PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT
Ngũ Đài Sơn
Còn đâu nước Thục
Nhân kiệt không đời nào thiếu
Nga Mi Sơn
Những kích thước vĩ đại
Đại Túc, thạch động ngủ quên
NGŨ ĐÀI SƠN ( Wutaishan)
Năm 67 sau công nguyên, Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan gặp Hán Minh
Đế và sau đó như ta đã biết, Bạch mã tự là chùa đầu tiên được xây dựng.
Nhà vua người Hán còn hỏi hai vị Phạm tăng: "Pháp Phật chỉ lưu truyền ở
Thiên trúc, sao không thấy giảng giải tại Trung nguyên". Hai vị đáp:
"Có chứ, ngày nay có vị Bồ-tát Văn-thù đang giảng pháp tại Thanh Lương
sơn".
Thanh Lương sơn cũng là địa danh được nhắc tới trong Kinh Hoa Nghiêm,
phẩm Bồ-tát trụ xứ: "Vùng Đông Bắc [14] có núi Thanh Lương từ xưa đến
nay các vị Bồ-tát thường trú ở đó. Hiện có Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi cùng
quyến thuộc và các Bồ-tát khác nữa đông tới vạn người thường thuyết pháp
ở đây" [15] .
Thanh Lương sơn là tên khác của Ngũ Đài sơn, nằm tại tỉnh Sơn Tây,
Trung Quốc. Vì những lẽ trên mà từ xưa tới nay, Ngũ Đài sơn được xem là
trú xứ, là đạo trường của Văn-thù Sư-lợi. Theo truyền thuyết, Bồ-tát
Văn-thù là người cùng với A-nan kết tập bộ kinh Hoa Nghiêm, sau đó trao
cho Long Vương cất giữ rồi Long Vương mới trao cho luận sư Long Thụ để
phổ biến. Vì thế mà Kinh Hoa Nghiêm rất gần gủi với Văn-thù và Ngũ Đài
sơn là nơi các vị tổ của tông Hoa Nghiêm tu học.
Văn-thù Sư-lợi là vị Bồ-tát được gọi là vị "đại trí". Ngài là một vị
cổ Phật nhưng đóng vai trò Bồ-tát để giáo hóa, nhiều vị thành Phật là
cũng nhờ Ngài. "Văn-thù Sư-lợi vẫn thường làm mẹ của vô lượng chư Phật.
Ngài luôn làm thầy của vô lượng Bồ-tát. Ngài giáo hóa vô lượng chúng
sinh…Ngài trụ trong trí huệ thâm sâu, thấy biết được tất cả các pháp
đúng như thật, Ngài thông đạt thấu suốt tất cả cảnh giới giải thoát"
[16] . Đó là lời của Di-lặc nói với Thiện Tài và khuyên Thiện Tài nên đi
gặp Văn-thù Sư-lợi. Tại sao Thiện Tài phải tìm đến gặp Văn-thù ? "Vì từ
trước đến nay, mọi thiện tri thức mà ông gặp để rồi được nghe hành
bồ-tát, để vào được cửa giải thoát, để được đầy đủ đại nguyện, đều do
thần lực của Văn-thù Sư-lợi"[17].
Tôi từ Đại Đồng, xuống phía nam, đến Ngũ Đài sơn đảnh lễ Văn-thù. Ngũ
Đài sơn là một rặng núi cách Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh Sơn Tây khoảng
200km. Đây là một rặng núi với năm "đài" mà đỉnh phía Bắc, Bắc đài, cao
đến 3058m. Từ thời Hán Minh Đế ở đây đã có một tự viện thờ Văn-thù, về
sau nơi đây có hàng trăm đền chùa, bảo tháp. Ngày nay trên núi có 54 đền
chùa, nằm rải rác khắp rặng núi. Sau khi đi qua nhiều con đèo hiểm
nghèo, xe đến Đài Hoài trấn, đó là thị trấn nằm giữa lòng Ngũ Đài sơn và
cũng là nơi đi bộ leo lên nhiều tự viện chủ yếu của núi. Tôi đến Đài
Hoài trấn buổi trưa nhưng trời mát lạnh, ở đây có độ cao 1435m. Đường
đèo dẫn đến Đài Hoài tuy rất tốt nhưng hết sức vắng xe, có ai ngờ đến
đây mới thấy đây là một thị trấn tấp nập toàn cả khách hành hương tham
bái. Đường đến Ngũ Đài sơn rất khó khăn và cũng nhờ thế mà các tự viện ở
đây thoát khỏi sự tàn phá trong thời cách mạng văn hóa.
Từ làng Đài Hoài ta có thể đi bộ lên phía bắc để đến Hiển Thông tự.
Đây là ngôi chùa cổ nhất của Ngũ Đài, được kiến lập trong thế kỷ thứ
nhất sau công nguyên. Theo thời gian Hiển Thông Tự được mở rộng để ngày
nay có 7 tự viện nằm trên một trục và nhiều đền nằm xung quanh. Tổng
diện tích của Hiển Thông tự lên đến 80.000 m2. Hiển Thông tự là nơi mà
Thanh Lương Trừng Quán thời nhà Đường, tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm trụ
trì và dịch, chú giải kinh Hoa Nghiêm. Tại đây có câu đối nói về Pháp
thân và Văn-thù:
Pháp thân vô khứ vô lai, trụ tịch oai nghi bất động,
Đức tướng phi không phi hữu, ứng tùy cơ dĩ hằng châu.
(Pháp thân không đi không đến, vững yên oai nghi không động,
Đức tướng chẳng không chẳng có, luôn luôn tùy cơ ứng hiện)
Phía bắc của Hiển thông điện là Bồ-tát đỉnh, theo truyền thuyết từ
thời Bắc Ngụy (386-534), đó chính là trú xứ của Văn-thù. Tôi leo 108 bậc
thang để lên Văn-thù đỉnh, lòng xúc động và cám ơn cơ duyên vô danh nào
đã cho mình cái dịp ngàn năm một thuở này. Những bậc thang này chính là
nơi mà hàng ngàn năm nay, kể từ đầu công nguyên tới nay, hàng vạn người
đã đến đây để đảnh lễ Văn-thù, từ các nhà vua đến các hàng thứ dân, từ
các thiền sư đến các cư sĩ, từ vị đại lạt-ma đến các tiểu tăng sa di.
Người ta kể rằng, đến Ngũ Đài sơn, ai có lòng tin tưởng thì thế nào cũng
sẽ gặp Văn-thù trong một dạng hình nào đó.
Tôi
còn nhớ, trong tác phẩm Sư tử tuyết bờm xanh[18], mình có biên dịch câu
chuyện của một vị lạt-ma tên là Yahden. Vị này mất sáu tháng để từ Tây
Tạng đến Ngũ Đài sơn chiêm bái Văn-thù, trên đường đi ông hết lòng tụng
niệm và thiền định liên tục. Và cuối cùng ông được "leo lên 108 bậc
thang" để đến Bồ-tát đỉnh. Ông vừa lên gần đến đỉnh thì gặp một người ăn
xin cụt chân, người đó nói với ông: "Huyền diệu thay, cái Một trong
thiên hình vạn trạng". Yahden mở túi xách, lấy một ít tiền cho kẻ ăn xin
thì người đó nói tiếp: "Huyền diệu thay, cái Một trong thiên hình vạn
trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một. Thứ ít ỏi này ta không
thèm lấy của ngươi. Ta đòi ngươi cả trái tim!". Yahden vừa biết kẻ đó là
ai thì người đó đã biến mất. Yahden mở mắt thật lớn nhìn quanh và nhảy
như bay lên những bậc cuối và chỉ còn nghe chuông chùa đánh 108 tiếng.
Tôi lên đến Bồ-tát đỉnh, chỉ nghe tiếng chuông vang ra từ Văn-thù
điện xây trên đó. Trên Bồ-tát đỉnh này vua Càn Long đời Thanh đã cho
dựng một tấm bia đá cao 6m, với thủ bút của ông viết bốn văn tự: Hán,
Mãn Châu, Mông cổ và Tây Tạng, ca tụng trí huệ của Văn-thù. Cách đó
khoảng 1km, ta tìm thấy Thù Tượng tự, trong đó là bức tượng nổi tiếng
của Văn-thù cao 9m, ngồi trên lưng sư tử. Chùa này được kiến lập trong
đời Đường, nhưng bị hư hoại và được xây dựng lại năm 1487.
Yahden được Văn-thù "tùy cơ ứng hiện", được Ngài đọc lại cho nghe yếu
nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm. Đến đạo trường của Văn-thù, tôi lấy lại kinh
Hoa Nghiêm ra đọc, xem Ngài nói gì với Thiện Tài, khi Thiện Tài vâng
lời Di-lặc đi tìm Ngài.
"Lành thay, lành thay! Này thiện nam tử, nếu lìa khỏi lòng tin thì
tâm sẽ yếu kém, sẽ lo âu tiếc nuối, nên công hành không tròn đủ, sẽ thối
thất tinh cần, mà chỉ bám trước vào một thiện căn. Với chút ít công đức
ấy sẽ cho đó là đủ, thế nên sẽ không phát khởi được hành nguyện, sẽ
không được thiện tri thức nhiếp thọ, không được chư Như Lai ức niệm, sẽ
không biết được Pháp tính (…giảng Pháp tính), Pháp môn (…giảng Pháp
môn), công hành (…giảng công hành), cảnh giới (…giảng cảnh giới), sẽ
không thể nào biết hết, biết nhiều, biết đến tận cùng, biết rõ, hướng
nhập vào giải thoát, cũng như phân biệt, chứng biết và chứng đắc giải
thoát. Mọi điều ấy sẽ không sao có được" [19].
Đến đây thì tôi hiểu. Vị đại trí Văn-thù mà cũng cho rằng phải có
"lòng tin" mới phát khởi được hạnh nguyện và trí huệ. Chúng ta thường dễ
cho rằng dùng trí là có thể hiểu được pháp, thậm chí trí huệ ưu việt
hơn lòng tin. Thế nhưng trí nào hiểu được "cái Một trong thiên hình vạn
trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một" ? Trí nào nắm bắt được
cái nghịch lý đó ? Tư duy logic thông thường của chúng ta không thể hiểu
Kinh Hoa Nghiêm, đó là điều tôi dám kết luận. Đó cũng là lý do sau khi
Phật thành đạo Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày nhưng không ai
hiểu cả, chỉ trừ các bậc đại bồ-tát.
Tư tưởng Hoa Nghiêm nói về Chân Như tuyệt đối, trong đó không còn
bóng dáng của sự phân biệt nhị nguyên nữa. Còn tư duy logic của chúng ta
lấy nhị nguyên, lấy ta-người làm cơ sở, nó không thể vươn lên, với tới
mức độ tuyệt đối. Như thế phải chăng không ai có thể hiểu Hoa Nghiêm ?
Văn-thù chỉ cho ta một cách, đó là dùng lòng tin mà "phát khởi hành
nguyện". Lạ thay, Văn-thù mà cũng cần lòng tin! Lấy hành nguyện thật
lớn, "phát tâm bao la không cùng, khởi tâm vô ngại lìa bỏ tất cả các
cõi, rời xa tất cả các chấp"[20] .
Vì thân biến theo tâm nên với
tâm "bao la không cùng" đó hành giả sẽ có thân vô lượng, siêu việt lên
ta-người, bỏ tính cá thể và trực nhận Chân như tuyệt đối hiện lên trong
"Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái
Một". Với cách đó Thiện Tài đã siêu việt tâm thân mình, hiểu ngộ tất cả
các pháp mà chúng ta thấy là mâu thuẫn không sao hiểu được và đã thể
nhập vào hạnh lớn mà kinh sách gọi là thể nhập vào đạo trường của Phổ
Hiền Bồ-tát.
Văn-thù
là vị đại trí vì Ngài là kẻ chỉ đường tu học cho chúng sinh. Nhưng muốn
có trí thì phải dùng lòng tin mà phát tâm học tập, đó là bài tôi học
được hôm nay. Vì vậy mà có câu "Ta đòi ngươi cả trái tim". Ngày trước
khi biên dịch chuyện Yahden này, tôi chỉ nhớ câu "Huyền diệu thay, cái
Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một",
còn "trái tim" tôi cho là phụ. Bây giờ tôi hiểu, "trái tim" là tiên
quyết, "nếu lìa khỏi lòng tin thì tâm sẽ yếu kém", không có trái tim
rộng lớn thì không thể hiểu được Văn-thù.
Còn Phổ Hiền là vị "đại hạnh", vì nguyện lực cho hành động (hạnh) của
Ngài là rộng lớn vô biên, cũng phải cùng hành động như Ngài mới hiểu
được đại trí của Văn-thù. Tôi chỉ là người học trò nhỏ, dùng trí logic
thông thường mà đoán mò về các điều nằm ngoài suy luận. Trí huệ và hạnh
nguyện của các vị bồ-tát quá to tát, quá xa vời đối với tôi, thế nhưng
tôi cũng sẽ đến đạo trường Phổ Hiền để đảnh lễ Ngài. Đạo trường đó nằm
trên đỉnh Nga Mi sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
CÒN ĐÂU NƯỚC THỤC ^
Tôi đến Tứ Xuyên, lòng bồi hồi. Tỉnh Tứ Xuyên là tỉnh đông dân của
Trung Quốc, ngày nay khoảng 120 triệu dân, có diện tích hơn nửa triệu
cây số vuông. Về dân số cũng như diện tích, Tứ Xuyên lớn gấp rưỡi nước
Việt Nam. Tỉnh Tứ Xuyên có địa thế rất hiểm trở, có hình lòng chảo, bốn
phía núi non bao bọc. Phía nam là cao nguyên Vân Nam, phía đông bắc tiếp
giáp với Thiểm Tây với các dãy núi cao trên 2500m, phía đông là rặng Vu
sơn, phía tây là Thanh Hải, Tây Tạng. Tứ Xuyên ngày xưa là một vùng
biên cương của Trung Quốc, đời sống khô cằn, đến thế kỷ thứ tư trước
công nguyên mới được người Hán đến khai khẩn, thường được mệnh danh là
"biên địa hạ tiện".
Thế nhưng Tứ Xuyên là một vùng đất được nhiều người yêu mến do ngày
xưa nó chính là nước Thục của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, của Khổng
Minh Gia Cát Lượng.
Như ta đã biết đầu công nguyên (năm 67) có một nhà vua tên là Hán
Minh Đế là người đầu tiên cho truyền bá đạo Phật. Đó là thời Hậu Hán, có
khi được gọi là Đông Hán. Sau đó gần 200 năm, con cháu của Minh Đế tên
là Hiến Đế lên ngôi, bị Đổng Trác và Tào Tháo chuyên quyền lấn hiếp.
Trong giới tôn thất nhà Hậu Hán có một người tên là Lưu Bị [21], chỉ làm
nghề dệt chiếu, đóng dép, đau lòng vì cơ nghiệp nhà Hán, mới kết nghĩa
cùng Quan Công, Trương Phi dấy quân, phò vua giúp nước.
Mới đầu
cơ nghiệp không đi tới đâu nhưng về sau Lưu Bị gặp một kỳ nhân, đó là
Khổng Minh Gia Cát Lượng[22]. Khổng Minh giúp Lưu Bị chiếm được đất
Thục, nay là tỉnh Tứ Xuyên, đóng đô ở Thành Đô [23], nay là thủ phủ của
Tứ Xuyên. Nhờ tài thao lược của Khổng Minh mà nước Thục mở rộng về phía
đông, chiếm được Kinh Châu, nằm trên sông Dương Tử, nay có tên là Sa
Thị. Người trấn thủ Kinh Châu là Quan Công.
Còn Tào Tháo [24]bị nhiều người ghét vì tính "đa nghi" nhưng thật ra
là một nhân vật xuất sắc. Ông là người thao lược, giỏi cả văn lẫn võ.
Ông giữ đất Trung Nguyên, gọi là nước Ngụy, khi đó Lưu Bị đã chiếm đất
Thục, Tôn Quyền dựng nước Ngô. Lúc Tào Tháo chết rồi, con là Tào Phi lên
thay mới phế bỏ Hiến Đế và chính thức xưng đế, hiệu là Văn Đế, khai
sinh nhà Ngụy. Đó thời Tam Quốc nổi tiếng (220-280).
Ba nước này chia Trung Quốc ra thế chân vạc, đó là ba vùng đất to
lớn. Nước Ngụy nằm phía Bắc, xung quanh sông Hoàng Hà; nước Thục phía
Tây, dựa lưng vào Tây Vực và cao nguyên Hy-mã; nước Ngô phía đông ở
Giang Nam. Ba vùng đất này tự nó là ba nước cực lớn, nếu ta nhớ lại thời
Chiến quốc, Trung Quốc có hàng trăm nước. Tôi nhớ lại các vương quốc Ấn
Độ, tương đối nhỏ hơn nhiều nhưng họ sống hòa hoãn với nhau. Thế nhưng
người Trung Quốc có óc thống nhất quốc gia từ thời nhà Tần, họ đã quen
nghĩ đến một nước Trung Quốc mênh mông từ bắc xuống nam, từ đông sang
tây.
Ba nước Ngụy, Thục và Ngô vì thế mà đánh nhau liên miên,
khi chiến khi hòa và để lại cho hậu thế tác phẩm Tam quốc chí bất hủ.
Tiếc thay lịch sử không đúng như mong ước của người đọc đời sau. Lưu Bị,
Khổng Minh bại trận, nước Thục mất. Lưu Bị thất bại hẳn cũng có số trời
như Khổng Minh đã nói, nhưng ông đã không nghe lời Khổng Minh, phạm sai
lầm cuối cùng của đời mình và là sai lầm quan trọng nhất. Chiến lược
của Khổng Minh là không đánh nước Ngô, liên hiệp với nước này mà đánh
nước Ngụy. Lưu Bị cũng biết thế nhưng khi Quan Công bị nước Ngô sát hại
tại Kinh Châu thì Lưu Bị quên mọi tính toán chiến lược, kéo quân đi dọc
Trường Giang về đánh nước Ngô, báo thù cho người em kết nghĩa. Thất bại,
ông rút lui về thành Bạch Đế [25] trên sông Trường Giang và chết tại
đó.
Tôi leo lên Bạch Đế thành, lòng đầy xúc động. Ôi, tại ngọn núi vắng
vẻ này mà đã từng diễn ra cảnh cả Lưu Bị chết, giao con cho Khổng Minh
để rồi nước Thục đi vào diệt vong thật chăng. Bạch Đế thành nằm trên núi
cao, nhìn xuống dòng Trường Giang, ngày nay người ta có thể đi bộ hoặc
xe cáp lên đỉnh. Thành này được Công Tôn Thuật xây năm 25 sau công
nguyên, ông là người xưng đế ở Thục (25-36) thời Vương Mãng cướp ngôi
nhà Tây Hán. Truyền thuyết kể rằng ông thấy trên núi đó, từ một cái
giếng thoát ra khói có dạng như một con rồng trắng và nhân đó mà ông
xưng là "Bạch đế".
Ngày nay giếng vẫn còn, trên miệng giếng có
dựng hình một con rồng. Tôi tìm tới cung Vĩnh An là nơi Lưu Bị chết. Xúc
động biết bao khi thấy tại chốn này cảnh diễn tả lại Lưu Bị nằm trên
giường bệnh, giao lại cơ nghiệp và con trai Lưu Thiện cho Khổng Minh.
Quần thần đứng nghiêm trang ngậm ngùi xung quanh, trong đó có đại tướng
Triệu Vân. Hai người anh hùng kia là Quan Công thì đã bị hại và Trương
Phi đã bị ám sát trước đó hai năm. Cảnh này được ghi lại bằng hình tượng
có kích thước như người thật, vô cùng sinh động. Đáng cảm khái thay
được thắp một nén hương ngay chỗ 18 thế kỷ trước đã có một nhà vua đã từ
trần, người được bao thế hệ Trung Quốc đến ngày nay vẫn còn thờ cúng.
Lý Bạch có bài thơ Há Giang Lăng khi tạ từ Bạch đế thành:
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn
Sớm rời Bạch đế rạng tầng mây
Nghìn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng dứt
Núi non thuyền nhẹ vượt như bay [26]
Từ tay Lưu Bị, Khổng Minh tiếp nhận cơ đồ và Lưu Thiện. Nhưng Lưu
Thiện chỉ là kẻ bất tài, còn Khổng Minh không còn tướng giỏi. Ông đã sáu
lần đem quân đi đánh nước Ngụy, cuối cùng sức quá suy nhược, Khổng Minh
mất ngay trong trại thọ 54 tuổi. Đó là năm 234, con người mưu lược,
thông thiên văn địa lý đó cũng không tránh khỏi số mệnh.
Đi đường dài mới thấy ngày xưa Tam quốc phải là một thời kỳ kịch
chiến tiêu hao sức lực của cả ba nước, từ quân vương đến binh sĩ. Chỉ kể
Thành Đô đến Bạch Đế thành là đã 600km, đường bộ lẫn đường sông, tính
đến Kinh Châu là thêm 300km nữa. Từ Bạch Đế thành hãy đi ngược dòng
Dương Tử để về Thành Đô, đó phải là đường ngày xưa người ta đưa thi hài
Lưu Bị về chôn cất. Đi khoảng 50km Lưu Bị sẽ chào từ giã Trương Phi, đó
là chỗ người em kết nghĩa này bị hại, ngày nay còn đền thờ trên bến
sông. Sau đó có lẽ đám ma của Lưu Bị sẽ đến Trùng Khánh và từ đó đi
đường bộ về Thành Đô.
Tôi đến Thành Đô, ngày xưa là kinh đô nước Thục, ngày nay là thủ phủ
Tứ Xuyên. Tại đây khách không thể không tham quan đền Vũ Hầu. Vũ Hầu là
tên dành cho Khổng Minh nhưng đền này chính là nơi thờ cả Khổng Minh lẫn
ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Thật là một ngôi đền xứng đáng
với những công trình xây dựng hết sức nghiêm trang, những bức tượng cực
kỳ sinh động. Đáng chú ý nhất là bức tượng của Lưu Bị và Khổng Minh
bằng đất mạ vàng, mỗi tượng cao khoảng 3m. Đáng quí nhất là một bia đá
cao 3,7m truyền lại từ đời nhà Đường. Tả hữu dọc theo các điện thờ là 28
bức tượng của các công thần nhà Thục, công trạng của các vị đó được ghi
lại trên các bia đá.
Phía tây của các ngôi đền là một gò đất cao khoảng 12m, chu vi khoảng
180m, trên đó cây cối mọc như rừng. Đó chính là lăng mộ của Lưu Bị và
hai bà hoàng hậu của ông. Tôi đi suốt một vòng gò, nhưng không tìm ra
cửa vào, có lẽ đó chính là điều phải giữ bí mật trong 18 thế kỷ trước.
Trên gò tiếng chim hót vang lên trong tiếng gió thổi qua các cành cây,
hồn thiêng Lưu Bị hẳn đã tìm ra sự bình an.
Trong đền Vũ Hầu còn có một tòa xây dựng rất đáng lưu ý mới được mở
cửa năm 1984, đó là nhà triễn lãm lịch sử của thời Tam quốc. Khách vào
đó sẽ được xem mọi chi tiết của những cuộc chiến long trời lỡ đất của
thời đại này cũng như những dấu tích còn lại của đời sống văn hóa, xã
hội và nghệ thuật của người dân hồi đó của cả ba nước Thục, Ngô, Ngụy.
Tại nước Ngụy thì viên tướng tài chống lại được Khổng Minh là Tư Mã
Ý. Về sau Ngụy diệt được nước Thục năm 265 nhưng ngai vàng lại bị cháu
của Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm cướp, biến thành nhà Tấn. Tư Mã Viêm là tay
kiệt xuất, kéo quân diệt luôn nước Ngô năm 280, thống nhất sơn hà, đời
sau gọi là Tây Tấn.
Trên nước Trung Quốc thống nhất mênh mông ngày nay,
trong đó Tứ Xuyên không còn là biên địa nữa mà gần như nằm giữa trung
tâm, tôi thầm nghĩ ngày xưa dù ai thắng ai thì có lẽ bây giờ cũng thế
này thôi. Kẻ thắng người bại ngày nay đều chỉ là những nắm xương tàn
mục. Thế nhưng điều lưu danh với sử xanh là lòng trung liệt mà nổi bật
nhất là Gia Cát Lượng, Quan Công, Trương Phi. Lưu Bị mất, Lưu Thiện bất
tài mà Khổng Minh không có chút tơ hào vương tước, đúng là lòng "Cúc
cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ" (hết lòng hết sức, đến chết mới thôi) như
trong bài Tiền xuất sư biểu của ông.
Còn Lưu Bị Quan Công Trương
Phi, điển hình kết nghĩa đó đã trở thành biểu tượng nhân nghĩa của xã
hội Trung Quốc. Trong trận đồ đẫm máu Tam quốc dài 60 năm, kẻ chiến
thắng cuối cùng là Tư Mã Viêm nhưng không ai thờ ông cả mà ngược lại ở
đâu cũng có bàn thờ ba người anh em kết nghĩa. Điều làm lòng người, bất
cứ ở thời đại nào, xã hội nào, tôn thờ khâm phục không phải là cơ đồ sự
nghiệp mà là phẩm chất của con người, đó là điều tôi rõ ra hơn bao giờ
hết.
NHÂN KIỆT KHÔNG ĐỜI NÀO THIẾU ^
Cách Thành Đô 16km về hướng tây có một ngọn núi tên là
Thanh Thành[27]. Đây là một ngọn núi với 37 đỉnh với rải rác nhiều đền
đài của Đạo giáo. Nơi đây, trong thời gian đầu công nguyên có một đạo sĩ
tên là Trương Đạo Lăng[28] đã thành lập Đạo giáo. Trương Đạo Lăng,
tương truyền là cháu bảy đời của Trương Lương, mới đầu học Nho giáo
nhưng khi về già học "Tiên thuật" của Lão giáo. Ông soạn ra sách "Đạo
thư" gồm 24 thiên để làm cơ sở căn bản giáo lý của "Thiên sư đạo".
Từ
đó động của ông trong núi Thanh Thành được gọi là Thiên sư động. Ngày
nay tại đó có một đền thờ Trương Đạo Lăng, trong đó còn lại một bức
tượng của ông, đền kiến lập từ đời nhà Tùy (589-618), nhưng được xây
dựng lại cuối đời nhà Thanh (1644-1911). Giáo lý của Thiên sư đạo dựa
vào tư tưởng của Lão Tử, phối hợp với bói toán chú thuật và lấy phép phù
thủy chữa bệnh giúp dân. Vì mỗi khi chữa bệnh, đạo sĩ được phần lễ tạ
năm đấu gạo nên đạo này còn được mệnh danh là "Ngũ Đẩu mễ" [29]. Trương
Đạo Lăng phải là tiền bối của các đạo gia xuất chúng của Trung Quốc như
Vương Phù, Vương Khâm Nhã, Trương Quân Phòng, Lã Đồng Tân, Vương Trùng
Dương.
Trong số này có Lã Đồng Tân là người sáng lập Toàn Chân
giáo, điều hòa ba nguồn tư tưởng Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Đến
tận nơi, tôi mới thấy núi Thanh Thành quả là một ngọn núi thâm u huyền
bí, cảnh quan hầu như có thần. Tôi theo xe cáp leo tận đỉnh Thanh Thành,
nơi đó có hai cây Ginkgo, lá như cánh quạt, mỗi cây một ngàn năm tuổi
đứng chầu trước cửûa đền. Đệ tử đạo giáo ngày nay không thiếu, họ mặc áo
đen, đầu búi tóc.
Tứ Xuyên còn hân hạnh được xem là quê hương của Lý Bạch,
một trong những thi hào vĩ đại nhất của Trung Quốc. Ông sinh năm 701
tại Tây Vực, trong một vùng đất nào khuyết danh ở phía tây của Tứ Xuyên,
mẹ ông là người xứ đó. Nghe đến Lý Bạch suốt ngày ôm bầu rượu, cuối
cùng cũng vì rượu mà chết, ta dễ nghĩ ông là một thư sinh ốm yếu. Nhưng
không phải, do dòng mẹ là người Tây Vực, ông hết sức cường tráng, mười
lăm tuổi đã rèn kiếm, tự cho là "sức địch nổi muôn người".
Ông
nhận Tứ Xuyên là quê hương, viếng Thành Đô thăm đền Vũ Hầu, viếng Bạch
Đế thành khóc Lưu Bị, lên núi Thanh Thành đọc sách nhớ Trương Đạo Lăng.
Ông lên cả núi Nga Mi bên bờ Mân Giang để ngắm trăng, nghe Thục Tăng
Tuấn đàn cầm. Nga Mi là ngọn núi cao hơn 3100m, trên đó dưỡng khí đã
loãng. Lên đó để ngắm trăng nghe đàn hẳn phải là người có sức của lực
sĩ. Nhưng Lý Bạch không phải nổi danh vì sức khỏe mà ông để lại cho đời
một nhân cách vô song và gần 20.000 bài thơ mà nội dung thì Đỗ Phủ cũng
phải thán phục "Bạch dã thi vô địch" [30].
Nếu Lý Bạch là "Tiên thơ" thì Đỗ Phủ là "Thánh thơ"
[31]. Đỗ Phủ cũng dùng bước rất lâu tại Tứ Xuyên. Ông sinh năm 712, thua
Lý Bạch 11 tuổi. Đời ông là đời đi chơi, lấy chuyện đi chơi làm thú vị.
Trên đường Tráng du [32] đó, năm 744 ông gặp Lý Bạch tại Lạc Dương. Mùa
thu năm sau hai người chia tay không bao giờ gặp nhau nữa nhưng tình
bạn gắn bó suốt đời. Đời ông khi làm quan, khi bị cách chức, khi chịu
loạn lạc, rất nhiều cay đắng. Ông nghèo tới mức có lúc phải đi lượm hạt
dẻ, đào hoàng tinh cho con ăn. Năm 48 tuổi, Đỗ Phủ đưa gia đình về Thành
Đô, dựng nhà trên hai mẫu đất hoang bên bờ Hoãn Hoa, viết thư xin bè
bạn các loại hoa để làm thành "Thành Đô thảo đường", nhà hướng về núi
Nga Mi, đánh cờ với vợ, câu cá với con, uống rượu với người hàng xóm.
Thế nhưng đời ông vẫn không yên vì sau đó lại xảy ra
loạn lạc, ông chạy loạn một thời gian rồi năm 55 tuổi lại về Tứ Xuyên,
nhà ở gần Bạch Đế thành. Về sau ông cùng gia đình chạy loạn nữa và chết
trên thuyền năm 770. Ngày nay đến Thành Đô ta sẽ thấy một con sông nhỏ
tên là Hoãn Hoa, nó là một nhánh của sông Mân Giang. Trên bờ Hoãn Hoa,
không xa miếu Vũ Hầu Khổng Minh ta còn thấy "Thành đô thảo đường" xưa
của Đỗ Phủ, kỷ niệm ông sống ở đây bốn năm, từ 759 đến 763.
Tôi
đến thảo đường cũ của ông, ngày nay nó đã trở thành một khu vực nổi
tiếng cho khách du lịch. Suối Hoãn Hoa hầu như nước đọng không chảy, mơ
màng dưới các cây cổ thụ. Bèo và lá vàng trên suối được vớt thường xuyên
cho nước được trong. Băng qua Hoãn Hoa là vài chiếc cầu kiến trúc theo
lối xưa, đưa ta đi từ tòa nhà này qua tòa nhà khác để giới thiệu con
người và thơ văn Đỗ Phủ. Tôi đến gần tượng của ông bằng đá đen. Bức
tượng này phải là một tác phẩm hết sức thành công. Đó là một khuôn mặt
trí tuệ, đồng thời có một nét bình dân gần gũi với quần chúng. Lạ thay,
bức tượng đá mà toát ra một chút đăm chiêu, một chút căm tức, đúng như
con người của ông.
Thành Đô còn ghi dấu hài của một nữ sĩ, đó là Tiết Đào
(769-834). Bà là người Trường An nhưng thân phụ làm quan tại đất Thục
nên bà lưu ngụ tại Thành Đô. Bà làm thơ từ năm lên tám lại xinh đẹp lạ
thường, giao du với những danh sĩ đương thời. Bạch Cư Dị, Vương Mục đều
có thơ xướng họa với bà. Phía nam Thành Đô ngày nay, bên cạnh đại học Tứ
Xuyên, ta còn lại một khuôn viên với một tòa lâu các gọi là Vọng Giang
lâu, gồm bốn tầng, cao 30m, là nơi có thể ngắm sông Mân giang. Tôi đến
nơi thì Vọng Giang lâu đóng cửa không còn cho khách lên lầu. Cách đó
không xa có một cái giếng từ thời nhà Đường, đó là nơi bà lấy nước để
chế tạo thứ giấy hoa thông, một thứ giấy màu đỏ thẫm, mang tên bà là
"Tiết đào tiên". Miệng giếng rất lớn, đường kính dễ chừng 5m, nay đã
được nắp gỗ đậy kín. Thú vị nhất là ta tìm thấy trong công viên này một
vườn trúc với 140 loại được trồng tặng bà vì Tiết Đào là người yêu
trúc.
Khoảng 300 năm sau Tiết Đào có một tăng sĩ kỳ dị tu
trong chùa Chiêu Giác ở Thành Đô. Đó là Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135).
Thầy của ông là Pháp Diễn. Ngày nọ Pháp Diễn nói chuyện xong với một
viên quan đề hình (cảnh sát thời nay) xong hỏi Viên Ngộ: "Thế nào là ý
Tổ sư sang?". Hỏi xong Pháp Diễn tự trả lời: "Cây bách trước sân, xem
xem". Tưởng Pháp Diễn nói chơiù thế thôi nào ngờ Viên Ngộ nghe xong đại
ngộ ! Về sau, Viên Ngộ trở thành thiền sư xuất chúng và với môn đệ của
ông, dòng thiền Trung Quốc phất lên một lần nữa trước khi tàn lụi. Viên
Ngộ là người soạn tập công án Bích Nham Lục và cuốn sách khó hiểu này
trở thành tác phẩm quan trọng nhất của Thiền tông.
Trong tác
phẩm này Viên Ngộ lấy nguồn gốc là những công án của Tuyết Đậu Trùng
Hiển [33], thêm vào những bình giải của mình. Những lời bình đó lại cực
kỳ tuyệt hảo về văn chương đến nổi người đọc dễ đâm ra mê văn chương hơn
là nội dung công án, vướng vào chữ nghĩa, phản lại tinh thần "bất lập
văn tự" của thiền. Học trò của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo [34] thấy cơ
nguy đó nên đem đốt Bích Nham lục. Mãi đến thế kỷ 14 có một cư sĩ trên
là Trương Minh Viễn đi góp nhặt lại, tham khảo mọi nơi và xuất bản lại
nên ngày nay ai cũng có thể đọc Bích Nham lục. Thế nhưng đọc là một
chuyện, hiểu được là một chuyện khác.
Thành Đô, thủ phủ nước Thục, tưởng là một miền biên địa
hạ tiện, không ngờ là chỗ ghi dấu của đạo sĩ, thi sĩ và thiền sư. Thế
nhưng điều đó không có gì là lạ tại Trung Quốc, vì đạo sĩ, thi sĩ và
thiền sư khắp nơi đều có trong xứ sở mênh mông này. Đạo, Thơ và Thiền,
đó là ba suối nguồn tâm linh quan trọng nhất của học thuật Trung Quốc và
điều kỳ lạ là chúng đan quyện vào nhau, ảnh hưởng chan hòa lên nhau.
Tư tưởng chủ yếu của Đạo là ngắm nhìn thiên nhiên và
trực nhận qui luật bao trùm trời đất, từ đó mà rút ra phép hành động cho
con người. Cái nhận thức của Đạo là tri kiến trực giác từ thiên nhiên,
cái hành động của Đạo là làm mà không tác ý. Vì những lẽ đó mà Đạo tìm
nơi thơ phú khả năng diễn đạt tuyệt vời nhất. Thi nhân Trung Quốc qua
của bao thế hệ thường là những người tìm cảm hứng nơi thiên nhiên, dùng
thiên nhiên để diễn tả nội tâm. Thơ của họ tuy ngắn nhưng là bức tranh
sinh động về thiên nhiên, tâm hồn của họ chính là tâm hồn của Đạo.
Còn ảnh hưởng của Đạo giáo lên Thiền tông cũng là điều
rất rõ. Thiền chủ trương trở về với tự nhiên, "tâm bình thường là đạo"
[35], vì vậy mà rất gần với Đạo giáo. Thiền Trung Quốc là sự phối hợp
hài hòa giữa giáo lý của các thiên tài tôn giáo Ấn Độ và cốt tủy của văn
hóa Trung Quốc để trở thành một tông phái độc lập, nhất là sau Lục Tổ
Huệ Năng. Với Huệ Năng thiền Trung Quốc dám từ bỏ cả Kinh Nhập Lăng Già
của Đạt-ma từ phương xa mang qua Trung Quốc, vì thế mà có chuyện Lục
Năng xé kinh, Đại Huệ đốt Bích Nham Lục. Schumann viết "Thiền tông có
một người cha Ấn Độ nhưng nếu không có người mẹ Trung Quốc thì đã không
trọn vẹn"[36].
Cuối cùng, nhiều thi sĩ cũng là thiền sư như Vương Duy,
được người đời mệnh danh là "Thi Phật", Tô Đông Pha, cư sĩ đạt đạo, đồng
thời cũng là một trong "bát đại gia" của Trung Quốc. Truyền thống vừa
tu thiền vừa làm thơ cũng thể hiện rõ nét trong các thiền sư đời Lý,
Trần của Việt Nam.
Ngày nay, tiếc thay ba suối nguồn tâm linh Đạo, Thơ và
Thiền hầu như đã tắt lịm tại Trung Quốc. Thiền tông, với đúng nghĩa "dĩ
tâm truyền tâm" đã tàn lụi từ đời nhà Tống. Đạo gia với câu "Không ra
khỏi cửa, mà biết được việc thiên hạ" [37] ngày nay đã bị nền học thuật
chính thống hiện đại của Trung Quốc coi khinh, chế giễu. Và thơ, nhất là
thơ Đường chắc chắn không bao giờ trở lại được thời kỳ vàng son của
mình. Thậm chí có người nói với tôi, khẩu âm Trung Quốc đọc thơ Đường
cũng còn chẳng hay nữa, chỉ còn khẩu âm Việt Nam mới may ra !
NGA MI SƠN (Emeishan)
Lý Bạch, nhà thơ đã từng leo lên Nga Mi sơn để ngắm
trăng và nghe đàn cầm đã viết về ngọn núi này: "Nga Mi cao xuất Tây Cực
thiên, La phù trực dữ thanh minh tế" (Ngọn Nga Mi cao quá trời Tây
phương cực lạc, Bao la cây cỏ khoảng trời xanh).
Bao nhiêu năm tháng trước Lý Bạch, Tạp Hoa Kinh (một tên
khác của Hoa Nghiêm Kinh) cũng nhắc tới Nga Mi bằng những dòng: "Phổ
Hiền hóa nhân thiên đẳng chúng, hiện tướng hải ư Hoa Mi sơn" (Phổ Hiền
hóa người trời các loại, Hiện tướng nhiều như biển ở Hoa Mi sơn). Huyền
sử chép Nga Mi sơn là trú xứ của Bồ-tát Phổ Hiền, không những thế nơi
đây còn có cả một cái ao mà Phổ Hiền từng tắm cho con voi sáu ngà của
mình.
Nga Mi sơn nằm ở phía nam tỉnh Tứ Xuyên, cách Thành Đô
160km về phía tây nam, với đỉnh cao nhất là Vạn Phật đỉnh đo được 3099m.
Đường lên núi Nga Mi hết sức cheo leo với hai đường đèo, một phía bắc
dài 44km, đường kia phía nam dài 66km. Sau đó ta phải đi bằng dây cáp
mới lên được tới đỉnh. Tôi lên đỉnh gặp một ngày nắng tốt, thông thường ở
đây mây mùa bao phủ quanh năm vì Nga Mi sơn nằm không xa hai giòng Mân
giang và Thanh Y giang. Lên tới đây không khí đã loãng, đi vài bước ta
đã hụt hơi.
Thật là một cảnh tượng sơn kỳ thủy tú tôi chưa từng
thấy. Đường đi quanh co, cứ qua khỏi một khúc quanh, cảnh vật lại hiện
ra khác lạ. Vách núi chập chùng cao như dựng ngược. Thác đổ nước trắng
xóa xuống những con suối sâu chảy lẫn trong lá. Đây là chốn thần tiên
của kỳ hoa dị thảo. Và khi lên đến nơi, tới Kim Đỉnh, ta đứng trên ngọn
Đại Nga chót vót với một độ cao 3077m, "bao la cây cỏ khoảng trời xanh".
Đây hẳn là nơi Lý Bạch ngắm trăng rồi viết bài thơ "Nga Mi sơn nguyệt
ca" và nghe Thục tăng Tuấn đánh đàn cầm. Ngày xưa hẳn ông phải đi bộ lên
đây bằng những bậc tam cấp đá xanh, tôi không rõ đi bao lâu thì tới,
nhưng nếu không tới Kim Đỉnh thì khỏi thấy "trời xanh" hay "trăng thu"
vì dưới đó xung quanh toàn là vách núi.
Lý Bạch không phải là người đầu tiên lên đây. Từ
thời Đông Hán (25-220) ở đây đã có Kim Đỉnh Phổ quang điện. Đến khoảng
đời nhà Đường, nhà Tống, tại Nga Mi sơn được xây dựng rất nhiều. Sau đó
đời Minh, Thanh là những thời cực thịnh của Nga Mi sơn. Rải rác trong
rặng Nga Mi sơn này là 200 đền đài tự viện, là chốn thiêng liêng của
Phật giáo Trung Quốc. Ngày nay trên Nga Mi sơn còn khoảng 20 ngôi chùa
còn được bảo tồn và đang tu sửa.
Đến Kim Đỉnh tôi thăm được Hoa Tạng tự. Đây là
chùa xưa nhất và được trùng tu vào đời Thanh (1866). Gần đó là Ngọa Vân
am, trong đó có một tấm bi đồng có xuất xứ từ đời nhà Minh. Tại Kim Đỉnh
người ta có thể thấy một hiện tượng gọi là "Phật Quang", là ánh cầu
vồng hình tròn gồm có bảy màu thường xuất hiện lúc giữa trưa khi người
xem đứng trên Đỗ Quang đài. Đó là một trong ba cảnh đẹp nhất của Kim
Đỉnh: Phật quang, cảnh mặt trời mọc và biển mây xung quanh Kim Đỉnh.
Tại Kim Đỉnh ta có thể đảnh lễ Phổ Hiền và quán
đại nguyện của Ngài mênh mông như bầu trời, như ánh dương vừa mọc, như
biển mây bao la, như cầu vồng ngũ sắc. Còn nếu muốn tham bái tượng Phổ
Hiền thì hãy đến chùa Vạn Niên tự nằm ở độ cao 1020m của Nga Mi, tương
truyền Phổ Hiền đã nghỉ chân tại đây. Chùa này được xây đời Tấn
(265-420), bị hư hại nhiều lần, đến đời nhà Minh được trùng tu lại. Năm
1946 chùa bị hỏa hoạn, nay chỉ còn "Chuyên điện" (điện đá nung). Điện
này được xây từ đời nhà Tống, có hình vòm, không cần cột kéo chống đỡ.
Trong điện có tượng Phổ Hiền bằng đồng cao 7,3m, nặng 62 tấn và trên vòm
tháp có khoảng 3000 tượng Phật nhỏ.
Nếu Văn-thù Sư-lợi cỡi sư tử xanh và đại diện cho
trí huệ thì Phổ Hiền được trình bày ngồi trên voi trắng và đại diện cho
hành động. Văn-thù và Phổ Hiền là sự hợp nhất giữa trí huệ và hành động,
đại diện cho nguyên lý "tri hành hợp nhất". Vì thế mà hai vị Bồ-tát này
hay được thờ tả hữu bên cạnh đức Phật. Đại nguyện của Phổ Hiền trong
hành động thường được gọi là "Phổ Hiền thập nguyện" [38], được nhắc nhở
trong hai kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.
Muốn có đại nguyện hành động như Phổ Hiền, tức là
"thể nhập hành Phổ Hiền", đó là điều không dễ, nó phải có trí tuệ của
Văn-thù. Nói theo văn chương thông thường, muốn hành động phải có trí;
muốn có hành động to lớn phải có trí to lớn, muốn có đại hạnh phải có
đại trí. Và ngược lại muốn có trí đích thực thì con người phải tự mình
nếm trãi, tự mình hoạt động. Và muốn có đại trí vượt trên nhị nguyên để
hiểu Tính Không thì phải có đại hạnh bao la của Phổ Hiền, trong đó cái
cá thể đã bị vượt qua. Cái "tri" và "hành" nằm trong một thể thống nhất
của hai mặt biện chứng mà chúng ta có thể chứng ngộ trong phạm vi nhỏ.
Hãy trở lại với Thiện Tài, nhờ nghe Văn-thù giảng
các pháp môn mà Thiện Tài mới "thâm nhập được vào đạo trường của hành
Phổ Hiền" [39] và khi ở trong đạo trường đó, Thiện Tài tận mắt trông
thấy trong mỗi "hạt bụi nhỏ đều chứa đựng trọn vẹn công đức Phổ Hiền".
Đó chính là "tất cả trong Một, Một trong tất cả", cốt lõi của Kinh Hoa
Nghiêm, cái đại trí của Văn-thù Sư-lợi. Kinh sách Đại thừa nhắc đến
khoảng 200 vị bồ-tát và mỗi vị ra đời cũng vì hành động cho thế gian.
Tại
Trung Quốc năm vị được tôn kính nhiều nhất, đó là Di-lặc, Phổ Hiền,
Quan Âm, Văn-thù và Địa Tạng, mỗi vị chủ đạo một hướng khác nhau trong
việc giáo hóa và cứu độ. Thế nhưng trong các vị thì hành động của Phổ
Hiền, "hạnh" của Ngài, là to lớn nhất bao trùm nhất, tổng kết tất cả mọi
hoạt động khác. Vì thế mà Phổ Hiền được gọi là bậc "đại hạnh" và cũng
là vị cuối cùng trong Kinh Hoa Nghiêm mà Thiện Tài gặp gỡ sau khi đi tìm
gặp hơn 50 vị thiện tri thức khác. Với Phổ Hiền, Thiện Tài cầu "Bồ-tát
hành, nhất thiết trí" và đó chính là mục đích cuối cùng của bồ-tát đạo
của Đại thừa Phật giáo.
Nga Mi sơn xứng danh với hạnh nguyện vô tận của Phổ
Hiền với vách núi, biển mây, bao la như không gian, rực rỡ như hoa lá.
Đó là ngọn núi cao nhất của Trung Quốc mà tôi lên được tới đỉnh, trên đó
tôi thở dốc vì thiếu dưỡng khí. Tôi cũng hụt hơi vì đại trí của
Văn-thù, đại hạnh của Phổ Hiền quá cao xa, quá khó tới. Thế nhưng bài
học tôi ngẫm nghĩ được trên ngọn núi này là nhận thức và hành động phải
đi đôi với nhau, nó không phải là bài học luân lý đạo nghĩa mà là phương
cách nhận thức. Nó nói rằng nhận thức đích thực chỉ xuất hiện trong
hành động. Nhận thức dẫn đường cho hành động nhưng chỉ hành động mới đem
lại tri kiến đích thực.
NHỮNG KÍCH THƯỚC VĨ ĐẠI
Từ chân núi Nga Mi có con đường số 31 đi về phía
đông, cách khoảng 30km là một thị trấn nhỏ tên gọi là Lạc sơn (Leshan) .
Lạc sơn là chỗ tụ hội của ba con sông Mân Giang, Thanh Y giang và Đại
độ hà. Ba con sông này nhập lưu nơi đây nên chỗ này nước xoáy, sóng dữ,
xưa nay ghe thuyền bị đắm rất nhiều.
Ngày nọ có một tăng sĩ tên là Hải Thông đi qua,
thấy thuyền bè đi lại rất nguy hiểm, ông quyết xây nơi đây một tượng
Phật thật lớn mà người Trung Quốc gọi là "Đại Phật". Ông lựa một ngọn
núi đá nhìn ra hướng ba con sông, quyên tiền bạc của cải để bắt đầu công
trình xây dựng. Viên quan địa phương thời đó thấy ông có tiền của, đòi
chia chác. Ông khẳng khái từ chối, nói đó là tiền của bá tánh quyên góp,
không phải là tiền của ông và nói thêm, nếu của ông thì ông không tiếc
gì cả. Viên quan nọ hỏi xin thử mắt ông, nào ngờ Hải Thông móc mắt đưa
ngay. Việc làm đó dĩ nhiên làm người thần đều sợ, Hải Thông bắt đầu công
trình xây dựng, đó là năm 713, đời nhà Đường.
Hải Thông xây dựng đến cuối đời mình vẫn chưa
xong, sau khi ông chết nhiều tăng sĩ tiếp tục công trình. Đến năm 803,
chín mươi năm sau, Đại Phật Lạc sơn hoàn thành, ngày nay là tượng Phật
đẽo từ đá lớn nhất thế giới. Đó là tượng Phật Di-lặc cao 71m, đẽo từ
một vách đá, lưng dựa vào núi Long Vân, mặt nhìn ra sông, mắt ngang
3,3m, tai dài 7m, vai rộng 24m, trên bàn chân đứng được 100 người. Khí
độ tượng Phật hùng vĩ, xứng đáng với câu "Sơn thị nhất tôn Phật, Phật
thị nhất tòa sơn" (Núi là một vị Phật, Phật là một ngọn núi). Sau khi
tượng hoàn thành tàu bè không còn bị đắm. Nhiều người cho rằng lúc xây
dựng, đá núi được đổ xuống sông và biến đổi lòng sông một cách thuận
lợi, chế ngự được các dòng nước xoáy. Nhiều người khác cho rằng Di-lặc
mà nhìn ra sông thì dòng sông là nguồn ân phước vô tận.
Lạc sơn thực ra là một thị trấn nhỏ nhưng nhờ Đại
Phật lớn nên ngày nay đã trở thành một đô thị phồn vinh với nhiều du
khách. Đây là nơi của trung tâm bảo tồn vùng Nga Mi-Lạc sơn, theo công
thức mà người Trung Quốc ưa nói "Lên Nga Mi đảnh lễ Phổ Hiền, xuống Lạc
sơn tham bái Di-lặc". Đến Lạc sơn tôi được biết thêm ngày xưa tượng Đại
Phật này có thêm một tòa lâu đài cao 13 tầng che chở bức tượng, gọi là
Đại tượng các, nhưng đã bị hủy cuối đời nhà Minh. Thế nhưng mưa gió bao
thế kỷ không hề hấn gì đến tượng Di-lặc bằng đá, có chăng là trên đầu,
vai, tay áo của tượng rêu phong đã bám xanh rì.
Hai bên tả hữu bức tượng có đường đi từ dưới chân Đại Phật lên núi Long
Vân, trên đó có chùa Linh Bảo với tháp gạch cao 38m xây trong đời nhà
Tống. Cũng tại đó ta có thể thấy tượng Hải Thông mà khuôn mặt và điệu bộ
cương quyết của ông hầu như còn truyền đạt ý chí sắt đá của người xưa.
Rời Lạc sơn vài km là không còn thấy du khách đâu nữa,
chúng tôi đi hướng bắc để đến Bát long đảo. Trên dòng Thanh Y Giang tôi
lạc vào một "quốc độ" chỉ toàn là tháp tượng, đó là "Thiên tháp Phật
quốc" tại Tào Ngư Than. Nơi đây, tuy không đến ngàn ngôi tháp như tên
gọi nhưng con số cũng lên đến 108 ngọn tháp, không tháp nào giống tháp
nào, tất cả đều được tạc bằng "nhã thạch". Cảnh vật u tịch ở đây làm tôi
nhớ đến chùa Linh Mụ và điện Hòn Chén ở Huế. Cả hai nơi đều là cảnh
thanh sơn thủy tú, sông liền núi, núi ngăn sông. Điều khác biệt với xứ
Huế bé nhỏ là người Trung Quốc không ưa những con số nhỏ, những kích
thước bé. Lẫn trong 108 ngọn tháp đó là một tượng Phật nhập Niết bàn dài
45m, cao 12,5m. Giữa núi rừng cô tịch, nhìn xuống là nước, nhìn lên là
núi, giữa vô số tượng tháp và trong mùi hương trầm quen thuộc, tôi bỗng
nhớ thượng nguồn sông Hương tha thiết.
Những ngày xưa ấy hiện về rõ mồn một với màu nước
trong xanh, với lòng kính sợ khi đi thuyền qua trước điện Hòn Chén. Đó
là ngôi điện nằm đúng chỗ miệng con rồng vĩ đại, một nhánh của Trường
sơn, cúi mình hút nước sông Hương. Đó phải là nơi mà ngày xưa còn rất
nhỏ, tôi đã cảm thấy giữa trời đất này phải có cái gì thiêng liêng, nó
không thể chỉ là cát đá trơ trụi được. Thế giới không thể chỉ là vài hạt
điện tử quay vòng vòng xung quanh hạt nhân được, tôi tự nhủ khi lớn
lên. Tuy thế nếu hỏi cái thiêng liêng đó là gì, không ai trả lời được rõ
ràng. Ngày nọ nghe Goethe, nhà thơ lớn nói: "Giữa trời và đất hẳn phải
có cái gì khác nữa", tôi thấy mình không đơn độc lắm, nhưng nhà thơ và
cũng nhà bác học người Đức đó cũng chẳng nói gì thêm. Ông không biết hay
biết mà không muốn nói ?
Không phải chỉ Goethe, nhiều người phương tây
dường như cũng khắc khoải về "cái gì đó nằm giữa trời và đất". Tôi nhớ
đến câu chuyện của một phi hành gia. Ông ta tự hỏi, mình đi bao nhiêu
tầng trời rồi mà chẳng thấy Chúa đâu cả. Một nhà giải phẫu đáp lại, ông
đã mổ bao nhiêu cái đầu rồi mà cũng không thấy tư tưởng đâu cả. Xem ra,
cái thiêng liêng đó không phải là thứ để ta thấy, để ta có thể sờ mó
được. Nó nằm ngoài năm giác quan của ta nhưng nó thâm nhập và điều hành
mọi sự. Đã bốn mươi năm trôi qua kể từ lòng kính sợ ngày xưa tại điện
Hòn Chén đến ngày nay được hân hoan đứng trước tượng Đại Phật nhập niết
bàn tại Hồng Nhã Tứ Xuyên, tôi cũng không biết rõ hơn bao nhiêu cái
thiêng liêng đó thực chất là gì. Thế nhưng điều tôi hiểu rõ là câu hỏi
nọ của mình ngày trước không hề là thắc mắc của trẻ con khờ dại mà là
vấn đề trọng đại nhất của con người.
ĐẠI TÚC (Dazu), THẠCH ĐỘNG NGỦ QUÊN ^
Cách Trùng Khánh về hướng tây khoảng 100km có một
vùng hoang dã ngủ yên trong rừng núi. Một ngày nọ trong năm 1939, một
giáo sư ngành kiến trúc tình cờ đến thăm và khám phá những tác phẩm điêu
khắc tuyệt đẹp nằm trong nhiều hang động. Nhiều người bắt đầu đến tham
quan thì chiến tranh thế giới nổ ra và Trung Quốc lâm vào cảnh nội chiến
triền miên mà Trùng Khánh là một trong những căn cứ địa của Quốc Dân
đảng. Sau ngày hòa bình lập lại nhiều người lại đến thăm nơi đây, thế
nhưng lại có một loạt xáo trộn mới xảy ra, mang tên cách mạng văn hóa.
May
thay có một người cứu những tác phẩm điêu khắc đó trong phút cuối cùng,
trước khi chúng bị phá hủy. Người đó là Chu Ân Lai, Thủ tướng thời đó
của Trung Quốc và các hang động đó là Đại Túc Thạch quật. Về sau tôi
biết thêm ông đã cứu nhiều đền đài tượng tháp của đạo Phật, trong đó có
chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu. Có người không ngại gọi ông là một vị hộ pháp.
Có người phá hoại thì cũng có kẻ cứu hộ, điều đó xảy ra trong lịch sử
Trung Quốc rất thường.
Đại Túc không hề là một nơi hoang dã như ta tưởng.
Huyền sử chép rằng đức Phật đã đặt chân tại một hồ nước ở Bảo đỉnh sơn
tại Đại Túc, vết chân dài đến 2m, vì thế thị trấn xa xôi này có tên Đại
Túc (chân lớn). Sự thật lịch sử là cuối đời Đường, thời Đường Vũ Tông,
Phật giáo bị bức hại, nhiều tăng sĩ bỏ Trường An chạy về Tứ Xuyên đến
Đại Túc. Về sau khoảng cuối thế kỷ thứ 9, có một viên tướng tên là Vĩ
Quân Tinh [40]chống lại triều đình ở Thành Đô, ông rút về Đại Túc, núi
Bắc sơn, cho quân đẽo núi đá tạc hình tượng Phật để cầu nguyện.
Trong
khoảng 250 năm sau, trong thời Ngũ Đại (907-960) và đời Tống
(960-1279), ảnh hưởng Phật giáo trong vùng này rất mạnh. Từ đó mà phát
sinh vùng Đại Túc với khoảng 70 khu vực gồm 50.000 tượng Phật nằm rải
rác, mà hai thạch động tại Bắc sơn và Bảo đỉnh sơn - hai bên cách nhau
khoảng 20km - là quan trọng nhất. Có xem Đại Túc rồi tôi mới thấy tầm
vóc của nó ngang hàng với Vân Cương thạch quật đã trình bày trong các
chương trước.
Tại Bắc sơn, cách Đại Túc khoảng 2km, ta thấy một
động đá cao khoảng 7m, dài 500m, trong đó là vô số tượng đẹp. Ở phía nam
của động là các tượng tạc trong thế kỷ thứ 9, 10, hình vóc đầy đặn áo
quần giản dị, đó là nghệ thuật đời Đường và Ngũ Đại. Ở phía Bắc là các
tượng đời nhà Tống, thế kỷ thứ 12, vóc gầy nhưng nhiều trang sức, quần
áo cầu kỳ. Nơi đây, sau khi viếng Ngũ Đài và Nga Mi, tôi được gặp lại
Văn-thù cưỡi sư tử và Phổ Hiền ngồi voi trắng. Trong các tượng tại Bắc
sơn thì tượng Nhật Nguyệt Quan Âm có lẽ đẹp nhất. Về sau tôi mới biết
mình sẽ còn đến đảnh lễ Quan Âm tại Phổ Đà sơn.
Đi về phía bắc của Đại Túc ta đến một nơi gọi là
Đại phật loan nằm dưới chân núi Bảo đỉnh sơn. Nơi đây trong thế kỷ thứ
12 có một danh tăng trên là Triệu Chí Phụng. Ông là người khởi công xây
dựng thạch quật này từ năm 1179. Suốt 70 năm nhiều thế hệ nghệ nhân đã
lao động nơi đây để ngày nay ta có khoảng 10.000 tượng Phật để chiêm
bái.
Triệu Chí Phụng là một tăng sĩ Mật giáo kỳ bí. Ông
là người được truyền pháp Kim Cương đảnh của Du-già bộ Mật giáo [41] từ
Kim Cương Trí[42]. Kim Cương Trí là người Ấn Độ, là một trong ba đại sư
truyền bá Mật Tông tại Trung Quốc. Triệu Chí Phụng tự tay tạc nhiều
tượng tại Bảo đỉnh sơn, trong đó nhiều tượng Tì-lô-giá-na và nhiều vị
bồ-tát rất lạ, trình bày quan niệm về vũ trụ của Mật giáo [43]. Động qui
mô nhất hẳn phải là động Viên giác, trình bày ba vị Phật của ba thân:
Pháp thân, Báo thân, Ứng thân. Hai bên là 12 vị bồ-tát, mỗi vị có vẻ mặt
và thế ngồi khác nhau.
Nhiều sách nước ngoài cho rằng bức tượng
quan trọng nhất là Quan Âm với 1002 cánh tay (có nơi ghi 1007), tỏa ra
chiếm một diện tích 88m2. Trong các động ở Bảo đỉnh sơn ta còn thấy rất
nhiều "biến tướng" của kinh sách Mật tông như Đại Bảo, Quảng bá lâu các,
Thiện trụ bí mật đà là kinh. Ngoài ra có các kinh hiển giáo như Kinh
báo ân phụ mẫu, diễn tả công dưỡng dục của cha mẹ. Nhiều sách nước ngoài
không biết tích kinh, cho rằng đó là thạch tượng mô tả "đời sống hàng
ngày". Tranh Thập mục ngưu đồ của Thiền tông cũng được đẽo trên vách đá,
trông rất hóm hỉnh, sau gần 1000 năm mà tương đối còn được bảo tồn.
Bảo đỉnh sơn là một công trình nói lên sự hòa nhập hiếm thấy của hai
tông phái Mật tông và Thiền tông tại Trung Quốc. Lịch sử Phật giáo Trung
Quốc thường hay trình bày Mật tông như một tông phái cực đoan tả đạo.
Tôi cho rằng, khi đã nhận là mật giáo, Mật tông cũng chẳng cần ai hiểu
và muốn hiểu Kim Cương thừa, hành giả cần phải được quán đỉnh trong một
môn phái nhất định. Giữa Mật và Thiền tông có những cái rất chung, mặt
dù mặt ngoài hai bên khác nhau rất nhiều, tôi tự nhủ. Tôi nhớ lại cuộc
đời của 84 vị thành tựu giả của Ấn Độ, các vị đó sống trong thế kỷ thứ 8
đến 11, tức cũng đúng là thời của nhà Đường nhà Tống, thời vàng son của
Thiền tông Trung Quốc, mà cũng là thời xây dựng các thạch động này tại
Đại Túc. Kỳ lạ thay thời gian đó, đó là thời kỳ của các thiền sư chủ
trương "thấy tánh" là thành Phật, của các vị thành tựu giả chỉ cần quán
ngộ Tính Không là đủ nhập vào "cõi của không hành nữ Dakini" [44]. Đó
cũng là thời kỳ của Từ Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải tại Việt Nam, những
vị hít thở không khí của Mật và Thiền tông. Các vị đó chính là những đại
thành tựu giả của Việt Nam, những kẻ thong dong ra vào chốn sinh tử, đã
đạt "thần thông kiêm biến hóa"[45]. Các vị cũng là thiền sư đạt đạo, đã
siêu việt vượt trên chuyện có-không: "Tác hữu trần sa hữu, Vi không
nhất thiết không" (Có thì muôn sự có, Không thì tất cả không) [46].
Bao giờ trở lại đồng Bương Trấn,
Lên núi Sài Sơn ngắm lúa vàng[47].
Ngay giữa Trung Quốc mà tôi bỗng nhớ chùa Thầy tại
núi Sài Sơn tha thiết, biết bao giờ mới sống lại thời gian tuyệt đẹp
đó. Sài Sơn thuộc tỉnh Hà Tây chỉ cách Hà Nội có 25km. Cũng như Đại Túc
ghi dấu chân Phật thì Sài Sơn ghi dấu chân Từ Đạo Hạnh. Các bậc đắc đạo,
các vị tu Mật tông thường có dấu ấn của mình theo cách đó. Tôi yêu
thích Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần vì đó là nơi dung hợp giữa Thiền
và Mật tông, không chút phân biệt. Cũng như Thiền tông có đức Thích-ca
là sơ tổ môn phái mình thì trong Mật tông cũng thế, Pháp thân, Báo thân
của Phật đã truyền Mật giáo cho Kim cương tát-đỏa và từ đó được mật
truyền về sau. Thiền cũng như Mật tông chỉ là hai môn phái trong vô số
pháp môn của đạo Phật, ta không nên rơi vào cạm bẫy thường tình của tư
tưởng để phê phán so đo đúng sai, chúng tùy thuộc vào căn cơ trình độ
của hành giả, tôi tự nhủ.
[14] - "Đông Bắc" vì dựa trên vị trí của Xá-vệ tại Ấn Độ, đó là nơi Phật giảng kinh Hoa Nghiêm
[15] Trích Từ Điển Phật Học Hán Việt, Chủ biên Kim Cương Tử, Hà Nội 1994
[16] - Trích Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[17] - Kinh đã dẫn
[18] - Sư tử tuyết bờm xanh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999
[19] Trích Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[20] - Kinh đã dẫn
[21] - Sinh năm 161, mất năm 222
[22] - Sinh năm 181, mất năm 234
[23] - Chengdu
[24] - Sinh năm 155, mất năm 220
[25] - Baidicheng
[26] - Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu, sách đã dẫn
[27] - Qingcheng
[28] - Sinh năm 34, mất năm 156
[29] - Trích "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc", Thích Thanh Kiểm, Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí Minh 1991
[30] - Nhiều tư liệu trong chương này được trích từ "Đường Thi tuyển dịch", Lê Nguyễn Lưu, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1997
[31] - Người thứ ba là Bạch Cư Dị (772-846), được mệnh danh là "Sử thơ"
[32] - Đầu đề một bài thơ của Đỗ Phủ
[33] - 980-1052
[34] - 1089-1163
[35] - Lời của thiền sư Nam Tuyền (738-835)
[36] - W.Schumann, Mahayana-Buddhismus (Đại thừa Phật giáo), Eugen Diederichs Verlag 1995
[37] - Đạo Đức Kinh: "Bất xuất hộ, tri thiên hạ".
[38] - Đó là: 1.Kính lễ chư Phật, 2. Xưng tán Như lai,
3. Rộng tu cúng dường, 4. Sám hối nghiệp chướng, 5. Tùy hỉ công đức, 6.
Thỉnh chuyển pháp luân, 7.Thỉnh Phật tại thế, 8. Thường theo học Phật,
9. Luôn thuận chúng sinh, 10. Hồi hướng cho tất cả
[39] - Trích Kinh Hoa Nghiêm, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[40] - Trích tư liệu do chùa Khánh Anh, Paris phát hành
[41] - Trích Phật Quang đại từ điển, 1994
[42] - 671-741
[43] - Xem "Kumbum", man-đa-la vĩ đại" trong phần thứ tư
[44] - Theo quan điểm của Kim cương thừa, đó là nơi không còn sự tái sinh
[45] - Thơ của vua Lý Nhân Tông khen Giác Hải
[46] - Kệ của Từ Đạo Hạnh (mất năm 1115)
[47] - Trích Đôi mắt người Sơn Tây, thơ Quang Dũng