HƯỚNG DẪN HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT


Nguyên tác: Chan Khoon San Biên dịch: Lê Kim Kha Nhà xuất bản: Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh 2011
06/03/2012 20:16 (GMT+7)
Số lượt xem: 115173
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

HƯỚNG DẪN
HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT
(Ấn Bản Mới 2011)
Nguyên tác: Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản: Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh 2011

Phần II

Bốn Thánh Địa Thiêng Liêng

Nội Dung:
1.   Lumbini, Nơi Đức Phật Đản Sinh
2.   Bodhgaya, Nơi Đức Phật Giác Ngộ
3.   Sarnath, Nơi Đức Phật Khai Giảng Giáo Pháp
4.   Kusinara, Nơi Đức Phật Bát-Niết-Bàn

1. Lumbini,

Nơi Đức Phật Đản Sinh

1.1 Cách Để Đi Đến Nơi:

Lumbini nằm thuộc bên nước Nepal, bên rìa phía Tây miền Trung của Nepal, gần sát bên thị trấn biên giới Sonauli của Ấn Độ. Việc đi đến nơi này cũng không hiện đại hay quá dễ dàng. Nơi di tích này cũng không thể tiếp nhận quá nhiều khách tham quan cùng một lúc. Hầu hết những người hành hương là người từ các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và Tây Tạng, những người khách tham quan phương Tây cũng đến đây khá đều đặn.

Lumbini có một phi trường nhỏ mang tên Đức Phật Cồ-Đàm, là ‘Phi Trường Gautama Buddha’. Hãng hàng không ở đây cũng mang tên Đức Phật là ‘Buddha Air’ có nhiều chuyến bay trong ngày đi thủ đô Kathmandu và 9 tỉnh thành của Nepal, và 1 chuyến bay quốc tế từ Lumbini đến Lucknow, thành phố thủ đô của bang Uttar Pradesh của Ấn Độ.

Từ Việt Nam chúng ta cũng có thể đáp chuyến bay qua phi trường Tribhuvan Airport, thủ đô Kathmandu, Nepal và sau đó nối chuyến bay quốc nội từ  Kathmandu đến Lumbini, dành cho những người hành hương muốn bắt đầu chuyến hành hương đến Lumbini rồi sau đó mới đi qua những thánh địa còn lại của Ấn Độ và như vậy chỉ cần xin Visa 1 lần vào Nepal và Ấn Độ, thay vì phải xin Visa 2 lần vào Ấn Độ nếu đi từ Ấn Độ qua Lumbini và quay về Ấn Độ nhập cảnh lần thứ hai. Nếu đi bằng máy bay vào Nepal, chúng ta có thể xin cấp Visa tại phi trường Nepal.

Ngày nay, đa số các đoàn hành hương đều đi Lumbini từ Ấn Độ. Chúng ta có thể xin cấp Visa ở cửa khẩu Sonauli, Ấn Độ & Lumbini, Nepal. Từ biên giới, có một con đường tốt chạy đến Lumbini khoảng 20 KM.

(Tuy nhiên, theo thỏa thuận giữa 2 nước Ấn Độ và Nepal, nếu bạn đã có visa vào Ấn Độ, khi thăm viếng Ấn Độ xong, bạn có thể từ Ấn Độ sang thăm Lumbini, Nepal trong vòng 3 ngày mà không cần phải xin visa Nepal. Do vậy, rất nhiều đoàn khách hành hương những vùng đất Phật thường khởi hành viếng những vùng đất ở Ấn Độ trước, rồi mới đến viếng Lumbini trong vài ngày - ND).

Có khoảng 15 khách sạn tiêu chuẩn tốt và nhà khách yên tĩnh ở Lumbini xung quanh những di tích.

1.2 Ý Nghĩa Tôn Giáo (2), (25), (26)

Sau khi đã tu tập chứng đắc 10 Pháp Hoàn Thiện (Paramis), tức 10 Ba-la-mật, trong bốn a-tăng-kỳ (asankheyya) và một trăm ngàn đại kiếp (kappa), vị Bồ-tát, hay Đức Phật Cồ-Đàm sau này, “thọ thai” vào bụng của Maya Devi, hoàng hậu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn), người đứng đầu vương quốc cộng hòa Thích Ca (Sakyan), nằm ngang biên giới của Ấn Độ-Nepal ngày nay. Vào ngày Trăng Tròn của tháng Năm, năm 623 trước CN, Hoàng hậu Maya Devi đang trên đường từ kinh đô Kapilavatthu (thành Ca-tỳ-la-vệ) để đến Devadaha, quê cha mẹ của bà, để hạ sinh đứa con, theo phong tục truyền thống của xứ này. Dọc đường, khi đi ngang qua Vườn Lumbini, một khu rừng Sala (Long Thọ) đang nở rộ những bông hoa. Đang chiêm ngưỡng phong cảnh cây, hoa tươi đẹp huy hoàng, hoàng hậu cảm thấy chuyển dạ rất nhanh để sinh thái tử. Hoàng hậu gọi những người hầu nữ che màn xung quanh. Một tay hoàng hậu nắm lấy cành cây Sala, bà hạ sinh thái tử trong tư thế đang đứng. Theo Majjhima Sutta No. 123 (Trung Bộ Kinh, kinh số 123), ngay sau khi Bồ-tát được sinh ra, Người bước 7 bước về hướng Bắc và tuyên bố về vị trí của mình trên thế gian như sau:

Aggo’ ham asmi lokassa     Ta là người đứng đầu trên thế gian.
Jetto’ ham asmi lokassa      Ta là người thượng đẳng nhất thế gian.
Setto’ ham asmi lokassa      Ta là người cao quý nhất thế gian.
Ayam antima jati                  Đây là lần tái sinh cuối cùng.
Natthi dani punabbhavo     – Bây giờ không còn tái sinh nữa đối với ta!.

Ngay khi Bồ-tát được sinh ra, một luồng đại hào quang tỏa sáng bao trùm lên tất cả những hào quang của những vị trời, thần vừa xuất hiện, luồng hào quang chiếu sáng khắp nơi, kể cả những nơi tăm tối mà ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể chiếu sáng đến được. Mười ngàn thế giới rung chuyển và ầm vang và rồi một luồng hào quang lớn chiếu sáng như để báo tin về sự đản sinh của Bồ-tát, vị Phật tương lai.

1.3 Bối Cảnh Lịch Sử (5), (27)

Năm 249 trước CN, vị hoàng đế vĩ đại A-dục (Asoka) của triều đại Maurya, người đang trị vì gần hết bán đảo Ấn Độ từ năm 273-236 trước CN, đã đến thăm Lumbini, là một phần trong chuyến hành hương chiêm bái tất cả những thánh địa, và đích thân cúng lễ tôn nghiêm nơi Đức Phật đã đản sinh. Để ghi nhớ chuyến viếng thăm của mình, nhà vua đã cho xây một trụ đá, khắc chữ Brami cho thế hệ con cháu mai sau được biết đến. Chữ khắc trên trụ đá gồm có 5 dòng như sau (bản dịch tiếng Anh hiện được đặt tại nơi này cho khách hành hương đọc):

Tiếng Brahmi:

Devannapiyena piyadasina lajina-visativasabhisitena.
Atana-agacha mahiyite
Hida Budhe-jate sakyamuniti.
Silavigadabhicha kalapita silathabhe-cha usapapite.
Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike kate, Athabhagiye ca.

Dịch nghĩa tiếng Việt:

Quốc vương Devànampiya Piyadasi (A-Dục), người con yêu dấu của các vị Trời, hai mươi năm sau khi lên ngôi, đã đích thân ngự viếng và lễ cúng nơi này, vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đã đản sanh ở đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng con ngựa trên đầu một trụ đá và dựng trụ đá lên. Bởi Đức Thế Tôn (Bhagavan) được sinh ra ở nơi đây, làng Lumbini được giảm thuế canh tác và chỉ còn đóng 1/8 so với mức thuế thường”.

* Lưu ý: Lễ đăng quang ngôi Hoàng Đế của vua Asoka là vào năm 269 trước CN, 4 năm sau khi ông đã nắm quyền triều chính.

Sau cuộc chinh phạt của người Hồi Giáo ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 12-13 sau CN dẫn đến việc cướp bóc và tàn phá những tu viện và đền thờ Phật Giáo, Lumbini đã bị bỏ hoang và cuối cùng bị rừng tarai bao phủ. Năm 1896, nhà khảo cổ người Đức, Tiến Sĩ. Alois A. Fuhrer, trong khi đang đi tìm nơi Phật tích trong khu rừng tarai ở Nepal, đã vô tình tìm thấy một cột đá và đã chắc chắn rằng chính nơi này là nơi Đức Phật đản sinh. Cột Đá Lumbini (hay còn gọi là Cột Đá Rummindei) vẫn kỳ diệu đứng vững cho đến ngày nay để làm chứng tích cho nơi Đức Phật được sinh ra.

1.4 Những Điểm Cần Thăm Viếng: (27), (28)

1) Trụ Đá Asoka

Sau khi bước vào Vườn Lumbini, dấu hiệu nổi bật đập ngay vào mắt là một trụ đá cao được bao bọc xung quanh bằng hàng rào sắt. Đây là ‘Trụ Đá Lumbini’ nổi tiếng được dựng lên bởi vua Asoka vào năm 249 trước CN. Nguyên thủy trên đầu trụ đá này tượng hình một con ngựa, nhưng sau đó đầu hình con ngựa bị sét đánh gãy, chỉ còn lại thân trụ đá cao 6.7m. Đây là trụ đá có khắc dòng chữ xác nhận khu vực nơi sinh của Đức Phật. (Hình 1&2)

2) Nơi Thiêng Liêng Nhất Của Thánh Địa (sanctum sanctorum)

Khu vực bên trước Trụ Đá Asoka trước đây là nơi Đền Thờ Hoàng Hậu Maya Devi, đã bị đập ra năm 1995 để tiến hành khảo cổ. Vào ngày 4 tháng Hai, 1996, một đoàn khảo cổ do Liên Hiệp Quốc tài trợ đã tuyên bố là đã tìm thấy chính xác chỗ (điểm) Đức Phật được sinh ra nằm ngay bên dưới móng của đền thờ. Những nhà khảo cổ đã đào 15 hầm có chiều sâu khoảng 5m, và tìm thấy được một tảng đá nằm ngay trên nền được xây bằng 7 lớp gạch của ngôi đền, xác định rõ chỗ (hay chính điểm) chính xác Đức Phật được sinh ra. (Hình 4, 5). Đây là một tin vui cho Phật Tử khắp nơi trên thế giới. Chúng ta có thể đọc lại một bài đăng tin trên tạp chí Asia Week năm 2011 mới đây như sau:

“23 Tháng 5 / 2011 (Theo Asia Week):

Hàng thế kỷ qua, những người hành hương từ các nơi trên thế giới đã lùng sục khắp các chân đồi của dãy Hy Mã Lạp Sơn với hy vọng tìm ra vị trí chính xác nơi sinh của đức Phật. Và lòng kiên nhẫn của họ đã được đền bù. Ngày 4 tháng 2 năm 1996 vừa qua, một đội các nhà khảo cổ quốc tế cho biết họ đã tìm được bằng chứng cuối cùng cho thấy đức Phật được sinh ra tại Lumbini thuộc miền Tây Nam nước Nepal.

Hoang tàn và đổ nát, ngôi đền Maya Devi ở Lumbini - được xây dựng cách nay gần 2600 năm, cách Kathmandu thủ đô vương quốc Nepal khoảng 240 Km - là cái nôi của Phật giáo. Hầu hết các Phật tử từ lâu đã tin rằng đây là nơi đức Phật ra đời. Ngày nay các nhà khảo cổ đã khẳng định điều này và nói rằng họ đã phát hiện một mảnh chứng cớ còn thiếu, nhưng cực kỳ quan trọng - một "tảng đá hoàn hảo" được đặt trên nền của ngôi đền Maya Devi và năm 249 trước Công nguyên, để đánh dấu vị trí chính xác nơi đức Phật được sinh ra. Tảng đá này, cỡ 45 cm x 15 cm, được tìm thấy sâu bên dưới, cách bề mặt đống đổ nát gần 5m.

Trên đây là khám phá của nhà khảo cổ Babu Khrisna Rijal của Nepal và Satoru Uessaka của Nhật Bản vào ngày 18-2-1995. Tuy nhiên mãi cho đến gần một năm sau đó, họ mới công bố nó - sau khi các chuyên gia Ấn Ðộ, Pakistan và Sri Lanka đã xác nhận những vật này. Mặc dù các học giả Ấn Ðộ vẫn cho rằng đức Phật không phải được sinh ra ở Nepal mà là quận Gorakhpur thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Ðộ ngày nay, tuy nhiên, một tuần sau công bố trên, vẫn không có phản ứng chính thức nào.

Theo các kinh sách của Phật giáo, vào năm 623 trước Công nguyên, thân mẫu của đức Phật, Hoàng hậu Maya Devi, đã ghé qua Lumbini (Lâm Tỳ Ni) trên đường về nhà cha mẹ tại Rangram. Bà đã tắm trong một cái ao linh thiêng, và sau đó đi 25 bước đến một khu rừng nhỏ để sinh con. Nhiều Phật tử tin rằng đứa bé này, Hoàng tử Siddhartha, đã nhỏm dậy và bước đi bảy bước.

Gần 400 năm sau đó, Hoàng đế Ashoka (vua A Dục) - người được cho rằng đã truyền bá Phật giáo khắp Ðông Á - đã làm một chuyến hành hương đến nơi này và đặt một tảng đá lên vị trí chính xác của nơi sinh đức Phật. Ông còn cho dựng một cây trụ đá cao lớn gần đó, trên trụ đá có khắc chữ nói về tảng đá này.

Một số ngôi đền đã được xây dựng ngay trên vị trí này. Nhưng hàng nghìn năm sau đó, Lumbini đã suy tàn đến nỗi vị trí của nó đã bị xóa đi trong hàng trăm năm. Sau nhiều cuộc tìm kiếm của các Phật tử, vào năm 1895, cây trụ đá Ashoka đã được tìm thấy. Mãi đến năm 1993, công việc khai quật mới bắt đầu được tiến hành với 200 công nhân. Họ đã khám phá một cấu trúc bao gồm 15 phòng. Tại trung tâm cấu trúc này, họ đã mở được một căn hầm, bên trong là tảng đá mà người ta tin là do Ashoka đặt. Các quan chức Nepal khẳng định rằng nó cách cái ao mà Hoàng hậu đã tắm đúng 25 bước chân.

Việc phát hiện chính xác nơi sinh của đức Phật có một tầm quan trọng to lớn đối với khoảng 350 triệu Phật tử trên khắp thế giới.

Hai ngày sau lịnh công bố trên, đức Vua Birenda của Nepal cùng Hoàng hậu Aishwarya và Thủ tướng Sher Bahadur Deuba đã đến Lumbini để xem tảng đá và trụ đá lớn Ashoka. Rijal và Satoru đã giải thích với nhà Vua rằng đây là một tảng đá khối không có ở vùng này. Nó đã được mang đến đây và đặt vào trung tâm của ngôi đền. Và họ tiếp tục khẳng định đây chính là tảng đá được nhắc đến trong pháp dụ khắc ghi trên Trụ đá Ashoka lớn. (Theo Asia Week)”

3) Đền Thờ Hoàng Hậu Maya Devi (mới)

Gần bên Đền Thờ Hoàng Hậu Maya Devi mới là một kiến trúc giống như ngôi chùa, bên trong đặt một tượng đá khắc nói về sự Đản Sinh của Đức Phật. Tượng đá khắc cũng có bức phù điêu khắc hình hoàng hậu Maya Devi, mẹ của Đức Phật, đang nắm lấy cành cây Sala với một em bé mới sinh ra đứng trên cánh hoa sen. Tượng đá khắc này trước đây đặt ở Đền Thờ cũ. (Hình 1, 2, 3).

4) Ao Nước Thiêng Puskarni

Phía Nam của trụ đá Asoka là ao nước thiêng nổi tiếng –Ao Puskarni, được tin rằng là chính cái ao nguyên thủy nơi hoàng hậu đã tắm trước khi hạ sinh vị Bồ-tát. (Hình 1, 2, 3).

5) Chùa Miến Điện, Chùa Nepal, Chùa Tây Tạng và Trung Tâm Thiền Học

Chùa Nepal được xây bên trong Vườn Lumbini. Đó là một tu viện Phật giáo Nguyên Thủy Theravada do một Tỳ kheo người Nepal trông coi. Các chùa Miến Điện và chùa Tây Tạng và Trung Tâm Thiền Học Panditarama thì được xây ở xa hơn, bên ngoài khuôn viên Vườn Lumbini. Những người hành hương nên thăm viếng những nơi này để tỏ lòng tôn kính đối với những Tăng Ni đang tu học và phụng sự ở đây. Sự có mặt và phụng sự của các tăng ni đã tạo không khí tôn nghiêm, sống động của những nơi này.

6) Kapilavatthu, Kinh đô của Vương quốc Thích Ca (Sakya)

Cách 27 km về phía Tây của Lumbini, là tàn tích của kinh thành cổ Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) của vương quốc dòng họ Thích Ca. Di tích này được xác định bằng khu đất Tilaura Kot (cung điện, nội cung). Việc khai quật khu tàn tích được tiến hành bởi Cục Khảo Cổ Nepal đã cho thấy những chỗ có những tháp cổ và tu viện, được xây bằng gạch nung và vữa bằng đất sét. Tàn tích thành cổ được bao bọc xung quanh bởi những hào nước và những bức tường làm bằng gạch. (Hình 7). Khu vực cấm thành có chiều dài là 518m chạy từ Nam đến Bắc, và rộng 396m chạy từ Đông sang Tây, khoảng 20.5 hec-ta. Dựa vào cơ sở khảo cổ, ngoài thành nơi dân chúng cư ngụ thì rất rộng lớn và rất ăn khớp với những ghi chép trong ký sự Tây Vực Ký của Huyền Trang. Chúng ta có thể tham khảo thêm một bài báo mới vừa được đăng bởi Quỹ Phát Triển Lumbini như sau:

 “Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã quyết định tiến hành một cuộc khai quật khảo cổ mới tại Hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ, Tilaurakot, nơi Thái tử Tất-đạt-đa đã sống 29 năm đầu đời mình.

Cuộc khai quật sẽ được tiến hành bởi Tổ chức Lumbini Development Trust và Cục Khảo cổ Nepal tại các khu vực chính của phần phía Tây hoàng cung từ tháng 7-2011 cho đến tháng 5-2015.

Giáo sư Ravines Cunningham của Đại học Durhan đồng thời là đại diện của UNESCO tin chắc rằng cuộc khai quật lần này sẽ làm mọi người chú ý đến cung điện của dòng họ Shakya (Thích-ca): “Cho đến nay, Tilaurakot, nơi tọa lạc cung điện của vua Suddhodhana (vua Tịnh-phạn) vẫn chưa được rõ ràng. Cuộc khai quật này sẽ làm nó nổi tiếng không kém gì vườn Lâm-tỳ-ni”.

Cổng phía Tây và Đông của Hoàng cung đã được khai quật nhưng cung điện chính của vua Tịnh-phạn vẫn chưa được khảo sát kỹ lưỡng. Thông tin về những phần chưa khám phá của cung điện và những bí ẩn của nó sẽ được công bố rộng rãi sau khi khai quật. Các cổ vật tìm thấy sẽ được bảo quản một cách khoa học tại Bảo tàng Ca-tỳ-la-vệ nhằm thu hút khách hành hương và du lịch.

Cuộc khai quật lần này sẽ giúp xác nhận tầm quan trọng trong lịch sử của thành Ca-tỳ-la-vệ như là một di sản của nhân loại.

                                    (Theo Lumbini Development Trust, Nepal)

Những người hành hương nên dành thêm 1 ngày nữa để tham quan khu vực thành nội Tilaura Kot để có thể thấy di tích Cổng Phía Đông, được gọi là Mahabhinikkhamanam Dvara’ (Cổng của Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại), Đức Phật đã đi ra bằng cổng này trong đêm xuất gia, để tìm sự Giác Ngộ, vào đêm Trăng Tròn của tháng Asalha (tháng Bảy) năm 594 trước CN, khi Người 29 tuổi.

Xung quanh khu vực Tilaura Kot còn có một số di tích ý nghĩa cũng đáng tham quan đối với những người hành hương, nổi bật là:

7) Niglihawa, Nơi Sinh Của Vị Phật Kanakamuni Buddha

Niglihawa, cách Tilaura Kot 3 km về hướng Đông Bắc, được tin là nơi là thị trấn cổ Sobhavati, nơi sinh của vị Phật Kanakamuni Buddha. Vào lúc Người được sinh ra, một trận mưa lớn bằng vàng đã trút xuống toàn khu vực Jambudipa. Được xem như là điềm lành, nên Người được đặt tên là  Kanakagamana (kanaka = vàng, agamana = đến). Qua thời gian, cái tên Kanakagamana được rút ngắn là: Konagamana, (âm Hán Việt: Phật Câu-Na-Hàm). Hoàng đế Asoka đã viếng thăm nơi này vào năm 249 trước CN, trong chuyến hành hương của ông  và đã dựng một Trụ Đá để tưởng niệm. Ngày nay, Trụ Đá Asoka vẫn còn được thấy, bị gãy thành 2 khúc. Khúc trên dài 4.6m. Khúc gốc cao 1.5m còn đứng nguyên, hơi bị nghiêng một chút. Những chữ khắc bằng mẫu tự Brahmi đọc như sau:

“Vua A-dục, Người Con Yêu Dấu của các vị Trời, đã lên ngôi hoàng đế 14 năm, đã gia tăng kích thước bảo tháp Phật Kanakamuni gấp hai lần so với kích thước ban đầu. Hai mươi năm sau khi đăng quang, nhà vua đã đích thân ngự viếng và lễ bái nơi này”.

8) Gotihawa, Nơi Sinh Của Phật Kakusandha Buddha

Gotihawa, địa danh Tilaura Kot 7km về hướng Tây Nam, được tin là nơi thành cổ Khemavati, nơi sinh của vị Phật Kakusandha Buddha, (âm Hán Việt: Phật Câu-lưu-tôn). Hoàng Đế Asoka cũng đã viếng thăm nơi này cùng những thánh tích ở trên trong một chuyến đi và đã cho dựng Trụ Đá để ghi nhớ chuyến viếng thăm. Trụ Đá đã bị gãy và chỉ còn phần gốc khoảng 3m vẫn còn đứng nguyên, nhưng thấp hơn mặt đất ngày nay.

Cả 2 Trụ Đá Asoka mô tả đều được ghi chép lại trong Tây Vực Ký của Huyền Trang khi Ngài viếng thăm Kapilavatthu vào năm 637 sau CN. Vào thời đó, cả hai trụ đá đều có hình đầu sư tử ở trên đầu của mỗi trụ.

9) Kudan, Khu Di Tích Rừng Cây Banyan (Nigrodharama)

Kudan là một khu di tích mà các học giả tin rằng đó chính là Khu Vườn Cây Banyan (Nigrodharama), do Vua cha Tịnh Phạn (Suddhodana) cúng dường cho Đức Phật khi Người về thăm Kapilavastu. Chính tại nơi này, ngài Rahula, con trai của Đức Phật, (lúc còn là Thái tử Siddhattha chưa đắc đạo), đã được thọ giới vào tăng đoàn. Tàn tích của móng vách bằng gạch của tu viện cổ, được tin là xây vào thời Đức Phật tại thế, vẫn còn đúng. (Hình 8).

10) Sagarhawa, Di tích nơi dòng họ Thích Ca bị tàn sát

Sagarhawa, nằm gần Niglihawa được tin là nơi mà Vidudabha đã tiến hành cuộc tàn sát dòng họ Thích Ca. (Chú giải 10). Những người địa phương gọi nơi này là Lambu Sagar, có nghĩa là Ao Nước Dài bởi vì nơi đây có một ao nước rất lớn hình chữ nhật. Từ Niglihawa, chúng ta có thể đi đến Sagarhawa bằng cách đi xuyên qua ngôi làng Niglihawa và một cây cầu bắt qua một con kênh đào.

Chú giải 10:

Cuộc tấn công của Vidudabha để tàn sát dòng họ Thích Ca xảy ra khoảng một năm trước khi Phật Bát-Niết-Bàn. Toàn bộ câu chuyện về cuộc thảm sát này được ghi lại trong Luận Giảng Kinh Pháp Cú (Dhammapada Commentary iv. 3, 29, 30).

Vua Pasenadi của nước Kosala là một người rất mến phục Đức Phật. Người tướng thủ lĩnh quân đội của nhà vua là Dighakarayana, cũng là cháu của một nguyên soái quân đội của nhà vua trước đó. Vị nguyên soái này đã bị chính nhà vua phản bội và giết chết. Vì vậy, Dighakarayana đã âm thầm mang lòng hận thù nhà vua Pasenadi vì đã gây ra cái chết cho chú của mình. Một ngày nọ, vua Pasenadi đang đến thăm Đức Phật ở ngôi làng Ulumpa của dòng họ Thích Ca, ông trao bảo ấn cho tướng Dighakarayana để giữ. Thay vì giữ nó, Dighakarayana đi trao nó cho con trai của vua Pasenadi là thái tử Vidudabha, lập tức Vidudabha soán ngôi vua cha và lên làm vua nước Kosala. Khi vua Pasenadi quay trở về, thì mới hay rằng mình đã bị lật đổ, ông bèn đi đến nước Magadha (Ma-kiệt-đà) để cầu cứu cháu mình là vua Ajatasattu (A-xà-thế). Sau một cuộc hành trình dài đến Rajagaha (thành Vương-xá), ông ngã bệnh và chết trước cổng thành. Khi vua Ajatasattu hay được cái chết của chú mình, ông đã cho tiến hành chôn cất theo nghi lễ hoàng gia dành cho một vị vua. Sau đó, ông cho lệnh tấn công nước Kosala của người anh em họ Vidudabha, nhưng sau đó các quan lại khuyên can, vì có một vị vua trong họ mới chết, nếu tấn công thì cả hai bên đều không tốt.

Vidudabha là kết quả của cuộc hôn nhân của vua cha Pasenadi và Vasabhakhattiya, con gái của một người nữ hầu và người đứng đầu của dòng họ Thích Ca (Sakya) là vua Mahanama. Trước đây, vua cha Pasenadi, vì mong muốn cưới được một người vợ thuộc dòng họ Thích Ca để trở thành người họ hàng với Đức Phật, nên đã cử sứ giả đến thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) để cầu hôn với công chúa dòng họ Thích Ca. Mặc dù những người dòng họ Thích Ca không hài lòng, nhưng họ cũng không muốn làm phật lòng vua Kosala. Nên thay vì gả công chúa, họ gửi cô con gái xinh đẹp của vua Mahanama và người hầu nữ. Vua Pasenadi đã phong cô gái làm hoàng hậu chính phi và sau đó phong Vidudabha làm thái tử. Khi Vidudabha 16 tuổi, ông quyết định qua thăm ông ngoại ở Kapilavatthu. Nghe tin ông sẽ qua, dòng họ Thích Ca đã gửi tất cả những hoàng tử nhỏ tuổi hơn ông qua một ngôi làng khác và những người ở dòng họ Thích Ca cũng tiếp đón ông đàng hoàng.

Sau khi ở lại vài ngày ở thành, Vidudabha và đoàn tùy tùng lên đường quay về Kosala. Một người hầu đã dùng sữa để lau chùi chỗ ngồi của Vidudabha trong khu phòng dành cho khách. Trong khi lau chùi, vừa nói một cách khinh thường ông: “Đây là chỗ ngồi của một đứa con của con nô lệ Vasabhakhattiya.”

Khi một người hầu cận của ông quay lại để lấy thanh gươm của ông đã bỏ quên, và vô tình nghe được câu nói này và tò mò tìm hiểu. Sau khi người hầu cận biết ‘hoàng hậu’ Vasabhakhattiya là con gái của một nô lệ và vua Mahanama, ông ta đã tung tin đồn trong quân lính Kosala. Sự việc đến tai Vidudabha, ông ta trở nên căm phẫn và thề sẽ giết sạch dòng họ Thích Ca khi ông lên làm vua. Khi đoàn về đến kinh đô Savatthi (Xá-vệ), các quan lại báo với vua Pasenadi về sự việc đã xảy ra. Nhà vua cũng rất tức giận vì mình đã bị lừa bởi dòng họ Thích Ca, ông ra lệnh truất phế ngôi hoàng hậu và những tước hoàng gia đã phong cho Vasabhakhattiya và con trai Vidudabha, và giáng họ xuống giai cấp nô lệ. Vì thế, Vidudabha càng thêm hận thù những người Thích Ca.

Khi Đức Phật hay được tin này, Phật đã giảng giải cho vua Pasenadi rằng Vasabhakhattiya là con của một nhà vua, Mahanama. Mặc dù mẹ bà là một nô lệ, nhưng điều đó không quan trọng, vì giai cấp của bà ta được quyết định theo giai cấp của người cha, chứ không phải theo giai cấp của người mẹ. Vì thế, vua Pasennadi đã quay lại khôi phục lại tước vị và giai cấp cho mẹ con bà như trước đây.

Khi Vidudabha lên làm vua, như đã nói trên, ông vẫn không quên điều mà ông lấy làm xấu hổ đó và ông đã đem quân đi tấn công vương quốc Thích Ca. Mặc dù Đức Phật đã can gián ba lần, nhưng Người vẫn không ngăn nổi thảm họa. Đức Phật cũng nhận ra rằng, những người bà con dòng họ Thích Ca của người phải đối mặt với quả báo cho nghiệp ác mà họ đã gây ra trước kia bằng việc bỏ thuốc độc xuống sông để giết hại những người bộ tộc sống dưới hạ lưu. Cuối cùng, Vidudabha đã tấn công và giết hết những người dòng họ Thích Ca, ngoại trừ một số người hậu duệ của vua Mahanama và những người khác đã kịp trốn thoát. Ngay sau đó, có nguồn nói là ngay trong đêm đó, Vidudabha cùng với quân lính của ông cũng bị lũ cuốn chết sau khi san bằng xong thành Kapilavathu. Sau này, vua Ajatasattu (A-xà-thế) xâm lược và chiếm nước Kosala vào khoảng mùa mưa kiết Hạ (Vassa) thứ 44 của Đức Phật. Sau đó không lâu, những người dòng họ Thích Ca (có thể là những hậu duệ của vua Mahanama đã may mắn thoát khỏi tay Vidudabha và những người sống sót khác) đã tiếp tục quay về ở Kapilavatthu, điều này dựa vào sự kiện vào khoảng 1 năm sau đó, khi Đức Phật Bát-Niết-Bàn ở Kushinagar, những người dòng họ Thích Ca cũng đã kéo quân lính đến để tham gia chia phần xá lợi Phật và mang về nước thờ trong một tháp tưởng niệm stupa.

1.6 Ramagama & Devadaha, Kinh Đô Của Vương Quốc Koliyas

1.6.1 Cách Để Đi Đến Nơi

Ramagama nằm cách 4km về phía Nam của thị trấn Parasi ở quận Nawalparasi, khoảng 20 km từ Bhairawa. Chuyến đi từ Bhairawa vượt qua con sông cảnh quan Rohini River làm biên giới thiên nhiên chia hai vương quốc dòng họ Thích Ca và Koliyas. Hai dòng họ này gần như sắp đánh nhau trên sông này, nhưng Đức Phật đã khuyên ngăn và cuộc chiến đã không xảy ra. Nếu đi từ Parasi, có con đường trầy trật đi đến Ramagama, hầu như là đường đất chưa bao giờ được lát trải, nhưng bù lại được đi ngang qua những ngôi làng xinh đẹp.

1.6.2 Ý Nghĩa Tôn Giáo

Đức Phật đã nhập diệt Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana) ở Kusinara vào Ngày Trăng Tròn tháng Wesak năm 543 trước CN. Sau khi nhục thân Phật được hỏa táng, xá lợi được chia đều thành tám phần bằng nhau bởi Bà-la-môn tên là Dona. Ông này đã phát cho tám bộ tộc của tám nước (xứ): Vua Ajatasattu (A-xà-thế) của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), Bộ tộc Licchavi (Bạt-kỳ) của Vesali (Tỳ-xá-lỵ), Bộ tộc Sakya (Thích Ca) ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), Bộ tộc Bulias của nước Allakappa, Bộ tộc Koliyans của nước Ramagama, Bà-la-môn ở Vethadipa, Bộ tộc người Malla ở Pava và Bộ tộc người Malla ở Kushinagar.

Như đã nói chi tiết ở Phần 2, Mục 4. Kunshinagar, 4.2, bản thân ông Dona giữ bình đựng hài cốt đã hỏa táng dùng để phân chia xá lợi. Khi những người bộ tộc Moriya của xứ Pipphalavana đến thì đã muộn, bởi vì tất cả những xá lợi đều đã được chia, vì vậy họ chỉ lấy phần tro. Sau khi trở về quê hương, những người được chia xây những bảo Tháp stupas để tôn thờ. Vì vậy, lúc đó có tất cả 8 Tháp thờ xá lợi, 1 Tháp để đặt bình đựng hài cốt đã hỏa táng trước khi chia và 1 Tháp để thờ xá lợi tro.

Theo quyển “Sử Liệu về Bảo Tháp Xá-lợi Phật” (Thupavamsa) được viết vào thế kỷ 12 sau CN, thì ngài Mahakassapa (Đại Ca-Diếp) đã nhận ra rủi ro thất lạc trong việc cất giữ xá lợi xương Phật ở những nơi khác nhau, nên ngài đã góp ý cho Vua Ajatasattu (A-xà-thế) cất giữ những xá lợi ở một nơi an toàn nhất. Nghe theo lời ngài, nhà Vua đã lấy lại tất cả những xá lợi từ 7 bảo tháp stupas, chỉ chừa lại mỗi tháp một ít để thờ. Còn tất cả những xá lợi thu gom đó được đem về thành Vương-Xá (Rajagaha) và chôn dưới đất, ở nơi chôn đó cũng được xây một Tháp tưởng niệm để đánh dấu.

Trong suốt thế kỷ thứ 3 trước CN, Hoàng Đế Asoka lại lấy ra một phần của tất cả những xá lợi còn được thờ trong tất cả những Tháp xá lợi stupas và lại chia ra thờ trong 84.000 Tháp xá lợi mới mà ngài đã cho xây trên khắp đế chế của mình. Khi Vua Asoka đến Ramagama để lấy xá lợi, theo truyền thuyết, con rồng (Naga) từ dưới hồ nước gần đó cho rằng đó là sự xúc phạm Phật tích và đã hóa thân thành một Bà-la-môn và đến yêu cầu vua Asoka đừng lấy xá lợi vì ông ta (rồng) muốn thờ cúng xá lợi đó. Vì vậy Vua Asoka đã đi về tay không.

Nhà hành hương Huyền Trang đã đến thăm Ramagama (còn gọi là Lan-Mo) vào năm 636-637 sau CN. Lúc này, phong cảnh thật sự hoang vu và buồn tẻ. Ở đó có một cái hồ lớn, một bảo tháp stupa và một tu viện với chỉ một Sa-di (samanera) cũng chính là người trụ trì. Sau Bát-Niết-Bàn của Như Lai (Tathagata), vua của nước này đã được chia một phần xá lợi xương Phật và đã xây bảo tháp này để thờ xá lợi. Bảo Tháp xá lợi này luôn luôn phát ra ánh sáng. Bên cạnh Tháp là hồ nước của con rồng (naga). Con rồng lâu lâu một lần xuất hiện dưới hồ và đi lên, hóa dạng bề ngoài của một con rắn và đi xung quanh bảo Tháp theo một nghi thức tôn kính. Những con voi rừng tụ tập thành bầy cũng mang những cành hoa đem đến để xung quanh tháp. Cảm kích trước những điều kỳ diệu này, một nhà sư hành hương đến đây đã ở lại phía sau để chăm nom bảo Tháp. Ông ta từ bỏ đời một tu sĩ để trở thành một Sa-di (samanera) như chưa thọ giới, ông xây một ngôi nhà, cây cối đất đai xung quanh để trồng hoa và cây trái. Những Phật tử ở những nước láng giềng nghe được chuyện này đã đến cúng dường tiền để xây một ngôi tu viện và mời ông ta làm trụ trì, chăm nom. Và từ đó trở về sau, không ai đến để thay đổi truyền thống này, và một Sa-di (samanera) đã luôn luôn làm trụ trì ngôi chùa này, chứ không phải một cao tăng.

1.6.3 Bảo Tháp Ramagama Stupa

Tàn tích của một bảo Tháp này và ngôi tu viện đó nằm bên bờ sông Jahari gần ngôi làng Kerwani. Một mô đất cao của Tháp cao khoảng 9m và có đường kính mặt đáy 21m. Trong Kinh điển Phật giáo, bộ tộc Koliyas của xứ Ramagama này là một trong tám bộ tộc khác nhận được phân chia xá lợi nhục thân của Đức Phật ở Kusinara.

Bảo tháp Ramagama (Hình 6) được tin là tháp nguyên thủy (thuật ngữ Phật học còn gọi là một ‘tháp xứ’ (dhatu stupa) duy nhất chưa bị ai đụng đến, ngay cả là Vua Asoka, vẫn còn đứng nguyên vẹn và còn chứa thờ những xá lợi Phật bên trong. Một cuộc thăm dò mới đây được thực hiện bởi Cục Khảo Cổ Nepal (Nepal Department of Archaeology) cho thấy có nhiều hiện vật và cổ vật khác nhau được tìm thấy xung quanh bảo Tháp. Một Phật tử người Nhật Bản đã mới cúng dường tiền để xây một công trình tưởng niệm ngay bên phía Tây hồ nước và một tu viện cũng đang được thiết kế tại đây.

1.6.4 Devadaha, Quê Nhà Của Hoàng Hậu Maya Devi, Mẹ Của Đức Phật

Devadaha, thủ đô của nước cộng hòa Koliyas, là ngôi làng quê nhà của Hoàng Hậu Maya Devi, mẹ của Thái Tử Siddhattha, cũng là quê nhà của dì mẫu (cũng là dì ruột) Maha Pajapati của Người. Nó nằm cách Lumbini khoảng 35 km về phía Đông và gần ngay chân núi Chure, ngay chân phía Nam của dãy đại sơn Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn). Theo Kinh Điển, nơi này được ghi chép trong các Kinh Devadaha Sutta, Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh), là nơi Đức Phật đã phê bình những môn đồ của phái ẩn sĩ lõa thể Nigantha (Ni-kiền-tử) về những quan điểm sai lệch của họ.

Năm 2003, Cục Khảo Cổ Nepal (Nepal Archaeology Department) đã thông báo đã phát hiện ra di tích địa danh Devdaha ở Panditpur, làng Baljiria thuộc quận Nawalparasi sau khi đã tiến hành khai quật 5 năm trời. Trong quá trình khai quật, những nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật và cổ vật thuộc những triều đại Maurya (Asoka), Kushan và Gupta, vốn là những triều đại trị vì hết những lãnh thổ hai bên bờ Sông Rohini là biên giới thiên nhiên của hai vương quốc Thích Ca và vương quốc cộng hòa Koliyas. Việc phát hiện một bức tượng có chu vi 500m và một con kênh để dẫn nước từ Sông Rohini đã xác lập sự thật rằng nơi đây chính là kinh đô cổ của nước cộng hòa Koliyas.

Tuy nhiên, một tổ chức được gọi tên là Viện Bảo Tồn Devadaha (Devadaha Conservation Academy) lại khẳng định vị trí của Devadaha nằm ở Bhabanipur, cách BarimaiKanyamai, về phía Nam, trong khu rừng tarai nằm ở phía Đông của quận Rupandehi. Việc tuyên bố này lại được củng cố bằng bằng chứng Trụ Đá Asoka (đã bị gãy) bên cạnh một tượng đá Thần Mặt Trời.

Như vậy, có vẻ như toàn khu vực kinh đô Devadaha là rất lớn, kéo dài bao phủ cả hai quận là Nawal Parasi và quận Rupandehi, như các báo cáo đưa ra vừa nói trên. Từ sau năm 2007, nền chính trị của Nepal đã trở nên lắng dịu và ngày nay, mọi người đều có thể đến thăm viếng kinh đô cổ Devadaha sau khi đã đến thăm Bảo Tháp Ramagama Stupa ở quận Nawal Parasi.

 

2. Bodhgaya,

Nơi Đức Phật Giác Ngộ


1.1 Cách để đi đến nơi:

Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) nằm trong bang Bihar, cách Patna 105 km bằng đường bộ và Varsanasi 230 km bằng đường bộ.

1.2 Ý Nghĩa Tôn Gíao (2), (16), (26)

Sau ‘Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại’, Bồ-tát đã đến gặp 2 đạo sư tu khổ hạnh là Alara Kalama Udakka Ramaputta, những vị thầy này đã dạy cho Người tu chứng được những tầng thiền Vô Sắc Giới. Mặc dù những cảnh giới chứng đạt được đó là những cảnh giới cao nhất vào lúc bấy giờ, nhưng Người vẫn không thỏa mãn, vì những cảnh giới đó không dẫn đến Niết-Bàn (Nibbana). Sau khi từ giã họ, Người tìm đến một hang động vắng vẻ trên một ngọn đồi có tên là Đồi Dhongra. Ở đó Người đã thực hành những pháp tu khổ hạnh, đau đớn và vô ích, trong vòng 6 năm trời, có thể chỉ còn lại bộ xương gầy guộc và Người gần như sắp chết. Sau nhận thấy sự vô ích của việc tu hành xác, Người quyết định đi theo Con Đường Trung Đạo và bắt đầu ăn uống trở lại để hồi phục sức khỏe. 5 người bạn tu khổ hạnh kia nghĩ rằng người đã bỏ cuộc và bắt đầu quay lại việc hưởng lạc, nên họ đã từ bỏ Người. Bấy giờ, Bồ-tát bắt đầu cuộc đấu tranh một mình đi tìm sự giác ngộ. Một ngày trước ngày Trăng Tròn tháng Wesak, trong khi mang bình bát đứng dưới một cây Banyan chuẩn bị đi khất thực, một thiếu nữ tên là Sujata đã đến dâng món cháo nấu bằng gạo với sữa trong một cái đĩa bằng vàng. Thiếu nữ Sujata là con của một tộc trưởng của ngôi làng Senanigama sát bên. Sau khi dùng xong món cháo, Bồ-tát mang cái đĩa vàng ra bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) và nói lên rằng:“Nếu Ta có thể thành công trở thành một vị Phật, hãy cho chiếc đĩa này trôi ngược dòng nước, còn nếu không thể thành, hãy để chiếc đĩa trôi xuôi dòng”- và Người quăng cái đĩa vàng xuống sông. Chiếc đĩa nổi lên giữa dòng sông và trôi ngược dòng nước, được khoảng 80 cubits (37m) rồi chìm xuống theo dòng nước xoáy. Buổi chiều hôm đó, trên đường Bồ-tát đi đến Cây Bồ-Đề, người cắt cỏ tên là Sotthiya đã mang đến nắm cỏ dâng cho Bồ-tát để Người làm chỗ ngồi thiền dưới gốc cây Bồ-Đề. Bồ-tát ngồi xếp tréo chân hoa sen, mặt quay về hướng Đông, Người kiên quyết một lòng và nói rằng:“Dù cho da, gân, xương khô héo. Dù cho thịt và máu có khô cạn. Ta quyết sẽ không rời khỏi chỗ ngồi cho đến khi ta chứng ngộ thành Phật”.

Đến đây đỉnh điểm cuối cùng của những pháp tu Hoàn Thiện (Ba-la-mật) mà Người đã hoàn thành trong vô lượng kiếp (aeons), mà không có một chúng sinh nào, ngay cả Ma Vương và đạo quân gây chết chóc của Ma Vương cũng không thể nào làm cho Đức Phật phân tán hay rời khỏi chỗ ngồi này. Chỗ ngồi Aparajita này không thể bị làm lung lay, không thể bị phá được, Ma Vương không thể nào phá hoại được. (Aparajita: Không thể làm lung lay, không lúc nào có thể phá thế được. Hán Việt thường dịch là: Chỗ ngồi “Minh Vương Vô Năng Thắng”).

Khi Ma Vương (Mara) đến thách thức và quấy nhiễu, Bồ-tát liền đưa tay phải chạm xuống mặt đất và hô to trái đất minh chứng cho 30 pháp Hoàn Thiện (Ba-la-mật) của người. Ngay lập tức, trái đất rền vang, rung chuyển và làm phân tán Ma Vương và đạo quân của Ma Vương.

Sau đó, tâm Người tĩnh lặng và trong sạch, vào canh một, Người chứng đạt được (1) Trí Lực Biết Rõ Quá Khứ, như nhớ rõ, biết rõ  những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. (Hán Việt đọc là:Túc Mạng Minh’).

Vào Canh hai, vào ngay nửa đêm, Người chứng đạt được (2) Nhãn Lực Nhìn Thấy Rõ Quá Khứ, Hiện tại & Tương Lai, như nhìn thấy rõ được những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt không gian. (Hán Việt đọc là: ‘Thiên Nhãn Minh’).

Và cuối cùng, vào canh ba, Người chứng đạt (3) Trí Thấy Được Nguyên Nhân & Con Đường Kết Thúc Sinh Tử, không còn ô nhiễm và bất tịnh, không còn ‘rơi’, ‘rớt’ vào cõi sinh tử nào nữa. (Hán Việt đọc là:‘Lậu Tận Minh’) – (Xem thêm Hoa Vô Ưu, tập I của HT. Thích Thanh Từ).

☼ Một Đức Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác (Samma-sambuddho) đã xuất hiện trên thế gian vào ngày Trăng Tròn của tháng Wesak năm 588 trước CN.

1.3 Bối cảnh Lịch Sử (9), (27)

Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là nơi giác Ngộ tối thượng của Đức Phật, là nơi thiêng liêng nhất trên trái đất đối với tất cả phật Tử. Trong suốt thời gian Đức Phật còn tại thế, địa danh nằm bên bờ Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) này được gọi là Uruvela. Vua Asoka là người đầu tiên xây đền thờ ở nơi thánh địa này. Một bức chân dung về Đền Thờ của Vua Asoka xây và những cơ ngơi khác dduocj xây ở khu vực Bodhgaya đã được tìm thấy trong một bức phù điêu trên bảo Tháp Bharhut Stupa ở Madhya, Pradesh. Bắt đầu từ chuyến viếng thăm lần đầu tiên bởi vua Asoka vào năm 259 trước CN, vô số những người hành hương đã liên tục đến chiêm bái cái nôi Phật giáo này suốt 1.500 năm qua. Sau đó, thời gian những thánh tích này bị tàn phá bởi đội quân Hồi giáo vào thế kỷ 13 là khoảng thời gian gián đoạn dòng người hành hương đến Bodhgaya. Dharmasvamin, một nhà hành hương Tây Tạng đã thăm Bodhgaya vào năm 1234 sau CN. Ông đã chứng kiến quang cảnh điêu tàn của nơi này và đã ghi lại như sau:

Chỉ thấy có 4 tu sĩ còn ở lại (trong chùa). Một sư nói rằng: ‘Thật không lành’. Tất cả đã bỏ chạy trong nổi khiếp sợ trước đội quân của Turushka. Họ (những nhà sư) bít kín cổng trước Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi) bằng gạch và trám chặt bằng vữa. Gần đó, họ xây một tượng khác để thay thế.”

Khi Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ, người Miến Điện đã đến cứu ngôi Tháp Đại Bồ-Đề thoát khỏi bàn tay phá hoại. Họ sửa chữa lại ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ít nhất 3 lần suốt từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 15. Lần sửa chữa sau cùng là những năm 1472-1492.

Từ đó về sau, Bồ-Đề Đạo Tràng đã bị quên lãng và ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ngày càng hoang phế. Với điều kiện thuận lợi về vị trí, ông Gosain Giri, một tu sĩ khổ hạnh Hindu giáo đã xây dựng một ngôi đền Hindu tại Bồ-Đề Đạo Tràng năm 1590. Sự có mặt của ngôi đền này đã làm cho Bồ-Đề Đạo Tràng rơi vào tay những Mahants của Hindu người không phải Phật tử và giai đoạn phi Phật giáo bắt đầu.

Năm mươi năm sau, năm 1861, ngài Cunningham đã gặp những Mahants của giáo hội Hindu và những môn đồ tổ chức những nghi lễ phi Phật giáo tại Tháp Đại Bồ-Đề. Hơn thế nữa, mặc dù tổ chức này tuyên bố Tháp Đại Bồ-Đề và vùng đất quanh đó là của riêng họ nhưng họ chưa từng bao giờ sửa sang lại ngôi Tháp lịch sử này. Ngài (Sir) Edwin Arnold, tác giả của quyển ‘Light of Asia’ đã viếng thăm Tháp Đại Bồ-Đề Mahabodhi vào năm 1885 và đã đăng thuật lại những nghi lễ này trên tờ báo Daily Telegraph ở London như sau:

“Thế giới Phật giáo đã, thật sự, lãng quên tâm điểm thiêng liêng nhất và đáng quan tâm nhất này- Đó là một Mecca, một Jerusalem, của cả triệu giáo đoàn của phương Đông, khi tôi lưu lại Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) cách đây vài năm. Tôi cảm thấy thật đau buồn khi thấy những nông dân Maharatta đang hành lễ  ‘Sharaddh (hay Shrada)’ ở nơi đó, và hàng ngàn di tích quý giá bằng đá chạm khắc bằng tiếng Phạn nằm chất đống xung quanh”.

Ghi chú: Shrada là một tập tục sau cùng của người Hindu, khi hành lễ, những câu thần chú và câu kệ được tụng thay cho người chết, với niềm tin rằng sẽ giải thoát linh hồn khỏi thế gian và sẽ được tái sinh ở cõi trời.

1.4 Tỳ kheo hộ pháp Anagarika Dharmapala & Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi) (5), (23)

Cuộc đấu tranh giành lại quyền chăm nom và kiểm soát Tháp đại Bồ-Đề bởi những người Phật tử bắt đầu từ ngày 22 tháng Giêng, 1891 sau khi vị Tỳ kheo Anagarika Dharmapala từ Tích Lan đến thăm Bodhgaya. Nhìn thấy cảnh thánh tích thiêng liêng nhất này bị lãng quên và bị xúc phạm, ngài đã phát tâm nguyện: “Tôi sẽ làm việc để cho thánh địa thiêng liêng này trở thành được chăm nom bởi những Tỳ kheo của chúng ta”.

Bước đầu tiên, ngài thành lập Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society) ở Bồ-Đề Đạo Tràng vào ngày 31 tháng Năm, 1891 để huy động những sự ủng hộ cho mục đích cao cả của mình. Sau đó, ông thỉnh mời những Tỳ kheo từ Tích Lan đến ở lại Bồ-Đề Đạo Tràng, gồm có: ngài Chandajoti, ngài Sumangala, ngài Pemmananda và ngài Sudassana. Họ đến Bồ-Đề Đạo Tràng vào tháng Bảy, 1891 và ngự lại ở Nhà Khách Miến Điện. Khi Mahant (đạo sĩ đạo Hindu, chỉ người đang cai quản Tháp Đại Bồ-Đề) đang nắm quyền sở hữu đất của khu Bồ-Đề Đạo Tràng Bodhgaya, ông ta đã từ chối, không chấp nhận sự có mặt của những Tỳ kheo Phật giáo, và vào tháng hai, 1893, 2 Tỳ kheo đã bị người của ông ta đánh đập nặng nề. Hai năm sau, năm 1895, khi ngài Anagarika Dharmapala đang cố gắn một bức hình Phật (những Phật tử Nhật Bản đã dâng tặng cho ngài) lên tầng trên của Tháp, ngài đã bị người của Mahant tấn công ngăn cản. Vì vậy ngài phải đem bức hình về để tại nhà khách Miến Điện. Mahant Hindu và những tổ chức đạo Hindu đó vẫn không chịu và họ đã tìm cách đẩy bức hình Phật ra khỏi Nhà Khách Miến Điện, nhưng chính phủ đã can thiệp. Vào năm 1906, Mahant đó đệ đơn kiện và tìm cách trục xuất những Tỳ kheo ra khỏi Nhà Khách Miến Điện. Và cuộc đấu tranh pháp lý này giữa Mahant Ấn giáo và những Tỳ kheo Phật giáo đã kéo dài đến tận năm 1949, khi chính quyền Bang Bihar đã ra Đạo Luật Quản Lý Tháp việc Quản Lý Buddha Gaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) sẽ được chuyển qua Ủy Ban Quản Lý của chính quyền. Đạo Luật đưa ra 2 điều đáng phản đối, đó là: Ủy Ban Quản Lý gồm 9 người, trong đó đa số phải là người Hindu, và những thành viên Phật giáo khác trong ủy ban phải là người Ấn Độ. Mặc dù  Hội Đại Bồ-Đề đã phản đối, Dự Luật vẫn được thông qua với một tu chỉnh là Ban Cố Vấn (Advisory Board) phải có đa số là người Phật giáo và không nhất thiết phải là người Ấn Độ. Điều này có nghĩa là: Những người Phật giáo chỉ có thể cố vấn cho Ủy ban Quản Lý, nhưng quyết định cuối cùng vẫn thuộc về quyền của ban quản lý là người Hindu!.

Đối với Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), điều đó giống như một thứ ngụy biện, khi mà Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi Temple) lại được quản lý bởi những phần tử không phải là Phật tử, thử tưởng tượng xem sẽ ra sao nếu một đền thờ Hồi giáo, một nhà thờ Thiên Chúa giáo, một ‘Sikh gurdwara’ hay đền thờ đạo Hindu lại được kiểm soát bởi những người thuộc tôn giáo khác. Trong bài viết của mình “Lời Thề Nguyện Vẫn Còn Đó” ở Sambodhi, 1996, Đại Đức Pannarama Mahathera, Tỳ kheo phụ trách Hội Đại Bồ-Đề lúc bấy giờ, nay đã quá cố, đã tiết lộ một sự thật mỉa mai là ngay cả Ban Cố Vấn (Advisory Board) đã được cho là gồm đa số là những người Phật giáo, nhưng chỉ có được 11 người, trong khi đó bên phi Phật giáo lại chiếm đến 14 người!. Đã đến lúc cần phải thay thế những người bên đa số phi Phật giáo kia bằng những người Phật giáo đa số, như luật định đã được đưa ra trước kia. Những lời Thề Nguyện đó của các Tỳ kheo vẫn chưa được đáp ứng cho đến tận ngày hôm nay.

1.5 Những Điểm cần Thăm Viếng (26), (27), (31), (32)

1) Tháp Đại Bồ-Đề hay Tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple)

Tháp đại Bồ-Đề có một lịch sử lâu đời. Những cuộc khai quật bởi Ngài Cunningham vào năm 1872 cho thấy có 3 giai đoạn xây dựng của tháp này.

Giai đoạn thứ nhất công trình do vua Asoka xây dựng vào thế kỷ 3 trước CN, được gọi là Đền Bồ-Đề (Bodhi Shrine), như được minh họa trong bức phù điêu gắn trên Tháp Bharhut Stupa vào thế kỷ 2 trước CN.

Giai đoạn thứ hai là công trình trùng tu Tháp Bồ-Đề nguyên thủy (Bodhi Shrine) được thực hiện bởi 2 nữ Phật tử mộ đạo là Surangi Nagadevi, những người vợ của Vua triều đại Sunga.

Giai đoạn thứ ba là công trình trùng tu xây dựng do Huviska, vua của vương quốc Kusana vào thế kỷ 2 sau CN. Những hình tượng Phật đều xuất thân từ giai đoạn này. Những đền Tháp được xây dựng để thiết đặt những hình, tượng này. Ngài Cunningham cho rằng, toàn bộ Tháp Đại Bồ-Đề, như được thấy ngày nay, chủ yếu là công trình của Vua Huviska (năm 111-138 sau CN). Vì tháp được xây dựng lại trên cơ sở nền tháp nguyên thủy của vua Asoka, nên Tòa Kim Cương (Vajrasana Throne), vị trí ngồi thiền và Giác Ngộ của Đức Phật, vẫn được giữ nguyên như nguyên thủy. Vào thế kỷ 7, việc trùng tu đã được thực hiện và gắn thêm những phiến đá ba-zan xây trên tòa cũ bằng thạch cao. Vào thế kỷ 19, cuộc đại trùng tu được tiến hành, dưới sự giám sát của những nhà chuyên môn Cunningham, Beglar R. L. Mitra, khôi phục lại Tháp Bồ-Đề, sau nhiều thế kỷ bị tàn phá bởi những người Hồi giáo và sự bỏ lơ của những Mahant ngoại đạo. Công trình huy hoàng mà chúng ta nhìn thấy hôm nay là kết quả của những tấm lòng mộ đạonhững sự đóng góp vô cùng quý hiếm.

Tháp Đại Bồ-Đề đương nhiên là một công trình huy hoàng và nổi bật nhất trong khu vực Thánh Địa Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng). Cao 52m, với tổng diện tích phần nền móng hình vuông là 231 m2, mỗi cạnh vuông là 15.2 m2 (50 feet), bao gồm một tháp lớn hình kiểu kim tự tháp và 4 tháp nhỏ nằm ở 4 góc, là những mô hình thu nhỏ của tháp lớn.(Hình 9). Cổng chính quay về hướng Đông, phía trước bên ngoài cổng là một cổng chào bằng đá do vua Asoka xây, được chạm khắc rất tinh xảo. Những khoảng trống âm tường của cả 2 mặt vách của Bảo Tháp đều có khắc hình tượng Phật. Gian đại Chánh Điện (Sanctum) ở tầng trệt sau khi đi qua một lối đi có  mái vòm vòng cung, hai bên là cầu thang bằng đá dẫn lên một điện thờ nhỏ hơn nằm ở tầng một. Ngay sau khi tiến vào đại Chánh Điện, chúng ta sẽ gặp ngay một tượng Phật bằng đá mạ vàng trong tư thế ngồi với tay phải tiếp đất (bhumi phassa-mudra) trong ngày Giác Ngộ.

Chỉ cần ngắm nhìn bức tượng Phật lộng lẫy, trái tim của người hành hương chắc chắn sẽ khởi sinh niềm hoan hỷ thành kính!. Đó là kết quả của lòng tin lòng kính đạo của người hành hương trong việc làm theo lời khuyên dạy của Đức Phật “nên đến viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.

Bức tượng Phật bằng đá mạ vàng được làm từ thế kỷ 10 sau CN. Ở đây, Đức Phật được miêu tả trong tư thế ngồi trên (miếng lót) tọa cụ, thay vì trên một đài sen. Tọa cụ được đặt trên một bệ dài lớn hơn, dày hơn, trên mặt vách dày hơn đó có khắc hình lần lượt sư tử, voi. Tư thế ngồi trên tọa cụ là nét chung được tìm thấy ở rất nhiều hình, tượng Phật khác ở Đông Ấn Độ, có thể được làm theo kiểu của bức tượng này. Nhiều người đã không biết được rằng bức tượng này đã không được đặt ở đây trong những cuộc khảo cổ xung quanh khu vực Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) bởi chính quyền thuộc địa của người Anh lúc bấy giờ. Theo một bài báo viết về “Những Tượng Điêu Khắc Bồ-Đề Đạo Tràng ở Sambodhi, 1993” (Buddhagaya Sculptures in the Sambodhi, 1993), R. L. Mitra đã ghi rằng, bức tượng đã bị đặt trong khu vực của Mahant. Sau đó theo yêu cầu của Ngài Cunningham Beglar, (những nhà khảo cổ học tiến hành cuộc đại trùng tu, như đã nói ở phần trên), bức tượng đã được dời qua đặt tại vị trí hiện tại trong Chánh Điện. Nhờ công đức và sự can thiệp của 2 người đáng kính này, bức tượng đã được đặt vào nơi đúng đắn ở Chánh Điện cho những người hành hương sau này được chiêm bái,  thay vì như trước đây bị lãng quên, lãng phí ở trong bên khu vực của Mahant đạo Hindu.

2) Cây Bồ-Đề (Bodhidruma)

Cây Bồ-Đề (Bodhi), nơi Đức Phật ngồi tọa thiền bên dưới và chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng, đứng ở phía sau Tháp Đại Bồ-Đề. Đó là một cây Tất-Bát-La (thuộc họ Ficus religiosa), tiếng Pali gọi là cây “assattha”,  có nghĩa là an lạc.

Truyền thuyết nói rằng cây này mọc lên cùng lúc Đức Phật đản sinh, như là một loại đồng sinh (sahajata) của Người vậy - (tiếng Anh: co-natal). Theo nhiều luận giảng, nhiều vị Phật khác nhau cũng đắc đạo khi ngồi dưới một gốc cây, bất cứ loại cây nào mà vị Phật đó chọn, và mỗi cây đó đều trở thành cây Bồ-Đề, tức là cây Giác Ngộ trong cõi của vị Phật đó. Trong cõi này, cây Tất-Bát-La trở thành Cây Giác Ngộ hay Cây Bồ-Đề và chỉ có Cây Bồ-Đề của Đức Phật Cồ-Đàm là được tôn kính. Di tích Cây Bồ-Đề này là tượng trưng giống nhau cho tất cả chư Phật. Người ta tin rằng không nơi nào trên thế gian này có thể hỗ trợ cho uy nghi của sự Giác Ngộ của Đức Phật. Nền đất ở đây rất chắc, không hề bị lung lay, di chuyển ngay cả khi trái đất rung chuyển thế gian để xua đuổi Ma Vương và đội quân của ông ta đến để thách thức, phá rối nhằm làm cho vị Bồ-tát phải rời bỏ chỗ ngồi Giác Ngộ. Ngay cả Vua Trời Sakka Devaraja cũng không thể bay qua ngang cây Bồ-Đề. Lực hút siêu nhiên ở nơi đó được gọi là Trung tâm điểm hay cái Rốn của Trái Đất.

Vào thời xưa những vị Vua và thường dân đã đến nơi này để suy tôn cây Bồ-Đề. Vì cây Bồ-Đề trở thành đối tượng được tôn vinh của những Phật tử, nên lẽ tự nhiên cây trở thành mục tiêu phá hủy bởi những kẻ thù hằn Phật giáo. Theo Ngài Huyền Trang, Cây Bồ-Đề đầu tiên lại bị chặt phá bởi Vua Asoka, nhưng sau này, nhà Vua ân hận, đã chăm bón lại Cây Bồ-Đề bằng cách tưới tẩm nước hương thơm và sữa tươi vào rễ cây. Nhà Vua thể hiện lòng thành kính sâu sắc đối với cây Bồ-Đề, đến nỗi một hoàng hậu đương triều lúc đó của nhà Vua là Tissarakkha, đã trở nên ghen tị với Cây Bồ-Đề và đã cho người lén lút phá hủy cây. Nhà Vua lại tiếp tục làm sống lại cây. Sau đó, nhà Vua cho xây bức tường cao 3m xung quanh cây để bảo vệ. Sau khi sự sụp đổ của triều đại đế chế Maurya vào thế kỷ 2 trước CN, vua của triều đại Sunga, Pusyamitra, là kẻ tra tấn Phật giáo, lại phá hủy Cây Bồ-Đề. Nhưng một cây con của chính Cây Bồ-Đề nguyên thủy được mang về  từ Tích Lan, và được trồng lại đúng ngay chỗ ấy. Vào thế kỷ 6 sau CN, Sasanka, một vua Hindu, lại chặt phá Cây Bồ-Đề, nhưng sau đó, một cây con của Cây Bồ-Đề lại được mang về từ Tích Lan và được trồng lại bởi nhà Vua Purvavarma của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), và ông cũng đã cho xây bức tường cao 7.3m để rào Cây Bồ-Đề lại. Bức tường này chỉ còn lại 6.1m khi Ngài Huyền Trang viếng thăm trong lịch sử.

Đến năm 1876, Cây Bồ-Đề già bị ngã đổ trong một trận bão và một cây con của Cây Bồ-Đề được trồng lại chính ngay chỗ cũ bởi Ngài Cunningham. Đến nay, Cây Bồ-Đề này đã 135 tuổi.

3) Tòa Kim Cương (Vajrasana)

Tòa Kim Cương (Vajrasana) nằm giữa Cây Bồ-Đề và Tháp Đại Bồ-Đề. Điểm này đánh dấu đích thực ngay chỗ ngồi của Đức Phật lúc chứng đạt sự Giác Ngộ Tối Thượng. Hiện nay, chỗ này được đánh dấu bằng một tảng đá sa thạch dài 2.3m, rộng 1.3m và dày 0.9m (Hình 10). Những người hành hương khi đến thánh điểm thuận lợi (đầy hộ niệm) này nên dành thời gian để quán chiếu công hạnh của Đức Phật để tăng trưởng tròn đầy lòng tinsự an lạc có được nhờ chánh niệm để phát triển trí tuệ minh sát.

4) Đức Phật Ở Lại 7 Chỗ sau khi Giác Ngộ

Sau khi giác ngộ thành Phật vào đêm Trăng Tròn tháng Wesak, đến rạng sáng, Đức Phật đã thầm reo lên khúc ca vui mừng, hỷ lạc viên mãn. Ngài quyết định tiếp tục ngồi trên Tòa Kim Cương (Vajrasana), chỗ ngồi bất bại và tối thắng trước cuộc chiến với Ma Vương và Người đã thành tựu viên mãn mọi ước nguyện trước đây, bao gồm cả đại nguyện thành Phật. Đó là thời điểm cả thế gian trời, người còn ghi nhớ đến tận ngày nay. Và sau đó, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần và lưu lại bên dưới và xung quanh khu vực gần gốc Cây Bồ-Đề.

(i) Tuần Lễ Đầu Tiên: Đức Phật Tọa Thiền Trên Tòa Kim Cương (Pallanka Sattaha)

Trong suốt bảy ngày của tuần lễ đầu tiên, Đức Phật ngồi yên một tư thế, trải nghiệm niềm An Lạc của Sự Giải Thoát. Sau 7 ngày, ra khỏi định an lạc đó và suy tưởng về Thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada) suốt một đêm.

(ii) Tuần Lễ Thứ Hai: Đức Phật Ngắm Nhìn Cây Bồ-Đề (Animisa Sattaha)

Trong tuần thứ hai, để tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với cây Bồ-Đề đã che chở cho Người suốt thời gian thiền hành để thành Đạo, Ngài đã đứng chăm chú ngắm nhìn cây Bồ-Đề suốt một tuần liền mà không hề nháy mắt (Animisalocana). Về sau, chính nơi này, vua Asoka đã dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiva và đến nay vẫn còn. (Hình 11).

(iii) Tuần Lễ Thứ Ba: Đức Phật Đi Hành Thiền (Cankama Sattaha)

Trong suốt tuần thứ ba, Đức Phật đi kinh hành lên xuống trên quãng đường gần cây Bồ-Đề, sau này được gọi là “Đường Kinh Hành Ngọc Báu” (Ratana Cankamana: đường kinh hành ngọc báu). (Hình 12).

(iv) Tuần lễ Thứ Tư: Đức Phật Ngự Trong Bảo Điện (Ratanaghara Sattaha)

Trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật ngồi tham thiền trong thất, được gọi là “Bảo Thất” (Ratanaghara: nghĩa là cái phòng bằng ngọc báu, trong ý nghĩa “cái phòng quý báu”) để suy niệm về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), triết giảng về những Chân lý Tuyệt đối, tột cùng liên quan đến phạm trù danh và sắc (tâm và vật chất). Trong khi Đức Phật quán chiếu về triết lý sâu sắc và vi diệu là Luận Thuyết về Nhân Duyên (Patthana, tiếng Anh: Conditional Relations), Người vui mừng và khởi sinh niềm hỷ lạc thật lớn lao trong tâm Toàn Trí cvuaR Người, làm phát quang bên trong sắc thân, Kinh sách ghi nhận rằng, tâm và thân Người phát sáng một vầng hào quang sáu màu – xanh, vàng, trắng, đỏ, hồng và luồng ánh sáng kết hợp 5 màu đó. Vị trí của Bảo Thất này được đánh dấu bằng một Điện Tháp, phía trước có một bia đá có khắc chữ ghi lại nơi Đức Phật đã ngồi và suy niệm về thuyết Nhân Duyên (Patthana). Điện Tháp này cũng nằm trong khuôn viên Tháp Đại Bồ-Đề, sát bên hướng Bắc của Đường Kinh Hành Ngọc Báu (Cankama). (Hình 13).

v) Tuần lễ Thứ Năm: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Ajapala Banyan Nigrodha (Ajapala Sattaha)

Trong tuần thứ năm, Đức Phật ngồi dưới cây Ajapala Banyan để suy niệm về Giáo Pháp và thấm nhuần niềm hạnh phúc của sự giải thoát. (Ajapala có nghĩa là “chỗ của người chăn dê”. Cây Banyan là một loại cây đa, cây này là nơi những người chăn dê trong vùng thường ngồi nghỉ trong khi thả cho bầy dê ăn cỏ). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thế ấy, có một vị Bà-la-môn ngã mạn (Huhumka Jakita) đến gần và hỏi Người rằng “đứng về phương diện nào và những điều kiện nào ông ta có thể trở thành một thánh nhân (Brahmana)?”. Đức Phật đã trả lời và chỉ ra những phẩm chất cần có của một Bà-la-môn đích thực nên có. Vị trí di tích này được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 14).

vi) Tuần lễ Thứ Sáu: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Mucalinda (Mucalinda Sattaha)

Tuần thứ sáu, Đức Phật đến ngồi dưới cây Mucalinda, gọi theo tên của Mãng Xà Vương (cây thuộc họ Barringtonia acutangula). Lúc bấy giờ, trời giông bão, gió lạnh mù mịt kéo dài suốt bảy ngày. Truyền thuyết kể lại rằng, Mucalinda, Vua Rắn từ dưới hồ nước đi lên, dùng thân quấn quanh người Đức Phật và lấy cái mỏ to che trên đầu Đức Phật để che chở, bảo vệ cho Người. Vị trí di tích cũng là Ao Mucalinda (Ao Mãng Xà Vương) ngày nay, ở phía Nam và gần bên Tháp Đại Bồ-Đề. (Hình 15).

vii) Tuần Thứ Bảy: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Rajayatana (Rajayatana Sattaha)

Tuần thứ bảy, Đức Phật đến ngồi dưới cây Rajayatana, (thuộc họ Buchanania latifolia) gần Tháp Đại Bồ-Đề. Lúc đó có hai người lái buôn tên là TapussaBhallika đến từ Ukkala (Orissa) dâng lên cúng dường Đức Phật bánh gạo nếp và mật ong. Sau khi Đức Phật thọ trai bữa ăn xong, hai người quỳ lạy dưới chân Người và xin được quy y nương tựa vào Đức PhậtGiáo Pháp của Người. Họ trở thành những Phật Tử cư sĩ đầu tiên, quy y vào Phật & Pháp (Nhị Bảo). Sau lúc đó, Đức Phật đưa tay lên đầu và lấy 8 sợi tóc của mình để tặng cho 2 Phật tử đầu tiên. Sau này, hai anh em trở về lại Miến Điện với xá lợi tóc quý giá đó, sau này xá lợi tóc đó được đặt thờ trong ngôi Chùa Shwedagon Pagoda ở thủ đô Yangon. Vị trí di tích này, ở phía Nam Tháp Đại Bồ-Đề, được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 16).

5) Nhà Của Cô Sujata Kuti

Trước khi Giác Ngộ, vị Bồ-tát đã ở gần bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) trong hang động Dungeswari. Hang động này ở trên một ngọn đồi, tên là Đồi  Dhongra, cách Bồ-Đề Đạo Tràng khoảng 1 giờ đi bộ. Sau khi trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh một cách đau đớn và vô ích, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo và bắt đầu đi về hướng Rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, ở đây, chúng ta có thể thấy được khu di tích ‘Nhà của cô Sujata’, nằm trên một dãi đất nhỏ. Trong làng, chúng ta cũng có thể thăm một Miếu Thờ, dưới bóng một cây Banyan, trong đó có những tượng miêu tả cảnh Cô Sujata dâng cháo gạo sữa cho Bồ-tát vào ngày trước đêm Người giác ngộ thành Phật. (Hình 19).

6) Rừng Uruvela

Khu vực, trước kia là rừng, bây giờ là một khu cây cỏ mọc, gần chỗ Miếu Thờ Sujata. Tại đây, chúng ta có thể thấy một di tích xây có một cái giếng cạn. (Hình 20). Nơi đây được tin là ‘hầm lửa’ của ba anh em nhà Ca Diếp Kassapa, những Jalita búi tóc thờ thần lửa có đến 1 ngàn đệ tử. Ở đây, Đức Phật cũng đã hàn phục một con rắn, ẩn núp trong hầm lửa. Sự thu phục người anh Ca Diếp (Kassapa Uruvela) đã mất nhiều thời gian hơn. Đức Phật đã phải dùng đến thần thông mới thuyết phục và chuyển hóa những Jalita thờ thần lửa được. Sau khi Uruvela Kassapa (Hán Việt đọc: Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) trở thành đệ tử của Đức Phật, 2 người em, Nadi Gaya, cùng những đệ tử của họ cũng đi theo. Sau khi nghe Phật thuyết giảng Kinh Lửa, một ngàn Tỳ kheo mới vừa được thọ giáo vào Tăng đoàn đã đều trở thành A-la-hán (Arahants).

7) Pragbodhi, Nơi Bồ-tát thực hành Tu Khổ Hạnh 6 năm

Trước khi Giác Ngộ, Bồ-tát đã ở bên bờ hữu ngạn sông Neranjara (Ni Liên Kiền) trong một khu rừng gần Pragbodhi, phía trước đồi Bồ Đề (Bodhi). Truyền thuyết kể rằng Người sống trong một hang động nhỏ có tên là Dungeswari, nằm ngang dốc lên đỉnh đồi. Sau khi đã thực hành việc tu khổ hạnh, hành xác 6 năm trời, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo, và đến khu rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, tức ngôi làng Bakraur ngày nay. Chúng ta leo lên một đoạn dốc đứng dẫn đến một ngôi chùa nhỏ tên là Chùa Hang Động Dungeswari do những nhà sư Tây Tạng trông nom. Bên trong hang động Dungeswari, (Hình 18), có một bức tượng vị Bồ-tát với thân hình chỉ còn lại xương, sau 6 năm hành xác, khổ hạnh. Đồi Pragbodhi (rất nhiều khu di tích trên nhưng ngọn núi nhỏ, người ta vẫn gọi là đồi) ngày nay gọi là đồi Dhongra, (Hình 17), cách làng về phía Đông Bắc khoảng 1 dặm Anh (1.6 km), cách khoảng 30 phút lái xe đến Rajgir (thành Vương-xá).

8) Những Chùa & Tu Viện ở Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng)

Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là cái nôi của Phật giáo. Trong khu vực chiếm khoảng 15km2, nhưng trong một diện tích nhỏ này có đến 30 tu viện và cơ sở đại diện cho nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới, trong một cộng đồng Phật giáo nhỏ ở đây. Một cuộc thăm viếng đến những ngôi Chùa ở đây sẽ giúp cho chúng ta hiểu được Phật giáo được thực hành ở những nước khác nhau như thế nào, theo văn hóa địa phương của họ, mà vẫn theo đúng Phật Pháp. Ở đó cũng có một trung tâm Thiền Minh Sát Vipassana, chẳng hạn như trong Chùa Miến Điện (Burmese Vihara) và Trung Tâm Thiền Quốc tế. Danh sách những tên, những đền, chùa, tu viện Phật giáo và cơ sở Phật giáo được ghi trong Chương Trình Lưu Niệm Buddha Mahotsav 1999 theo thứ tự chữ cái như sau:

Tăng Đoàn Toàn Ấn Độ (All India Bhikkhu Sangha), Trung Tâm Văn Hóa Phật giáo Châu Á (Asian Buddhist Culture Centre), Chùa Bangladesh (Bangladesh Temple), Ban Quản Lý Bồ-Đề Đạo Tràng (Buddhagaya Temple Management Committee), Chùa Miến Điện (Burmese Vihara), Chùa Trung Hoa (Chinese Temple), Chùa Đại Tạng Kinh Nhật Bản (Đaijokyo Japanese Buddhist Temple), Trung Tâm Thiền Pháp Giác (Dhamma Bodhi Meditation Centre), Qũy Từ Thiện Drikyug (Drikyug Charitable Trust), Chùa Druk Nawag Thupten Choeling, Chùa Nhật Bản Indosan Nipponjee (Indosan Nipponjee Japanese Temple), Trung Tâm Thiền Quốc Tế (International Meditation Centre), Chùa Jambunad Vihar, Chùa Karma Temple, Chùa Triều Tiên, Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), Dự Án Di-Lặc (Maitreya Project), Chùa Nav Bauddha Vihar, Chùa Panch Sheela Vihar, Viện Văn Hóa Trí Tuệ Root (Root Institute for Wisdom Culture), Chùa Hoàng Gia Bhutan (Royal Bhutan Temple), Tu Viện Thích Ca (Sakya Monastery), Hội Văn Hóa và Phúc Lợi Tam Bồ-Đề (Sambodhi Welfare and Cultural Society), Tu Viện Shechen Monastery, Chùa Đài Loan (Taiwan Temple), Chùa Tamang Nepal Temple, Hội Bharat Thái Lan (Thai Bharat Society), Chùa Thái Lan Bodhi Kam, Chùa Tây Tạng (Tibetan Temple), Trung Tâm Trailokya Centre, Chùa Việt Nam Quốc Tự và Chùa Thái Lan (Wat Thai).

 

3. Sarnath,

Nơi Đức Phật Khai Giảng Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên

3.1 Cách để Đi Đến Nơi:

Sarnath nằm thuộc bang Uttar Pradesh, cách thành phố Varanasi (Benares) khoảng 30 km. Sarnath cách Bồ-Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) khoảng 250 km.

3.2 Ý Nghĩa Tôn Giáo (3), (25), (26)

Sau khi trải qua 7 tuần ở 7 nơi trong khu vực Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) sau khi Giác Ngộ, Đức Phật đã quyết định đi đến truyền dạy Giáo Pháp mà Người đã giác ngộ cho 5 anh em người bạn tu khổ hạnh trước đây của Người là: Kondanna (Kiều-Trần-Như), Vappa, Bhaddiya, Mahanama Assaji, những người đã theo Người suốt 6 năm trời tu khổ hạnh. Phật đến Vườn Nai (Lộc Uyển) ở Isipatana, tức là Sarnath ngày nay, vào ngày Trăng Tròn của tháng Asalha, chính xác đúng 2 tháng sau ngày Trăng Tròn tháng Wesak ở Bồ-Đề Đạo Tràng. Khi họ nhìn thấy Đức Phật từ xa, họ không muốn tiếp đón Người, nhưng khi Đức Phật đến gần, họ tự nhiên thấy ngược lại và đảnh lễ Người. Đức Phật có thể thuyết phục họ về sự Giác Ngộ, sự đắc đạo của Người. Đêm hôm đó, Đức Phật đã khai giảng bài Thuyết Pháp Đầu Tiên, đó là Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta), mà ngay sau đó, Kondanna (Kiều-Trần-Như) đã chứng đạt ngay Tầng thánh thứ nhất (Nhập Lưu). Bốn người còn lại cũng chứng được tầng thánh thứ nhất sau 4 ngày liên tiếp nghe Đức Phật giảng dạy. Sau đó, Đức Phật cũng thuyết giảng cho họ Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhana Sutta) mà sau khi nghe giảng xong, tất cả họ đều chứng đắc quả vị A-La-Hán, tầng thánh cuối cùng. Cũng tại Sarnath, Đức Phật đã chuyển hóa (Hán Việt: độ) chàng quý tộc Yasa và nhóm 54 người bạn của anh ta, và họ cũng chứng ngộ quả vị A-La-Hán. Sau đó, Đức Phật phải cử họ đi nhiều phương khác nhau, mỗi người một phương, để tiếp tục truyền bá Giáo Pháp. Vì vậy, Sarnath đã trở thành một địa danh nổi tiếng, là nơi khai giảng Giáo Pháp của Phật là nơi Tăng Đoàn (Sangha) Tu Sĩ Phật Giáo đầu tiên được thành lập.              

3.3 Bối Cảnh Lịch Sử (5), (27)

Vua Asoka đã đến thăm viếng Sarnath vào năm 249 trước CN, và đã cho xây nhiều đền tháp để tưởng niệm chuyến viếng thăm của mình, nổi bật là: Tháp Dhamek stupa, Tháp Dharmarajika stupa (Tháp Pháp Vương) và Trụ Đá Asoka với đầu trụ hình con Sư Tử rất nổi tiếng, nay là biểu tượng quốc huy của Ấn Độ. Vào triều đại Vua Kaniska (năm 78 sau CN), Sarnath là một trung tâm hoạt động tôn giáo lớn và có một đại tượng Bồ-tát rất lớn nổi tiếng Bodhisatta có mái lọng che trên đầu, do Tỳ kheo Bala đến từ Mathura thiết lập. Trong thời kỳ triều đại Gupta (Thế kỷ 4-6 sau CN), bảo tháp Dhamek Stupa được bao bọc bởi những tảng đá được khắc chữ, chánh điện của tu viện Mulagandhakuti được mở rộng ra và một tượng Phật Đang Giảng Pháp, một món quà từ Vua Kumaragupta, đã được thiết đặt ở đây.

Vào năm 520 sau CN, Sarnath cũng gánh chịu phần đổ nát của mình dưới sự xâm lăng và phá hoại của quân Hung Nô của tên Mihirakula man rợ. Nhưng sau khi quân Hung Nô bị đánh bại, thì Sarnath lại tiếp tục nở rộ rồi việc phát triển Phật giáo dưới thời vị Vua Phật giáo là Harsa Vardharna (606-647 sau CN), và tiếp tục là một vùng đất thánh sống động dưới thời các Vua triều đại Pala (từ thế kỷ 8-12 sau CN). Người bảo trợ Phật giáo ở Sarnath cuối cùng là Hoàng Hậu Kumaradevi, người vợ Phật tử mộ đạo của nhà Vua Govindachandra of Benares (năm 1114-1154 sau CN). Bà đã cho xây một tu viện lớn ở Sarnath tên là Dhammacakka Jina Vihara (Dhammacakka: bánh xe chuyển Pháp, Jina: người chinh phục hay người làm được, Vihara: chùa, tu viện). Di tích của ngôi chùa này được tìm thấy trong cuộc khai quật vào đầu thế kỷ 20.

Lịch sử càng ngậm ngùi hơn và Sarnath cũng không tránh được. Sau cuộc tàn sát Tăng Đoàn ở khắp nơi ở Ấn Độ, đoàn quân cực đoan tôn giáo của người Hồi giáo đã đến san bằng Sarnath. Sarnath trở thành nơi tàn phế và rơi vào quên lãng suốt 600 năm, cũng như những thánh địa khác ở bán đảo Ấn Độ.

Năm 1794, Sarnath được thế giới biết đến khi rơi vào tình cảnh bi đát nữa. Jagat Singh, một viên quan của Vua Raja Chetsingh của xứ Benares (Ba-la-nại), đã đập vỡ Bảo Tháp Dharmarajika (tháp Pháp Vương) thiêng liêng ra thành từng mãnh để lấy gạch và đá để xây những pháo đài, nhà cửa thuộc địa. Khi đập đổ bảo tháp, những người phu công đã phát hiện ở độ sâu 8.3m có một hòm bằng đá trong đó có chứa một hộp bằng đá cẩm thạch màu xanh. Bên trong hộp có chứa xá lợi người, giả thiết cho rằng đó là xá lợi Phật, bởi vì chính Vua Asoka đã xây bảo tháp và đặt xá lợi đó vào trong bảo tháp để thờ. Tuy nhiên theo phong tục của người Hindu, Jagat Singh đã mang quăng xuống sông Hằng và mãi mãi không được tìm thấy. Hành động phá hoại tôn giáo này (vandalism) những tưởng đã bị che mờ, không ai sau này biết đến, nhưng nhờ vào sự phát hiện của Ngài Jonathan Duncan, Cao Ủy xứ Benares, đã được đăng tải trên tờ “Asiatic Researches”. Nhiều sự quan tâm đổ dồn về những tàn tích của Sarnath và đến năm 1815, Col. C. Mackenzie bắt đầu cuộc khảo sát và phát hiện ra những tượng điêu khắc, hiện nay được lưu giữ trong Viện bảo Tàng Calcutta Museum. Năm 1835-1836, Ngài Sir Cunningham đã tiến hành khai quật và phát hiện hơn 40 bức tượng điêu khắc và tượng đá khắc chữ. Lại một tình cảnh bi thương xảy ra nữa, khi những di vật này bị vô tình hay cố ý chở đi bằng xe gòng, khi Ngài Cunningham vắng mặt, cùng 60 xe đá chở ra ngoài dùng để làm vật liệu xây dựng 2 cây cầu và những cơ sở khác ở Benares (Ba-la-nại). Những cuộc khai quật tiếp theo được tiến hành không liên tục từ năm 1851 đến 1922, đã làm lộ ra bảo tháp Dhamek stupa, bảo tháp Dharmarajika stupa, Tu viện Mulagandhakuti, Trụ đá Asoka và nhiều tàn tích của nhiều tu viện. Bốn thánh tích đầu tiên đó được xem là thiêng liêng nhất, vì những thánh tích đó trong lịch sử gắn liền với Đức Phật lịch sử. Thánh tích thiêng liêng thứ năm có lẽ là Tháp Pancayatana, đã bị lún chìm theo thời gian, mà một số trưởng lão tin rằng đó chính là chỗ Đức Phật ngồi giảng bài thuyết Pháp Đầu Tiên.

3.4 Những Điểm cần Thăm Viếng (5), (27)

1) Chaukhandi Stupa

Đây là công trình tưởng niệm đầu tiên được nhìn thấy khi tiến vào Sarnath. Đây là khu di tích công trình được xây toàn bằng gạch hình nón vun lên cao, trên đỉnh là một khối tháp hình bát giác, tám cạnh, là di tích còn lại của đại tháp cổ này. Tháp này được xây dựng để tưởng nhớ chuyến viếng thăm của Hamuyan, vua của triều đại Mugal của Ấn Độ, cha của vua kế ngôi Akbar Khan, đã đến Sarnath năm 1588 sau CN. Nơi này được tin là chỗ Đức Phật đã dừng lại để cho 5 người tu khổ hạnh Kiều-Trần-Như nhìn thấy Người và đảnh lễ mời người bước vào trong Vườn Nai (Lộc Uyển).

2) Vườn Nai - Isipatana

Cách 1km về hướng Bắc là Vườn Nai (Migadaya), cũng được gọi là Isipatana (Chỗ Đáp Xuống của nhà Tiên Tri). Trong khu vực yên tĩnh này, chúng ta có thể thấy được những công trình tưởng niệm cổ xưa và thiêng liêng, như là:

3) Bảo Tháp Dhamek Stupa

Tháp Dhamek stupa, là công trình oai nghiêm nhất ở Sarnath, có kiến trúc hình trụ đứng, đường kính thiết diện mặt đáy là 28.5m và cao 43.6m.(Hình 24). Trong thời triều đại Gupta, phần dưới của phần tháp được bao bọc bằng đá, có khắc chữ rất đẹp. Bảng điêu khắc gồm có những chữ cổ điển nhất dạng dấu hiệu Swastikas được khắc theo nhiều mẫu hình học khác nhau, với một vòng hoa sen khắc tay chạy từ trên xuống dưới (xem thêm những hình chụp của những ‘ký tự’ Swastikas trên google.com). Trong khi đập xới một cây cột giữa trung tâm của tháp Stupa này để tìm di tích, di vật, ngài Cunningham phát hiện ra tàn tích cũ của tháp bằng gạch có từ thời Mauya. Người ta cho rằng đó có thể là Tháp stupa được dựng lên bởi Vua Asoka trong chuyến viếng thăm của ngài đến Sarnath. Không tìm thấy di tích hay xá lợi nào, nhưng có một bia đá ghi lại giáo pháp của Phật:Ye dhamma hetuppabhava…” (“Tất cả sự vật đều có nguyên nhân…”). Bằng những ký tự của thế kỷ 6 và 7. Những dòng chữ này là rất gần với giáo Pháp của Phật. Theo như những dòng ghi chú bằng chữ khắc của Vua Mahipala triều đại Pala (năm 1026 sau CN), thì tên nguyên thủy của tháp này là Tháp Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka stupa). Ban Khảo Cổ Ấn Độ (Archeological Survey of India – ASI) đã sử dụng bằng chứng này để bảo vệ lập luận rằng, tháp này chính là sự đánh dấu chỗ Đức Phật khai giảng bài Thuyết pháp đầu Tiên. Tuy nhiên, cũng không thể nào xác nhận tương tự cho 2 tháp còn lại, là Tháp Pháp Vương (Dhammarajika stupa) và Tháp Pancayatana của thời đại Gupta, như đã nói ở phần trên. Vì vậy, đối với những người hành hương, cách tốt nhất là cứ xem toàn bộ khu vực (Vườn Nai) này là chỗ Đức Phật khai giảng Kinh chuyển Pháp Luân và luôn luôn chánh niệm khi viếng thăm ở nơi tất cả những bảo tháp đó.

4) Tháp Pháp Vương - Dharmarajika Stupa

Tàn tích của Tháp Pháp Vương (Dharmarajika stupa) cũng nằm gần tháp Dhamek stupa về phía Bắc, bao gồm một khu nền móng hình tròn, đó là tất cả những gì còn lại sau cuộc tàn phá của viên quan Jagat Singh nghịch đạo. Bảo Tháp nguyên thủy được Vua Asoka xây dựng, có đường kính mặt đáy dài 13.4m, nhưng chúng đã được tăng rộng lên gấp đôi vào thời triều đại Gupta, như chúng ta được thấy ngày nay. Tháp Pháp Vương (Dhammarajika stupa) như tên gọi của tháp đã hiểu nghĩa, được tin là do Vua Asoka xây dựng vào thời phân chia lại xá lợi Phật từ 7 bảo tháp stupa đầu tiên sau khi Phật Bát-Niết-Bàn và đem vào đặt thờ thêm trong những bảo tháp stupa khác ở nhiều nơi khác nhau. Tuy nhiên, những nhà sư Miến Điện thì cho rằng, Tháp Pháp vương  (Dhammarajika stupa) được xây để đánh dấu chỗ Phật thuyết pháp đầu tiên. (Hình 23).

5) Mulagandhakuti (Hương Thất Thứ Nhất)            

Phía bắc Tháp Dhammarajika stupa là tàn tích của Mulagandhakuti (Hương Thất Thứ Nhất), nơi đức Phật trải qua mùa mưa Kiết hạ đầu tiên. (Hình 25).  Theo Luận Giảng Kinh Pháp Cú, căn phòng này được cúng dường bởi một người giàu có tên là Nandiya và ngay sau khi Đức Phật chấp nhận căn phòng, thì một tòa nhà xuất hiện trên cõi trời Tavatimsa (Đao-Lợi) cho chủ của nó là Nandiya. Phòng Hương là một tòa hình vuông, mỗi cạnh dài 18.3m, cửa chính quay về hướng Đông. Khoảng trống giữa Hương Thất và Tháp Pháp Vương (Dharmarajika stupa) được tin là chỗ bức tượng Bồ-tát rất lớn nổi tiếng do Tỳ kheo Bala từ Manthura đem đến đặt.

6) Trụ Đá Asoka

Đi một chút về phía Tây của Hương Thất Mulagandhakuti, bên dưới mái che và được bọc xung quanh bằng hàng rào đứng, là phần gốc cao khoảng 2m của Trụ Đá Asoka. Trụ đá nguyên thủy cao 15m và trên đầu của trụ là tượng Sư Tử rất nổi tiếng, hiện đang được lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Sarnath Museum. Trụ Đá này được tin rằng để đánh dấu nơi Đức Phật tập họp Tăng Đoàn (Sangha) gồm 60 A-La-Hán (5 người trong nhóm Kiều-Trần-Như và 55 người trong nhóm Yasa – ND) và đề xuất họ đi về những miền khác nhau để truyền bá giáo pháp của Đức Phật. Trên cột đá cổ một hàng chữ khác: “Không để bất cứ ai chia rẽ Tăng Đoàn”. Vào thời Vua Asoka, có nhiều nhóm Tỳ kheo thuộc những giáo phái khác nhau đang sống ở Sarnath, vì vậy, người ta tin rằng Vua Asoka cho khắc dòng chữ chỉ dụ này cho Tăng Đoàn (Sanghabhedaka) để khuyến khích sự hòa hợp của những giáo phái Phật giáo khác nhau.

7) Đền Thờ Bị Lún Pancayatana

Phía Đông của Tháp Pháp Vương (Dhammarajika stupa) là một di tích bị lún xuống bên dưới nền bê-tông. Đây là một đền tháp thờ hình vuông, được làm bằng gạch đất nung, giống như kiểu những đền vuông vào thời Gupta, được gọi là “pancayatana”. (Hình 26). Di tích đền thờ bị lún này cũng được một số đạo sư tin là chỗ Đức Phật thuyết giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên cho 5 người bạn tu khổ hạnh. Nhưng vì di tích này không được nổi tiếng như 4 di tích kia, nên ít có người đến đây thăm viếng hơn, cho nên đây là chỗ yên lặng, rất tốt cho việc suy niệm và tọa thiền.

8) Tu Viện Mulagandhakuti Vihara

Khoảng 500m về phía Đông của Tháp Dhamek stupa là Tu Viện Mulagandhakuti Vihara, được xây dựng bởi Hội Đại Bồ-Đề của Ấn Độ vào năm 1931 bằng sự nỗ lực không mệt mõi của Tỳ kheo Anagarika Dharmapala,  người đã nguyện làm cho tất cả những thánh địa ở Ấn Độ được chăm nom bởi những Tỳ kheo trong Tăng Đoàn. Công trình này được tài trợ bởi một Phật tử hào hiệp của Tỳ kheo Anagarika Dharmapala là bà Mary Elizabeth Foster ở Hawaii. Vào ngày khánh thành Tu Viện, những xá lợi Phật thiêng liêng được khai quật, tìm thấy ở Taxila vào năm 1913-1914, đã được Tổng Giám Đốc Ban Khảo Cổ đại diện chính quyền mang tặng Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society). Những xá lợi Phật này được đặt thờ bên dưới pho tượng Phật Đang Thuyết Giảng và được lấy ra để lễ lạy trong dịp Lễ Kathina hàng năm. Những bức bích họa rất đẹp kiểu Ajanta trên hai bức tượng của Tu Viện được vẽ bởi nghệ nhân Nhật Bản, Kosetsu Nosu. Ông ta đã làm việc 3 năm, 1932-1935, để hoàn thành. (Hình 21).

Gần sát bên ngoài của Tu Viện là một tượng Phật bằng kích thước người thường mới được xây, để diễn tả Đức Phật đang thuyết giảng bài Kinh đầu tiên cho nhóm 5 người tu khổ hạnh. (Hình 22).

Hiện tại, trụ trì Tu viện Mulagandhakuti Vihara là Trưởng Lão Tiến Sĩ Dodangoda Rewata Thera, cũng là Phó Tổng Thư Ký Hội Đại Bồ-Đề Ấn Độ (Maha Bodhi Society of India), và cũng là tác giả của quyển sách “Con Đường Hoa Sen” (The Lotus Path), miêu tả về Tám Thánh Địa Quan Trọng của cuộc hành hương về đất Phật.

9) Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Sarnath (Đóng cửa ngày thứ Sáu)

Viện bảo tàng lưu trú những Cổ Vật được tìm thấy và khôi phục từ những tàn tích trong khu vực Vườn Nai trong những cuộc khai quật khảo cổ từ năm 1905 trở về sau. Bên trong viện bảo tàng, có trưng bày nhiều tượng điêu khắc Phật và Bồ-tát, hầu hết là có nguồn gốc từ thời đại Gupta (thế kỷ 4-5 sau CN). Bốn tượng điêu khắc quan trọng nhất được trưng bày và có sự tích như sau:

a) Tượng Sư Tử

Bước vào sảnh chính, chúng ta có thể nhìn thấy ngay một tác phẩm điêu khắc lộng lẫy nhất từ thời Maurya của Vua Asoka – Tượng Sư Tử, vốn nguyên thủy được gắn trên đầu Trụ Đá Asoka ở Vườn Nai. Bức tượng bằng đá sa thạch được đánh bóng, cao 2.3m bao gồm 4 con sư tử đang ngồi giáp lưng với nhau trên mặt đế lăng trụ tròn, dày khoảng 0.3m. Mặt ngoài lăng trụ có khắc 4 con vật đang chạy, cách nhau bằng những bánh xe Pháp (Dhammacakka wheel), đó là: con , tượng trưng cho dấu hiệu Đức Phật đản sinh; con Voi tượng trưng cho ý nghĩa Hoàng Hậu Maya Devi đã nằm mộng thấy có con voi chui vào bụng của Hoàng hậu, con Ngựa tượng trưng cho cuộc từ bỏ hay xuất gia của Bồ-tát (tức Thái Tử Siddhattha) khi Người ra đi trên lưng ngựa Kanthaka; con Sư Tử tượng trưng cho Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên của Đức Phật (hay Kinh Chuyển Pháp Luân). Bốn con sư tử ngồi trên mặt đế tròn đó tượng trưng cho Giọng nói rền vang bốn phương của Đức Phật (tiếng gầm Sư Tử hống). Tượng Sư Tử trên đầu Trụ Đá Asoka đó ngày nay trở thành Quốc Huy của Ấn Độ và Bánh Xe Pháp (Dhammacakka) trở thành Quốc Hiệu trên lá cờ của Ấn Độ.

b) Đại Tượng Bồ-tát

Tượng Bồ-tát lớn này được làm bằng đá sa thạch màu đỏ, được cúng dường bởi Tỳ kheo Bala đến từ Mathura vào năm 81 sau CN, thuộc triều đại vua Kaniska và đây là tác phẩm đại diện tốt nhất cho nền nghệ thuật Mathura. Sau bức tượng là một trụ đá để làm thân nâng một lộng che được điêu khắc rất đẹp. Lộng che bằng đá này cũng được thấy ở ngay sảnh chính của viện bảo tàng.

c) Những Bảng Ghi Chú Cuộc Đời Đức Phật

Có một bảng điêu khắc mô tả Bốn Sự Kiện Chính, quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật, đó là: Đản Sinh, Giác Ngộ, Khai Giảng Giáo Pháp và Đại Bát-Niết-Bàn. Một bảng khác mô tả Tám Sự Kiện trong cuộc đời Đức Phật, đó là: Bốn Sự Kiện Chính và Bốn Nơi Diễn Ra Điều Kỳ Diệu – Đó là: Nơi Kỳ Diệu ở Sravasti (Savatthi, Xá-vệ), Nơi Đức Phật Hạ Thế từ cõi trời Đao Lợi ở Sankasya, Nơi Đức Phật hàng phục Voi Điên Nalagiri ở Rajagaha (Vương-xá) và Nơi bầy khỉ cúng dường mật ong cho Đức Phật ở Vesali.

d) Tượng Đức Phật Đang Thuyết Giảng

Tượng Đức Phật trong tư thế đang ngồi thuyết giảng Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka mudra) là một trong những bức tượng điêu khắc đẹp nhất của nghệ thuật Gupta. Bức tượng điêu khắc nổi tiếng này là một món quà cúng dường của Vua Kumaragupta, người trị vì từ năm 414-455 sau CN. Vầng hào quang trên đầu được khắc bằng những thiết kế hoa văn và 2 chư Thiên ở 2 bên góc trên. Mặt đứng dưới mặt đế là 7 hình điêu khắc, tượng trưng cho 5 người khổ hạnh đang nghe thuyết giảng, và Hoàng hậu và người con trai của bà đang quỳ để đảnh lễ Bánh Xe Pháp. Một bức hình chụp tượng Phật đang thuyết giảng này được in làm trang bìa của quyển sách  “Kinh Pháp Cú” (The Dhammapada) của Ngài K. Sri Dhammananda.

10) Hội Đại Bồ-Đề (Mahabodhi Society)

Công đức khôi phục lại Sarnath trở thành một thánh địa sống là của Ngài Tỳ  Kheo Anagarika Dharmapala, người sáng lập ra Hội Đại Bồ-Đề Ấn Độ. Ngài đã lập ra Hội Đại Bồ-Đề ở Sarnath, đặt văn phòng ở bên trái Tu Viện Mulagandhakuti Vihara, bên cạnh những trường học Hội Đại Bồ-Đề, trường cao đẳng, thư viện, trường đào tạo tăng, ni. Sau đó, Hội Đại Bồ-Đề cũng xây một bệnh viện để chăm sóc những bệnh nhân nghèo xung quanh Sarnath.

11) Những Chùa & Tu Viện ở Sarnath

Có nhiều chùa và tu viện được xây dựng trong vài thế kỷ ở Sarnath, mà người hành hương cũng nên viếng thăm. Đó là: Chùa Miến Điện, Chùa Trung Hoa, Chùa Nhật Bản, Chùa Triều Tiên, Chùa Thái Lan và 3 Tu viện Tây tạng. Tu Viện Miến Điện được gọi tên là Dhammacakka Vihara (Chùa Chuyển Pháp Luân) được thành lập bởi Ngài Chandramani từ Kushinagar. Hiện tại, thầy trụ trì là HT. U Wannadhaza, một Tu sĩ Miến Điện (Burmese Sayadaw), người đã ở Sarnath đã nhiều năm. Sau này, Chùa được xây thêm một khu nhà khách để cho người hành hương ở lại khi viếng thăm Sarnath.

  


4. Kusinara,

Nơi Đức Phật Từ Giã Trần Gian (Bát-Niết-Bàn)

 

4.1 Cách để đến nơi

Kusinara hay Kushinagar nằm trong ngôi làng Kasia thuộc huyện Deoria của bang Uttar Pradesh. Đô thị gần nhất là Gorakhpur, cách 55km đường bộ. Kushinagar cách 130 km về phía Nam của Lumbini, 250 km về phía Đông của Sravasti (savatthi, Xá-vệ) và cách 250 km về phía Bắc của Patna. Tất cả những khoảng cách trên là ước lượng gần đúng.

Có 2 khách sạn tốt dành cho những người hành hương.

4.2 Ý Nghĩa Tôn Giáo (4), (3), (25)

Ba tháng trước khi Đức Phật 80 tuổi, Đức Phật đã nói ý nguyện muốn ngụ tại Đền Capala Shrine ở Vesali. Nhưng đến khi đi ngang qua Pava sau khi Người thọ thực bữa ăn cuối cùng do một người thợ rèn tên là Cunda cúng dường, Người đi đến nơi yên nghĩ cuối cùng ở cánh Rừng Sala (Long Thọ) ở Mallas bên bờ sông Hirannavati Kushinagar. Nơi ấy, cũng đúng vào ngày Trăng Tròn của tháng Wesak, năm 543 trước CN, Đức Phật tịch diệt Đại Bát-Niết-Bàn, không còn những yếu tố dính chấp nào khởi sinh nữa (cũng như không còn tái sinh nữa). Người cuối cùng Phật chuyển hóa (độ) là tu sĩ Subhadda và những lời cuối cuối cùng của Đức Phật nói với những Tỳ kheo là:

“Handa ‘dani bhikkhave amantayami vo: Vaya-dhamma sankhara. Appamadena sampadetha.”

“Bây giờ, này các Tỳ kheo, ta nói với các thầy: tất cả mọi pháp hữu vi đều vô thường. Hãy cố tinh tấn để đạt mục tiêu của mình”.

Đức Phật nằm giữa hai cây Sala Long Thọ, nghiêng mình về bên phải, đầu hướng về phía Bắc khi Người trút hơi thở cuối cùng tại trần gian này. Sau Đại Bát-Niết-Bàn của Người, đến ngày thứ 7, thân của Người được rước đi qua thành từ cổng phía Bắc ra cửa phía Đông đến đền thờ của người Malla tên là Đền Makutabandhana. Họ không thể nào đốt lửa trên giàn thiêu được cho đến khi Ngài Đại Ca-diếp (Maha Kassapa) vào đảnh lễ Đức Phật. Nghi lễ cuối cùng được thực hiện bởi Ngài Ca-diếp, và sau khi thiêu xác, những xá lợi được chia làm 8 phần bằng nhau, bởi Bà-la-môn tên là Dona, cho 8 bộ tộc thuộc miền Bắc Ấn Độ lúc đó là:

1) Vua Ajatasattu (A-xà-thế) của nước Magadha (Ma-kiệt-đà)

2) Bộ tộc Licchavi của Vesali (Tỳ-xá-ly)

3) Bộ tộc Sakya (Thích Ca) ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ),

4) Bộ tộc Bulias của nước Allakappa,

5) Bộ tộc Koliyans của nước Ramagama,

6) Bà-la-môn ở Vethadipa,

7) Bộ tộ người Malla ở Pava, và

8) Bộ tộc người Malla ở Kushinagar.

Bà-la-môn Dona đích thân giữ chia đều Xá Lợi, gồm có xương sọ, răng, và vải liệm bên trong và bên ngoài. Khi những người bộ tộc Moriya của xứ Pipphalavana đến thì đã muộn, bởi vì tất cả những Xá Lợi đều đã được chia, vì vậy họ chỉ lấy phần tro. Sau khi trở về quê hương, những người được chia xá lợi đã xây những bảo Tháp stupas để cất thờ Xá Lợi Phật. Vì vậy, lúc đó có tất cả 8 Tháp thờ xá lợi Phật, 1 Tháp để đặt bình đựng hài cốt đã hỏa táng trước khi chia và 1 Tháp để thờ xá lợi tro.

Chúng ta cần biết thêm rằng, mấy trăm năm sau đó, tất cả những xá lợi được phân đó đã được chia lại một lần nữa bởi Vua Asoka sau khi nhà vua quyết định xây dựng tổng cộng 84.000 đền tháp stupas để tưởng niệm những thánh tích về Phật và Phật giáo.

Và về sau này, cũng có nhiều xá lợi lại tiếp tục được chia và được đặt thờ trong những chùa tháp ở khắp các nước Phật giáo ở Châu Á.

4.3 Bối Cảnh Lịch Sử (5), (2), (7), (35)

Vào những ngày đó, Kushinagar đã được miêu tả bởi Ngài Ananda là: “Một thị xã nhà vách đất này, thị xã ở bìa rừng này, một huyện nhánh”. Sau Đại Bát-Niết-Bàn của Đức Phật, Kushinagar trở thành một trung tâm tôn giáo vào thời Phật giáo phát triển khắp Ấn Độ. Là một trong bốn Thánh Địa quan trọng nhất, Tứ Động Tâm, nơi này đã hấp dẫn nhiều Phật tử mộ đạo đến từ khắp nơi ở Ấn Độ và trên thế giới. Vua Asoka đã viếng thăm Kushinagar vào năm 249 trước CN và đã xây dựng lên nhiều bảo tháp stupas và trụ đá tưởng niệm tại nơi này.

Nhưng vào thời ngài Huyền Trang đến chiêm bái năm 637 sau CN, nơi này đã trở thành tàn tích, thị xã, làng mạc hoang vắng, tiêu điều, chỉ còn rãi rác vài cư dân. Ngài cũng đã đến và chiêm bái cây Sala Long Thọ, nơi Đức Phật đã từ giã cõi trần (Bát-Niết-Bàn), thăm viếng ngôi Chùa có tượng Phật nằm và bên cạnh chùa có một tháp stupa cao 61m do vua Asoka dựng nên, trong tình trạng đổ nát, và một Trụ Đá ở trước Chùa.

Đi dần về hướng Bắc, sau khi qua sông Hirannavati là một bảo Tháp stupa được xây lên để đánh dấu nơi hỏa thiêu nhục thân Đức Phật.

Như vậy đó, Kushinagar đã tiếp tục trở thành một thánh địa ‘sống’ của Phật giáo thời bấy giờ, cho đến thế kỷ 12 sau CN, sau khi quân  Hồi giáo xâm lược và tàn phá Ấn Độ, Kushinagar lại rơi vào hoang vắng và cuối cùng là trở thành tàn tích và chìm vào lãng quên  hơn 600 năm.

Năm 1861-1862, Ngài Cunningham đã đến tham quan khu tàn tích đổ nát ở Kasia và nhận dạng được đây chính là di tích nơi Đại Bát-Niết-Bàn của Đức Phật. Đến năm 1876, trợ lý của ngài là Carlleyle đã tiến hành một cuộc khai quật khảo cổ, đã làm lộ ra toàn bộ Đền Chính và ngay trước nó là bức tượng Phật nằm nổi tiếng bị chôn lấp trong đống đổ nát của khu di tích. Nhiều cuộc khảo cổ khác được tiến hành cho đến năm 1912 cho thấy được nhiều công trình tưởng niệm ở Kushinagar đã tồn tại đến thế kỷ 12.

Vào thời cận hiện đại sau này, Phật tử đầu tiên đến cư ngụ tại Kushinagar là Đại Đức Mahavira, một người Ấn Độ nhưng được thọ giáo Tăng đoàn ở Tích Lan, vào năm 1890. Ngài chịu trách nhiệm khôi phục lại Kushinagar trở lại một Thánh địa đích thực là một nơi hành hương Phật giáo thiêng liêng như ngày xưa. Ngài Mahavira đã tu sửa đền chính  và cho xây một tu viện mới và một Giảng Pháp đường vào năm 1902-1903. Sau ngài là Đại Đức Chandramani đến từ huyện lỵ Akyab ở vùng Arakan, Miến Điện (Myanmar), người đã được thọ giáo vào Tăng đoàn ở Chittagong, vào năm 1903. Ngài đã nỗ lực hết mình để hoàn thành sứ mạng giống như người tiền nhiệm của mình trong việc lấy lại quyền quản lý và chăm nom Đền Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana Temple) hay còn có tên là Đền Niết-Bàn (Nirvana Temple); thành lập được nhiều cơ sở giáo dục cho cư dân địa phương và làm sống lại Lễ truyền thống Buddha Jayanti (tức là Lễ Phật Đản Vesak) , tổ chức lại ở Kushinagar lần đầu tiên vào năm 1924. Đại Đức Chandramani qua đời vào năm 1972 và người đệ tử của ngài là Đại Đức Gyaneshwar, một Tỳ kheo từ Miến Điện tiếp tục sự nghiệp cao cả chăm nom khu thánh tích.

▪ Ở Ấn Độ, Bangladesh và Nepal, Lễ Phật Đản (Vesak) còn được gọi là Visakah Puja (lễ hội Visakah), Buddha Purnima hay Buddha Jayanti; Thái Lan gọi là Visakha Bucha; Indonesia gọi là Waisak; Tây Tạng gọi là Saga Daw; Lào gọi là Vixakha Bouxa và Myanmar (Miến Điện) gọi là Ka-sone-la-pyae (nghĩa là Ngày rằm tháng Kasone, cũng là tháng thứ hai trong lịch Miến Điện).-ND.

4.4 Những Điểm Cần Thăm Viếng (2), (7), (35)

1) Đền Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana Temple)

Ngôi Đền hiện tại đáng được viếng thăm được xây bởi chính phủ Ấn Độ vào năm 1956 là một phần của chương trình Tưởng Niệm 2.500 Đại Bát-Niết-Bàn của Đức Phật hay 2.500 Phật Lịch (BE/ Buddhist Era. (Hình 27).

Ngôi Đền cũ, được phục chế lại bởi ngài Carlleyle (trợ lý của ngài Cunningham), thì quá nhỏ, không đủ chỗ chứa con số khách hành hương viếng thăm ngày một đông thêm.

Bên trong Đền, chúng ta có thể nhìn thấy tượng Phật nằm nghiêng về bên phải, đầu quay về hướng Bắc. Bức tượng dài 6.1m được đặt trên một chiếc giường bằng đá dài 7.3m. Trong tượng Phật nằm có ba bức tượng điêu khắc nhỏ, bức tượng đứng gần dưới chân Phật được tin là mô tả ngài Ananda đang khóc u sầu vì biết rằng Đức Thế Tôn sắp đi xa. Tượng ở chính giữa là ngài Subhadda, người đệ tử cuối cùng được Đức Phật giảng độ. Tượng một người tóc dài đứng gần mặt Phật được tin là một người đứng đầu bộ tộc Malla đang đứng lễ viếng Đức Phật.

Ở chính giữa là một bảng chữ khắc thuộc thế kỷ thứ 6 sau CN, ghi rõ bức tượng này là “một món quà của Tỳ kheo Haribala tặng cho Đại Tu Viện Mahavira” và  “tượng được tạo dáng bởi Dinma”. Bức tượng Phật nằm 1.500 tuổi được chế tác từ một tảng đá sa thạch màu đỏ được vận chuyển đến từ Mathura trong thời đại Gupta. Chính Ngài Carlleyle đã phát hiện vào năm 1876 trong tình trạng sứt gãy và đã được nối ráp lại một cách thành công cùng với những mãnh vỡ được tìm thấy rãi rác xung quanh. Bức tượng mang 32 dấu tướng tốt của một Vĩ Nhân (Mahapurisa: bậc Đại Trượng Phu) và có thể làm khởi sinh trong chúng ta những cảm giác khác nhau trong tâm, tùy thuộc vào vị trí đứng ngắm nhìn của chúng ta:

• Nếu đứng trước khuôn mặt, người xem có thể cảm nhận ngay nét mỉm cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt. (Hình 29).

• Nếu đứng gần giữa thân, người xem có thể cảm nhận được sự khổ trên khuôn mặt.

• Nếu đứng dưới phần chân, người xem có thể cảm nhận được sự trầm mặctĩnh lặng trên khuôn mặt.

2) Tháp Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana hay Nirvana Stupa)

Tháp Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana stupa) nằm bên cạnh Đền Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana Temple), cũng được khôi phục từ Tháp Chính được phát hiện ra trong quá trình khảo cổ của ngài Carlleyle vào năm 1876.(Hình 28). Khi khảo sát ở độ sâu 4.3m, lộ ra một bia bằng đồng và những cổ vật khác của niên đại Gupta. Chữ khắc trên bảng đồng đó là chữ Phạn nói rằng những cổ vật đã được đặt vào trong Tháp Niết-Bàn (Nirvana stupa) bởi Tỳ kheo Haribala. Ngài Huyền Trang, người đến đây chiêm bái vào năm 637 sau CN, ghi lại rằng Tháp Niết-Bàn là do Vua Asoka xây dựng nên. Ngài cũng chứng kiến được bên trước Tháp là một trụ đá có ghi lại sự Bát-Niết-Bàn của Như Lai, nhưng nó không ghi rõ ngày tháng. Tháp Niết-Bàn này được tin là lần đầu tiên được dựng lên bởi người Malla để thờ xá lợi Phật và sau đó được mở rộng (nhiều lần) bởi Vua Asoka và những người đời sau nữa trong thời đại Gupta.

Có vẻ như là Tháp Niết-Bàn (Nirvana stupa) đã được dựng lên đúng nơi Phật Bát-Niết-Bàn để thờ xá lợi Phật rất lâu trước khi bức tượng được đặt vào Bát-Niết-Bàn, mặc dù có một giả thuyết khác cho rằng vị trí đặt tượng Phật nằm trong Đền Đại Bát-Niết-Bàn mới là chỗ Đức Phật Niết-Bàn.

Tháp Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana stupa), cao 27m, đã được trùng tu lại năm 1927 bằng tiền cúng dường từ một thí chủ người Miến Điện tên là U Po Kyo.

3) Đền Thờ Matha Kuar – Nguồn Gốc & Ý Nghĩa

Trong lần xuất bản trước, tác giả đã trình bày nơi này là nơi nghỉ chân và Đức Phật đã yêu cầu ngài Ananda đi lấy nước ở một con suối gần đó. Điều này đã là một sự nhầm lẫn và xin được đính chính lại. (Sự kiện đó diễn ra ở Pava, xem Phần IV, 2, Pava). Theo Hòa thượng Pimbure Samitha Thero ở chùa Nhật Bản – Tích Lan (Japan-Sri Lanka Buddhist Temple) ở Kushinagar, Đức Phật đã mệt và dừng lại nghỉ chân lần thứ 25 ở Đền Matha Kuar ngay trước khi Người tiếp bước đến Rừng Sala Upavattana và nhập diệt Đại Bát-Niết-Bàn. Ngay tại nơi nghỉ chân được gọi là Matha Kuar này, Đức Phật vẫn tiếp tục thuyết Pháp cho những vị đệ tử và Phật đã nói rằng Phật cũng là một con người bình thường, cũng không tránh khỏi già, bệnh, chết, nhằm nâng cao lòng thúc giục tâm linh của các vị đệ tử, để họ mau tinh tiến tu tập. Nhưng Đức Phật cũng nói rằng Người đã chứng đạt được tri kiến và trí tuệ tối thượng vượt xa tất cả chúng sinh trên thế gian này.

Nơi này được gọi là Matha Kuar và một ngôi đền thờ đã được xây lên và có đặt một tượng Phật ngồi kiết già, trong tư thế địa xúc ấn (bhumiphassa mudra), được làm bằng đá xanh lấy từ vùng Gaya, cao khoảng 3.05 mét, khoảng hơn 1.000 năm tuổi. Ngôi tháp mái, trước đây được xây để che tượng Phật, nay đã là một phần của mái che hình vuông của một đền tháp như căn nhà vuông. Theo bia khắc ghi lại, đền tháp này được xây vào thế kỷ 10 vào thời của thủ lĩnh Kalachuri ở vùng này. Năm 1927 Đại Đức U Chandramani đã xây dựng lại ngôi tháp bằng tiền cúng dường của hai thí chủ từ Miến Điện, là U Po KyoU Po Hlaing. Nơi này cách 0.4 km về phía Tây Nam của Tháp Đại Bát-Niết-Bàn. (Hình 31).

Về ý nghĩa của cái tên ‘Matha Kuar’ (theo tiếng người Buchanan là Matakumar), ngài Sir Cunningham có lẽ đã đúng khi dịch ra tiếng Anh là ‘Dead Prince’, có nghĩa là ‘Hoàng tử mất’ khi nói về tên của bức tượng Phật. H.B.W. Garrick, trợ lý của ngài Sir Cunningham, cũng đã đến nơi này vào năm 1880-1881 đã ghi lại như sau: “Bức tượng này được đặt lại bởi chính quyền địa phương ở vị trí cách Đền Chính (tức Đền Đại Bát-Niết-Bàn) 400 yards. Và được người dân trong làng gọi là ‘Matha Kuar’. Bây giờ, có rất nhiều người thuộc những giáo phái Hindu đến đây cúng bái, họ mang cúng bơ sữa trâu lỏng và trầu mà họ bôi lên mặt tượng và rưới nước lên thân tượng. Thỉnh thoảng cũng có người cúng vòng hoa”. Lúc nhà khảo cổ Carlleyle khai quật được thì pho tượng đã bị gãy đôi, nhưng sau đó người ta cho ráp tượng lại và đem về thờ tại tháp Matha-Kuar do Phật tử thí chủ Miến Điện U Po KyoU Po Hlaing tài trợ xây vào năm 1927, như đã nói trên.

4) Tháp Hỏa Táng Stupa (Makutabandhana Cetiya)

Sau khi lễ lạy nhục thân Đức Phật 6 ngày, những người bộ tộc Malla đã khiêng xác đến Makuta-bandhana, nơi thường được dùng để tổ chức tôn vinh những vị thủ lĩnh và làm lễ hỏa tán. Lễ hỏa thiêu nhục thân Đức Phật được miêu tả trong phần VI của Kinh Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana Sutta), cũng mô tả việc phân chia Xá Lợi phật bởi Bà-la-môn Dona. Tháp Hỏa Thiêu stupa được dựng lên bởi người Malla sau khi hỏa táng xong nhục thân Đức Phật và được tu sửa lại vào thế kỷ thứ 3 trước CN bởi vua Asoka và thế kỷ thứ 5  bởi triều đại vua Kumaragupta. Khi ngài Sir Cunningham viếng thăm di tích này vào năm 1861-1862, đó chỉ là một khối (gò) đất vun cao. Tháp được chôn kín bên dưới gò đất cao sau này được lộ ra hình trụ với đường kính 34m, được đặt trên một bệ móng có đường kính 47m. Những cuộc khai quật đã phát hiện được rất nhiều con dấu (ấn) bằng đất sét có khắc những bài kinh kệ Phật giáo xác nhận rằng chỗ này chính là chỗ giàn hỏa thiêu. Nơi đây cách khoảng 1.6 km về phía Đông của Đền Thờ ‘Matha Kuwara’ nằm dọc theo đường đi. (Hình 30).

5) Tháp tưởng niệm Đại Đức Mahavira, người khai lập ở Kushinagar

Đại Đức Mahavira là người Hindu giáo đầu tiên trở thành một tu sĩ Phật giáo. Trước đó, ngài là một võ sĩ đô vật và trong chuyến đi đến Tích Lan, ngài đã được hấp dẫn bởi đạo Phật và gia nhập tăng đoàn trở thành Tỳ kheo vào năm 1890. Năm 1891, ngài quay trở lại Ấn Độ và ở lại Kushinagar, lúc đó hoang tàn sau những cuộc khai quật của năm 1876 bởi ông Carlleyle. Ngài đã tu sửa lại Tháp Đại Bát-Niết-Bàn, vốn đã bị bỏ hoang, trở thành một thánh địa hành hương Phật giáo, đã thu hút rất nhiều những nhà hành hương hồi đó, đặc biệt là những Phật tử Miến Điện. Cùng với tài trợ từ những Phật tử Miến Điện, ngài đã mua một khu đất ở gần Đền Đại Bát-Niết-Bàn để xây nhà khách cho những người hành hương vào năm 1902 và xây thêm một tu viện vào năm 1903. Đó là một tu viện vihara được xây đầu tiên trong thời cận hiện đại ở Ấn Độ. Ngài Mahavira viên tịch nhằm vào tháng ba năm 1919 và tro hài cốt của ngài được chôn trong một bảo Tháp nhỏ bằng gạch nằm bên góc khu đất phía sau Đền Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana Temple).

6) Đền Thờ Tưởng Niệm Sự Chuyển Hóa Qua Đạo Phật Của TS. Ambedkar & HT. Sayadaw U Chandramani

Sự kiện đáng nhớ nhất của Phật Giáo thế giới trong thời hiện đại là việc chuyển hóa 380.000 Dalits (những người bị cho là giai cấp hạ tiện trong xã hội Ấn Độ) qua đạo Phật dưới sự dẫn dắt, tổ chức của Tiến Sĩ TS. Babasaheb Ambedkar. Sự kiện lịch sử này diễn ra vào ngày 14 tháng 10, năm 1956 tại khu đất rộng 14 mẫu gọi là khu ‘Diksha Bhumi’ ở Nagpur, bang Maharashtra. (Xem thêm Phần I, 7.,8.,9.). Người được chọn là vị tăng hướng dẫn về Pháp (Dhamma Guru) và chứng minh lễ Quy Y vĩ đại này là HT. Sayadaw U Chandramani của Kushinagar. Sự kiện chuyển hóa Nagpur là một cuộc chuyển hóa lớn nhấthòa bình nhất trong lịch sử nhân loại bởi vì số đông người cùng tự nguyện chuyển đạo cùng một lúc, dưới sự dìu dắt của một người.

Để tưởng nhớ sự kiện lịch sử này, một ngôi Đền thờ đã được xây ngay tại Chùa Miến Điện Kushinagar (Kushinagar Burmese Temple) nơi HT. Sayadaw U Chandramani là trụ trì. Bên trong ngôi Đền, chúng ta có thể thấy một bức tượng TS. Ambedkar đặt ở trước tượng của HT. Sayadaw U Chandramani, để diễn tả sự tiên phong của người Phật tử cư sĩ này. Hai tháng sau lễ Quy Y vĩ đại đó, TS. Ambedkar qua đời ở New Delhi vào ngày 6 tháng 12, 1956 ở tuổi 65. HT. Sayadaw U Chandramani vẫn tiếp tục sự nghiệp khôi phục Phật Pháp (Buddha Sasana) ở Ấn Độ và Nepal. Hòa thượng cũng viên tịch tại Chùa Miến Điện Kushinagar vào ngày 8, tháng 5, 1972 ở tuổi 97, ngài đã sống 80 năm như một Tỳ kheo Miến Điện tại Ấn Độ.

7) Những Chùa & Tu Viện Phật Giáo ở Kushinagar

Về sau cuối này, có nhiều những công trình phát triển ở Kushinagar, một số tu  viện, chùa và những cơ sở tiện nghi để phục vụ khách hành hương. Trong khi thăm viếng Kushinagar, những người hành hương nên đến thăm các chùa, tu viện đó là: Chùa Trung Hoa, Chùa Phật Giáo Nhật Bản-Sri Lanka, Tu Viện Miến Điện, Tu Viện Tây Tạng để tỏ lòng thành kính đối với những Tăng, Ni cũng như nhờ những Tăng Ni giúp đỡ trong việc tìm hiểu thêm về những thánh tích ở khu thánh địa này.


Âm lịch

Ảnh đẹp