PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT
Ánh sáng đến từ phương Tây
Vạn Lý Trường Thành
Linh Quang Tự và chiếc răng của Phật
Ung Hòa Cung và tiểu truyện về Trung Quốc Tây Tạng
Bình Thành và Động Vân Cương
Từ Hằng Sơn đến Quang Minh Đỉnh
Từ tiểu ni cô Nghi Lâm đến nàng Lý Ngư
ÁNH SÁNG ĐẾN TỪ PHƯƠNG TÂY
Dưới cánh máy bay là một vùng sa mạc trắng xóa. Máy bay tôi đi đang
bay từ phía tây đến Trung Quốc, vùng đó chính là sa mạc Gobi mênh mông.
Trong vùng đất tưởng như không người đó có một con đường nhỏ được thiết
lập từ đầu công nguyên, đó là một trục lộ mệnh danh là "Con đường tơ
lụa".
Đó là một con đường của thương nhân nối liền đông tây hai phía. Nhưng
tại sao là "tơ lụa" ? Người Trung Quốc có hân hạnh là kẻ đầu tiên tìm
ra phép trồng dâu nuôi tằm lấy lụa từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên và
xuất khẩu món hàng mượt mà này qua phía tây cho các bà mệnh phụ vùng
Địa Trung Hải.
Con đường tơ lụa được xây dựng khoảng trong thế kỷ thứ nhất, bắt đầu
tại Trường An. Tại Trung Quốc thì nó được nối thêm đến Bắc Kinh và Thành
Đô còn về phía tây thì nó chạy ngang Lan Châu, Vũ Uy, Tửu Tuyền, Đôn
Hoàng, Ngọc Môn quan. Sau Ngọc Môn thì nó chia làm hai đường nam bắc mà
người Trung Quốc gọi là bắc Tây Vực và nam Tây Vực. Đường phía bắc chạy
ngang Turfan, Korla, Kutscha. Đường phía nam chạy qua Charchan, Chotan.
Hai đường nam bắc rẻ ra nhằm tránh sa mạc Takla Makan, lại gặp nhau tại
Kaschgar (Sơ Lặc), ngày nay nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Đặc biệt con
đường phía nam có một nhánh đi về phía nam hướng Ấn Độ. Đó là một nhánh
đường thú vị sẽ nói đến sau. Sau đó đường lại chạy qua Tadschikistan,
Kasachstan, Usbekistan để đến Merv (ngày nay thuộc nước Turkmenian) và
chạy về hướng Iran, Irak, Syrie, cho đến Địa Trung hải.
Thương lái đường dài ngày xưa đi từ Trung Quốc, mang theo tơ lụa đi
bán và mang về lại hột giống, hương liệu, đá quí và cả ngựa từ Á-rập. Họ
đi một chuyến như thế mất đến sáu tới tám năm mới về đến nhà. Trên
đường về nhà họ còn mang một vài thứ kỳ lạ, trong đó có kinh sách, nói
về Phật giáo, Hồi giáo…
Khoảng suốt mười thế kỷ sau công nguyên, con đường tơ lụa này bị
chiến tranh của các nước Bắc Á đe dọa nên mất vai trò quan trọng nhưng
đến thời Mông Cổ trong thế kỷ 12, 13 nó lại được phục hồi nên Marco Polo
mới đi được từ Venedig đến Trung Quốc trong thế kỷ 13.
Trên con đường tơ lụa đầy hiểm nguy đó không phải chỉ có thương nhân
và kẻ thám hiểm mà còn có một số người khác mà Trung Quốc gọi là "Phạm
Tăng". Ngày nay lịch sử truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ qua Trung Quốc đã
nằm trong bóng tối của lịch sử, nhưng điều xem ra chắc chắn nhất là có
hai "Phạm tăng" tên là Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan theo con đường
tơ lụa này đến Trung Quốc năm 67 sau công nguyên. Hai vị này mới đi nửa
đường đã được sứ giả tiếp đón trọng hậu.
Sứ giả đó là một đoàn
18 người của nhà vua Hán Minh Đế, vị này nằm mộng mà thấy "người vàng"
đầy ánh sáng từ phương tây tới. Hán Minh Đế cho đoán mộng thì mới hay có
thánh nhân xuất hiện ở phía tây. Vua sai sứ giả qua Tây Vực để cung
thỉnh tượng Phật, không ngờ gặp cả tượng lẫn kinh do hai vị tăng sĩ đó
tải bằng ngựa trắng. Vua cho lập chùa để thờ, tên chùa là Bạch Mã tự để
nhớ đến các con ngựa trắng và bộ kinh đầu tiên được dịch ra là "Tứ thập
nhị kinh". Bạch Mã tự là ngôi chùa đầu tiên của Trung Quốc, kiến lập năm
68, ngày nay vẫn còn, cách Lạc Dương 9km về hướng đông.
H 24 : …… Lộ trình của Huyền Trang
và cũng là đoạn chính của con đường tơ lụa. Ông bắt đầu đi từ Trường An
(Ch?angan). Trong chuyến đi Ấn Độ, ông lấy đường phía bắc. Về lại Trung
Quốc, ông lấy đường phía nam [1]
Sau Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan, nhiều phạm tăng cũng bằng con
đường tơ lụa tiếp tục đến Trung Quốc như An-thế-cao đến Lạc Dương năm
147, Cưu-ma-la-thập đến Trường An năm 401. Cũng trong thời đại đó có một
kẻ đi ngược từ đông sang tây để hành hương và tìm kiếm kinh điển. Đó là
Pháp Hiển, rời Trường An năm 399, đến Ấn Độ tham bái tất cả các thánh
tích và 15 năm sau mới chịu trở về cố hương. Về nhà Pháp Hiển dịch kinh
và viết tập ký sự "Phật quốc ký".
Pháp Hiển còn làm một việc nữa
rất khác thường là ông lấy đường biển trở về, đó là đường rời Calcutta,
ghé thăm Tích Lan, đi vòng xuống phía nam đảo Sumatra, ngược lên biển
đông của Việt Nam, lách giữa lục địa Trung Quốc và Đài Loan mà trở về
Thanh Châu miền đông bắc. Hơn hai trăm năm sau, như chúng ta đã biết,
dưới thời nhà Đường thịnh trị, lại có một thanh niên khôi ngô 26 tuổi
tên là Huyền Trang nhắm con đường tơ lụa ra đi về phía tây. Mười sáu năm
sau, ông lại trở về bằng con đường bộ đó, đem theo hơn 500 bộ kinh, về
đến Đôn Hoàng cuối năm 644.
Tại đó ông viết thư thỉnh cầu Đường
Thái Tông [2] tha tội ngày xưa đã vượt biên ra đi không đợi phép vua.
Vua tha lỗi và Huyền Trang dùng hết 20 năm cuối của đời mình để dịch
kinh. Cùng với Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang đã đi vào lịch sử Phật giáo
Trung Quốc như những nhà dịch kinh vĩ đại nhất với một trình độ văn
chương tác tuyệt và nội dung chính xác. Năm 664 đang dịch kinh Bát-nhã,
thấy đã đến giờ từ biệt, ông đến chùa lễ bái lần cuối rồi ngồi kiết già
tịch diệt. Trước đó vài giờ ông nhận linh ảnh sẽ sinh vào trời Đâu-suất
nghe Di-lặc giảng pháp.
Con đường tơ lụa ! Ai đã nghĩ ra ngươi, đó là thương nhân đi buôn bán
kiếm lời hay có ai chủ tâm xây dựng ra nó đầu công nguyên này để mở
đường cho Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan, An-thế-cao, Cưu-ma-la-thập,
Pháp Hiển, Bồ-đề Đạt-ma, Huyền Trang và vô số những tăng sĩ khác, đưa
Phật giáo vào Trung Quốc ?
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH ^
Việc đầu tiên phải làm khi đến Bắc Kinh là tôi đi xem Trường thành.
Ngày nay du khách, thương nhân hay chính trị gia ai đến thủ đô Trung
Quốc cũng đều tham quan Vạn lý trường thành vì công trình đồ sộ đó là
biểu tượng của xứ sở vĩ đại này. May thay nó không nằm quá xa Bắc Kinh,
chỉ cách khoảng 80km nên du khách ai cũng đến được.
Theo nhiều tài liệu, công trình này đã được bắt đầu xây dựng trong
khoảng giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 5 trước công nguyên. Đến thời Chiến Quốc
(475-221) nó được các nhà vua thời đó tiếp tục tu bổ để phòng vệ chống
"rợ Hung Nô" và các "bộ lạc Tây Vực". Trung Quốc được Tần Thủy Hoàng
thống nhất năm 221 trước công nguyên, ông là người cho hoàn thành Trường
thành thành một dãy liền lạc dài trên 5000km. Dưới thời nhà Hán (khoảng
200 năm trước và sau công nguyên), Trường thành được phát triển đến
10.000km, dài hơn "vạn lý". Trong đời nhà Minh (1368-1644), Trường thành
được tu bổ thêm và giữ hình thể đó đến ngày hôm nay. Qua thời gian,
Trường thành đã hư hại nhiều nhưng công trình to lớn này cho thấy ý chí
ghê gớm của các vương triều cũng như công lao đầy mồ hôi và xương máu
của nhân dân Trung Quốc.
Ngày nay Trường thành dài khoảng 6700km, chạy qua Hồ Bắc, Thiên Tân,
Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Thiểm Tây và Cam Túc. Gần Bắc Kinh
có một chỗ dễ lên Trường thành, đó là Cư Dung quan. Đây là chỗ Tần Thủy
Hoàng kiến lập nhiều làng dân cư sau khi đã hoàn thành Trường thành
nhưng ngày nay các thị trấn đó không còn tồn tại. Tôi đến đây, leo
Trường thành và cảm nhận cái vĩ đại của một công trình lớn trong một xứ
sở lớn. Những bậc cấp ở đây thường cao hơn nửa mét, chỉ việc leo lên một
đoạn của Trường thành đã đủ mệt, không cần nói đến chuyện xây dựng
chúng. Làm sao người xưa có thể đưa những tảng đá to lớn lên những độ
cao như thế và không phải chỉ dài vài chục cây số như tại Vương Xá của
Tần-bà-sa-la [3] mà cả vạn dặm trên những sườn núi cao ?
Về sau khi đi khắp Trung Quốc, tôi hay nhớ lại cái vĩ đại của Trường
thành để thấy một điều: đây là một nước lớn và dân nước đó không chịu
nổi những gì có kích thước nhỏ bé. Đó là một nước có rặng Hy-mã với
những đỉnh núi cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ. Ngay tại Tứ Xuyên
mà núi của họ đã cao hơn 7000m. Núi non của Trung Quốc không phải chỉ
hùng vĩ, nó là suối nguồn của thơ văn, của nghệ thuật và của đạo giáo.
Những bức tranh thủy mặc chúng ta hay thấy không hề là sự hư cấu của các
họa sĩ, chúng đúng thực như thế, với mây, với núi và với những căn nhà
tí hon trên đỉnh.
Sông của họ là những con sông với nguồn chảy
mãnh liệt, nước sông là "thiên thượng thủy", phát khởi từ cao nguyên Tây
Tạng, băng núi non chảy về đông hải. Dương Tử Giang (Trường Giang) là
sông dài nhất châu Á với 6600km, là nguồn sống của mấy trăm triệu dân từ
tây sang đông. Hồ của Trung Quốc kể chung thì lên đến 2000 hồ, từ các
hồ nước mặn ít người biết đến ở các vùng cao nguyên Tây Tạng, Thanh Hải
cho đến các hồ nước ngọt miền đồng bằng tiếng tăm như Động Đình Hồ, Đại
Hồ. Đất của Trung Quốc quá mênh mông nên tuy bờ biển của họ dài đến
20.000km nhưng thực tế toàn bộ đời sống diễn ra trong vùng đại lục với
sông và hồ. Đối với Trung Quốc thì "tái xuất giang hồ" đã là hạ sơn về
lại với thế giới rồi, họ không cần nói tới biển.
Nền văn hóa Trung Quốc là một cái nôi của văn minh loài người, đó là
một quá trình năm sáu ngàn năm, người ngày nay không sao dò tới đáy. Từ
bốn năm thế kỷ trước công nguyên ở đó đã ra đời bộ Kinh Dịch với tham
vọng tìm hiểu và vẽ nên đường đi của tạo hóa. Cũng từ trước công nguyên,
có lẽ cùng thời với đức Thích-ca tại Ấn Độ và Heraclitus tại Hy Lạp,
hai thánh nhân vĩ đại ra đời, đó là Khổng Tử và Lão Tử, đại diện hai cực
âm-dương tiêu biểu của tư tưởng Trung Quốc.
Người thì luận về
hoạt động và trật tự xã hội, kẻ thì ám chỉ đường đi mầu nhiệm của đạo,
tập hợp triết học Trung Quốc trong một tổng thể lý tưởng "nội thánh
ngoại vương chi đạo". Đó là một đất nước với những con người có những
giấc mơ kỳ lạ, dưới tay họ phải phát sinh những công trình vĩnh viễn,
những dự án xây dựng ngất trời, những cuộc phá hủy tận gốc mà Tần Thủy
Hoàng với Vạn lý trường thành và việc đốt sách, chôn sống học trò chỉ là
một thí dụ xưa cũ. "Ngu Công dời núi" không hề là một chuyện đùa với
họ, xưa cũng như nay, họ sẵn sàng làm nhiều điều đội đá vá trời. Và
trong thời đại ngày nay công trình tiêu biểu cho đầu óc đó là đập thủy
điện tại Trường Giang tam hiệp.
Trong lịch sử Trung Quốc có một nhà du khảo nổi tiếng, đó là Từ Hà
Khách[4] người đời nhà Minh. Suốt cuộc đời, ông đi được "nửa nước Trung
Quốc". Từ đời nhà Minh đến nay Trung Quốc đã rộng hơn nhiều, Từ Hà Khách
có sống lại cũng chỉ được được một phần. Ngày nay nước Trung Quốc bao
gồm một lục địa khổng lồ vươn dài từ đông hải đến phía tây tận các nước
cộng hòa của Liên Xô cũ, từ miền bình nguyên Hoàng hà đến cao nguyên Tây
Tạng. Trong đất nước này ngoài Hán tộc còn biết bao dân tộc khác như
Mãn Châu, Tây Tạng, Mông cổ. Bên cạnh các nền triết học của Khổng Lão,
Trung Quốc đã thu nhiếp Phật Giáo, biến tôn giáo này thành một hệ tư
tưởng hầu như đặc thù của họ.
Một dân tộc như thế thì còn lâu mới chấp nhận một tư tưởng ngoại bang
làm chủ đạo cho nền học thuật của mình. Làm sao một triết học phương
tây, dù mang màu sắc gì, có thể làm họ lung lay. Làm sao một nước láng
giềng phương bắc, dù nhất thời giàu mạnh hơn họ, có thể làm họ chịu thua
kém. Đầu thế kỷ hai mươi là thời kỳ đánh dấu một giai đoạn đáng đau
buồn của họ. Họ mở mắt và xấu hổ nhìn thấy một đất nước bị xâu xé, một ý
thức hệ xa lạ lên ngôi, một nền kinh tế nghèo nàn trì trệ, một nền khoa
học kỹ thuật lạc hậu.
Không còn nghi ngờ gì, hảo hán của Trung Quốc sẽ đưa nước họ cất cánh
trong thế kỷ 21. Nhiều hiện tượng đặc biệt đang báo hiệu sự chuyển biến
đó, trong đó có cả sự phục hưng của Phật giáo tại Trung Quốc.
LINH QUANG TỰ VÀ CHIẾC RĂNG CỦA PHẬT ^
Bắc Kinh là kinh đô của ba triều đại Nguyên, Minh, Thanh từ thế kỷ
thứ 13. Đó là ba triều đại tôn sùng đạo Phật nên tại Bắc Kinh và các
vùng phụ cận ta thấy còn vô số chùa chiền. Thế nhưng trong các chùa đó
có một nơi đặc biệt, đó là Linh Quang tự, nơi thờ một chiếc răng của
Phật.
Được xếp trong số Bát đại tự nằm phía tây Bắc Kinh, Linh Quang tự chỉ
là một ngôi chùa nhỏ với một ngôi tháp gạch cao 51m. Trên tầng thứ hai
của tháp là chỗ thờ một chiếc răng của Phật. Tôi được lên chiêm bái bảo
vật vô song này sau khi đi nhiễu nhiều vòng quanh tháp. Răng được chứa
trong một bảo tháp nhỏ bằng vàng, sau "cửa" của tháp là một đóa sen cũng
bằng vàng và trên đó là răng Phật. Dưới ánh sáng, chiếc răng nằm trên
hoa sen hiện ra huyền ảo, tôi thấy răng to hơn bình thường, dễ chừng
phải bằng ngón tay cái.
Linh Quang tự được kiến lập năm 1071. Trong thời nội loạn năm 1900
chùa bị quân đội nước ngoài phá hủy nặng nề. Về sau, khi trùng tu, các
nhà khảo cổ Trung Quốc tìm thấy một chiếc hộp gỗ, bên ngoài ghi hộp chứa
răng của Phật. Tháp mà ta thấy ngày nay mới được xây cách đây có 40 năm
để thờ chiếc răng đó. Ngày nay theo các tài liệu thì có nơi cho là răng
đến Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5, nơi thì nói trong đời Tống
(960-1279). Thế nhưng không ai biết được làm sao chiếc răng Phật từ Ấn
Độ mà qua đến Trung Quốc này được ? Có lẽ chỉ có một người biết rõ, đó
là một tăng sĩ có tên Đạo Tuyên.
"Đức Thế Tôn dùng lực đại bi làm nát thân kim cương thành vô số các
hạt xá lợi nhỏ, chỉ có bốn răng nanh là còn nguyên vẹn". Đó là một câu
ta đọc được trong "Đại bát Niết-bàn kinh" [5], phẩm Cúng dường xá lợi.
Trong phẩm đó ta còn thấy thêm: "Thiên Đế lấy một răng nanh xá lợi của
Phật ở bên phải hàm trên, đem về thiên cung xây tháp cúng dường…Lúc đó
có hai con quỉ La-sát ẩn thân sau lưng Đế Thích, nên không ai nhìn thấy.
Hai quỉ lấy trộm được một cặp răng nanh xá lợi". Khá khen cho quỉ
La-sát, chúng cũng biết quí trọng xá-lợi nên mới đi ăn trộm. Thế nhưng
chúng bị một vị tướng nhà trời rượt theo lấy lại, đó là Vi đà thiên. Rồi
hơn ngàn năm sau, Vi đà thiên đợi một vị tăng tên là Đạo Tuyên tu học
xuất sắc, giới luật trọn vẹn, sống trong đời Đường Trung Quốc để trao
cho.
Đạo Tuyên (596-667) là nhân vật lịch sử, xuất gia từ năm 16 tuổi. Lúc
Huyền Trang về nước ông được cử vào ban phiên dịch kinh sách. Song
song, ôâng là người nghiêm túc trì giới, truyền bá giới luật nên được
xem là khai tổ của Luật tông Trung Quốc, cũng được gọi là Nam Sơn Đại
sư. Giới hạnh của Đạo Tuyên cao tới mức mà ông luôn luôn có thần thánh
hầu cận. Theo Tống cao tăng truyện, ngày nọ ở chùa Tây Minh, thình lình
ông trợt chân té nhưng có người đỡ. Người đỡ ông là một thiếu niên không
phải tầm thường, tự xưng là thần hộ pháp Vi đà tướng quân, trao cho ông
chiếc răng Phật. Đó là chuyện "Vi đà thiên hoàn Phật nha" (Thiên tướng
Vi đà trả lại răng Phật)[6] .
Vi đà thiên tướng là vị hộ pháp ta hay gặp trong các chùa ở Trung
Quốc. Thông thường chùa có một tiền điện thờ Di-lặc, vị Phật tương lai.
Xung quanh Di-lặc là bốn vị Thiên vương gồm Trì Quốc Thiên vương, sắc
trắng cầm đàn tì bà; Tăng Trưởng thiên vương, sắc xanh cầm bảo kiếm;
Quảng Mục thiên vương, sắc đỏ cầm rắn và Đa văn thiên vương sắc lục, tay
trái cầm lọng, tay mặt cầm ngân thử (chuột bạc). Sau lưng Di-lặc là
tượng Vi đà tướng quân, mặt rất trẻ trông như một thiếu niên nhưng hết
sức oai phong. Tượng Vi đà nhìn vào chính điện, tức là Đại Hùng bảo
điện, nơi thờ các vị Phật. Hoạt động của nhân thiên trong sân, giữa tiền
điện và chính điện hẳn không lọt qua cặp mắt của
Vi đà. Nhất là tiền cúng dường của khách thập phương chắc không có
quỉ La-sát nào trộm cắp được, tôi tự nhủ khi thấy các chùa Trung Quốc
với vô số khách viếng thăm và cúng dường. Về sau khi đi Tây Tạng, tôi
thấy lại các vị hộ pháp trong các đền thờ Phật, dù nơi đây các vị được
trình bày khác hẳn. Thế nhưng nơi đây vắng bóng vị Vi đà tướng quân và
tiền cúng dường của thập phương thì nằm vương vãi khắp nơi, xem ra không
ai dám trộm cắp. Có lẽ trên cao nguyên Tây Tạng thiêng liêng này, trong
một xứ sùng tín tuyệt đối, Vi-đà không còn ngồi sau lưng Di-lặc để canh
chừng chính điện nữa mà dưới chân Ngài để nghe giảng pháp.
UNG HÒA CUNG VÀ TIỂU TRUYỆN VỀ TRUNG QUỐC-TÂY TẠNG ^
Tại Bắc Kinh, đền thờ rực rỡ nhất ngày nay phải là Ung Hòa cung. Nơi
đây là chốn khách du lịch lúc nào cũng đông như hội. Đây là nơi khách
hành hương chủ ý đến lễ bái một pho tượng Phật Di-lặc tuyệt đẹp. Điện
thờ này chứa nhiều sự tích và ý nghĩa thâm trầm về mối quan hệ Trung
Quốc-Tây Tạng.
Đây là một cung điện hay một ngôi chùa ? Cả hai ! Thời nhà Thanh
(1662-1911) có một vị hoàng tửû tên là Dận Chân. Năm 1694 Dận Chân cho
xây một cung điện. Về sau, năm 1723 Dận Chân lên ngôi thành nhà vua Thế
Tôn Ung Chính, về trị vì tại Tử Cấm thành. Từ đó cung điện cũ của hoàng
tử Dận Chân mang tên là Ung Hòa Cung và không ai được vào đó ở. Sau đó
nhà vua Thế Tôn tặng cung Ung Hòa cho Phật giáo Tây Tạng, thời đó được
gọi là Lạt-ma giáo. Lý do của sự hiến tặng đầy hào phóng đó là lòng
nhiệt tâm tôn giáo trộn lẫn với tính toán chính trị.
Tôi đến Ung Hòa cung và thấy một rừng người vói khói hương nghi ngút.
Đây là một tổng thể gồm năm điện, nằm trong một khu vườn rộng lớn. Từ
cổng vào, ta phải đi một đoạn xa mới tới được điện đầu tiên với Di-lặc
và các vị thiên vương. Điện thứ hai mang tên Ung Hòa điện, thờ ba vị
Phật tam thế, quá khứ hiện tại vị lai. Điện thứ ba mang tên Vĩnh Hưu
điện, thờ A Di Đà và Dược Sư Phật. Điện thứ tư là Pháp luân điện thờ đại
sư Tông-khách-ba [7], nhà cải cách trong thế kỷ 14 của Phật giáo Tây
Tạng, thầy dạy của các vị Đạt-lai lạt-ma và Ban thiền lạt-ma.
Cuối
cùng là Vạn phúc các, thờ Di-lặc trong dạng một bức tượng cao 18m,
đường kính 3m, làm từ một thân cây trầm hương duy nhất. Tượng này được
Đạt-lai lạt-ma thứ 7 tặng cho vua Càn Long[8] . Trong năm điện đó ta
tìm thấy vô số tranh tượng diễn tả kinh điển, sự tích, các vị thánh
nhân, hộ pháp, núi Tu-di, các công trình nghiên cứu, trong đó có cả các
ngành khoa học và toán học. Trong Pháp luân điện có tượng của 500 vị
la-hán, hai bên vách chứa toàn kinh sách cổ.
Thế nhưng tất cả đều làm tôi sớm quên khi thấy tượng Di-lặc. Tôi ngẩn
người vì cái đồ sộ của tượng, tới dưới chân ngẩng đầu nhìn cặp mắt xanh
biếc của Ngài. Sau bao nhiêu lần thấy tượng Di-lặc mập tròn thường có
tại Trung Quốc, nơi đây tôi lại được thấy tượng Ngài theo cách diễn tả
của Tây Tạng với khuôn mặt vô cùng trí tuệ. Di-lặc là vị "hóa thân thiên
ngàn ức", có dạng là một hòa thượng mập tròn đùa dỡn với trẻ con cũng
có, làm kẻ héo hon đi ăn xin cũng có, làm trời, làm người, làm kẻ hướng
đạo, làm người hầu cận. Ngài mang mọi dạng hình, đi khắp bốn phương trời
để giáo hóa Tính Không.
"Thiện nam tử, hãy thức dậy ! Pháp tính là như vậy. Bồ-tát biết tất
cả các pháp do nhân duyên kết tụ lại mà hiện ra, tự tính (của chúng) là
như vậy, như huyễn, như mộng, như ảnh, như bóng, không có gì được thành
tựu hết!" [9]. Ôi, chân lý đó của Phật giáo đại thừa, dưới chân tượng,
tôi thấy hầu như Di-lặc đang mỉm cười nhắc lại.
Nhưng đó là chân lý tuyệt đối, còn tại trần gian tương đối này, bức
tượng này một sự thành tựu tuyệt vời, bàn tay nghệ nhân nào đã tạc ra
một khuôn mặt vừa trí tuệ vừa từ bi như thế. Bức tượng này quả thật là
một món quà vương tước. Nó đánh dấu một giai đoạn hữu hảo của Trung Quốc
và Tây Tạng mà ngày nay mối quan hệ giữa hai bên đã trở thành phức
tạp.
Trong lịch sử Tây Tạng, đây là một vương quốc trong thế kỷ thứ 7 sau
công nguyên với nhà vua Tùng- tán Cương-bố (Songten Gampo), trị vì
khoảng từ 617 đến 649. Đó là một thời phát triển rực rỡ của Phật Giáo,
kéo dài suốt từ thế kỷ thứ 7 đến thứ 9[10]. Sau một thời gian bị bức
hại, khoảng thế kỷ thứ 11, Phật giáo lại được phục hưng nhưng lại rơi
vào một thái cực khác, nó trở thành một chế độ tăng lữ, trong đó các
tăng sĩ đảm nhiệm luôn việc điều hành đất nước.
Qua thế kỷ thứ 13 tại Trung Quốc, nhà Nguyên lên ngôi hoàng đế. Năm
1279 Hốt Tất Liệt thống nhất sơn hà Trung Quốc, đem quân đánh luôn Tây
Tạng bắt được giáo chủ Phát-tư-ba (Phagpa) của phái Tát-ca (Sakya). Thế
nhưng Phát-tư-ba không hề ở tù một ngày mà lại được Hốt Tất Liệt trọng
đãi như thần tiên. Người Mông Cổ Hốt Tất Liệt làm hành động đó vừa do
lòng sùng tín thuần thành vừa lại rất khôn khéo chính trị. Về sau Hốt
Tất Liệt đưa Phát-tư-ba về lại Tây Tạng và "ủy thác" việc cai trị xứ sở
này. Kể từ đó Tây Tạng thần phục Trung Quốc, ngược lại nhà Nguyên vì quá
tôn thờ Lạt-ma giáo mà mất đế chế. Cuối đời nhà Nguyên, nhân dân Trung
Quốc đói khổ còn một số lạt-ma lại quá lộng hành, có vị cho đào cả mộ
các vua nhà Tống. Năm 1368 có một vị tăng người Hán tên là Chu Nguyên
Chương, dấy quân diệt nhà Nguyên Mông Cổ, lên ngôi vua. Đó là Thái tổ
nhà Minh. Nhà Minh trở lại với Phật giáo Trung Quốc nhưng vẫn khôn ngoan
tiếp tục bảo hộ lạt-ma giáo, ban vương tước cho các vị tăng sĩ Tây
Tạng. Qua đó ta thấy việc bảo hộ lạt-ma giáo vì lý do chính trị là một
chính sách nhất quán của các vương triều Trung Quốc.
Ba trăm năm sau, trong một bộ tộc Mãn Châu, lại có một nhân tài xuất
hiện, diệt nhà Minh, thống nhất sơn hà, lập nhà Thanh năm 1662, trị vì
thiên hạ cũng được khoảng 300 năm. Nhà Thanh lại là dân ngoại tộc, có
máu giang hồ nên lại hết lòng ủng hộ lạt-ma giáo. Cũng như nhà Nguyên,
nhà Thanh ủng hộ các vị lạt-ma vì lòng sùng tín, nhưng với chính sách
rất rõ, họ dùng các vị lạt-ma để thống trị Tây Tạng và Mông cổ. Nhà vua
thứ ba là Thế tổ Thuận Trị sai sứ thần đón Đạt-lai lạt-ma thứ 5 về
triều, tặng danh hiệu Quốc sư.
Sau Thế tổ, nhà vua Khang Hy cho
quân tiến vào Tây Tạng năm 1720. Và như ta đã biết, sau Khang Hy là Ung
Chính tặng Ung Hòa Cung năm 1723. Như thế là kể từ Hốt Tất Liệt cuối thế
kỷ thứ 13, Tây Tạng đã thần phục Trung Quốc. Cuối đời nhà Thanh năm
1911, lúc Tôn Văn lật đổ chính quyền để lập thể chế cộng hòa, Tây Tạng
tuyên bố tự trị. Thế nhưng, tuyên ngôn độc lập đó đã quá trễ. Một năm
sau khi Trung Quốc giành lại độc lập năm 1949, họ đem quân chiếm đóng
Tây Tạng.
Phải công bằng thấy rằng, kể từ gần 700 trăm qua, Tây Tạng luôn luôn
là một xứ chư hầu của Trung Quốc. Dù nhiều đau thương đã xẩy ra cho dân
tộc Tây Tạng, nhưng ta khó đòi một nước Tây Tạng độc lập với đầy đủ chủ
quyền. Nhìn lại lịch sử, ta thấy chính các vị lạt-ma, quá dính líu với
quyền lợi thế gian, đã đưa dân tộc mình vào chỗ bị lệ thuộc. Ngày nay,
vị Đạt-Lai lạt-ma thứ 14 cũng có lúc thừa nhận rằng dân tộc của ông đang
trả nợ với giá rất đắt cho chế độ tăng lữ ngày xưa, cho những vị lãnh
đạo tinh thần nhưng mang nghiệp tham ái quyền lực và danh vọng.
Tại Ung Hòa Cung, khi ngẫm nghĩ những điều này, tôi chưa biết sẽ có một ngày mình sẽ đi Tây Tạng.
BÌNH THÀNH VÀ ĐỘNG VÂN CƯƠNG ^
Trong thế kỷ thứ hai sau công nguyên có ba trung tâm phát triển Phật
giáo, tại Trung Quốc và Việt Nam (Giao Chỉ). Ngoài Lạc Dương được nhiều
người biết, ta phải kể đến Bình Thành tại tỉnh Sơn Tây Trung Quốc và Luy
Lâu, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh Việt Nam.
Theo tài liệu lịch sử, Bình Thành được xây dựng rất sớm, khoảng trong
thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Thị trấn này ngày nay là Đại Đồng, cách
Bắc Kinh khoảng 350km về hướng tây, được Vạn lý trường thành bao bọc
hai mặt, là một vị trí chiến lược. Trong thời Hán Sở tranh hùng trước
công nguyên, Hạng Vũ diệt nhà Tần, đốt phá Hàm Dương (phía bắc Trường
An) và rút quân về đóng ở Bình Thành. Về sau Hạng Vũ bị Lưu Bang diệt.
Khoảng sáu trăm năm sau, thời mà lịch sử Trung Quốc gọi là Nam Bắc Triều
(420-588), Trung Quốc bị chia làm hai miền Nam-Bắc, mỗi miền lại chia
ra nhiều nước nhỏ. Trong các nước Bắc Triều có một nước gọi tên là Bắc
Ngụy của nhà vua Đạo Vũ đế. Đạo Vũ đế lấy Bình Thành làm kinh đô năm
398, thống nhất phương Bắc năm 439, trở thành một nước có uy thế.
Đạo Vũ đế rất sùng tín đạo Phật. Trong thời Bắc Ngụy có hàng ngàn
tăng sĩ Ấn Độ, Tây Vực đến đây, tu sĩ lên đến hàng chục vạn người, chùa
chiền hơn 30.000 ngôi. Nhưng hình như sự vật lúc nào lên đến đỉnh cao
nhất lại bị hoại diệt nên cũng trong thời Bắc Ngụy, đạo Phật bị pháp
nạn. Đây là pháp nạn lần thứ nhất trong bốn pháp nạn [11] của Phật giáo
tại Trung Quốc.
Pháp nạn này do nhà vua Thái Vũõ Đế gây ra. Thái Vũ Đế là con của Đạo
Vũ Đế, mới đầu cũng tin tưởng đạo Phật. Thế nhưng ngày nọ, ông thân
hành đi dẹp loạn, thấy trong một ngôi chùa có vũ khí. Chùa bị dèm pha,
Thái Vũ Đế hạ chiếu chỉ dẹp bỏ đạo Phật, tàn sát vô số tăng sĩ. Đó là
năm 446. Sau đó không ai được chứa chấp tăng ni, chùa chiền tranh tượng
bị phá hủy. Thế nhưng Thái Vũ Đế lại có một người con tôn trọng đạo lý,
đó là thái tử Thác Bạc Hoảng. Vị thái tử mật báo tăng ni trốn lánh, đem
kinh sách tranh tượng đi cất giấu trong núi non gần đó và cũng vì thế mà
bị mưu hại.
Sáu năm sau, Thái Vũõ Đế mất, ông chỉ sống được 45 tuổi. Em của thái
tử Hoảng là Thác Bạc Duệ lên ngôi là Văn Thành Đế, lúc đó tăng ni trong
núi mới dám trở lại hoằng pháp. Nhà vua Văn Thành Đế là người trọng đạo
lý, tạ lỗi cho cha bằng cách cho xây dựng "Vân Cương thạch quật" ở sườn
nam núi Ngô Châu, cách Bình Thành 16km. Nhà sư Đàm Diệu là người khởi
công xây dựng, để danh lại đến ngày hôm nay. Vân Cương là một trong ba
thạch động nổi tiếng nhất của Trung Quốc, hai nơi kia là Long Môn và Đôn
Hoàng.
Qua năm 494, triều Ngụy dời đô về Lạc Dương, vì thế mà Bình Thành và
Vân Cương chìm vào quên lãng. Hơn bốn trăm năm sau, năm 907, đó là thời
nhà Liêu bắt đầu trị vì một vùng miền Bắc bao la của Trung Quốc, vương
triều có đến năm kinh đô mà một là Bình Thành, lúc đó đã mang tên Đại
Đồng. Trong thời đó tại Đại Đồng, Hoa Nghiêm tự được xây dựng, Vân Cương
thạch động nhờ thế mà cũng được tu bổ thêm.
Tôi đến Đại Đồng từ Bắc Kinh bằng xe lửa chạy đêm. Đại Đồng nằm trên
độ cao khoảng 1200m, tàu chạy trên những cao nguyên ngút ngàn vùng bắc
Trung Quốc, qua những ruộng lúa mì, ngô, hướng dương. Đi xe lửa mới thấy
cái mênh mông của nước này, trên bản đồ hai nơi xa nhau không bằng đầu
ngón tay út mà tàu chạy cả đêm không thấy tới. Tàu đến ga Đại Đồng lúc
trời còn sáng tinh sương, đúng là lúc thợ thuyền hối hả đi làm. Họ là
những người thợ mỏ than, Bình Thành ngày nay đã trở thành kinh đô than
đá của Trung Quốc ! Than đá xem ra quan trọng hơn kinh điển.
Nó
làm ra điện để công nghiệp hóa đất nước. Cũng đúng thôi ! Đại Đồng là
một thành phố kỹ nghệ, anh hướng dẫn du lịch hãnh diện kể như thế, là
thành phố lớn thứ 12 của Trung Quốc, với than đá vô tận và công nghiệp
chế tạo thiết bị cho ngành nông lâm nghiệp. Xe đi một vòng trong Đại
Đồng, trung tâm Phật giáo Bình Thành mà tôi hào hứng muốn tới thăm ngày
nay khắp nơi được phủ bằng một lớp bụi than mờ mờ. Tôi được đưa vào một
khách sạn ăn sáng lấy sức sau một đêm đi xe lửa, tên nó là khách sạn
"Vân Cương".
Đúng thế, tôi đến đây để thăm công trình đồ sộ của
Vân Cương thạch quật mà tiền nhân của các anh thợ mỏ này đã tạo tác từ
15 thế kỷ trước. Cả những người thợ mỏ ngày nay lẫn những nghệ nhân ngày
xưa, họ cũng là những người vào núi đập đá, đục đẻo, chịu gian khổ từ
năm này qua năm khác, những con người chân cứng đá mềm, đem mồ hôi và cả
xương máu để làm nên sự nghiệp cho đất nước họ, dù đó là công trình văn
hóa hay công nghiệp.
Và như Blofeld đã từng ca tụng, đây quả là một thạch quật vĩ đại.
Công trình này có 53 động chạy dài khoảng 1km từ đông sang tây, gồm
51.000 tượng Phật mà tượng lớn nhất cao 17m, tượng tí hon nhất chỉ cao
2cm. Phần lớn tượng được tạc trong thời Bắc Ngụy, từ năm 460 đến năm
494. Một ít tượng khác được hoàn thành trong thời nhà Đường (618-907).
Trong các động, ngoài tranh tượng ta còn thấy các Kinh được minh họa
bằng các tượng đá khắc nổi trên tường, đó là một nghệ thuật Phật giáo
độc đáo mà ta hay thấy tại Trung Quốc, được gọi là "biến tướng" của
kinh. Tại Vân Cương, biến tướng của Duy ma cật sở thuyết kinh [12] được
trình bày. Về sau tại các thạch quật Bảo đỉnh sơn hay Bắc sơn, tôi còn
được thấy các biến tướng của các Kinh khác.
Trong nắng sớm tôi ngắm nhìn các động cả thạch quật mà ngày nay chỉ
còn khoảng 20 động có thể tham quan được. Mới đầu công trình này để Văn
Thành Đế sám hối cho vua cha, nhưng rõ ràng là cả chục ngàn nghệ nhân đã
sáng tạo nơi đây để cho giáo pháp trướng tồn với thời gian, để lòng
sùng tín của họ trở thành những tác phẩm nghệ thuật, để những gì trong
tim óc thành tháp tượng thấy được, sờ được. Vì nghệ thuật, nói cho cùng,
là quá trình biến những gì trừu tượng thành vật thể, đối tượng của năm
giác quan, dùng chúng mà diễn tả lại lòng cảm khái, sự rung động nội
tâm.
Động số 3 là động lớn nhất với tượng Phật và hai vị Bồ-tát. Sau đó là
động số 5 với bức tượng lớn nhất của Vân Cương cao 17m. Động số 6 chứa
một cột đá cao 16m, trình bày cuộc đời đức Phật. Động 17 chứa tượng
Di-lặc ngồi tréo chân, một thế ngồi thiền định ít thấy. Trong động 18 có
tượng Phật Thích-ca mâu-ni mà trong vạt áo là vô số các vị Bồ-tát. Quá
nhiều động và quá nhiều hình tượng, khách tham quan có lẽ không mấy ai
xem được kỹ. Chỉ ngắm tượng thôi mà người ta đã hết sức, hãy nhớ đến
gian khổ của người xưa, tôi tự nhủ.
Cuối cùng là động 20, đó là động chứa bức tượng Phật Thích-ca, cao
13,7m, đây là nơi được xem là biểu tượng cho Vân Cương thạch động. Tiếng
tụng kinh của Phật tử vang trong nắng và mùi hương trầm quen thuộc của
Trung Quốc làm tôi nhớ những ngày ở Ấn Độ. Hình ảnh của "người con trai
vĩ đại của Ấn Độ" [13] đã qua đến đây từ thế kỷ thứ nhất và nghệ thuật
tạc tượng của Gandhara (ngày xưa thuộc về Ấn Độ) cũng đã định hình tại
Trung Quốc, tại Vân Cương này trong thế kỷ thứ năm. Đó là nền nghệ thuật
tạc tượng của Phật giáo đại thừa, xem Phật là Ứng thân, là nhân dạng
của Pháp thân không sinh không diệt. Nền nghệ thuật đó gặp gỡ những đầu
óc ưa làm chuyện vĩ đại của người Trung Quốc để sinh ra những tượng Phật
khổng lồ mà họ gọi là "Đại Phật", những thạch quật đồ sộ mà Vân Cương
mới chỉ là một.
TỪ HẰNG SƠN ĐẾN QUANG MINH ĐỈNH ^
Trung Quốc là xứ sở của núi non hùng vĩ. Trong những rặng núi đó có
nhưng ngọn đã trở thành thiêng liêng, là "đạo trường" của Bồ-tát như Ngũ
Đài sơn của Văn-thù, Nga Mi sơn của Phổ Hiền, Cửu Hoa sơn của Địa Tạng
và Phổ Đà sơn của Quan Âm. Đó là "tứ đại danh sơn" mà về sau sẽ được
nhắc tới.
Song song, Trung Quốc còn có năm rặng núi thiêng khác được gọi là Ngũ
Nhạc với trung tâm và bốn hướng đông tây nam bắc. Đó là Tung sơn ở
trung tâm, thuộc tỉnh Hà Nam; Thái sơn phía đông, thuộc tỉnh Sơn Đông;
Hoa sơn, phía tây thuộc tỉnh Sơn Tây; Hành sơn phía nam, thuộc tỉnh Hồ
Nam và Hằng sơn phía bắc thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngũ Nhạc là nơi "trời đất
giao nhau", nơi các đời vua chúa từ 2000 năm nay đến cầu đất nước thái
bình thịnh trị.
Trung Nhạc Tung sơn, cách Lạc Dương khoảng 50km phía đông nam, đỉnh
cao nhất là 1440m. Tại Tung sơn, Thiếu Lâm tự được xây dựng năm 495, nó
là quê hương của Thiền tông Trung Quốc, võ lâm bắc đẩu. Đây là ngôi chùa
mà khoảng năm 520 Bồ-đề Đạt-ma đã đến đây, quay mặt vào tường chín năm
và cuối cùng truyền tâm cho Huệ Khả.
Đông Nhạc Thái sơn được xem là rặng thiêng liêng nhất, đó là rặng núi
của Đạo giáo. Nằm về phương đông , phía mặt trời mọc, Đông Nhạc là nơi
vua chúa thân hành đến tế trời đất từ hơn 2000 năm nay. Chỗ cao nhất của
Thái sơn đo được 1545m. Thái sơn là nơi thờ thần Thái Sơn phủ quân của
Đạo giáo, vị thần thống lĩnh đời sống trần gian, chỉ nghe lệnh của Ngọc
Hoàng thượng đế. Đền cao nhất của Thái sơn là đền Ngọc Hoàng, cao
1524m.
Tây Nhạc Hoa sơn là rặng núi cũng với năm đỉnh đông tây nam bắc và
trung tâm, mà đỉnh cao nhất là Liên hoa đỉnh, cao 2100m. Giữa năm đỉnh
đó là con đường đá đi từ vách này qua vách khác mà cứ mỗi bước chân là
dẫn đến một phong cảnh khác lạ. Ngày nay trên Hoa sơn người ta còn thấy
một phiến đá phẳng. Huyền sử chép rằng đó là chỗ Triệu Khuôn Dẫn, thái
tổ nhà Tống, đánh cờ với Trần Đoàn, đạo sĩ trường sinh bất tử. Triệu
Khuôn Dẫn thua, phải nhường Hoa sơn cho đạo sĩ.
Nam Nhạc Hành sơn có đến 72 đỉnh mà đỉnh cao nhất đo được 1290m.
Tương truyền rằng trên đỉnh Tử Cái, một đỉnh cao của Hành sơn, nhà vua
thần kỳ Hoàng Đế đã hội nghị với các chư hầu miền nam. Đến thế kỷ thứ 20
(trước công nguyên), có nhà vua tên Vũ, cháu năm đời của Hoàng Đế, hậu
duệ của Nghiêu Thuấn, là kẻ khai sáng đời nhà Hạ (thế kỷ 21-16). Ông lên
đây quan sát địa thế để vạch kế hoạch trị thủy, ngày nay còn để lại
danh thơm. Tại Nam Nhạc Hành sơn hiện còn có rất nhiều đền đài của Đạo
giáo và Phật giáo.
Bắc Nhạc Hằng sơn nằm cách Đại Đồng khoảng 75km là một rặng núi mênh
mông với đỉnh phía bắc cao 2017m. Trên đỉnh phía bắc này ngày nay còn
lại đền thờ lớn nhất của Hằng sơn, xung quanh là rừng thông bao phủ.
Trên sườn núi Hằng sơn có nhiều đền đài mà nổi tiếng nhất là Huyền Không
tự, tức là "chùa treo". Chùa này được tôn là một trong mười thắng cảnh
của tỉnh Sơn Tây. Huyền Không tự quả nhiên như treo cheo leo trên sườn
núi. Từ xa người ta tưởng là sườn Hằng sơn được vẽ tạc hình một ngôi
chùa, tới gần mới hay đó là một tổng thể khoảng 40 điện thờ nhỏ bé với
rất nhiều tượng Phật, Bồ-tát. Các điện này được xây dựng trong thế kỷ
thứ sáu, nối với nhau bằng các hành lang gỗ, nằm cheo leo trên sườn núi,
được chống bằng những cột sắt.
Tôi đến Hằng sơn vào buổi trưa, nghỉ trong một quán mang tên "Hằng
sơn tửu điếm". Nghe tên Hằng sơn, lòng tôi đã rộn rã, bỗng nhớ Kim Dung
và Lệnh Hồ Xung của ông vô cùng. Cám ơn Kim Dung, ông là người làm tôi
biết và yêu mến một nước Trung Quốc trừu tượng trong ký ức. Quá khứ tôi
bỗng hiện về rõ mồn một, tôi nhớ những năm của đầu những năm sáu mươi,
khi truyện của Kim Dung còn đăng báo ngày và mình nằm dài trên nền nhà
đọc tờ Tiếng Vang, trong đó có Cô Gái Đồ Long.
Kim Dung đưa tôi
đi khắp Trung Quốc với các địa danh tuy xa lạ nhưng rất thú vị như Động
Đình Hồ, Ngũ Nhạc, Thiếu Lâm tự. Quan trọng hơn, ông khắc họa cho tôi về
một xã hội Trung Quốc tuy xa vời vợi như hoang đường nhưng hết sức gần
gủi hầu như ta có thể tìm thấy mình trong đó. Tôi vẫn nhớ Kim Dung trong
mỗi bước đi tại Trung Quốc, trong mỗi dòng viết về Trung Quốc. Vì thế
tôi rất để ý tìm hiểu Khưu Xứ Cơ, Vương Trùng Dương, Trương Tam Phong,
những nhân vật có thật, tiền bối của Trương Vô Kỵ. Tôi thích nhắc tới
Chu Nguyên Chương không phải vì ông là thái tổ nhà Minh, cũng không phải
ngày trước ông là tăng sĩ, mà vì ông là nhân vật có thật trong Cô Gái
Đồ Long, được kể lại trong truyện lúc Trương Vô Kỵ bắt đầu sống đời nhàn
nhã với Triệu Minh.
Với Cô Gái Đồ Long, Kim Dung đã vẽ nên một
xã hội hiện thực của loài người, trong đó thiện ác lẫn lộn, ánh sáng và
bóng tối chồng lên nhau nhiều lớp, cái phải cái trái tồn tại song hành
cùng một lúc trong xã hội và trong tâm lý con người. Chính phái và ma
giáo tưởng chừng như hai thái cực đối lập với nhau đã hòa với nhau,
trong chính phái có những hành động hết sức đen tối và trong ma giáo có
những con người đáng làm thầy của những kẻ tưởng mình đi trên đường
vương đạo. Và nhất là Kim Dung đã cho tình yêu nảy nở giữa những con
người mà quê hương chính tà của họ cách nhau vạn dặm, cho thấy những giá
trị thuộc đầu óc lý luận chưa bao giờ thay thế tiếng nói sâu thẳm của
trái tim.
Sau Cô Gái Đồ Long, Kim Dung còn một kiệt tác, đó là Tiếu Ngạo Giang
Hồ, bản thân ông đã già giặn hơn rất nhiều sau các tác phẩm trước. Với
Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã vẽ một toàn cảnh đương đại với một khung
xã hội và chính trị rộng lớn, trong đó con người vừa là kẻ đạo diễn mọi
điều xẩy ra trên sân khấu, vừa chịu cảnh vui buồn của những gì do mình
bày ra. Tác phẩm này đã một thời làm tôi biết nhìn cuộc đời không phải
chỉ gồm hai màu đen trắng.
Thế nhưng cần nói thêm là, với số
tuổi ngày nay, tôi càng nhận ra rằng đó là một tác phẩm phản ánh sâu sắc
kiếp nhân sinh, xót xa thay số phận con người nằm trong mọi sự xô đẩy
của những ngọn sóng lành dữ khác nhau, những đam mê đầy nhân tính, những
âm mưu quỉ quyệt. Cũng trong bức tranh đầy những mảng tối sáng đó, con
người với tình yêu của nó mới sáng lên tính cá thể của mình. Và ngay cả
tình yêu tưởng chừng là một điều rất riêng tư cũng không bao giờ trọn
vẹn, Lệnh Hồ Xung của Kim Dung tuy hạnh phúc hòa hợp với Doanh Doanh
nhưng chàng vẫn tưởng nhớ đến một tình yêu vô vọng.
Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, tôi biết đến Ngũ Nhạc và ngày nay đến đây,
lòng tôi sao khỏi có niềm rộn rã kính trọng. Hằng sơn tửu điếm này nằm
ngay dưới chân Hằng sơn của phái Nga Mi phải là nơi giang hồ đã lắm
người qua lại, nơi Lệnh Hồ Xung và Đào cốc lục tiên ghé ăn nhậu còn nàng
Nghi Lâm mà tôi yêu mến chắc không khi nào dám vào. Tiểu nhị đem bánh
bao ra ! Thì ra bánh bao là một thứ người Trung Quốc hay ăn như ta ăn
cơm, và ta ăn cơm trắng thì bánh bao của họ trắng trơn không nhân.
Tôi
thử chiếc bánh bao và công bằng mà nói thì thấy nó nhạt nhẽo, không
hiểu tại sao đại hán ngày xưa ăn "mấy cân bánh bao" một lúc. Và rượu thì
ngày xưa hẳn Đào cốc lục tiên uống không bao giờ đủ, ngày nay người
Trung Quốc uống bia. Như tại Việt Nam, ở đâu cũng có bia, tỉnh nào cũng
có hiệu bia, chai nào chai nấy to gần cả lít. Bia Thanh Đảo nổi tiếng
nhất, nhưng tại rặng Cửu Hoa sơn xa xôi cũng có bia Cửu Hoa.
Nhớ chàng trai Trương Vô Kỵ tôi không thể không nhớ đến Quang Minh
Đỉnh. Đó là sào huyệt của Ma giáo mà chàng đã lần mò theo một ông hòa
thượng leo lên tới. Nhưng Quang Minh Đỉnh có thật chăng ?
Quang Minh Đỉnh là một đỉnh của rặng Hoàng sơn. Hoàng sơn là đệ nhất
danh sơn của Trung Quốc. Ngũ Nhạc đã đẹp nhưng Hoàng sơn vượt xa Ngũ
Nhạc.
(Hình trích của "Huangshan in China", Publishing house of China National, Academy of fines Arts, 1994)
Hoàng sơn nằm trong tỉnh An Huy, là một rặng núi có 72 đỉnh mà đỉnh
cao nhất là Liên Hoa đỉnh (1860m) và sau đó là Quang Minh Đỉnh (1840m).
Huyền sử chép rằng nhà vua Hoàng Đế đến đây để luyện linh đan sống ngàn
năm nên núi có tên Hoàng sơn. Ngày nay dưới chân Hoàng sơn là một thành
phố có sân bay, đến từ Hàng Châu, Thượng Hải rất tiện.
Nhà du khảo nổi tiếng đời Minh, Từ Hà Khách, là tác giả của "Từ Hà
Khách du ký", một tác phẩm có giá trị về văn hóa và khoa học. Ông đã đến
đây và thốt lên:"Đến Ngũ Nhạc thì không kể mọi danh sơn khác, đến Hoàng
sơn thì không kể Ngũ Nhạc". Hoàng sơn thật là một cảnh non bồng nước
nhược với bốn đặc tính: sườn núi như vách dựng đứng, rừng thông đầy hình
thù kỳ dị, thế đá lạ lùng bí hiểm và cảnh mây bọc núi, núi xuyên mây.
Hoàng sơn là nơi thống nhất uy danh của các núi lớn: cái tôn quí của
Thái sơn, màu hoang dã của Hoa sơn, biển mây mênh mông của Hằng sơn,
thác nước cuồn cuộn của Lư sơn và phong thái thần tiên của Nga mi sơn.
Hoàng sơn chính là đối tượng sơn thủy của tranh thủy mặc từ nhiều ngàn
năm nay. Trên sườn Hoàng sơn vào mùa xuân người ta chỉ thấy một vùng
trắng như tuyết nhưng không phải tuyết, hỏi ra thì đó là Đào hoa phong,
đỉnh chỉ trồng hoa đào.
Tôi đến Hoàng sơn để ngắm những ngọn núi hầu như cổ tích này. Trung
Quốc mênh mông và quá nhiều cảnh đẹp, nếu chỉ thăm một núi thì đó là
Hoàng sơn; nếu chỉ thăm một hồ thì đó là Tây hồ ở Hàng Châu. Nằm dưới
chân Hoàng sơn lại còn có một thị trấn còn giữ lại được từ thời nhà
Tống, thế kỷ thứ 9, thứ 10. Thị trấn này làm tôi nhớ đến Hội An, ngày
nay nó là cũng chỗ bán đồ lưu niệm nhưng nó cổ hơn Hội An khoảng 400 năm
và toàn bộ nhà cửa ngày xưa còn nguyên vẹn suốt cả một con đường dài
vài km.
Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn, "đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc",
đó phải là lý do mà Ma giáo đã một thời chọn Quang Minh Đỉnh làm ngai
vàng để muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ, chống lại các chính
phái. Đến Hoàng sơn tôi hiểu thêm rằng, những gì mình đọc Kim Dung ngày
xưa là một sự phối hợp tài tình giữa lịch sử và địa lý có thật của Trung
Quốc, hòa trong nền tảng thực tế của đạo lý, tâm lý và xã hội của đất
nước này, cùng với tài hư cấu tuyệt vời để khắc họa những trong nhân
vật, sáng tạo những hành động và cảnh ngộ vừa hoang đường vừa hiện
thực.
Cuộc ác chiến trên Quang Minh Đỉnh không hề có thực nhưng Hoàng sơn,
ngọn núi nằm tại hạ lưu sông Dương Tử, là kẻ chứng kiến những trận chiến
đẫm máu suốt trong lịch sử Trung Quốc. Trước công nguyên tại vùng này
đã xảy ra cuộc Hán Sở tranh hùng, cuối cùng Hạng Vũ thua, tự tử tại Cai
Hạ trên bờ Dương Tử. Trước đó, Ngô Phù Sai cũng bị Việt vương Câu Tiễn
tiêu diệt nơi đây. Đầu thế kỷ này, đây cũng là nơi Nhật và các nước
phương tây xâu xé Trung Quốc. Và, làm sao khác được, cũng chính đây là
nơi phát sinh các cuộc cách mạng vũ bão tại đất nước mênh mông này.
Tôi đến Hoàng sơn, hoa đào trên đỉnh Đào hoa phong vẫn nở trắng trinh
nguyên như ngày trời đất mới mở hội. Tất cả, những gì hư cấu hay có
thực, đã chìm trong lịch sử. Mầu nhiệm thay, thời gian.
TỪ TIỂU NI CÔ NGHI LÂM ĐẾN NÀNG LÝ NGƯ ^
Dưới chân Hằng sơn tôi không thể không nhớ đến một người con gái tên
gọi là Nghi Lâm. Đó phải là một thiếu nữ tươi đẹp, hoạt bát, đầy nhựa
sống, ham hoạt động. Thế nhưng đồng thời, nàng là một tiểu ni cô với
hạnh nguyện nghiêm túc mà cuộc đời mãi mãi gắn liền nơi cửa Phật. Những
cuộc đấu tranh long trời lỡ đất trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đưa đẩy nàng
xuống núi hành hiệp, nhưng cứ mỗi lần phạm chút lỡ lầm, nàng lại thầm
cầu mong bồ-tát tha tội.
Với tuổi tác và võ công non kém, Nghi Lâm "hành hiệp" không hiệu quả
lắm, nàng chỉ có một vai trò rất phụ thuộc. Nàng chỉ "nổi" trong sự hoạt
bát đầy thông minh của mình và cũng với tấm lòng yêu cuộc sống đó, nàng
cảm thấy gần gủi tự nhiên với Lệnh Hồ Xung, một chàng trai dễ yêu. Theo
đà câu chuyện, Kim Dung sáng tạo ra cả cảnh Lệnh Hồ Xung phải miễn
cưỡng làm cả trưởng môn phái Nga Mi của Hằng sơn, dẫn đầu cả một đám nữ
đệ tử trong đó có Nghi Lâm. Hay thay cái chính tà đan chéo lẫn lộn, một
kẻ bị trục xuất ra khỏi Hoa sơn vì "theo tà bỏ chính" mà lãnh đạo Hằng
sơn, các vị ni sư Hằng sơn dám phá chấp để gọi một chàng trai ham rượu
chè về núi để điều động đệ tử. Trong khung cảnh đó một tình cảm nẩy nở
trong lòng Nghi Lâm mà nàng không biết gọi tên.
Nghi Lâm không biết gọi nó là tình yêu, thứ tình cảm mà nàng thấy thể
hiện bằng sự quyến luyến Lệnh Hồ đại ca. Nàng không tìm cách kềm chế nó
như các vị sư trưởng của nàng mong đợi, vì đối với nàng, tình cảm đó
chưa có gì là tội lỗi. Các vị sư tỉ của nàng già giặn hơn, biết đó là
tình yêu và tìm cách ngăn cản một cách nhẹ nhàng, đầy từ bi như bồ-tát
của họ. Dễ thương biết bao, mối tình nhẹ nhàng này của tác phẩm, nó
xuyên suốt đến cuối câu chuyện để Nghi Lâm rốt cuộc trở thành một người
chủ chốt, hạ thủ cả Nhạc Bất Quần. Đáng thương thay cho nàng, nàng sẽ ân
hận suốt đời vì hành động mà người như Nghi Lâm sẽ cho là vô đạo đó. Và
không ai rõ sau khi câu chuyện chấm dứt, các vị sư nữ trở về núi tu
hành tụng niệm, làm sao Nghi Lâm quên được lòng "quyến luyến" của mình.
Liệu sau đó nàng biết đó là tình yêu hay không, đó là điều người đọc
truyện tự trả lời.
Đến Hằng sơn, tiếc thay tôi không còn thấy một tiểu ni cô nào cả. Đi
nhiều nơi thăm nhiều tự viện tại Trung Quốc ngày nay, tôi cũng không
thấy một vị sư nữ nào, chứ đừng nói tới ni cô vai mang kiếm đi hành
hiệp. Tại nhiều chùa tôi nghe nói đến có sư nữ nhưng hình như chúng tôi
không được thăm viếng. Hẳn hình ảnh sư nữ Phật giáo đã biến mất khỏi xã
hội Trung Quốc ngày nay. Thế nhưng tại Bắc Kinh, tôi gặp một chuyện lạ.
Tôi được đi xem opera, tuồng "Truyện nàng Lý ngư" tại Nhà hát lớn ở Bắc
Kinh, cách quảng trường Thiên An môn không xa.
Tuồng kể có chàng thư sinh nọ, gia đình nề nếp. Lúc nhỏ chàng đã được
đính hôn với con gái của một ông quan. Về sau cha mẹ chết sớm, gia đình
sa sút, chàng thư sinh ngày càng nghèo, gia đình ông quan nọ tỏ vẻ xa
lánh chàng. Chàng thư sinh buồn bã không thiết gì đến việc học hành,
ngày đêm thở vắn than dài. Ngày nọ cô tiểu thư con ông quan đến thăm thư
sinh, bày tỏ vẫn yêu thương chàng, nhưng tại cha mẹ nàng sinh lòng rẻ
rúng, chứ nàng vẫn quyết một lòng chung thủy với chàng. Chàng thư sinh
hết sức phấn khởi, chăm chỉ học hành. Chàng có ngờ đâu người con gái đó
là một nàng Lý ngư sống trong hồ, tu luyện lâu năm, biết được hoàn cảnh
của chàng, biến hiện thành tiểu thư nọ đến khuyên nhủ để chàng yên tâm
dùi mài kinh sử.
Ngày nọ đến hội hoa đăng, đôi trai tài gái sắc đi hội, không ngờ gặp
nàng tiểu thư thật ! Chàng thư sinh lấy làm kỳ thấy hai người giống nhau
như hệt mà người nào cũng tự xưng là tiểu thư cả. Ông quan nọ được vời
đến để phân biệt ai là con gái mình, thế nhưng không sao biết được cả,
vì nàng Lý ngư có thần thông đã biết hết mọi chuyện riêng tư của nàng
tiểu thư. Nàng Lý ngư đã lỡ hiện hình tiểu thư, nàng phải làm cho trót
vai trò, nhưng còn thêm một điều thú vị, đó là nàng đã lỡ yêu chàng thư
sinh mất rồi. Ông quan nọ không biết làm sao nên đem cả hai nàng đến Bao
Công nhờ phân xử.
Nàng Lý ngư có một ông anh sống tại thủy
cung, thần thông xuất chúng. Ông anh này liền biến mình thành Bao Công
để tìm cách bênh vực cho cô em gái. Thú vị thay khi thấy hai Bao Công và
hai tiểu thư giống hệt nhau trên sân khấu trong sự hoang mang hoảng hốt
của ông quan nọ và chàng thư sinh tốt số. Cuối cùng Bao Công thật mới
dùng cái kế muôn đời là đem thư sinh vô tội ra đánh đòn trừng trị để xem
phản ứng của hai nàng tiểu thư, qua đó mà biết ai thật ai giả. Cũng lụy
vì tình mà nàng Lý ngư lộ bản chất chỉ là con cá chép tu luyện ngàn
năm. May mắn thay cho nàng, chàng thư sinh không chê nàng mà đem lòng
yêu thương, theo về đến thủy cung.
Tưởng như vậy là ổn, ai ngờ đây là một chuyện sai đạo lý, người không
thể chung sống với súc sinh ! Và người thi hành đạo lý đó là tướng nhà
trời Dương Tiễn. Dương Tiễn đem quân đến thủy cung bắt Lý ngư. Ngờ đâu
Lý ngư cũng như chàng thư sinh yếu đuối nhất định đánh lại, thà chết chứ
không chịu xa nhau. Cuối cùng Lý ngư đánh không lại Dương Tiễn, nàng
cầu cứu Phật Bà Quan Âm. Bồ-tát Quan Âm hiện ra, cho nàng lựa chọn, nếu
là vì tình yêu thì được biến thành người, chung sống với thư sinh nhưng
phải mất công phu tu luyện, mất tuổi thọ mấy ngàn năm. Nàng Lý ngư thưa:
"Nếu không có tình yêu thì sống ngàn năm phỏng có ích gì". Xúc động
thay lời nói của nàng. Sau đó nàng chịu cho Dương Tiễn rút ba cái vảy
thần, chúng là hiện thân của kết quả tu luyện ngàn năm của mình và về
sống làm người với cuộc đời dân giã.
Trong bóng tối, tôi thầm lặng cảm nhận câu chuyện, nhận ra lòng mình
nhiều cảm khái về opera của Bắc Kinh nổi tiếng toàn thế giới mà ta tạm
gọi là "hát bộ". Hay thay, giải pháp có tình có lý đầy từ bi, đầy tính
người của Quan Âm. Liều lĩnh thay, Lý ngư, dám bỏ công phu tu luyện ngàn
năm để làm kiếp nhân sinh nhiều rủi ro, đầy trắc trở; bỏ thần thông để
làm con người yếu đuối và bất lực trước mọi hoàn cảnh. Tất cả những hy
sinh đó chỉ để làm theo tiếng gọi của trái tim. Và lạ lùng thay, giữa
Bắc Kinh mà có những vở tuồng có tính phê phán xã hội và đầy tính tâm
linh tôn giáo, trong đó Bao Công thật và giả đấu tranh với nhau trước
mắt người dân, trong đó hình ảnh của Nam Hải Quan Âm được trình bày hết
sức trân trọng và cuối cùng giải pháp của Ngài đề ra là chung quyết,
trọn vẹn cho con người.
Nghi Lâm và nàng Lý ngư đều là những hình tượng tuyệt đẹp để tả tình
yêu trai gái, một khía cạnh ưu việt của văn hóa nghệ thuật Trung Quốc.
Hai câu chuyện khác nhau xa về kết cục nhưng giống nhau ở chỗ hai nàng
đều xả thân, không tiếc mạng sống mình. Những điều đó làm rung động đến
tâm can người đọc người xem. Những mối tình nhẹ nhàng như của Nghi Lâm,
mãnh liệt như của Lý ngư đều có một nguồn gốc chung là tính người. Vì
thế chúng được thể hiện khắp nơi, có thể nằm trong một bộ trường thiên
tiểu thuyết của Kim Dung, cũng có thể ở trong một tích tuồng đầy màu sắc
và tiếng thanh la não bạt của opera Bắc Kinh.
[1] - Hình trích của R.Grousset, sách đã dẫn
[2] - 598-649 Vị vua đời Đường rất có công với Phật giáo Trung
Quốc. Ông đích thân viết bài "Đại Đường tam tạng thánh giáo tự", là
người giúp cho sự nghiệp dịch kinh của Huyền Trang được thành tựu
[3] - Xem chương "Vui đẹp thay thành Vương Xá" trong phần hai
[4] 1586-1641
[5] - Việt dịch của Thích Nhất Chân
[6] - Một chiếc răng Phật khác hiện nay được thờ tại chùa Vô Úy sơn
tại Tích Lan. Theo truyền thuyết thì cuối thế kỷ thứ tư sau công nguyên,
thời nhà vua Tích Lan Sri-Meghevanna, có một vương tử của nước Kalinga,
Ấn Độ tên là Danta Kumana đi lánh nạn tới Tích lan, mang theo một chiếc
răng bên trái của Phật
[7] - Tsongkhapa, 1357-1419
[8] - Càn Long là nhà vua nối ngôi Ung Chính và được nhiều truyền thuyết cho là hậu thân của một thiền sư Việt Nam.
[9] - Lời của Di-lặc nói với Thiện Tài. Trích Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Nhập pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[10] - Xem thêm hai chương đầu tiên của phần thứ tư
[11] - Bốn pháp nạn là trong các thời vua Vũ Đế của Bắc Ngụy, một vị
Vũõ Đế khác của Bắc Châu (574), Võ Tôn đời Đường (840-847) và Thế tôn
thời Hậu Châu (giữa thế kỷ thứ 10). Bốn pháp nạn này được gọi chung là
"Tam Vũ Nhất Tôn pháp nạn"
[12] - Vimalakirtinirdesa-sutra
[13] - Cách dùng chữ của W.Schumann