm tôi chú ý, chúng có cái gì khác lạ. Màu nắng ban mai vào một ngày mùa hè rất tươi làm tôi vui thích, nhưng màu nắng này cũng có cái gì không giống màu nắng mà tôi hay thấy.

Trên cao những đám mây trắng trôi lơ lững, tôi sớm nhận ra rằng chúng gần tôi hơn và sực nhớ mình đang ở độ cao gần 3700m. Ở độ cao này áp suất không khí chỉ còn khoảng 68% so với áp suất tại mặt biển. Không khí trong và loãng. Vài phút sau khi ra khỏi máy bay tôi chưa nhận ra thân thể mình có gì khác lạ, nhưng chiều hôm đó tôi sớm biết. Và trong những ngày sau, tôi biết thêm tại sao những vệt nắng in trên sườn núi tại gần sân bay lại rõ nét. Dễ thôi, những đám mây trắng nằm sát với mặt đất hơn, bóng của chúng đậm hơn và sắc nét hơn. 

Ôi tôi đã lên tới một nơi mà lũng thấp của nó cao hơn các ngọn núi của miền đồng bằng. Nhưng không phải chỉ có thế, đây là một vùng đất kỳ lạ của một nền văn hóa độc đáo, của những thánh nhân sống đời viễn ly. Trên sườn núi xa xa kia, có vị nào đang hành trì thiền định ? 

Phi trường Lhasa này chỉ là một là một sân bay nhỏ, khách đi bộ vào nhà lãnh hành lý, may cho tôi khỏi phải leo cầu thang. Hơi thở tôi đã bắt đầu mệt nhọc, tôi cố thở hơi thật dài, nhớ có ai đó nói rằng hãy nghĩ đến huyệt đan điền ở bụng dưới, hãy dẫn khí vào đó. Tôi đâu có bao giờ tập khí công, chỉ sau vài hơi thở tôi lại quên. Tôi sớm thấy rằng trái tim bơm máu và lá phổi lọc khí vốn ăn nhịp với nhau nay đã hoạt động loạn xạ. Điều dễ nhận ra là tôi thấy có khi mình không mệt, nhưng vài phút sau lại thấy tim ngực mình mỏi rã rời. May cho tôi đã lựa đúng một ngày hè để đi Tây Tạng, nếu hôm nay mà nhiệt độ dưới không chắc tôi không chịu nổi. Tôi cho những chiếc va-li vào xe bus và tự nhủ sẽ không có việc gì phải làm đến lúc mình về đến khách sạn. Theo kế hoạch của ban tổ chức tour, chiều nay chúng tôi được nghỉ. 

Lên xe bus mỗi khách được nhận một tấm khăn lụa trắng choàng quanh cổ, đúng truyền thống chào khách và chúc lành của người Tây Tạng. Một nỗi hân hoan kỳ lạ chiếm lấy tôi khi xe chạy ngược dòng Tsangpo đi về phía tây, bên mặt tôi là dòng sông chảy từ Ngân Sơn thiêng liêng. Từ đây nó sẽ chảy vài ngàn cây số nữa, làm một vòng lớn ở phía tây của Tứ Xuyên, hầu như đến chào Nga Mi sơn, trước khi trút nước xuống Bangha Desh và phân ra vố số nhánh để chảy ra Ấn Độ dương.

Dòng chảy của nó còn rất xa mà lạ thay, nơi đây nó êm đềm như mặt hồ. Hướng dẫn viên do hay mùa này nước cạn, quả nhiên ở giữa lòng sông là không biết cơ man nào là đụn đất cát, giữa dòng mà cây cối mọc xanh tươi. Màu nắng trong và tươi đến mức kỳ lạ, cảnh quan bao la bát ngát, một bên là sông rộng mênh mông ít nước, một bên là núi đá nằm xa xa. Tôi nghe Tây Tạng là xứ ít cỏ cây nhưng sao đây chỉ toàn một màu xanh thuần tịnh ? 

Phải rồi, tôi đang ở thung lũng của Yarlung Tsangpo, đây phải là một nơi xanh tươi nên các nhà vua xưa của Tây Tạng đã chọn nơi đây thành lập kinh đô. Vả lại mùa này là những ngày hè với nắng ấm hiếm hoi, cây cối đang nứt chồi xanh, con người đang chăm lo vụ mùa lúa mì của họ. Theo đường xe chạy, tôi bắt đầu thấy những người Tây Tạng với nhiều lớp quần áo màu đậm truyền thống của họ, tôi nhận ra họ vẫn quen mặc áo ấm ngay trong mùa hè. Hình như trong bóng mát, vào mùa hè gió vẫn lạnh, tôi ngồi trong xe ngẫm nghĩ. Nhà cửa của người Tây Tạng có hình khối lập phương, vách xây bằng đá tảng, mái bằng. Bốn góc trên nóc nhà là nơi có bốn cột cao khoảng một mét, treo phướn cầu nguyện nhiều màu. Có nhà chỉ treo hai cột, phải chăng có mức độ "cao thấp" giữa các nhà. 

Phướn cầu nguyện là cái độc đáo của người Tây Tạng, không có nước nào khác theo Phật giáo mà có tục lệ này. Đó là những mảnh vải lụa nhiều màu in kinh chi chít, họ treo như những lá cờ, chúng bay phần phật trong gió và tung rải trong không gian mọi phước lành. Tôi nhớ những lá phướn này tại Lâm-tì-ni và Bồ-đề đạo tràng tại Ấn Độ, chúng ghi dấu những người Tây Tạng đi hành hương rất xa. Mới nhìn qua những lá phướn bay trong nắng ta dễ tưởng có ai phơi áo quần mới giặt.

Tôi đã thầm trách như thế khi đến Bồ-đề đạo tràng ở Ấn Độ, ai đi phơi quần áo quanh gốc bồ-đề, chỗ Phật thành đạo. Nhưng không, nhìn kỹ thì thấy chúng là vải lụa mang chi chít chữ Tây Tạng, hỏi ra mới biết phần lớn là nội dung của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà ta hay gọi là kinh "Pháp Hoa", kinh Phật thuyết trong những ngày cuối đời. Ngày sau khi đến Lâm-tì-ni, thấy những lá phướn này kết thành băng treo ngang dọc, tôi hân hoan đi dưới tiếng phất gió phần phật của chúng, lòng nghĩ không biết bao giờ mới ngộ được nội dung Pháp Hoa. 

Đi ngược dòng Yarlung Tsangpo không bao lâu, xe đổi hướng băng sông đi lên hướng Bắc. Đây là nơi hai sông Kyi Chu và Yarlung Tsangpo gặp nhau, xe qua cầu sắt tiến về kinh đô Tây Tạng. Ngày xưa các nhà vua Tây Tạng bỏ lũng Yarlung Tsangpo về Lhasa vì lý do huyền bí nào không ai rõ nhưng cảnh quan càng đến gần Lhasa càng bát ngát xanh tươi. Tôi nhớ lại mô tả của Govinda trong "Con đường mây trắng" [30], rõ là trên cao nguyên này màu sắc khác hẳn dưới đồng bằng. Đúng là tất cả các màu có một độ trong sáng và rực rỡ.

Núi non có nhiều màu khác nhau, ngọn gần thì có màu xanh lục của cây cối pha lẫn màu vàng của cát nằm đầy trên sườn núi. Các ngọn xa hơn có màu đồng đỏ và các ngọn xa hơn nữa có màu xanh dương. Chúng nằm xếp bên nhau trên một khung cảnh hoành tráng của đất trời, phía dưới là nước sông trong vắt, phía trên là bầu trời xanh màu nhung thẫm. Những màu sắc này cống hiến cho những ai tận mắt thấy chúng, không thể mô tả bằng lời. Không gian hầu như cũng khác so với bình nguyên, khoảng cách trong không gian không thể phỏng đoán bằng mắt. Núi non như nổi bật trong khung trời, nó tiến sát gần với chúng ta. Có những ngọn núi mà tôi đoán rất gần nhưng khi thấy những đàn cừu nhỏ chi chít như đầu kim ăn cỏ trên sườn núi thì mới hay nó nằm rất xa. Phải chăng không khí loãng tạo cho ta cảm giác như thế, tôi không thể giải thích. 

Govinda kể lại cho Sangharakshita [31] nghe về sự kinh ngạc của ông về màu sắc trên cao nguyên Tây tạng và Sangharakshita cũng thừa nhận là đúng như thế. Sangharakshita còn viết cả một chương sách nói về mối liên hệ giữa màu sắc trong thiên nhiên và trong các bức họa Thangka. 

Tôi nhảy xuống xe để chụp hình Thích-ca mâu ni tạc bên vách núi, chỗ này còn cách Lhasa khoảng 18km. Bên cạnh Ngài là hình của nữ thần Tara, sắc trắng và sắc lục. Tôi sớm biết tại Tây Tạng người ta hay khắc họa hình tượng, thần chú, lời kinh lên vách núi để nhắc nhở và chúc lành cho lữ khách đi đường. Tây Tạng là một xứ sở của 16.000 tu viện, là nơi mà người dân sống liên tục trong một tâm thức tôn giáo, là một vùng cao nguyên mênh mông mà trong nhà ngoài ngõ, trên núi dưới lũng, ở đâu cũng hiện diện một niềm xác quyết tâm linh, rằng vũ trụ là một thể thống nhất, con người là một phần của thiên nhiên, sống chết là một sự tương tục miên viễn. 

Xe vào địa phận Lhasa. Lòng tôi đang hân hoan bỗng chùng lại vì những kiến trúc to lớn của người Hán hiện lên trước mắt. Tôi trở lại với thực tế, Tây Tạng bây giờ đã khác xưa. Ngồi trên xe tôi thấy người bản xứ đang lầm lũi đi bộ, tay họ quay bánh xe mani liên tục, hẳn họ trên đường đi đến tham bái điện Potala. Nhưng thôi, tôi hết nhìn ngắm họ và thở một hơi dài nhẹ nhõm khi xe đến khách sạn Tibet, nơi tôi sẽ ở nhiều ngày. 

Người làm thủ tục check-in cho tôi là người Hán, họ nói tiếng Anh hết sức hạn chế. May thay phòng tôi ở tầng trệt, khỏi phải leo cầu thang. Người xách va-li vào phòng cho tôi là một cô gái người Tây Tạng. Tôi mở va-li ra và thấy chai dầu gội đầu đem từ Tứ Xuyên lên không hiểu sao phồng lên như một cái bong bóng. Ngay sau đó tôi hiểu là áp suất không khí ngoài chai dầu - áp suất Tây Tạng - thấp hơn áp suất Tứ Xuyên còn nằm phía trong nên chai phồng lên. May thay nó không bể. Tôi nhìn vào gương, bất ngờ thấy môi mình tím ngắt. Thì ra không khí loãng không đủ dưỡng khí nuôi máu. Người ta nói chỉ cần nửa ngày là quen độ cao, tôi hy vọng thế. Tôi ráng ngủ nhưng đầu thì nhức, tim thì đập. Hỡi "Đức hạnh cao quí", xin hẹn ngày mai.
 

ĐỀN JOKHANG 

Lhasa nằm trên bờ bắc của sông Kyi Chu, đó là một của vô số dòng sông con chảy về Yarlung Tsangpo. Ngày xưa vua Tùng-tán Cương-bố dời đô từ lũng Yarlung về đây hẳn có nhiều nguyên nhân huyền bí ta không hiểu hết. Ngày nay người ta chỉ còn nhắc lại lời công chúa Văn Thành, nàng cho rằng địa thế của Lhasa giống như bánh xe chính pháp của Phật, nàng là người Hán tộc mà biết quí trọng kinh thành thiêng liêng này biết bao. Nhưng lịch sử mỉa mai thay, ngày hôm nay, cũng những người Hán đang ngự trị và biến Lhasa, vốn được mệnh danh là "thành phố của chư thiên", thành một đô thị thế tục bình thường. Nhưng thôi, tôi không muốn lòng mình bực dọc. Tôi phải chuẩn bị cho mình một tâm thức tương ứng để đến tham bái vị "Đức hạnh cao quí" trong đền Jokhang. 

Khách sạn tôi ở cách trung tâm Lhasa chừng 4km về phía tây. Xe chạy theo đường "Bắc Kinh đông lộ" để đến khu vực Barkhor. Barkhor không gì khác hơn là chợ của người Tây Tạng, đó là một khu bazar với vô số hàng quán bán đồ lưu niệm, trái cây, thức ăn, hàng tạp hóa, tranh tượng...Đến Barkhor là đến khu vực của người Tây Tạng, đây là nơi người dân bản xứ tụ họp chuyện trò, nghỉ chân, phơi nắng. Bakhor cũng là nơi mà khách địa phương hay nước ngoài ai cũng đến, do công trường này nằm ngay trước đền Jokhang. Trong ngôi đền này là bức tượng thiêng liêng nhất Tây Tạng, bức Jowo Rinpoche mà tôi tự đặt tên là "Đức hạnh cao quí" hay "Bức tượng biết nói", dựa trên câu chuyện tôi đã kể trong một chương trước. 

Người ta dễ ngạc nhiên về vị trí của đền Jokhang. Thông thường tại Tây Tạng, các tu viện đền đài nằm trên đồi núi cao, làng xóm ở dưới thung lũng và thực tế là các tu viện sau này tôi đi thăm cũng như thế thật. Thế nhưng Jokhang nằm ngay giữa chợ ! Tiếng ồn của chợ búa sẽ làm phiền các vị giác ngộ ? 

Đến chợ Barkhor khách sẽ bị kêu réo mời chào, những tiếng gọi "cheaper, cheaper" bằng tiếng Anh đơn giản cứ đập vào tai những du khách như tôi. Dù mặt tôi xem ra là mặt người Hán nhưng vì vai mang ba-lô, tay xách máy hình nên ai cũng tìm cách bán tranh tượng. Nhưng không, tôi nhất định đi thẳng vào đền, đảnh lễ Tất-đạt-đa trước khi có một hoạt động mua bán nào. Vừa gần đến đền tôi gặp một đoàn người Tây Tạng. Tới đây thì may thay, không ai thèm ngó ngàng gì đến tôi, những kẻ hành hương sùng tín đó chân đi chậm rãi, tay quay mani, miệng rì rầm cầu nguyện.

Đó là đoàn người đi đảnh lễ như tôi, họ là "tăng", bạn hữu của tôi, là một trong tam bảo. Ôi, đáng quí trọng thay, đoàn người cùng đi đảnh lễ Đức Thế Tôn, họ đi quanh đền theo chiều kim đồng hồ. Vách tường bên ngoài đền đỏ thẩm, đúng màu truyền thống của tu viện. Đến bên vách ngoài phía đông của đền mà bên trong là bức tượng Jowo, khách quì lạy vị Đức hạnh cao quí mà chưa cần nhìn thấy bức tượng. Họ nằm dài trên mặt đất để biểu lộ sự khiêm cung nhẫn nhục. Nhẫn nhục là một trong sáu hạnh ba-la-mật, tôi thầm nghĩ. 

Đền này do công chúa Bhrkuti xây dựng, nàng là vợ của vua Tùng-tán Cương-bố. Tương truyền rằng chỗ xây đền ngày xưa là hồ nước mà lại là trái tim của một ma nữ, nó là người ngăn cản không cho ai được xây dựng bất cứ chốn thờ phụng nào. Rồi cũng lại công chúa Hán tộc Văn Thành là người hiểu phong thủy và trấn được cuộc đất này. Nàng ném vào đó chiếc nhẫn mình hay đeo và ra lệnh cho dê chở đất đổ vào hồ và chỉ loài dê mới được làm công việc đó. Theo tiếng Tây Tạng, dê là "Ra", là linh vật của thần hộ pháp Damcen, đất là "Sa".

Từ đó mà chốn này mang tên Rasa, dần dần biến thành Lhasa, tên gọi ngày nay của kinh thành. Cho nên ta có thể xem công trình Jokhang là gốc của Lhasa. Từ năm 642 đến năm 653 ngôi đền này được xây dựng bằng những bàn tay của nghệ nhân Nepal. Trong ngôi đền đó, bức tượng Bất Động Như lai của Bhrkuti mang theo được thờ. Còn nàng Văn Thành cũng xây một ngôi đền khác gần đó và thờ tượng Jowo, đền đó ngày nay cũng còn, tên gọi là Ramoche. Chẳng bao lâu sau, để tỏ tình đoàn kết, hai nàng đem đổi chỗ của hai bức tượng và từ đó Jowo được thờ tại Jokhang. 

Nhưng do đâu nàng Văn Thành lại có bức Jowo, đó là điều đã nằm trong bóng tối của lịch sử. Theo một truyền thuyết thì bức tượng Jowo được vị thiên thần Ấn Độ chủ về nghệ thuật tên gọi là Vishvakarma tự tay tạo dựng lúc đức Phật còn sống. Bức tượng này đến Trung Quốc là do A-dục vương biếu tặng trong quá trình ông truyền bá đạo Phật trong thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. 

Tôi vào cửa đền thì đến một cái sân vuông với vô số đèn. Những chiếc đèn cháy bằng mỡ trâu này toát ra một cái mùi kỳ lạ. Bên cạnh dàn đèn là một chiếc bàn thấp với khoảng mười vị lạt-ma đang tụng kinh. Gần đó là cổng chính của đền, vào trong đó tôi sẽ thấy bức tượng Jowo mà tôi không bao giờ ngờ mình sẽ được chiêm bái. Nhưng tôi chưa vội vào và đi theo một đoàn người đi vòng ngôi chính điện theo chiều kim đồng hồ và quay tất cả các mani bằng đồng. 

Đền Jokhang là một tòa kiến trúc gồm có 4 tầng, mái mạ vàng, phần lớn các tranh tượng đều ở tầng một. Tổng thể diện tích của đền khoảng trên 25000 mét vuông, được chống đỡ bằng những cột gỗ, những cột này đều từ thế kỷ thứ bảy còn lại cho đến ngày nay. Sau khi đi ba vòng, tôi bước vào chính điện hình vuông qua một khung cửa gỗ. Cửa này cũng là bản gốc, có xuất xứ từ 13 thế kỷ trước. Vào đền tôi chầm chậm đi quanh theo chiều kim đồng hồ. 

Đền nóng vì các ngọn đèn, dưới chân tôi rin rít mỡ trâu. Những bức tượng đầu tiên đầu tiên là vị hộ pháp Palden Lhamo với cặp mắt to tròn. Ngày trước có thể đó là những vị ác thần, ma quái đã được hàng phục và sẵn sàng hỗ trợ chính pháp. Đó chính là chủ trương của Liên Hoa Sinh và đặc trưng của Phật Giáo Tây Tạng. Sau đó là bức tranh diễn tả cảnh dê chở đất đổ xuống hồ, minh họa lịch sử hình thành ngôi đền. Trong một khám thờ khác là một bức tượng tuyệt đẹp của Quán Thế Âm ngày tay ngàn mắt mà người Tây Tạng gọi là Chenrezi. Bức tượng này thì ngay cả Trung Quốc cũng ít nơi sánh kịp. Qua nhiều khám thờ với tranh tượng của Milarepa, của Tùng-tán Cương-bố, tôi đến vách phía đông của đền, đứng trước tượng Jowo, nín thở. 

Tôi không biết mình đã dùng cặp mắt gì để nhìn tượng, cặp mắt tôn giáo hay nghệ thuật hay khách quan nhìn ngắm và phân tích. Tôi không biết và không cần biết. Đó là một bức tượng tuyệt hảo. Đức Thích-ca với khuôn mặt vàng sáng rực, nhìn xuống, đầu đội vương miện năm trí. Có lẽ đúng, bức tượng này do thần Vishvakarma, chủ nghệ thuật, tự tay tôn tạo. Khám thờ Jowo "Đức hạnh cao quí" ngày nay đã được ngăn bởi một lớp song sắt, ta đứng ngoài có thể nhìn vào nhưng không thể đụng tới. Chàng Ben của tôi ngày xưa có thể nhờ tượng giữ mũ giữ áo nhưng ngày nay tôi chỉ có thể nhìn ngắm. Đứng trước bức tượng này là đã bao thế hệ tu sĩ và khách hành hương. Tôi nhìn bộ khăn quàng trên đầu tượng, nghe nói đó là của Tông-khách-ba tự tay làm lấy. Áo choàng cho tượng là của một nhà vua đời Minh cúng dường. 

Tôi nhìn tượng bối rối. Tôi mang nhang từ ngoài vào nhưng ở đây tôi không có chỗ cắm, lớp song sắt đã ngăn tôi với tượng. Jowo từ bi nhìn tôi hầu như nói "không sao", tôi đành kẹp cả bó nhang vào một hốc bên cạnh và quì lạy bức tượng trên nền nhơm nhớp mỡ trâu. Trong các đền Tây Tạng không có thùng đựng tiền bạc bố thí mà khách chỉ việc để vương vãi khắp nơi, đó là điều tôi thấy kỳ lạ. Tôi không biết làm sao hơn là thò tay thật xa vào song sắt và thả xuống đất một tấm giấy bạc cúng dường. Trong đó người ta cũng đã bố thí nhiều, có thể lấy chổi mà quét. 

 

 

Rời Jowo tôi đi chiêm bái tiếp các tranh tượng khác trong đền như của Liên Hoa Sinh nhưng lòng cứ nghĩ đến tượng. Sắp ra khỏi đền, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ trở lại Lhasa, mỗi lần đến đây là mỗi lần khó và có ai nói được gì về tương lai. Người Tây Tạng chẳng hay nói, kiếp sau của bạn có thể tới trước ngày mai. Tôi quày quả đi lui đến trước tượng Thích-ca, đảnh lễ Ngài một lần cuối. Lúc tôi vừa từ nền đất rin rít mỡ trâu đứng dậy thì đèn trong đền vừa tắt, tôi nhanh chân đi ra cửa gỗ, là người cuối cùng ra khỏi đền. Lúc đó là 6 giờ chiều, giờ đóng cửa Jokhang.   
 

[1] - Có nơi ghi là "Jobo". Từ Tây Tạng phiên âm ra tiếng la-tinh thường thường mỗi nơi mỗi khác 
[2] - Trích "The snow lion’s turquoise mane" của Surya Das, bản dịch "Sư tử tuyết bờm xanh" của tác giả, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh, 1999 
[3] - Tùng-tán-cương-bố. Có tài liệu cho rằng ông sinh cuối thế kỷ thứ 6 và mất năm 650, thọ 82 tuổi 
[4] -  Xem Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 
[5] - Aksobhya 
[6]  - Tu-yu-hun, bộ lạc ở bắc Trung Quốc 
[7 ] - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 
[8 ]  -  Xem chương "Nhân kiệt không đời nào thiếu" trong phần thứ ba 
[ 9 ]  - 1894-1984 
[10] - Theo "The door of liberation" của Geshe Wangyal. Chuyện này được Đạt-lai lạt-ma thứ 14 nhắc lại trong "The Dalai Lama at Harvard" của Hopkins 
[11]  - Xem chương "Con sông thiêng" trong phần thứ nhất 
[12] - Hán Việt: Ngật-lật-sang Đề-tán (khoảng 740-798) 
[13] - Santaraksita (750-802) 
[14]  - Vikramasila 
[15 ] - Padmasambhava (sống khoảng cuối thế kỷ thứ 8) 
[16 ]  - Uddiyana, ngày nay thuộc về Pakistan 
[17 ]  - Nyingmapa 
[18] - Terma 
[19] - Samye 
[20]  - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 
[21] - Theo Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 
[22]  - Kamalasila 
[23 ] - Vajrapani 
[24 ]  - Hán Việt: Cát Tường Kim Cương 
[25 ]  - 958-1055 
[26] - Atisa, 982-1054 
[27] - Bodhipathapradipa 
[28] - Tsong-kha-pa (1357-1419) 
[29] - Gelugpa, có khi được gọi là phái Hoàng mạo (mũ vàng) 
[30]  - Govinda, sách đã dẫn 
[31] - Sangharakshita, Tibetan Buddism" của Sangharakshita, Windhorse Publication 


Âm lịch

Ảnh đẹp