HƯỚNG DẪN HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT


Nguyên tác: Chan Khoon San Biên dịch: Lê Kim Kha Nhà xuất bản: Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh 2011
06/03/2012 20:16 (GMT+7)
Số lượt xem: 115169
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

HƯỚNG DẪN
HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT
(Ấn Bản Mới 2011)
Nguyên tác: Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản: Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh 2011

Phần I

Ý Nghĩa, Lịch Sử & Con Người

Nội Dung:
1. Những Khía Cạnh Tâm Linh Của Một Cuộc Hành Hương
2. Tám Thánh Địa Quan Trọng Của Cuộc Hành Hương
3. Những Cuộc Hành Hương Chiêm Bái Nổi Tiếng Ngày Xưa
4. Ký Sự Phật Quốc Của Ngài Pháp Hiển (Fa Hsien)
5. Ký Sự Tây Vực Của Ngài Huyền Trang (Hsüan Tsang)
6. Sự Tàn Phá & Suy Vong Của Phật Giáo ở Ấn Độ
7. Sự Khôi Phục Những Di Tích Phật Giáo ở Ấn Độ & Bình Minh Mới Của Phật Giáo Ấn Độ
8. Cuộc Phục Hưng Phật Giáo ở Ấn Độ & Những Nhà Tiên Phong Trong Cuộc Phục Hưng Phật Giáo ở Ấn Độ

 

1. Những Khía Cạnh Tâm Linh Của Cuộc Hành Hương(1)

1.1  Chuyến Đi Của Niềm Tin & Lòng Kính Đạo

Đối với đa số Phật tử, việc thực hiện một cuộc hành hương đến những nơi thiêng liêng như Đức Phật đã đề xướng, là một việc làm một-lần-trong-đời. Với rất nhiều thời gian, tiền bạc và nỗ lực bỏ ra, điều đó bắt buộc một người đang chuẩn bị hành hương phải hiểu rõ cuộc hành hương là vì mục đích gì, đặc biệt là về khía cạnh tâm linh, bởi vì về mặt vật chất và di chuyển thông thường đã có một công ty lữ hành chịu trách nhiệm lo chu toàn rồi. Một cuộc hành hương là một chuyến đi đến nơi thiêng liêng để thể hiện lòng thành tâm mộ đạo niềm tin. Trong kinh điển Phật giáo, chữ niềm tin (tín) hay saddha là sự xác tín hay vững tin dựa vào sự hiểu biết chắc chắn của một người đối với Phật, Pháp, Tăng. Nó không phải là một đức tin mù quáng dựa vào những quan điểm sai lệch. Bởi vì ngu si, vô minh là kẻ dẫn dắt mình đến những tâm niệm trái đạo lý, thì niềm tin “saddha là người dẫn dắt mình đến những tâm niệm hợp đạo lý, bởi vì niềm tin vững chắc sẽ có vai trò làm cho tâm thanh tịnh, như Đức Phật đã dạy.

Vì vậy, một người hành hương không phải giống như một du khách, đi tìm thú vui tham quan, ngắm cảnh và thưởng thức. Khác với những khoái cảm giác quan, cảnh quan của những nơi thánh địa không hề làm khởi sinh dục vọng, nhưng là điều kiện để tâm niệm lành mạnh khởi lên trong tâm người hành hương. Đức Phật đã khuyên chúng ta đi thăm viếng những nơi Người đã đản sinh, nơi Người đã Giác Ngộ, nơi Người khai giảng Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên và nơi Người đã ra đi, hay Đại Bát-Niết-bàn (Mahaparinibbana), và chiêm bái những thánh tích bằng những tình cảm tôn kính. Bằng cách thể hiện lòng thành và sự tôn kính ở những nơi thánh tích, mọi người có thể thanh lọc ba nghiệp “hành động, suy nghĩ và lời nói” (thân, ý, miệng). Bằng cách này, người hành hương được tăng trưởng đạo hạnh Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, ba nghiệp quan trọng và là hay ba chi trong Bát Chánh Đạo. Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng việc hành hương bằng những thái độ tinh thần đúng đắn có thể giúp chúng ta thực hành đúng những Lời Dạy của Đức Phật. Theo như luận sư lỗi lạc Buddhaghosa (ngài Phật Âm), cảm thọ tích cực có được khi viếng thăm những thánh tích là sự trỗi dậy và cảm giác thôi thúc về mặt tâm linh (hướng đạo) mà những nơi đó tạo ra. Một luận sư khác là ngài Dhammapala giải thích rằng cảm giác thôi thúc về tâm linh có nghĩa là tâm có một tuệ giác là mình phải từ bỏ những điều bất thiện, đó là tuệ giác chánh đạo.

1.2 Bốn Cơ Sở Thành Công (Hán Việt: Tứ Thần Túc)

Giống như hành động trí tuệ đáng khen ngợi (punna kiriya), tiềm năng hành động của mỗi con người phụ thuộc vào mức độ của bốn cơ sở thành công (iddhipada), bốn điều kiện cần có đó là: mong muốn thực hiện (chanda), tâm (citta), nỗ lực, cố gắng (viriya) và trí tuệ (vimansa). Tiềm năng hay kết quả (của một việc, một hành động) có tốt, trung bình hay yếu kém đều phụ thuộc vào bốn cơ sở tương ứng đó có đủ mạnh, trung bình hay yếu ớt, sơ sài. Một mong muốn, một ý chí mạnh mẽ thường xuất phát từ lòng thành của một người trong việc thực hiện một cuộc hành hương hướng theo lời khuyên của Phật. Khi tâm và ý nguyện đã mạnh mẽ, thì không có gì làm người đó xao lãng ý định và cũng không có trở ngại, gian khó nào của chuyến đi có thể làm nản lòng người hành hương được. Nỗ lực có nghĩa là nghị lực thực hiện chuyến đi, mà những ngày thật xa xưa kia nó có nghĩa là một chuyến đi dài và nghìn trùng xa qua bao nhiêu lục địa, biển lớn và băng qua những sa mạc mịt mùng.

Ngày nay, chúng ta có thể hành trình bằng máy bay và trên những xe buýt có gắn máy lạnh, nhanh hơn và dễ dàng hơn nhiều, tuy nhiên sự chuẩn bị là điều thật sự không thể thiếu được, đặc biệt là tìm hiểu rõ về ý nghĩa lịch sử và tâm linh của mỗi nơi thánh địa trong lịch trình hành hương. Với sự hiểu biết này, một người có thể chiêm nghiệm và liên tưởng một nơi thiêng liêng đang viếng thăm với những sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật lịch sử, điều đó giúp bạn hình dung ra được một bức tranh trong tâm, tạo điều kiện hay duyên làm khởi sinh những tâm niệm lành mạnh và thánh thiện khi chiêm bái thánh tích đó. Điều này chỉ đích thực có được về mặt trí tuệ và tâm linh bởi những người đã có chuẩn bị chu đáo cho cuộc hành hương. (Bởi vì có rất nhiều người chỉ tham gia cuộc hành hương vì sự tò mò, hay gần như là ‘mê tín’ chỉ vì nghe đến những nơi được cho là ‘linh thiêng’ thì đến thăm chỉ đơn thuần là cầu được phúc đức, cũng như những người đến viếng thăm các Chùa thường xuyên, vì một số lòng thành và sự cầu khẩn nào đó, mà chẳng hiểu biết nhiều về ý nghĩa của việc đến viếng Chùa theo đúng giáo pháp - ND).

Tất cả những yếu tố cơ sở thành công này đều đã được trang bị trong tim của những nhà hành hương Trung Hoa ngày trước như ngài Pháp Hiển (Fa Hsien), Huyền Trang (Hsüan Tsang), Nghĩa Tịnh (I-Ching) và nhiều người khác khi họ lên đường hành hương sang Ấn Độ cách đây mười mấy thế kỷ.

1.3 Tăng Trưởng 10 Điều Hoàn Thiện Hay Hạnh Ba-La-Mật (Paramis)

Khía cạnh thứ hai của một cuộc hành hương đó là hành động buông bỏ, nghĩa là người hành hương nên từ bỏ những nhu cầu hay tham dục xa xỉ, và nên hài lòng với những tiện nghi, xe cộ và thức ăn đơn giản, thanh tịnh. Tâm niệm không tham dục giúp cho người hành hương chịu đựng được những bất tiện và vất vả bằng lòng nhẫn nại và từ bi, mà không hề phàn nàn, than vãn.

Trong thời gian thăm viếng một thánh tích, người hành hương cảm thấy mình đang ở nơi có sự hiện diện của Đức Bổn Sư và chính niềm tin miên mật này sẽ mang lại lòng hoan hỉ và sự tuân giữ giới hạnh, vốn là nền tảng của công đức. Nhiều người còn thực hành bố thí (đàn-na), cúng dường cho những Tăng Ni để tỏ lòng kính trọng biết ơn đối với những thầy đã chăm sóc và giữ gìn những nơi thiêng liêng. Những thánh tích này cũng là những nơi mà những người hành hương quán chiếu về những công hạnh của Đức Phật và thực hành chánh niệm nhằm phát triển và trí tuệ. Có nhiều cách thực hành công hạnh khác nhau để một người thể hiện lòng thành kính ở những thánh tích hay bảo tháp (cetiyas) bên cạnh những nghi thức thông thường như dâng hoa, cúng đèn, thắp hương, và vái lạy trong nghi lễ cúng đường (puja). Trong quá trình hành hương, trong một người có thể khởi sinh nhiều thiện tâm, làm cho mình trở nên tốt đẹp và cao thượng hơn, vì vậy sẽ tạo ra nhiều thiện nghiệp tốt đẹp hơn (kusala kamma). Thật vậy, người hành hương có thể phát triển những Điều Hoàn Thiện hay Ba-la-mật (Paramis) và tích nhiều công đức trong chuyến hành hương bằng lòng thành.

Nhưng điều đó không nên được kết thúc sau khi kết thúc chuyến hành hương và trở về nhà, mà bạn phải luôn luôn cố gắng hồi tưởng hay chánh niệm lại trong trí nhớ những khoảnh khắc đầy hoan hỉ và khó diễn tả mình đã trải qua ở những nơi thiêng liêng của Phật, và giữ cho những kỉ niệm đó luôn luôn sống động trong ký ức của mỗi người. Sự hồi tưởng đó lại khởi sinh ra niệm hỉ lạc mới và là phương tiện thiện xảo để củng cố những thiện nghiệp mà mình đã tích cóp được trong chuyến hành hương. Vào những lúc bệnh tật, lo sợ hay buồn đau trong cuộc đời mình, bạn sẽ có thể dễ dàng xua tan đi những phiền não đó bằng cách tìm niềm vui thanh tịnh trong việc nhớ lại những hành vi tốt đẹp hay thiện nghiệp trong chuyến hành hương.

1.4 Hội Ái Hữu Phật Giáo hay Hội Đạo Hữu Đồng Hành

Hội ái hữu có nghĩa là nhóm người hay cộng đồng cùng mục đích thường xuyên họp mặt, chia sẻ những trách nhiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong mối quan hệ và tình cảm bạn hữu. Khía cạnh ý nghĩa của Hội Ái Hữu Phật giáo hay đạo hữu Phật giáo cũng rất quan trọng trong việc khuyến khích và giúp đỡ của những người khác thực hành những Lời Dạy của Đức Phật và củng cố niềm tin của chúng ta vào những lúc bắt đầu tu tập và những lần khổ sở trong cuộc đời. Một cuộc hành hương theo một nhóm hay một đoàn đến Tám Thánh Địa Quan Trọng là cách tốt nhất để gieo trồng mối quan hệ đạo hữu Phật giáo. Trải qua 2 tuần, hoặc hơn nữa, của một cuộc hành hương, những người trong nhóm hành hương đều có những cơ hội giao tiếp gần gũi với nhau và quen biết nhau trong những không khí của lòng từ bi, lòng hoan hỉ, hào hiệp lòng thành tín ngưỡng. Mối quan hệ gắn bó của tình đồng đạo được hình thành trong lúc cùng nhau thực hiện những đạo hạnh sẽ còn mãi sau chuyến hành hương và những người hành hương sẽ luôn nâng niu những kỷ niệm đáng quý đó mỗi khi hồi tưởng lại những khoảnh khắc mình trải qua ở những nơi chiêm bái. Một chuyến đi hành hương đến Tám Thánh Địa Quan Trọng cùng với những đạo hữu, đoàn kết bằng niềm tin và lòng mộ đạo thật sự là tình ái hữu Phật giáo và là cách tuyệt vời nhất để phát huy tình bạn hữu giữa mọi người.

1.5 Khởi Sinh Sự Thúc Giục Về Mặt Tâm Linh Trong Chuyến Hành Hương(2)

Theo những ghi chép của Kinh Điển, Bốn Thánh Địa Hành Hương (Tứ Động Tâm) được gọi là Samvejaniya-thana, có nghĩa là những nơi sẽ làm khởi sinh trong lòng ý thứcsự động tâm về bản chất Vô Thường của vạn vật. Vì vậy, những người hành hương khéo tâm sẽ tìm thấy cơ hội trong chuyến hành hương làm tăng thêm niềm Thúc Giục về mặt tâm linh (samvega)[1] bằng cách quán chiếu những lời dạy cuối cùng của Đức Phật trước khi người nhập diệt Bát-Niết-Bàn:

“Này các Tỳ kheo, bây giờ ta nói với các thầy: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy nỗ lực tinh tấn (tu hành) để đạt được mục tiêu (giải thoát) của mình”.

(Trích Kinh Đại Bát-Niết-Bàn- Mahaparinibbana).

Bốn thánh địa đã từng là những trung tâm gắn liền với cuộc đời của Đức Phật, Giáo Pháp (Dhamma) và những Tỳ kheo A-la-hán (Arahant) nổi tiếng của Tăng Đoàn (Sangha). Hẳn chúng ta đã từng ít nhiều đọc hay nghe về những sự kiện Đức Phật Đản Sinh ở Lumbini, Đức Phật Thành Đạo ở Buddhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Đức Phật khai giảng Bài Pháp Đầu Tiên ở Isipatana (Vườn Nai), và Đức Phật Bát-Niết-Bàn ở Kusinara.  Ngày nay, Phật và những vị A-la-hán đầu tiên không còn ở đó nữa, cũng vì một lẽ thật là ngay cả Đức Phật và những A-la-hán lỗi lạc đó cũng không vượt qua quy luật thế gian ‘sinh, lão, bệnh, tử’. Lẽ thật là thế giới của tất cả chúng sinh (satta-loka) không bao giờ thường hằng mà phụ thuộc vào sự biến đổi theo Quy Luật Vô Thường. Chỉ cần đến nhìn thánh địa và chiêm nghiệm lại điều này, chúng ta không khỏi có cảm giác ‘nôn  nao’, ‘thúc bách’ về tâm linh (samvega) trong lòng mình về việc nổ lực tu tập con đường Bát Chánh Đạo để mau dẫn đến Niết-Bàn Nibbana, chấm dứt mọi khổ đau của sinh tử.

Sau khi Bát-Niết-Bàn của Đức Phật, những người kính đạo khắp Ấn Độ đã xây nhiều bảo tháp stupas và tu  viện viharas để tưởng niệm những sự kiện quan trọng trong cuôc đời Đức Phật và Phật Pháp ở những nơi này. Như chúng ta đã đọc, lịch sử có đến 84.000 bảo tháp (stupas) được xây dựng bởi vua Asoka để tôn kính và tưởng niệm 84.000 lợi thuộc về (hay liên quan đến) Phật và những bậc A-la-hán. Những xá lợi này còn được gọi là những Pháp-uẩn (Dhamma-khandas), cùng với những công trình tưởng niệm khác được xây bởi những vị vua Phật tử thuộc những triều đại khác nhau sau này.

Hôm nay, những người hành hương phải đi qua những khoảng cách dài trên những con đường xấu, khó đi đến của những vùng xa xôi của miền Bắc Ấn Độ chỉ để chứng kiến những di tích đổ nát, điêu tàn của những đền tháp huy hoàng một thời hoàng kim xa xưa đã bị phá hủy, thậm chí đã bị tiêu hủy. Bất chấp ý đồ, ý nguyện hay tâm lý chung của người xưa là xây đền, tháp to lớn, kiên cố để tưởng niệm trường cửu, để ‘trừ hao’ thời gian và khả năng bị con người phá hoại (ví dụ rõ ràng nhất là những Trụ Đá Asoka uy nghi bằng đá cứng gần như khó bị hư hoại hay bị phá hoại), hầu hết tất cả những công trình tưởng niệm đó đều đã bị tan hoại và bị tàn phá theo thời gian.

Vì vậy, chúng ta ý thức được rằng thế giới hữu vi (sankhara-loka) và thế giới tự nhiên (okasa-loka) không bao giờ thường hằng mà biến đổi theo quy luật Vô Thường. Ý thức này có thể là một trong cảm xúc trong nghĩa động tâm, làm cho kẻ hành hương cảm giác nôn nao khó tả, như là một sự thúc giục tâm linh về một kiếp người ngắn ngủi, về sự cấp bách thực hành Chánh Đạo để mau có ngày giải thoát.

 

2. Tám Thánh Địa Quan Trọng Của Cuộc Hành Hương (3), (4)

Để đáp lại sự lo lắng của ngài Ananda rằng những Tỳ kheo sẽ không còn cơ hội để gặp và đảnh lễ Đức Phật sau Đại Bát-Niết-bàn của Người, Phật đã đề cập đến bốn thánh địa mà những Phật tử mộ đạo nên viếng thăm và tỏ lòng tôn kính. (Giới Phật tử Trung Hoa và Việt Nam thường hay gọi bốn nơi đó là Tứ Động Tâm). Bốn nơi đó là:

1) Lumbini: “Đây là nơi Như Lai đã đản sinh. Nơi này, này Ananda, là nơi một người kính đạo nên viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.

2) Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng): “Nơi đây Như Lai đã giác ngộ viên mãn, Vô Thượng Chánh Đẳng Giác!. Nơi này, này Ananda, là nơi một người kính đạo nên viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.

3) Sarnath (Vườn Lộc Uyển): “Nơi đây Như Lai đã dịch chuyển Bánh Xe Giáo Pháp! Nơi này, này Ananda, là nơi một người kính đạo nên viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.

4) Kusinara (Câu Thi Na): “Nơi đây, Như Lai đã nhập diệt Niết-bàn, nơi mà những uẩn dính chấp không còn khởi sinh ! Nơi này, này Ananda, là nơi một người kính đạo nên viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.

Và bất kỳ ai, này Ananda, nếu bị thiệt mạng trong chuyến hành hương như vậy, với niềm tin sâu sắc trong lòng, khi thân xác phân hoại, sau khi chết, sẽ được tái sinh vào một cảnh trời hạnh phúc”.

“Trích Kinh “Đại Bát-Niết-bàn”

Còn Bốn thánh địa khác cũng là những nơi được thánh hóa bởi Đức Phật và những cảnh tượng kỳ diệu đã xảy ra, đó là:

5) Savatthi (Xá-Vệ), nơi Đức Phật dùng hai phép Thần Thông để hàng phục lục sư ngoại đạo. Sau đó, Phật xuất hành lên cõi trời Đao-Lợi (Tavatimsa) để thuyết giảng (Vi Diệu Pháp Abhidhamma) cho mẹ của Người.

6) Sankasia, nơi Đức Phật hạ thế xuống lại trần gian từ cõi trời Đao-Lợi (Tavatimsa), tháp tùng bởi Phạm Thiên (Brahma) và vua trời Đế-thích (Sakka), (sau khi Người đã thuyết giảng Vi Diệu Pháp Abhidhamma cho mẹ của Người và những vị Trời, Thần trong 3 tháng).

7) Rajagaha, nơi Đức Phật thuần phục con Voi Say.

8) Vesali (Tỳ-xá-ly), nơi đàn khỉ đào một ao nước cho Đức Phật dùng và cúng dường lên Đức Phật một bát mật ong.

● Tổng cộng tất cả, chúng ta có 8 địa danh quan trọng phải thăm viếng trong cuộc hành hương. Trong 8 địa danh đó, 7 địa danh là thuộc Ấn Độ ngày nay và 1 nơi là Lumbini, nơi Đức Phật đản sinh, là thuộc nước Nepal, gần biên giới Ấn Độ.

Theo ghi chép trong quyển “Luận Giảng Bộ Phật Sử (Buddhavamsa Commentary, trang 188, 428), đối với tất cả chư Phật, có 4 nơi thánh tích là không hề thay đổi và không thể làm thay đổi được, đó là:

(a) Nơi Đức Phật ngồi thiền để đạt Giác Ngộ (Bodhi pallanka: chiếc Trường Kỷ Bồ-Đề) ở Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng),

(b) Nơi Đức Phật chuyển bánh xe Pháp tại Vườn Nai (Lộc Uyển), Isipatana, Sarnath,

(c) Nơi Phật đặt bước chân đầu tiên ở cổng thành Sankasia sau khi trở về trái đất từ cõi trời Đao-Lợi,

(d) Nơi đặt bốn chân giường trong đền Gandhatuki (Hương Thất) ở tu viện Kỳ Viên Jetavana, Savatthi (Xá-vệ).

Vậy, Bốn nơi không để đổi dời của chư Phật cũng nằm trong Tám Thánh Địa Quan Trọng của cuộc hành hương.

Chú thích:

Tên của một số nơi được ghi chép trong kinh điển Pali hiện nay đã bị thay đổi ở Ấn Độ. Tên hiện nay của những nơi đó được ghi trong dấu ngoặc là:

Buddhagaya (Bodhgaya),

Kusinara (Kushinagar),

Rajagaha (Rajgir),

Savatthi (Sravasti), và

Vesali (Vaishali).

2.1 Thái Độ Tinh Thần Khi Bước Vào Những Thánh Tích

Một điều quan trọng cần nhắc nhở chúng ta, những người hành hương đến đây là để tưởng niệm và tôn kính Đức Phật. Vì vậy, khi chúng ta đến những di tích thiêng liêng, chúng ta cần giữ thái độ kính trọng một cách đúng mực, phù hợp. Đức Phật được gọi là ‘vua của giáo pháp’ hay một Pháp Vương (Dhamma-raja) và khi chúng ta bước vào những nơi tưởng niệm người , chúng ta đang đảnh lễ trước sự có mặt của một vị ‘Vua’ mà chúng ta tôn kính. Người hành hương đến thánh tích không nên chụp hình lia lịa, đi lại lăng xăng, giải thích nhau hay nói nhau ríu rít và cũng không nên có thái độ như là khách du lịch tham quan, tìm hiểu bằng sự tò mò hay tìm hiểu quang cảnh. Thay vì vậy, người hành hương nên giữ cho các giác quan hay các căn bình lặng và trầm tĩnh. Người hành hương chiêm bái nên đi một cách chánh niệm, đầu hơi nghiêng xuống và hai tay chấp hình búp sen để tạo sự trang trọng và tập trung niệm về những đức hạnh của Phật (niệm Phật). Khi bước vào nơi thờ cúng, chánh điện, bảo tháp…, người chiêm bái nên giữ thái độ như đang bước vào đảnh lễ trước mặt Đức Phật, sau đó thực hiện những nghi thức cúng đường (puja), lễ lạy, nương tựa vào Tam Bảo bằng cách đọc hay tâm nguyện giữ Ngũ Giới hay Bát Giới và tụng niệm Phật, Pháp, Tăng.

Bằng cách thể hiện đúng đắn và phù hợp như thế, một Phật tử kính đạo đã thăm đến viếng và chiêm bái những nơi thiêng liêng với lòng thành kính, như Phật đã dạy.

 

3. Những Nhà Hành Hương Lỗi Lạc Trong Quá Khứ (5),(6),(7)

Bốn nơi thánh tích thiêng liêng do Phật chỉ ra (Tứ Động Tâm) cùng với Bốn thánh tích nơi những cảnh tượng kỳ diệu được gọi là Tám Thánh Địa Quan Trọng (Atthamahathanani). Hoàng Đế A-dục (Asoka) gọi một cuộc thăm viếng đến tám nơi này là ‘cuộc hành trình Pháp’ (dhammayatra) hay là ‘cuộc hành hương của lòng mộ đạo”. Vào năm trị vì thứ 20 của ngài, năm 249 trước CN, ngài đã chú tâm đến những lời đề xướng, động viên của Đức Phật và ngài đã lên đường thực hiện một cuộc hành hương đến chiêm bái những nơi thánh địa này. Chuyến đi của ngài được gọi là một chuyến đi ‘đánh dấu mở đường’ bởi vì bất cứ nơi nào ngài thăm viếng qua, ngài đều cho xây những bảo tháp (Phù-đồ, Stupas) và dùng những cột đá với những chữ khắc để tưởng nhớ đến chuyến thăm của ngài đến những thánh địa Phật giáo. Những cột đá như tháp được làm những những khối đá sa thạch nguyên khối và trên đỉnh cột có khắc hình những linh vật (như sư tử, voi…), nhằm mục đích đánh dấu vị trí địa lý của những thánh địa Phật giáo thiêng liêng nhất. Ngay cả sau khi chúng bị tàn phá, sụp đổ vào thời suy sụp của nền Phật giáo ở Ấn Độ, chúng ta vẫn còn tìm thấy được chúng để nhận ra được vị trí của những thánh địa. Ngày nay, sau 2.250 năm, nhiều trụ đá thời Asoka vẫn còn đứng vững, minh chứng cho lòng tin mộ đạo sự cống hiến của ngài. Những người hành hương trong thời hiện đại này vẫn còn nhìn thấy được những Trụ Đá Asoka ở Lumbini, Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) và Vesali (Tỳ-xá-ly), Đầu Sư Tử nổi tiếng ở Viện Bảo Tàng Sarnath và Đầu Voi ở Sankasia. Cuộc hành hương làm gương của nhà vua Asoka đã được các nhà vua ‘Phật tử’ sau này, những hoàng hậu, những thánh nhân và những người giàu có có phương tiện tài lực thời bấy giờ, noi gương làm theo.

Cuối cùng thì Ấn Độ đã trở thành nước đầu tiên mọc lên những công trình tưởng niệm và những đền tháp Phật giáo.

Đến từ Trung Hoa là những nhà sư mộ đạo và vô cùng nhiệt huyết, như ngài Pháp Hiển, Huyền Trang và nhiều người khác nữa, họ đã hành trình vạn dặm và đã kiên trung vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm và thậm chí là cái chết để hoàn thành ước nguyện đi chiêm bái những thánh địa Phật giáo. Trong quyển “Những Nhà Sư Trung Hoa ở Ấn Độ” của ngài Nghĩa Tịnh (I-Ching), một nhà hành hương nổi tiếng khác, ngài đã mô tả lại cảnh ngài phải chịu đói suốt nhiều ngày không có miếng ăn, thậm chí không một giọt nước và đã tự hỏi làm sao những nhà hành hương có thể chịu đựng để giữ vững tinh thần và đạo hạnh.

Trên những chặng đường bộ hành thật dài, nhiều người đã bỏ mạng vì kiệt sức và bệnh tật và nhiều người đã phải để lại hài cốt của mình trên những sa mạc mênh mông hoặc ở đâu đó trên đường đi ở Ấn Độ. Nhưng mặc dù bao nhiêu chông gai, gian khổ, họ vẫn không nản chí và đầu hàng, đó là tinh thần bất khuất và tâm nguyện kiên trung để được ngắm nhìn và chiêm bái những di tích thiêng liêng của tôn giáo mình. Chắc trước đó chưa từng có ai có thể chịu đựng được những thử thách của sa mạc, núi rừng hiểm trở và đại dương và thể hiện được lòng dũng cảm, lòng mộ đạo sâu sắc, và khả năng chịu đựng phi thường.

Người tiên phong hành hương là ngài Pháp Hiển (Fa Hsien). Ngài đã mất 5 năm để bộ hành từ biên cương phía Tây của Trung Hoa, băng qua sa mạc Takla Makan, sa mạc tử thần, là khu vực có môi trường khắc nghiệt nhất hành tinh trái đất, và những ngọn đèo bão cuốn ở Pamir và những dãy núi cao ngất, hiểm trở ở xứ sở của dãy Hindu Kush chỉ để thực hiện việc đi mà chưa đến được mục tiêu của chuyến đi là Ấn Độ. Sau đó, ngài hành hương ở Ấn Độ 6 năm và qua Sri Lanka và ở lại đó thêm 2 năm nữa. Sau đó, ngài lên đường trở về quê hương bằng đường biển mất một năm hành trình và ngài đã ghé lại đảo Java 5 tháng. Pháp Hiển đã ghi lại toàn bộ cuộc hành hương kéo dài từ năm 399-414 sau CN trong quyển Ký Sự Phật Quốc hay Phật Quốc Ký.

Gần 100 năm sau chuyến đi của ngài Pháp Hiển, 2 nhà sư khác, có tên trong tiếng Trung Hoa là Sung YunHui Sheng, thuộc Lộ Giang, phủ Hồ Nam đã được Hoàng Hậu đương triều Bắc Ngụy phái đi sang Ấn Độ để thỉnh kinh Phật. Họ bắt đầu hành trình vào năm 518 sau CN và sau khi đến được Ấn Độ, tận vùng Peshawar và Nagarahara (Jalalabad), sau đó quay trở về Ấn Độ vào năm 521 sau CN. Sung Yun có tường thuật lại trong một ký sự ngắn về chuyến đi của mình, nhưng Hui Sheng thì không ghi lại bất kỳ chi tiết nào về chuyến hành hương của mình.

(Đối với những nhà nghiên cứu sau này, Hui Sheng quả thật là một nhà hành hương bí ẩn. Một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa và theo nghiên cứu hiện đại được công bố mới đây của hai học giả Mỹ và Canada, một phái đoàn Phật giáo đến Trung Mỹ và Mexico khoảng thế kỷ thứ 5 sau CN. Theo giáo sư John Fryer thuộc Đại Học California, một nhà sư Phật Giáo tên là Hui Sheng trong tiếng Trung Hoa và bốn vị khác người gốc Kabul ở Afganistan đã viếng thăm Trung Mỹ và Mexico vào năm 458 sau CN với mục đích truyền dạy giáo lý của Đức Phật. Sau khoảng thời gian 40 năm, Pháp sư Hui Sheng, vị trưởng đoàn, đã đơn độc trở về Trung Quốc năm 499 sau CN. Đây quả thật là một cuộc hành hương vĩ đại, từ Trung Hoa qua Ấn Độ rồi về lại Trung Hoa hoặc ra một hải cảng Ấn Độ để vượt đại dương sang Bắc Mỹ và hành trình nhiều ngàn dặm để xuống Trung Mỹ! - ND).

Nhà hành hương Trung Hoa nổi tiếng nhất là pháp sư Tam Tạng Kinh ngài Huyền Trang (Hsüan Tsang), người đã bí mật thực hiện cuộc hành hương bằng một chuyến đi dài về phía Tây vào năm 629 sau CN vào năm 27 tuổi. Chuyến hành hương của ngài là chuyến đi dài nhất, mất hết 17 năm (629-645 sau CN) và khi trở về lại đất nước, ông được nghênh đón bởi vua nhà Đường, Đường Thái Tông. Huyền Trang đã ghi lại những chuyến đi của mình trong quyển sách hay được gọi là Tây Du Ký (Đại Đường Tây Vực Ký), với những trang viết đầy chi tiết và lãng mạn về những thánh địa, đền chùa Phật Giáo ở Ấn Độ và những nước ngài đã đi qua. Sự đóng góp, lòng mộ đạo và lòng ham mê học hỏi của ngài đã trở thành một nguồn cảm hứng to lớn cho những người đương thời và những thế hệ sau đó trong việc thực hiện tâm nguyện hành hương về đất Phật.

Trong đó có Nghĩa Tịnh, người đã hành hương đi từ Trung Hoa qua Ấn Độ và trở về đều bằng đường biển. Chuyến đi của ngài kéo dài từ năm 671-695 sau CN, trong đó ngài ở lưu lại 10 năm ở Học Viện Nalanda và thêm 10 năm nữa ở Sri-Vijaya, Sumatra để dịch kinh sách. Ngài đã ghi lại cuộc hành hương của mình trong cuốn tác phẩm “Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện”.

Những ký sự của những nhà hành hương Trung Hoa lại chính là những văn bản duy nhất mô tả lại hoàn cảnh của Phật Giáo và những di tích Phật giáo theo như hiện trạng vào thời bấy giờ, cho nên chúng trở thành những chứng cứ vô giá trong việc xác định vị trí địa lý của những tàn tích, di tích trong quá trình khai quật vào thế kỷ 19 bởi Ngài Alexander Cunningham và những nhà khám phá khác.

 

4. Ký Sự Phật Quốc của ngài Pháp Hiển(8)

Ngài Pháp Hiển (Fa Hsien) đã hành hương đến Ấn Độ cùng với những nhà sư là: Hui-king, Tao-ching, Hui-ying, Hui-yu và một số người khác. Mục đích của chuyến đi là sưu tầm Luật Tạng (Vinaya) hay Giới Luật Tăng Đoàn.

Ngài khởi hành từ Trường An (Xian) vào năm 339 sau CN, lúc ngài đã 65 tuổi, thật kiên cường. Cả đoàn hành hương phải đi bộ hành qua nhiều chặng đường cho đến khi họ đến được Chang-yeh, đồn trú quân lính cuối cùng ở đầu cực Tây Bắc của Vạn Lý Trường Thành, ở đó họ đã gặp đoàn nhà sư Trung Hoa khác do nhà sư Pao-yun và Sung-king dẫn đầu, cũng lên đường đi Ấn Độ. Sau khi trú chân một tháng mùa mưa ở Chang-yeh, họ lập tức lên đường đến Dunhuang (Đôn Hoàng), nơi bắt đầu vành đai sa mạc Takla Makan tử thần, và họ nghỉ lại Đôn Hoàng hơn một tháng nữa. Quan trấn thủ đã cung cấp cho họ những nhu yếu phẩm cần thiết để họ có thể vượt qua sa mạc và họ xuất phát vượt qua sa mạc Takla Makan. Sau khi đi bộ được 17 ngày được 1,500 lý, (1 lý=1/3 dặm), về hướng Tây Nam, dọc theo vành đai của sa mạc, họ đã đến một xứ sở lởm chởm, khô cằn là Shen-shen (Thiện Thiện), thuộc Loulan (Lâu Lan), phía nam của Lop Nor. Nhà vua của đất nước này cũng sùng kính đạo Phật và ở đó có khoảng 4.000 tu sĩ Phật giáo ‘Tiểu Thừa’ (Hinayana)[2].

Sau khi nghỉ ngơi ở xứ này khoảng một tháng, họ lên đường tiếp tục cuộc hành trình đi về hướng Tây Bắc trong vòng 15 ngày, có thể là đi dọc theo sông Tarim và đến nước Kara-shahr (Korla), gần Hồ Bagarach. Ở đây họ gặp lại đoàn hành hương của nhà sư Pao-yun¸ đi theo hướng Bắc đến Hami Turfan. Trong lúc này nhóm hành hương của ngài Pháp Hiển được lưu lại ở Kara-shahr được sự bảo trợ và cung cấp nhu yếu phẩm bởi một quan chức quan trọng,  nhóm của ngài Pao-yun thì không được may mắn, họ phải quay trở lại Turfan để chuẩn bị những nhu yếu phẩm cho chuyến đi tiếp. Sau khi ở lại Kara-shar 2 tháng, Pháp Hiển cùng với nhóm hành hương tiếp tục lên đường đi về hướng Tây Nam, băng qua sa mạc. Dọc đường hoàn toàn hiu quạnh, không nhà cửa và không một bóng người. Sự chịu đựng để vượt qua gian khổ của họ là ngoài sức tưởng tượng của con người. Họ la lếch tiếp tục bộ hành suốt một tháng và 5 ngày ròng rã, cuối cùng họ đến được một thị trấn ốc đảo xanh tốt là Khotan (Vu Điền). Người đứng đầu xứ sở này đã tiếp đãi nồng hậu và chu cấp những tiện nghi, chỗ ở cho các ngài trong một tu viện. Họ lưu lại đây 3 tháng.

Từ Khotan, đoàn hành hương tiếp tục đi bộ 25 ngày để đến Yarkand, và dừng chân nghỉ lại ở đây 15 ngày trước khi tiếp tục. Họ lại tiếp tục bộ hành 25 ngày để đến Kasghar (Tân Cương), nằm giữa dãy núi Thông Lĩnh (Pamirs), vào lúc chứng kiến được Lễ Pancavassika Parisa (Hội Đồng Phật Giáo họp mặt 5 năm hay 5 Hạ 1 lần) do Hoàng Đế A-dục (Asoka) đặt ra), trong buổi Lễ đó, Vua nước này đã thực hiện lễ cúng dường trang trọng cho Tăng Đoàn. Rời khỏi Kashgar, họ tiến vào đất nước Tajikistan qua dãy núi Sarykol, mất nguyên một tháng trời để vượt qua hết vùng núi non hiểm trở Pamirs, sau đó họ tiếp tục cuộc hành trình về hướng Tây Nam trong 15 ngày, vượt qua những chặng đường hiểm trở nhất, toàn là vách đá dựng đứng, gần như không thể nào vượt qua được. Ngài Pháp Hiển đã mô tả lại như sau:

“…mười lăm ngày trên một con đường gay go dốc đứng và hiểm nghèo, vì sườn núi giống như một bức tường đá với chiều cao hơn 10.000 bộ (gần bằng 3.000m). Nhìn xuống duới, cảnh vật đã mờ đi và khi muốn bước tới thì cũng không có chỗ để đặt bàn chân nữa. Bên dưới là sông Sint’u-ho (Indus). Những người đã đến đây những lần trước đã đục đá để làm đường đi và phải đặt thang vào sườn đá. Tất cả có đến 700 bậc thang, khi đã vượt qua hết những bậc thang này thì chúng tôi phải đi qua con sông bằng cầu treo dây quăng. Hai bên bờ sông cách xa nhau gần tám mươi bước…, ( tức gần 80-100m)”.

Sau khi vượt sông, họ tiếp tục đến nước Udyana, trải dài từ xứ Chitral đến xứ Swat ngày nay ở miền Bắc Pakistan. Ngày đó, Udyana là một trung tâm phát triển Phật giáo, với khoảng hơn 500 tu viện của những tu sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy. Ba người trong đoàn là Hui-king, Tao-ching và Hui-yu tách ra để đi đến Nagarahara (Jalalabad) chiêm bái di tích ‘Bóng Phật’ in trên vách hang động của Rồng Gopala Naga2 và chiêm bái cả xá-lợi răng và xương sọ của Đức Phật tại Hadda, trong khi đó ngài Pháp Hiển và Hui ying vẫn còn ở lại Udyana để trải qua mùa Mưa Kiết Hạ. Sau khi kết thúc ở đây, tất cả đều lên đường đi Swat và tiếp tục hành trình 5 ngày xuống phía Đông để đến Gandhara (vùng đất nằm giữa Takkasila và Charsadda ngày nay). Từ đây, họ tiếp tục hành hương về Peshawar để chiêm bái bảo Tháp Kaniska stupa nổi tiếng và di vật bình bát của Phật. (Chú giải 4). Tại đây, họ gặp lại đoàn hành hương của nhà sư Pao-yun và Sung-king cũng đến chiêm bái bình bát của Phật.

Một trong những người bạn đồng hành của ngài Pháp Hiển là Hui-yu, người lần trước tách ra đi chiêm bái Bóng Phật[3] ở Nagarahara, cũng vừa đến Peshawar, và đến lúc này, ông ta quyết định quay về Trung Hoa cùng với đoàn của Pao-yun và Sung-king. Trong khi đó, một người đồng hành khác của ngài Pháp Hiển là Hui-ying, trong khi ngụ lại trong ngôi Chùa có bình bát của Phật, đã từ trần tại đó.

Bây giờ, Pháp Hiển và 2 người đồng hành cùng tiến về phía Tây đến Nagarahara. Ngài đã đến thành phố Hadda, và viếng thăm ngôi chùa có giữ Xá Lợi Xương Sọ của Phật. Tại thủ đô Nagarahara, ngài cũng đã viếng thăm những ngôi chùa có những tu sĩ mang y kép (Sanghati, Tăng-già-lê); và thăm động ‘hang rồng’ Gopala Naga để chiêm bái Bóng Phật. Ông cùng hai người đồng hành là Tao-ching và Hui-king nghỉ chân và ở lại 2 tháng mùa Đông tại thành phố này. Khi mùa Đông kết thúc, họ tiếp tục hành trình xuống phía Nam và gặp phải sự khắc nghiệt của một mùa Đông buốt giá, thời tiết lạnh như băng khi họ cố gắng vượt qua dãy núi Safed Koh. Nhà sư Hui-king, gần như không thể phục hồi từ những căn bệnh trước đây trong cuộc hành trình dài vạn dặm, và không thể nào tiếp tục cất bước nữa. Ngài kiệt sức và chết trên tay của Pháp Hiển. Điều này càng thúc giục những người còn lại phải cố gắng hết sức lực cuối cùng và vượt qua rặng núi càng nhanh càng tốt để hướng về Afghanistan. Cuối cùng, họ cũng đến được Afghanistan. Họ đã xin nghỉ lại qua mùa Mưa trong một tu viện cùng với 3.000 tăng sĩ sống ở xung quanh vùng lân cận.

Sau an cư mùa Mưa, họ lên đường băng qua vùng Punjab, đây là vùng Phật giáo đang nở hoa và họ đã ghé qua rất nhiều tu viện với vô số Tỳ kheo, và sau đó đến được nước Mathura. Pháp Hiển đã viếng thăm lần lượt những nơi Sankasia, Kanauj, Saketa, Ayodha Savatthi (Xá-vệ), ở đó những Tỳ kheo trong tu viện Kỳ Viên Jetavana đã vô cùng ngạc nhiên khi gặp họ, bởi vì những người Ấn Độ ở đây chưa bao giờ thấy người Hán (Trung Hoa) đến tận nơi cách xa này để thỉnh giáo pháp của Phật. Xuôi về hướng Đông, đoàn hành hương đã đến thăm vương quốc dòng họ Thích Ca (Sakyan) cổ xưa, và ở đó, họ đã đi thăm nơi sinh của các vị Phật Kakusandha (âm Hán Việt: Phật Câu-lưu-tôn) và Phật Konagamana hay còn gọi là Phật Kanakamuni (âm Hán Việt: Phật Câu-Na-Hàm), và cũng đã chứng kiến những Trụ Đá Asoka được dựng lên ở đó. Lúc này, kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) giống như một sa mạc, không một bóng người ở. Chỉ có một nhóm Tỳ kheo và khoảng 10 gia đình cư sĩ. Đường xá vắng tênh, không người qua lại, vì nỗi sợ voi dữ và sư tử.

Từ Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), những người hành hương đi Kusinara (Câu-tin-na), là thánh địa, nơi Đại Bát-Niết bàn của Đức Phật. Ở nơi này cũng vậy, cũng chỉ có một số ít của dân và những gia đình bên cạnh một vài nhóm Tỳ kheo. Sau đó họ rời đi Vesali (Tỳ-xá-ly) và Pataliputta (Hoa Thị Thành), thủ đô của nước Magadha (Ma-kiệt-đà) cổ xưa. Sau đó họ lại hành hương qua tu viện Nalanda và thành Rajagaha (Vương-xá), tại đây, Pháp Hiển đã leo lên ngọn núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu) để dâng hoa, hương đèn và ngồi lại suốt đêm để thiền định và đọc kinh. Tiếp tục cuộc hành hương, họ lại đến Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng), thánh địa nơi Đức Phật thành Đạo; và họ đến Vườn Nai (Lộc Uyển) ở Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng Giáo Pháp bằng Bài Thuyết Giảng Đầu Tiên (kinh Chuyển Pháp Luân); rồi họ cũng viếng thăm Varanasi và cuối cùng Kosambi ở quận lỵ Allahabad, tại nơi này, họ cũng đến thăm nơi tàn tích của tu viện Ghositarama. Quay trở lại Pataliputta (Hoa Thị Thành), sư Tao-ching đã quyết định xin nhập tịch làm cư dân Ấn Độ, sau khi thấy những khuôn phép giới luật nghiêm trang được tuân chỉ bởi những tu sĩ Ấn Độ theo đúng như Luật Tạng, so với những nét sơ sài của những giới luật ở Trung Hoa vào thời bấy giờ.

Còn đối với nhà sư Pháp Hiển, mục đích của ngài là lưu trú tạm thời cho đến khi nào tìm được một bản sao của Luật Tạng (nhắm đến ‘Giới Luật Tăng Đoàn’) để mang về quê hương, nhưng sau bao nhiều năm hành hương, đến bây giờ vẫn chưa tìm được một văn bản viết tay nào. Tất cả những giới luật mà ngài học được trên suốt đường đi đều do truyền miệng. Ngài đã thỉnh được từ Tu Viện Kỳ Viên một văn bản về giới luật được sử dụng bởi trường phái Phật giáo Mahasanghikas (Đại Chúng Bộ). Pháp hiển phải bỏ ra 3 năm để học tiếng Phạn để sao dịch những Giới Luật đó. Lại tiếp tục hành trình, ngài đi dọc theo sông Hằng theo hướng Đông, đến thành phố hải cảng Tamralipti ở cửa sông Hằng (tức là Cảng Tamluk ngày nay ở West Bengal), nơi đây, ngài ở lại thêm 2 năm nữa để tiếp tục sao chép những kinh điển và vẽ lại những tranh ảnh tư liệu. Từ giã Ấn Độ, Pháp Hiển lên thuyền từ cảng Tamralipti đi Sri Lanka (Tích Lan) Ngài ở lại Sri Lanka thêm 2 năm nữa để thu nhập và sao chép kinh điển, bao gồm cả những giới luật tăng đoàn được ghi chép và áp dụng bởi trường phái Phật giáo Mahissaka (Hóa Địa bộ), vốn chưa từng được biết đến ở Trung Hoa.

Sư Pháp Hiển đã rời xa quê nhà đã nhiều năm trời. Trong bốn nhà sư cùng đi chung với ngài, 1 người đã quay trở lại Trung Hoa  ngay sau khi chỉ đến được Peshawar (là Hui-yu), 2 người qua đời một cách đáng ghi nhớ ở Ấn Độ (là Hui-ying và Hui-king) và một người ở lại Ấn Độ (là Tao-ching). Trong tu viện Abhayagiri Anuradhapura, Tích Lan, nhìn thấy cảnh một thương nhân dâng tặng một cây quạt bằng lụa trắng từ Trung Hoa đã làm cho ngài chợt u buồn và cảm thấy nhớ quê hương thăm thẳm trong lòng.

Sau khi đã hoàn thành việc sao chép Giới Luật để về truyền bá ở Trung Hoa, như mục đích ban đầu trước khi hành hương, Pháp Hiển lên đường về lại cố quốc. Lần trở về này ngài đi bằng đường biển. Trong chuyến đi này, theo ghi chép, ngài cũng đã nhiều lần thoát chết trong gang tấc một cách kỳ diệu. Thuyền của ngài bị bão táp, sóng lớn đánh bị lủng và bị dạt vào đảo Yepoti, Java (tức Indonesia ngày nay) và ngài đã ở lại 5 tháng ở nơi này.

Sau đó, ngài lên thuyền khác đi về hướng Quảng Đông, nhưng sau hơn một tháng, ngài lại gặp bão, thuyền bị dạt ra xa khỏi lộ trình và cuối cùng tấp vào bờ của bán đảo Shantung (Theo tìm tòi trong nhiều tư liệu, nếu địa danh Shantung là cách phát âm của tiếng Quảng Đông về bán đảo Sơn Đông (thường viết là Shandong theo tiếng Phổ Thông, thì thuyền của ngài Pháp Hiển đã bị bão đánh dạt quá xa, cách hàng ngàn dặm về hướng đông bắc, lên tận vùng Sơn Đông ở phía Bắc Trung Quốc - ND). Tuy nhiên, sau bao nhiêu hiểm nguy, gian khổ, Pháp Hiển vẫn tìm được đường về lại quê nhà với một hành lý vô cùng quý giá, đó là những ghi chép kinh điển vẫn còn được giữ nguyên.

Sau khi nghỉ chân ở Tsing-Chow (thuộc Quảng Châu) qua một mùa hè, ngài thân hành đến Nam Kinh để trình bày những quyển kinh sách mà ngài đã kỳ công mang được về đến Trung Hoa. Đó là 14 năm của những cuộc hành trình đầy gian khổ hiểm nguy, đi qua gần 30 nước khác nhau. Nhờ vào lòng tin và sự bảo hộ của Tam Bảo, ngài đã được an toàn trở về sau bao nhiêu khổ ải, và sau đó, với mong muốn chia sẻ lại những khoảng thời gian gian truân, sóng gió cũng như đầy hạnh phúc trong chuyến hành trình về xứ Phật, ngài đã ghi lại ký sự của những chuyến đi từ năm 399-414 sau CN.

Ngài Pháp Hiển tuổi đã khá cao khi khởi hành cuộc chiêm bái vào năm ngài 65 tuổi, và khi về nước, ngài đã 79 tuổi. Ngài mất năm 82 tuổi, sau khi đã hoàn thành toàn bộ sứ mệnh dịch thuật những kinh điển Phật giáo mà ngài đã mang về. Ngài là một nhà hành hương tận tụy và kiên trung, một học giả, một tấm gương về niềm tin và lòng mộ đạo và một nhà sư Phật giáo đáng tự hào và đáng tưởng nhớ cho đến muôn đời đối với tất cả chúng ta.

 

5. “Tây Vực Ký” Của Ngài Huyền Trang (Hsüan Tsang) (8)

Ký sự “Đại Đường Tây Vực Ký” là một bộ sách ghi chép một cách khách quan, hơn 12 quyển, do nhà hành hương nổi tiếng Huyền Trang kể về chuyến đi lịch sử từ Trung Hoa đến Trung Á và bán đảo Ấn Độ và hành trình quay về, trong khoảng thời gian 629-645 sau CN. (Quí vị đừng nên nhầm lẫn với truyện Tây Du Ký, một sáng tác của Ngô Thừa Ân về cuộc hành hương của thầy trò Đường Tăng với Tề Thiên Đại Thánh, Trư Bát Giới…và cũng đã từng được quay thành phim).

Trong khi Pháp Hiển hành hương đến Ấn Độ để tìm giáo Luật hay Luật Tạng (Vinaya), thì mục đích của Huyền Trang là đến Ấn Độ để tìm học từ những bậc trí giả, thánh nhân những điều về giáo Pháp hay Kinh Tạng (Suttana), mà bản thân ngài còn nhiều điều chưa thông suốt. Sau khi đơn xin hành hương của ngài không được triều đình cho phép, ngài đã lên đường một cách bí mật từ Trường An vào năm 629 sau CN, vào năm ngài 27 tuổi. Đi theo hành lan Gansu, ngài vượt qua Lan Châu và đi thẳng về nơi cuối cùng của Vạn Lý Trường Thành gần Đôn Hoàng. Từ đó, ngài tiếp tục đi theo nhánh phía bắc của con đường Tơ Lụa, vượt qua Yumen Guan (Ngọc Môn quan) và vượt sa mạc Gobi để đến Hami (Ha-mật). Đến đây, ngài được triệu mời về Turfan, thủ đô của nước Uighur, bởi nhà Vua kính mộ đạo Phật, để làm quốc sư, nhưng ngài đã từ chối. Sau khi không thuyết phục được Huyền Trang, nhà Vua đã tiễn Huyền Trang lên đường đến Kara-shahr, rồi từ đó, ngài tiếp tục đi đến Kucha (Dao Tần).

Kucha (thuộc xứ tự trị Tân Cương ngày nay của Trung Quốc) là một đô thị ốc đảo nằm bên vành đai sa mạc, rất nổi tiếng về những giống ngựa ở đây. Vùng đất này rất phì nhiêu về khoáng sản và hoa màu nông nghiệp. Ở đây, có hàng trăm tu viện với hơn 5000 tu sĩ theo trường phái Sarvastivadin (Nhất Thiết Hữu Bộ). Tất cả những tu viện đều có treo nhiều ảnh Phật được trang hoàng lộng lẫy, được dùng để treo lên những chiếc xe để đi diễu hành trong những dịp lễ. Ở Kucha, nhà Vua cũng tuân thủ tổ chức Lễ Pancavasssika Parisa (Hội Đồng Phật Giáo họp mặt 5 năm hay sau 5 Hạ một lần) do Hoàng Đế A-dục (Asoka) đặt ra, là dịp lễ để cho nhà Vua và tất cả thực hiện việc cúng dường lớn nhất 5 năm một lần. Lần hành hương của Pháp Hiển, ngài cũng ghé qua đất nước này và cũng ở lại đúng vào dịp tổ chức lễ này. Từ bên ngoài cổng thành, Huyền Trang thấy được những hình tượng Phật, cao khoảng 90 bộ (khoảng 30-40m), và bên trước đó là nơi để làm lễ hội được dựng lên. Sau khi ở lại xứ sở này 2 tháng, ngài lên đường đến Aksu và vượt qua  dãy núi Thiên Sơn đầy băng tuyết và tiếp tục bộ hành đến gần Hồ Issyk Kul ở nước Kyrgyzstan. Khu vực hồ trên núi này có độ cao 5272 bộ Anh (1.607m) so với mực nước biển, rộng 6,200 Km2 là hồ nước mặn lớn thứ nhì trên thế giới.

Sau đó, ngài tiến về phía Tây Bắc dọc theo vùng đất màu mỡ thuộc thung lũng sông Chu và băng qua vùng hồ và châu thổ Kyrgyz thuộc vùng Myn-bulak, được biết đến với nghĩa là “Ngàn Con Suối”. Sau đó, ngài lại tiếp tục hành trình về phía Tây, đi qua đô thị Tartar của xứ Taras và nước Nujkend nằm trên Rặng Núi Chatkal, và đến được Tashkent ở miền Đông Uzbekistan, lúc bấy giờ dưới sự cai trị của người Tuh-kiueh (Hung Nô). Điểm dừng chân tiếp theo là Samarkand, một quốc gia đông dân nằm ngay trên trục giao thương giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Đó là khu chợ, trung tâm mua bán sầm uất nhất trên con đường Tơ Lụa. Theo như ghi chép của Huyền Trang:

“Nhiều loại hàng hóa quý hiếm của nhiều nước được chứa ở đây. Người dân ở đây thì khéo léo và buôn bán giỏi giang hơn những nước khác. Người ở đây dũng cảm và mạnh mẽ và mọi người xung quanh đều theo gương của họ về sự lịch thiệp và khẳng khái của họ”.

Từ Samarkand, nhà hành hương tiếp bước đến Kesh (Karshi), rồi đi về hướng Nam tiến về vùng núi non hiểm trở. Sau khi leo lên qua chặng đường dốc đứng và đầy nguy hiểm, ngài đến được ‘Cổng Sắt’ hay Thiết Môn Quan, một ngọn đèo hai đầu toàn vách núi dựng đứng, xanh đen thẳm cũng giống như màu của sắt. Ở đó, những cánh cổng 2 lớp bằng gỗ được dựng lên và nhiều loại chuông được gắn trên đó. Khi cổng cửa được gia cố bằng sắt và không thể nào đánh phá được. Bởi vì rất khó mà vượt qua đèo được một khi cổng đã bị đóng, hai bên là vách núi, cho nên đèo này được gọi là Thiết Môn Quan. Sau khi vượt qua Thiết Môn Quan, ngài đến được Tukhara, một đất nước đang được cai quản bởi người Turk, sau đó ngài vượt xông Oxus (Amu Darya) gần Termez đến Kunduz ở Afghanistan. Ở đây, ngài gặp người con cả của thủ lĩnh Turkish Khan, người anh rể của Vua nước Turfan. Vua nước Turfan khi trước đây Huyền Trang ghé lại Turfan, nhà Vua đã viết thư giới thiệu Huyền Trang cho thủ lĩnh Turkish Khan. Sau vài ngày chờ đợi, ngài cùng những nhà sư đồng hành từ Balkh đã tiến vào thành phố, trước đây là thủ đô của vương quốc Bactria của Vua Milinda. Nơi đây có khoảng hơn 100 tu viện và 3.000 tăng sĩ.

Sau khi đến chiêm bái một số di tích thiêng liêng tại nơi đây, ngài lên đường đi Balkh và bắt đầu thực hiện một cuộc hành trình gian khổ và đầy hiểm nguy nhất để vượt qua vùng núi cao Hindu Kush để đến Bamiyan. Ở Bamiyan, mọi người thờ Tam Bảo, nhưng vẫn còn thờ hàng trăm vị thần hộ mệnh, đặc biệt là những người buôn bán thường làm lễ cúng bái những vị thần này khi công việc làm ăn bị thất bát, thua lỗ. Có khoảng 10 tu viện và 1000 tăng sĩ theo trường phái Lokuttaravadin (Thuyết xuất thế bộ). Huyền Trang đã thấy những hình tượng Phật khổng lồ, cao 55 và 35 m, được khắc vào vách núi vào thế kỷ thứ 4 và thứ 5 sau CN, và ngài cũng đã từng nhầm tưởng rằng hình tượng Phật nhỏ hơn khác được làm bằng đồng bởi vì ở đó sáng lên màu vàng ánh. Ngài cũng thấy một tượng Phật nằm và cũng đến lễ lạy một số di tích xá lợi răng của Phật.

(Ghi chú: Vào năm 2001, trong một hành động mù quáng, những tay súng Taliban cuồng tín ở Afghanistan đã phá hủy hình tượng Phật này, trước sự lên án và phản đối của cả thế giới).

Tiến về phía đông, Huyền Trang vượt qua đèo của dãy núi Hindu Kush, vượt qua Đỉnh đèo Siah Koh, xuống nước Kapisa. Nước này có khoảng 100 tu viện và 6.000 tăng sĩ Đại Thừa và một tu viện lớn có khoảng 300 Tỳ kheo Phật giáo Nguyên Thủy. Cũng có khoảng 10 đền thờ với khoảng 1.000 tu sĩ khổ hạnh người Hindu, theo nhiều phái tu hành khổ hạnh khác nhau như lõa thể (Digambaras), những người chỉ che thân bằng bụi tro (Pasupatas) và những người mang vòng kết bằng xương trên đầu (Kapaladharinas). Mỗi năm, nhà vua đều cho làm một ảnh Phật bằng bạc và phát chẩn cho người nghèo đói và mồ côi trong vương quốc của ông. Sau khi trải qua hết mùa hè năm 630 sau CN ở Kapisa, Huyền Trang lại lên đường đi Nagarahara (Jalalabad). Ở đây, ngài thấy rất nhiều tu viện, nhưng rất ít tu sĩ. Những bảo tháp (phù-đồ) stupa thì hiu quạnh và bị tàn phá. Ngài viếng thăm di tích hang động của Rồng Naga Gopala nổi tiếng, mà theo truyền thuyết, Đức Phật đã để lại bóng của người in trên vách hang động sau khi đã hàng phục con rồng (naga) định hủy diệt vương quốc. Tại ngôi chùa có xá lợi xương sọ của Phật, ngài bắt gặp người canh giữ ngôi chùa lại là một Bà-la-môn do nhà vua cử đến và Bà-la-môn đã thu tiền phí những người đến đây thăm viếng di tích. (Đoàn hành hương của ngài Pháp Hiển cũng đã từng viếng thăm những nơi thánh tích này).

Rời Nagarahara, nhà hành hương tiếp tục hành trình đến Gandhara sau khi vượt qua Đèo Khyber. Nơi đây, cảnh thành thị, làng xóm thật hiu quạnh, chỉ thưa thớt một số ít dân cư. Có khoảng 1.000 tu viện, nhưng thật tiếc chỉ còn là tàn tích, cây cỏ rêu phong mọc đầy. Những bảo tháp đều đã bị mục rửa, điêu tàn. Chỉ còn lại 1 ngôi chùa, trong đó có khoảng 50 tu sĩ Đại Thừa. Tuy nhiên những đền thờ các Thần, thì chiếm khoảng 100 cái và rất đông đúc những người dị giáo. Theo ghi chép của Huyền Trang:“Nhiều thế kỷ trước đây, một nhà vua Hung Nô bạo tàn ở Sakala tên là Mahirakula, đã giết người bảo trợ của mình là vua của nước Kashmir để chiếm ngôi. Sau đó, ông đến Gandhara và giết vua ở đây trong một cuộc mai phục. Ông giết sạch gia đình hoàng gia, tể tướng của nước này, đập đổ những bảo tháp và phá hủy những tu viện, chùa chiềng - tất cả 1.600 cơ sở như vậy”.

Rời vượt lên phía Bắc, Huyền trang đến Udyana, một trung tâm hưng thịnh Phật giáo vào thời ngài Pháp Hiển viếng thăm, nay chỉ còn là một đống đổ nát, toàn bộ 1.400 tu viện, chùa chiềng ngày trước đã trở thành tàn tích, hiu quạnh. Trước kia có khoảng 18.000 tăng sĩ ở vùng này, bây giờ chỉ còn lại thưa thớt một số ít. Sau khi thăm viếng những di tích, ngài tiếp tục chuyến hành trình đến Takkasila (gần Rawalpindo). Nơi đây, ngài đã chứng kiến cảnh hoang tàn và đổ nát cũng do chính tên vua bạo tàn Hung Nô Mahirakula gây ra, nhiều tu viện đã bị hủy diệt và hoang phế. Rời Takkasila, ngài tiếp tục đi Kashmir, nơi đây Phật giáo còn đang thịnh hành. Có khoảng 100 tu viện và 500 tu sĩ Phật giáo ở đây. Dường như là sau cái chết của Mahirakula, con cháu ông ta lên ngôi trị vì ở Kashmir, đã muốn chuộc lại những tội lỗi của ông, nên đã cho xây lại nhiểu bảo tháp và tu viện Phật giáo. Tại thủ đô Srinagar, Huyền trang đã lưu trú lại 2 năm (631-633 sau CN) để học giáo pháp và sao chép kinh điển từ những người thầy theo Đại Thừa.

Rời khỏi Kashmir, nhà hành hương tiếp tục đi về phía Nam, đi qua Jammu và đến Sakala (Sialkot gần Lahore), nơi đóng đô của vua Milinda của vương quốc Bactria trước kia và một vua không nổi tiếng thuộc dòng con cháu của Mahirakula. Tại đây, ngài đã bị kẻ cướp cướp hết đồ đạc khi chuẩn bị rời Sakal. Lại tiếp tục đi, ngài đến một thị trấn lớn, có thể là Lahore, và ngài đã ở lại đó 1 tháng. Sau đó, ngài đến ở lại 1 năm ở Chinapati. Vào năm 634 sau CN, ngài lên đường đi Jalandhar, đến sông Sutlej, vượt qua Satadru Paryartra trước khi đến Mathura. Dọc đường, ngài đã chứng kiến sự suy tàn, xuống dốc của đạo Phật và sự nổi lên của tư tưởng Bà-la-môn mới vào thời đại Gupta. Mathura, một căn cứ mạnh mẽ của Phật giáo vào thời vua Asoka và là trung tâm của trường phái Phật giáo Sarvastavadin (Nhất Thiết Hữu Bộ) dẫn đầu bởi vị Tỳ Kheo lỗi lạc Upagupta, bây giờ chỉ còn là bóng mờ của quá khứ, với chỉ còn khoảng 20 tu viện và 2.000 Tỳ kheo. Sau khi thăm viếng những di tích nơi đây, nhà hành hương tiếp tục đi lên phía sông Yamuna, đến Kuru-kshetra (Thaneswar), vùng đất thánh của những người theo đạo Hindu và quang cảnh những trận chiến Mahabharata huyền thoại giữa anh em dòng họ Pandava và Kauravas, những người anh em họ và cũng là kẻ thù một mất một còn. Ở đây, chỉ còn 3 tu viện với khoảng 700 tu sĩ, nhưng có đến 100 đền thờ thần Deva với rất đông thành viên giáo phái.

Về hướng Đông, ngài đến sông Hằng và đi dọc theo dòng chảy của sông, ngài đi qua nhiều đô thị mà ngài ghi chép lại là những nơi đang nổi lên lại chủ nghĩa Bà-la-môn như thủy triều dâng lên. Ngài cũng đi qua thánh địa Sankasia và chiêm bái những di tích liên quan đến truyền thuyết Đức Phật hạ thế trở lại trần gian từ Cung Trời Đao Lợi. Sau đó, ngài đi đến Kanauj, cũng được gọi là Kanyakubja, (thành phố của những người phụ nữ lưng gù), nơi Vua Harsha Vardhana đã chọn làm thủ đô. Ngài không gặp được nhà Vua ở đó khi nhà Vua đi vắng, nhưng sau này nhà vua đã trở thành một người bảo trợ cho ngài. Rời Kanauj, ngài đến Ayodha hay Saketa, nơi mà đạo sư danh tiếng của phái Đại Thừa là ngài Vasubhandu (Thế Thân) đã biên soạn những trước tác Đại Thừa của mình. Sau đó, ngài đến được ngã ba hợp lưu của Sông Hằng và Sông Yamuna, vào thành phố Prayag (Allahabad). Nơi đây, chỉ có 2 tu viện và một vài tu sĩ, nhưng đền thờ thần Deva và những người theo giáo phái đó thì rất nhiều. Tại ngã ba sông đó, Huyền Trang cũng đã chứng kiến hàng trăm người theo đạo Hindu trầm mình dưới nước sau 7 ngày nhịn đói, với niềm tin rằng dòng nước sẽ gội rửa hết những tội lỗi và dẫn dắt họ lên thiên đường. Ngài lại đi và đến Kosambi và viếng thăm tu viện Ghositarama, nơi mà những thương nhân giàu có ở xứ này đã xây để cúng dường cho Đức Phật để Người cư ngụ trong những lần Người đến Kosambi. Bấy giờ, tu viện Ghositarama chỉ còn là một nơi đổ nát, điêu tàn.

Đi ngược lên phía Bắc, nhà hành hương đã đến Sravasti hay Savatthi (Xá-vệ), ngài thăm Maheth (nơi có hang động Anguilimal), ở đó ngài cũng chiêm bái Tháp Sudata, đánh dấu vị trí ngôi nhà của Sudata, hay được gọi là Cấp Cô Độc (Anathapindika), và bên cạnh đó là Tháp Angulimala stupa. Tại Saheth, ngài chứng kiến tu viện Kỳ Viên (Jetavana) đổ nát và hoang tàn. Rời khỏi Sravasti (Xá-vệ), ngài tiếp tục đi đến Kapilavastu, (Ca-tỳ-la-vệ), kinh đô của vương quốc Thích Ca (Sakya); Rồi ngài đến nơi Đức Phật đản sinh là Lumbini, tu viện Ramagama, cũng đã trở thành nơi phế tích đã nhiều năm và đến Kusinara, (Câu-tin-na), nơi Đại Bát-Niết-bàn của Đức Phật.

Lại đổi hướng đi về phía Nam khoảng 500 lý, băng qua nhiều cánh rừng rậm, ngài đến Varanasi, thành phố linh thiêng của người Hindu. Nơi đây có khoảng 30 tu viện và khoảng 3.000 Tỳ kheo, nhưng có đến hơn 100 đền thờ với khoảng 10.000 tín đồ theo đạo Hindu, chủ yếu họ thờ thần Siva. Tại khu Vườn Lộc Uyển ở Sarnath, ngài đã viếng thăm một tu viện, nơi có 1.500 Tỳ kheo theo trường phái Phật giáo Sammitiya (Chính Lượng Bộ) và cũng đã viếng thăm nhiều di tích xung quanh vùng này. Rồi lại xuôi theo sông Hằng về hướng Đông đến Ghazipur, rồi trở lại hướng Đông Bắc đến thành đô Vesali (Tỳ-xá-ly). Ở đây có vài trăm tu viện, nhưng chỉ có rất ít tu sĩ. Thành phố cũng bị tàn phá và gần như hoang phế. Ngài đến chiêm bái Trụ Đá Asoka với đầu sư tử trên đầu trụ, và bên cạnh đó có một bảo tháp cũng được xây dựng bởi vua Asoka. Gần trụ đá là một Ao Nước, do một bầy khỉ đào để cho Đức Phật dùng, và phía Nam là một bảo tháp được xây lên để đánh dấu nơi bầy khỉ lấy bình bát của Phật, trèo lên cây và đổ mật ong vào để dâng lên Phật. Đi lên Tây Bắc, ngài đi qua xứ Vaishali của những tu sĩ Bạt-kỳ (Vajji) trong quá khứ và rồi sau đó đi Nepal. Sau đó, ngài quay về lại Vesali và rồi đi qua sông Hằng, đến nước Magadha (Ma-kiệt-đà).

Pataliputta (Patna, Hoa Thị Thành), kinh đô của đế chế Maurya vào thời Vua A-dục (Asoka), cũng trở thành một nơi hoang tàn. Còn có khoảng 50 tu viện với khoảng 10.000 tu sĩ, đa số là những người theo Đại Thừa. Trong thành cổ, Huyền Trang cũng chứng kiến hàng trăm tu viện, đền thờ Hindu và bảo tháp nằm trên đống đổ nát. Ngài cũng viếng thăm tu viện Kukkutarama do nhà vua Asoka xây, nhưng công trình này cũng đã đổ nát, chỉ còn lại di tích là móng của những bức tường. Xuôi về hướng Nam, ngài ghé ngang Chùa Tiladaka, nơi có rất nhiều người bên cạnh một tượng Phật Đứng, dấu hiệu cho thấy sự phát sinh ra trường phái Phật giáo Tantra (sau này phát triển ở Tây Tạng). Tiếp tục hành trình, Huyền Trang đã đến sông Neranjara (Ni Liên Thuyền), và qua sông là đến Gaya. Ở nơi quan trọng này, ngài viếng thăm tất cả các nơi, như đồi Pragbodhi (núi Tiền Chánh Giác) nơi Bồ-tát (tức Đức Phật trước khi Người thành Đạo) trải qua 6 năm tu khổ hạnh, ngôi làng của nàng Sujata, người đã mang cho vị Bồ-tát bát cháo nấu bằng gạo và sữa, khu rừng Uruvela Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng), là thánh tích nơi Đức Phật thành Đạo, Giác Ngộ và là nơi thiêng liêng nhất đối với tất cả Phật Tử viếng thăm. Sau đó, ngài Huyền Trang đi đến Rajagaha (thành Vương-xá) và viếng thăm tất cả những di tích quan trọng ở đó, bao gồm Đỉnh Núi Linh Thứu, Rừng Tre (Trúc Lâm), Suối Nước Nóng, Ngôi Nhà Đá PippalaĐại Hang Động Sattapanni, nơi diễn ra Hội Đồng Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Nhất.

Ngài ở lại Nalanda vào khoảng năm 635 sau CN và ghi danh vào Đại Học Viện danh tiếng Nalanda, đó là ngôi trường Phật giáo lớn nhất đầu tiên ở Ấn Độ, để hoàn thành mục đích là đến Ấn Độ để học hỏi giáo pháp Phật Giáo từ những bậc hiền trí. Việc Xét Tuyển dựa vào kết quả phỏng vấn bởi một quan chức có nhiều kiến thức sâu rộng về Phật học. Ông ta sẽ đặt bất kỳ những câu hỏi khó khăn nào, thì thí sinh phải trả lời được để thỏa mãn ông ta thì coi như đã được xét tuyển. Thông thường thi có 10 thí sinh, thì đến 7-8 người bị đánh rớt trong lần sát hạch. Huyền Trang với nhiều kiến thức đã có sẵn của một nhà sư và chiêm bái nhiều năm, đã được nhận vào. Ở đó, ngài được học Du Già Luận Thuyết (Yogacara) từ một vị thầy Đại Thừa danh tiếng là Silabhadra. Ngài cũng học về Triết học Hindu và thành thạo về tiếng Phạn (Sanskrit). Trong suốt quá trình lưu học ở đó, ngài luôn thể hiện mình về tính chuyên cần và sự uyên bác nổi bật.

Đến năm 638 sau CN, ngài ngưng việc học và lên đường đi Champa (Bhagalpur) và West Bengal, rồi dừng chân lại ở khu hải cảng Tamralipti, (giống như ngài Pháp Hiển trước đó), nơi đây ngài định sẽ lên thuyền đi Sri Lanka (Tích Lan) để học giáo lý của trường phái Trưởng Lão Bộ (Theravada)¸ sau này là đại diện cho Phật Giáo Nguyên Thủy. Nhưng ngài nghe rằng Tích Lan rất gần mũi phía Nam của Ấn Độ, mà thật là đúng như vậy nếu chúng ta nhìn vào bản đồ Ấn Độ và Tích Lan, vì thế ngài quyết định đi tiếp bằng đường bộ hơn là mạo hiểm đi thuyền vượt đại dương. Tiếp tục đi về hướng Tây Nam, ngài tiếp tục đi qua bang Orissa, nơi đây có vài trăm tu viện với khoảng 10.000 tăng sĩ của phái Đại Thừa, và đi qua Kalinga, nơi có rất nhiều tín đồ dị giáo, đa số là người theo giáo phái Nigantha (Ni-kiền-tử) trước kia (nhóm tu sĩ lõa thể tu khổ hạnh). Sau đó, ngài tiếp tục chuyến đi đến Kosala (quê của ngài Nagarjuna (Long Thọ), người sáng lập học thuyết Trung quán tông, hay Trung Quán Luận), rồi ngài đến Andhra, rồi ghé qua Amaravati. Ở đó, cũng còn một số tu viện, nhưng tất cả đều điêu tàn và hoang vắng. Khoảng 20 tu viện còn được bảo tồn, chỉ có khoảng 1.000 tu sĩ Đại Thừa. Ngài cũng đi qua 2 địa danh là 2 cơ sở nằm phía Đông và phía Tây sườn núi, của 2 nhánh phái gần nhau là Purvasaila (Đông Sơn Trụ bộ) và Aparasaila (Tây Sơn Trụ bộ). Cả 2 cơ sở, giống như tu viện, là nơi tăng sĩ cư ngụ và tu hành, những lúc đó cũng đã là tàn tích và bỏ hoang. Sau khi dừng chân qua mùa Mưa năm 639 sau CN ở Amaravati, nhà hành hương lại lên đường tiếp tục về hướng Nam, theo ý định qua Tích Lan, ngài đã đi qua nước Chola, mà ngài đã miêu tả lại trong ký sự của mình như sau: “…hoang tàn và hiu quạnh, liên tiếp những đầm lầy và rừng già, dân cư thưa thớt và những toán quân cướp hiên ngang đi lại ở xứ này”.

Tiếp tục, ngài băng ngang qua một huyện toàn rừng hoang, tiếp tục đi thêm 1.500 lý, ngài đến được nước Dravida. Tại thủ đô Kanchipuram (gần Madras), có khoảng 100 tu viện và 10.000 tu sĩ Phật giáo Đại Thừa. (Thật ra, Đại Thừa xuất phát từ phía nam Ấn Độ, chứ không phải ở những nơi phía Bắc xưa kia Đức Phật đản sinh và giảng dạy giáo pháp như chúng ta thấy trên bản đồ những thánh địa Phật giáo. Xem thêm: ‘Giáo Trình Phật Học’, chương XVII). Ở đây, Huyền Trang nghe được rằng Sri Lanka (Tích Lan) đang đối diện với bạo động và nạn đói, sau cái chết của nhà vua. Vì vậy, ngài từ bỏ ý định đến Sri Lanka để tiếp thu giáo lý Phật Giáo Trưởng Lão Bộ (Theravada), mà ngày nay là đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy chính thống. (Thật là một điều vô cùng đáng tiếc cho lịch sử truyền thừa của Phật giáo!).

Quay lên lại hướng Bắc, ngài băng qua nhiều cánh rừng và làng mạc hoang vắng, chỉ gặp toàn những đám cướp ngày đêm lùng sục nạn nhân. Sau đó, ngài đi tiếp 2.000 lý nữa và không gặp tai nạn cướp bóc gì. Nhà hành hương đã đến được Konkanapura (Golconda gần Hyderabad), nơi đó có khoảng 100 tu viện với khoảng 10.000 tu sĩ thuộc cả 2 trường phái Đại Thừa và Kinh Bộ Nikaya. Rời khỏi Konkanapura, ngài băng qua những xứ sở hoang tàn, đầy những kẻ cướp bóc và thú rừng hoang dã, và ngài đã an toàn đến được Maharashtra, ngài đã ghé thăm di tích nổi tiếng khu tổ hợp Chùa Hang Ajanta. Rời Ajanta, ngài tiếp tục đi đến Valabhi vào năm 641, rồi đi qua Bharoch, Malava Kachha. Valabhi là kinh đô của vương quốc Maitraka ở vùng Gujerat và là một trung tâm học thuật và thương mại sầm uất. Theo ghi chép của Huyền Trang:“Ở đó có khoảng 100 gia đình có 100 triệu phú (lakhs). Những sản vật hiếm và quý giá được tích trữ ở đây với số lượng lớn.”

Ngài cũng đã đến thăm một tu viện lớn, nơi hai đạo sư Đại Thừa nổi tiếng từng cư ngụ ở đây và biên soạn những trước tác của mình là ngài Sthiramati Gunamat. Chuyển qua hướng Tây, ngài đi qua vùng Surashtra Gurjjara trước khi đến được Ujjain, kinh đô của nước Avanti. Ở đâu cũng có rất nhiều tu viện, nhưng tất cả đã trở thành phế tích và chỉ còn khoảng 300 tu sĩ Phật giáo. Tiếp tục theo hướng Tây, ngài đã đi đến Sindh và bắt gặp vài trăm tu viện với khoảng 10.000 tu sĩ theo trường phái Sammatiya (Chánh Lượng bộ). Rồi lại lên hướng Bắc, vượt sông Indus, ngài đến Multan. Ở đây, những Phật tử và tu sĩ rất ít. Có khoảng 10 tu viện, tất cả đều đã sụp đổ. Đến đây, ngài quyết định quay trở lại Nalanda, sau khi ngài đã đi và đã chiêm bái hầu hết những thánh tích và tu viện, chùa chiềng ở Ấn Độ. Trở lại Nalanda, Huyền Trang dành hết toàn bộ thời gian vào việc học giáo lý Phật Giáo Đại Thừa và tham gia vào nhiều cuộc đàm đạo giáo pháp ở đó. Sau khi đã lĩnh hội được hầu hết những kiến thức hàn lâm về giáo pháp, ngài bắt đầu nghĩ đến việc quay về lại Trung Hoa để truyền bá giáo pháp.

Nhà vua xứ Assam Kumara-raja, khi nghe về khả năng uyên bác của ngài, đã mời ngài đến kinh đô Kamarupa vào năm 643. Trong khi Huyền Trang đang nghỉ chân tại đó, thì vua Kumara-raja lại nhận lệnh của một vị Hoàng Đế của đế chế quyền uy hơn là Vua Harsha Vardhana, đưa nhà sư Trung Hoa đó đến để gặp nhà vua ở Kajinghara, một kinh đô nhỏ nằm bên bờ sông Hằng. Sau khi gặp gỡ, cả hai người trở thành 2 người bạn tâm giao, thân thiện. Vua Harsha Vardhana mời Huyền Trang đến kinh đô Kanauj, nơi đó ông triệu tập một hội nghị tôn giáo bên sông Hằng, 20 vị vua của 20 nước chư hầu đã đến dự, cùng với nhiều tu sĩ và những Bà-la-môn. Huyền Trang được đề cử là người Chủ tọa của Cuộc Đàm Đạo. Trong suốt 3 tuần, vua Harsha cúng dường thức ăn cho tất cả các tăng sĩ và những Bà-la-môn. Sau đó, nhà vua tự mình khuân vác một bức tượng Phật với kích thước người thật làm bằng vàng lên một tháp cao để lễ lạy Tam Bảo và cúng dường những bộ y làm bằng lụa được gắn đá quý. Vào ngày cuối cùng, những kẻ ngoại đạo muốn phá hoại hội nghị, bằng cách phóng hỏa tháp Phật đó và tìm cách mưu sát nhà vua. Nhưng kế hoạch ám sát đã bất thành và những kẻ mưu sát đã bị bắt. Hắn khai nhận là được thuê bởi những kẻ dị giáo và những Bà-la-môn, họ ghen tức vì nhà vua đã trao nhiều danh dự và bày tỏ lòng tôn kính đối với nhà sư Phật giáo. Nhà vua cho lưu đày người cầm đầu và những Bà-la-môn ra biên ải Ấn Độ. Sau đó, nhà vua đích thân đưa tiễn Huyền Trang đến Prayag, và tổ chức Lễ hội Phật Giáo (tổ chức 5 năm 1 lần theo đề xướng của vua A-dục Asoka), nhà vua phát chẩn tất cả những tài sản ông tích lũy hơn 5 năm, theo gương nhà vua A-dục (Asoka).

Sau khi chứng kiến lễ hội này, Huyền Trang ở lại Prayag thêm 10 ngày nữa với Vua Harsha và bắt đầu chuyến đi trở về cố hương Trung Hoa. Để qua đèo núi an toàn, nhà vua đã cho Kumara-raja và quân lính đi theo bảo vệ Huyền Trang đến tận biên giới.

Huyền Trang quay trở về Trung Hoa theo hướng ngược lại với hướng ra đi trước kia. Ngài quay về qua Jalandhar, Takkasila Nagarahara. Sau khi vượt qua dãy núi Hindu Kush, ngài tiến về phía Bắc Afghanistan. Rồi đi theo hướng Tây Bắc, ngài đến Badakshan và vượt qua nhiều núi non hiểm trở và thung lũng của dãy Pamirs, đi qua nhiều đô thị của Tajikistan. Vượt qua dãy núi Sarykol, là biên giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Tajikistan, ngài về đến Kashgar thuộc tỉnh Xinjiang (Tân Cương). Từ Kashgar, ngài đi tiếp về Yarkand Khotan, băng qua sa mạc Takla Makan, và đến Đôn Hoàng (Dunhuang). Sau khi nghỉ lại ở Đôn Hoàng, ngài quay lại Trường An (Tây An) vào năm 645, ngài được hoan nghênh tiếp đón bởi quan lại triều đình và những nhà sư. Sau đó, ngài diện kiến Hoàng Đế vài ngày sau đó.

Huyền Trang đã mang về Trung Hoa những vật phẩm sau:

1) 150 viên ngọc xá lợi Phật.

2) 6 bức tượng Phật.

3) 124 tác phẩm và sách kinh Đại Thừa.

4) Những kinh điển, ghi chép khác, gồm 657 tác phẩm, được chuyên chở bởi 22 con ngựa.

Ngài Huyền Trang dành hết thời gian còn lại của đời mình để chuyển dịch những tác phẩm tiếng Phạn mà ngài đã mang về, cùng với sự trợ giúp của nhiều người trong nhóm phiên dịch.

Ngài qua đời vào năm 664, hưởng thọ 62 tuổi, sau khi đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng, cuộc hành hương Tây Du vĩ đại để học hỏi giáo pháp từ những thánh nhân, bậc hiền trí và mang kiến thức Phật Pháp về cho Trung Hoa. Cũng như ngài Pháp Hiển và nhiều nhà hành hương quả cảm khác, Huyền Trang trở thành một hiện tượng không bao giờ phai mờ trong lịch sử hành hương và lịch sử tôn giáo, là tấm gương cao đẹp về lòng mộ đạo, sự kiên trung trong việc sưu tầm, học hỏi và truyền bá giáo pháp. Hơn gần 1.350 năm này, hàng triệu Phật tử ở những nước Phật Giáo Đại Thừa ở vùng viễn Đông, như Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Mông Cổ đã có cơ hội học hỏi từ trong những giáo pháp mà ngài đã mang về cũng như học tấm gương mộ đạo và tu hành mẫu mực của ngài, với một lòng tri ân vô hạn.

Xem “Bản Đồ Hành Hương Của Ngài Huyền Trang” (sau Phần V): Chỉ rõ những địa danh, đường điđường về của cuộc hành trình Tây Du của Huyền Trang. Đường màu Xanh là đường ra đi từ Trường An và đường màu Đỏ là đường quay về từ tu viện Nalanda, Mathura. (Click xem hình lớn hơn)


6. Sự Tàn Phá & Suy Vong Của Phật Giáo ở Ấn Độ (5), (9), (10), (11), (12)

2 cuộc tàn phá lớn với quy mô lớn đối với những thánh tích, tháp, chùa và tu viện Phật giáo ở Ấn Độ. Cuộc tàn phá đầu tiên là do giặc Ephthalites hay người Hung Nô Trắng (Bạch Hung) xâm lược Ấn Độ vào năm 500-520 sau CN và đã thâu tóm toàn bộ khu vực biên giới phía Bắc là tỉnh Gandhara và Kashmir. Vua Hung Nô, Mikirakula, là một tay vua man rợ và đã thề nguyện là kẻ thù của đạo Phật, đã càn quét, phá hủy tất cả những cơ sở của Phật giáo. Những vị vua của triều đại Gupta đã chiến đấu liên tục, nhưng vẫn không dẹp được bọn Hung Nô, mãi cho đến năm 533 thì Hung Nô mới bị chinh phục bởi Yasodharman của xứ Mandasor. (Yasodharman, vị phó vương người địa phương quan trọng nhất của một vương triều thuộc Mandasor, nay là miền tây của Trung Ấn Độ). Ngài Huyền Trang đã đi qua Gandhara và Kashmir sau đó 100 năm, khi nghe kể lại cuộc tàn phá của quân Hung Nô, ngài đã ghi chép lại về Gandhara như sau: “Mihirakula đập phá những bảo tháp và tiêu hủy những tu viện, tổng cộng 1.600 cơ sở Phật giáo”.

Vào thời ấy, Phật giáo vẫn còn mạnh mẽ và hưng thịnh, đủ sức để khôi phục lại từ vết thương đổ nát mà bọn Hung Nô đã gây ra hơn một thập kỷ. Tăng Đoàn phát triển trở lại ở vùng này trong những tu viện được xây cất lại từ đống đổ nát. Tuy nhiên, ở miền Tây của Ấn Độ, như Gandhara, Kashimir và những tỉnh bên phía Tây như Uttar Pradesh, Phật giáo đã mất chỗ đứng, nhường chỗ cho chủ nghĩa Tân Bà-la-môn trỗi dậy từ thời của triều đại Gupta ngay trước đó. Ở miền Đông Ấn Độ, như Magadha (Bihar) và Tây Bengal, Phật giáo bắt đầu khôi phục lại dưới sự bảo trợ của nhà vua Phật tử là Harsa Vardhna (vào thế kỷ thứ 7 sau CN, người đã tiếp đón và bảo trợ của ngài Huyền Trang) và sau đó là sự bảo trợ của những vị vua thuộc triều đại Pala (thế kỷ tử 8-12 sau CN).

Đó là thời kỳ rất nhiều chùa, tu viện được mở rộng ra từ trung tâm dạy học cho đến những học viện lớn, hay còn gọi là những Đại Tu Viện (Mahaviharas), nhằm đáp ứng được những nhu cầu về tu học và nghiên cứu phật giáo, trong hoàn cảnh mới bị phá hủy. Những đại tu viện (Mahaviharas) như: Nalanda, Odantapura Vikramasila ở Magadha (Ma-kiệt-đà), mỗi tu viện đã từng có hơn 10.000 tăng sinh từ những nước Phật giáo khác nhau. Vua chúa, những người quý tộc, những thương nhân giàu có và quần chúng đã đóng góp rất nhiều vào việc xây dựng và duy trì những đại học danh tiếng này. Nhưng mặc dù những đóng góp tài lực đã góp phần làm cho các đại học nổi tiếng và sung túc, những nhà hảo tâm không thể nào hiểu hết chính lúc này đã làm suy yếu lý tưởng cao đẹp của sự Buông Bỏ Hy Sinh là những phẩm chất mà Tăng Đoàn cần phải dựa vào đó. Những lý lẽ và luận thuyết của những người theo phái Phật giáo Đại Thừa đã xung đột với những ‘triết thuyết’ Nyaya được sáng lập bởi học giả Bà-la-môn Mithila khắp vùng sông Hằng đã trở thành đề đề tài hoạt động chính trong các trung tâm học viện của Đại Thừa. Những tăng sĩ dần dần quen thuộc với những lối sống dễ dàng, theo đuổi việc học hành với tính cách hàn lâm, lý thuyết và theo những tập tục, nghi lễ tôn giáo và buông lỏng việc tuân thủ những giới luật. Điều này dẫn đến sự phân hóa trong Tăng Đoàn thành những nhánh phái khác nhau, và làm mai một niềm tin tưởng của những Phật tử, cư sĩ vào tăng đoàn.

Vào thời của triều đại Pala trong lịch sử từ thế kỷ thứ 9-11 sau CN, Phật giáo Ấn Độ bị pha trộn với Tantric (Mật Tông), với những thần chú, yoga và những cách tu hành hoàn toàn xa lạ với những hình thức trước đây của Phật giáo. Vào trước triều đại Gupta (năm 300-350 sau CN), giáo lý của trường phái Đại Thừa (Mahayana) cũng đã đi đến giai đoạn ly khai hẳn với Phật giáo Nguyên thủy, khi họ đã công khai chỉ trích, chê bai quả vị A-la-hán và họ chủ trương quả vị Bồ-tát là mục tiêu mà những Phật tử đích thực phải nhắm tới.

Theo học giả TS. Rhys Davids trong quyển sách “Lịch Sử và Văn Học Phật Giáo(The History and Literature of Buddhism): “Toàn bộ sự phô bày của học thuyết này được hình thành trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tiếng Phạn là Saddharma Pundarika. Điều đó mang tính chất lật đổ đối với Phật giáo Nguyên thủy và thậm chí họ còn tuyên bố là do chính Đức Phật thuyết giảng”.

Trong suốt thời kỳ của triều đại Gupta, có rất nhiều luận thuyết trong truyền thống Đại Thừa đã tiếp tục nổi lên và dẫn đến sự thờ cúng những vị thần theo kiểu Đại Thừa hay những vị Bồ-tát (Bodhisatta) được tưởng tượng ra để làm biểu tượng cho những luận thuyết đó. Theo TS. Rhys Davids, thời gian trôi qua trước đó, những người chuyển dạng qua Phật giáo Đại Thừa cũng đã quen thuộc với những thần linh của đạo Hindu (Ấn Độ giáo), đã đưa một số hình ảnh của những vị thần trở thành những thần tượng Phật giáo. Những vị thần Hindu được thể hiện dưới dạng những vị ‘Bồ-tát’ và những người phù hộ Đức Phật, nhằm tạo ra sự ‘dung hòa’ của 2 tín ngưỡng và thu hút thêm nhiều tín đồ.

Những đền thờ lớn đã được xây dựng để thờ cúng những vị Bồ-tát mới này, trong đó nhiều lễ nghi thờ cúng được thực hiện và thu hút thêm nhiều người từ những tầng lớp khác nhau và khuyến khích họ bằng những niềm tin mê tín và những nghi thức thờ cúng. Chính những cách thực hành này đã là nền tảng cho sự phát triển Mật Tông Thừa (Tantrayana) bởi những tu sĩ Phật giáo áp dụng những phương pháp của những người trì chú Hindu trong việc kết hợp những tín ngưỡng Hindu và Vệ-đà. (Tham khảo thêm “Phật Giáo Ấn Độ (Indian Buddhism), tác giả Hajime Nakamura).

Phật giáo bấy giờ trở thành một ‘mật giáo’ bí truyền, mà ở đó, những thần chú và những nghi lễ huyền thuật và những cách thực hành mà họ cho là có thể tạo ra những kết quả siêu nhiên, thần kỳ. Những người thần bí Mật Tông được công nhận là những người đại sư, những người có khả năng tìm ra con đường ngắn nhất đến với sự Giải Thoát. Trong một số trường hợp, họ tin rằng “ân huệ của một vị đạo sư” cũng đủ giúp cho họ đạt được trạng thái xuất thần. Một số đạo sư huyền bí (guru) còn công khai chê bai giới luật tăng đoàn và thậm chí còn truyền bá những lễ nghi tập thể gồm có rượu và phụ nữ. Việc khai quật tàn tích tu viện Nalanda cũng phát hiện nhiều tranh tượng Tantra (Mật Tông), tất cả đều thuộc thời của triều đại Pala, cung cấp bằng chứng về việc phát triển của Mật Tông từ trong đại học Nalanda. Theo thượng tọa Jagdish Kashyap (trong quyển Con Đường của Đức Phật (Path of the Buddha), Chương 1), Phật giáo đã bị ô nhiễm suy yếu bởi những hình thái suy đồi đó và Phật giáo đã không còn có thể vực dậy nổi, sau cuộc tàn phá những đền, chùa và tu viện Đại Thừa bởi những đạo quân Hồi giáo xâm lược.

Cơn lốc định mệnh của Phật giáo Ấn Độ xảy ra vào đầu thế kỷ 13 bởi những người Turaskas hay Khalijis từ Afghanistan. Họ là những kẻ Hồi giáo man rợ, mang bản chất chiến đấu và hủy diệt. Vào thời gian đó chúng đã chiếm hết miền Tây của Uttar Pradesh, được gọi là xứ Doab, vùng này được bao bọc bởi 2 sông Yamuna và sông Hằng Ganges, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược, gieo rắc những khủng bố và hoảng loạn khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, sự tiến sâu của chúng là mối đe dọa cho những đền chùa tu viện Phật giáo ở phía Bắc Ấn Độ. Toàn bộ khu vực ở phía Đông, thành cổ Magadha (Bihar) và Bắc Bengal đều lọt vào tay bọn giặc cướp. Sự dã man nhất được nhắm tới những hình tượng Phật và ‘Bồ-tát’ lớn, lần lượt bị đập phá tiêu hủy. Những nhà sư cạo đầu trong y phục tu hành rất dễ bị nhận ra là những kẻ tôn kính những tranh tượng đó, đều bị tàn sát, tất cả sự giết chóc và sự tàn phá khủng khiếp đều được ghi lại trong lịch sử.

Vào đầu thế kỷ 13, những kiến trúc của những Đại Tu Viện Vikramalasila (Vikramalasila Mahavihara: có lẽ vị trí nằm gần Colgong, Quận Bhagalpur, Bihar ngày nay) đã bị san bằng bởi những kẻ xâm lược, chúng thậm chí thề rằng sẽ nhổ sạch nền móng để quăng xuống sông Hằng. Cùng chung số phận là Đại Tu Viện Odantapuri (nằm ở Bihar Sharif, gần Đại Tu Viện Nalanda) đã biến thành nơi đồn trú của quân lính Hồi giáo vào khoảng năm 1198 sau CN, dưới sự chỉ huy bởi thủ lĩnh Muhammad Bakhtiyar Khaliji, trong những cuộc tàn sát Tỳ kheo ở tất cả các đại tu viện, mặc dù không một ai nói gì và cũng không rõ những kẻ Hồi giáo có biết hay không biết được rằng trong kinh sách Phật Giáo không hề có nói điều gì thách thức hay liên quan đến Hồi giáo. (Có lẽ chỉ vì lòng thờ phụng thượng đế của họ và suy diễn một cách mù quáng rằng không thể có thượng đế nào khác và hiểu lầm Đức Phật là một thượng đế khác nên họ cho những Tỳ kheo là kẻ thù truyền kiếp của họ và như vậy họ đi tàn sát).

Câu chuyện về việc thảm sát ở Đại Tu Viện Mahavihara ở Odantapura, Bihar vào năm 1198 đã được chứng kiến và sau đó thuật lại bởi một nhà sử học Ba Tư tên là Minhaz vào năm 1243. Trong quyển sách của ông, “Tabaquat-I-Nasiri”, ông đã kể lại như sau (Tham khảo:“Buddhist Monks and Monasteries of India”, Part V, 3, by Sukumar Dutt : Những Tu Sĩ và Tu Viện Phật Giáo ở Ấn Độ”, Phần V, 3, tác giả Sukymar Dutt):

“Hầu hết những người cư ngụ ở đó là những Bà-la-môn đầu trọc (ý chỉ những tu sĩ Phật giáo - ND). Họ bị bức tử. Một số lớn những kinh sách đã được tìm thấy ở đây, và khi những Mahammadan (thủ lĩnh Hồi giáo) nhìn thấy, họ đã cho gọi vài người đến để giải nghĩa cho họ. Nhưng tất cả mọi người đều đã bị giết. Sau này khám phá ra rằng, thành đài và thành phố này là một nơi học thuật (madrasa): trong tiếng Hindu, từ Bihar (hay tự viện, tu viện: vihara) có nghĩa là một đại học”.

Trong lúc tiêu hủy Đại Tu Viện Nalanda, cũng nhà sử học này đã chép lại rằng hàng ngàn tăng sĩ đã bị thiêu sống cho đến chết và hàng ngàn tu sĩ khác thì bị chặt đầu và việc đốt cháy kinh sách, thư viện kéo dài nhiều tháng trời. 

Việc tàn sát những tu sĩ Phật giáo là một cơn lốc định mệnh đối với tổ chức Tăng Đoàn ở Ấn Độ. Những tăng sĩ đã bị giết sạch, không còn ai khuyên bảo hay động viên những Phật tử cư sĩ, họ cũng dần dần suy thoái, đa số đều bị ép theo Hồi Giáo (Islam) hoặc chuyển hẳn qua đạo Hindu hay Kỳ-na giáo (Jainism). Mặc dù những đạo này cũng bị ngược đãi và khủng bố như đạo Phật mà thôi, tuy nhiên những giáo sĩ và những lãnh tụ của họ không dễ dàng được phát hiện hay nhận dạng để đem ra xử thảm như những nhà sư Phật giáo ‘đầu trọc’. Vì vậy, họ có thể sống sót và gây dựng lại cộng đồng của họ. Tuy nhiên, Phật giáo ở Ấn Độ đã kết thúc ở đây.

Những giáo sĩ Bà-la-môn thuộc tầng lớp quý tộc trước kia luôn luôn đối đầu với Phật giáo, và vào những lúc Phật giáo được bảo trợ bởi những vương triều và những vị vua, thì những Bà-la-môn giữ thái độ im lặng. Sau cuộc suy tàn của Phật giáo ở đây, họ bắt đầu chuyển biến những cơ sở Phật giáo, còn sót lại sau cuộc hủy diệt của quân Hồi giáo, thành những đền thờ Ấn giáo Hindu. Ở những vùng xa xôi, xa khỏi sự kiểm soát thường xuyên của quân Hồi giáo xâm lược, hệ thống giai cấp (Bà-la-môn) đã lấy lại thế đứng của nó, và dưới áp lực của số đông, những Phật tử cư sĩ Phật giáo dần dần chuyển qua theo Hindu giáo. Theo Thượng tọa Tỳ Kheo Jagdish Kashyap, có 3 yếu tố đóng góp vào sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ, như chúng ta cũng vừa thảo luận ở trên đây, đó là:

a) Sự suy đồi và phân hóa trong Tăng Đoàn.
b) Sự tàn sát Tăng Đoàn của quân Hồi giáo xâm lược.
c) Sự đối nghịch trong nước với hệ thống giai cấp của Hindu giáo.

Chỉ còn một số người sống sót sau trận ‘càn diệt’ của quân Hồi giáo cực đoan. Họ phân tán, mang theo một số kinh sách, và trốn thoát vào những tu viện ẩn dật trong rừng núi mà quân Hồi giáo không phát hiện được hoặc chạy đến hải cảng gần nhất để lên thuyền chạy qua xứ của người Arakan, là Miến Điện sau này, để được an toàn. Một số người thì ẩn náu và sau này ở lại vùng ChittagongArkan, gốc Đông Nam của Bangladesh, những người này về sau tuyên bố là những người thuộc dòng chính thống trực hệ của Phật giáo Ấn Độ vào thời hoàng kim xa xưa. Một số khác thì trốn chạy bằng đường bộ vượt qua vùng núi non Himalayas để đến những chùa chiềng ở những nước hiền hòa hơn như Nepal Tây Tạng. Đó là sự Giải Tán lần cuối cùng của Tăng Đoàn Phật giáo ở Ấn Độ.

Cùng với sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ, tất cả những đền đài, bảo tháp Phật giáo trở thành hoang phế. Tất cả bị cướp bóc và hủy diệt, hay bị quên lãng và bỏ hoang, và theo dòng thời gian, trở thành những tàn tích hay bị mất tích. Đây là thời kỳ đen tối nhất của Phật giáo - và là nỗi đau buồn không bao giờ quên được.

 

7. Sự Khôi Phục Những Di Tích Phật Giáo Ở Ấn Độ(13), (14)

Bình Minh Mới Của Phật Giáo Ấn Độ

Sự biến mất của Phật giáo ở Ấn Độ kéo dài 6 thế kỷ, từ thế kỷ 13 cho đến thế kỷ 19. Theo Thượng tọa Tỳ Kheo Jagdish Kashyap, sự biến mất là hầu như là hoàn toàn, ngay cả sau này, những người bản xứ ở Patna, Rajgir và Muttra, những nơi từng là căn cứ vững chãi của Phật giáo, cũng không còn được truyền lại một điều gì và cũng không thể nào nhận ra được những di tích Phật giáo được phát hiện hay khai quật lên ở đó. Trong khi đó, ở nhiều nơi vẫn còn một số tượng Phật (còn sót lại sau cuộc tàn phá) đã được người ta thờ cúng như là những thần của đạo Hindu. Rồi người Anh đến Ấn Độ vào thế kỷ 19 và tiến hành nhiều cuộc khai quật nhiều di tích Phật giáo vốn đã bị chôn vùi dưới đất sau nhiều thế kỷ.

Sau cuộc suy vong của Phật giáo Ấn Độ, thậm chí ngay cả tên của nhà vua Asoka vĩ đại cùng với những Trụ Đá Asoka của ông cũng đã bị quên lãng. Sau hơn 6 thế kỷ bóng tối, ánh bình minh bắt đầu ló rạng khi Đế Quốc Anh bước chân vào Ấn Độ vào thế kỷ 18, lôi cuốn theo nhiều học giả và nhiều nhà khám phá. Những người mới đến từ phương Tây rất hăm hở muốn khám phá những kho tàng và những bí mật của một đất nước cổ xưa như Ấn Độ. Những trụ đá Asoka đứng phô bày giữa không gian là những đối tượng được để ý đến trước tiên. Những người Anh đã bắt đầu phát hiện ra, từ năm 1750, những mảnh vỡ của những trụ đá Asoka có khắc những dòng chữ cổ đại. Đầu tiên là trụ đá Delhi-Mirath, rồi đến trụ đá Delhi-Topra, trụ đá Allahabad-Kosambi và những trụ đá ở Lauriya ArarajLauriya Nandangarh, 2 trụ đá cuối cùng này nằm ở Bihar. Sau đó vào thế kỷ 19, những Thạch Dụ khắc trên đá được tìm thấy ở Girnar thuộc Gujerat, Dhauli thuộc Orissa (Kalinga) và Shahbazgarhi gần Peshawar ở Pakistan.

Sau khi phát hiện, bước tiếp theo họ tìm hiểu xem trên những Trụ Đá và những Thạch Dụ trên đá nói những gì. Nhưng vào thời đó, không một ai ở Ấn Độ có thể dịch được những ý nghĩa của những hàng chữ đó. Mãi cho đến năm 1837, James Princep, một sĩ quan trong quân đoàn Indian Mint và là Thư Ký Hội Á Đông vịnh Bengal (the Asiatic Society of Bengal), sau nhiều năm nghiên cứu và học hỏi công phu, đã có thể dịch được nội dung của những hàng chữ viết bằng thứ tiếng cổ đại Brahmi. Ông đã công bố bản dịch qua tiếng Anh của nội dung ghi trên 7 Trụ Đá Asoka, mà lúc nào cũng bằng một câu mở đầu: “Đây là lời của người con yêu dấu của những vị Trời, Vua Piyadasi” (tiếng Anh:“Thus spake the beloved of gods, King Piyadasi”)

Ai là Vua Piyadasi? vẫn là một bí mật. Nhưng may mắn thay, lúc này có một nhà sử học tên là George Turnour, cũng là một sĩ quan trong Bộ Dân Sự ở Tích Lan, đã xuất bản bản dịch tiếng Anh của quyển Mahavamsa (Đại Biên Niên Sử Tích Lan) bằng tiếng Pali. Như là một sự tình cờ may mắn, cái tên ‘Piyadasi’ xuất hiện trong quyển Biên Niên Sử, hay còn gọi là “Đại Sử Tích Lan”, đã giúp cho Princep nhận ra được Vua Piyadasi chính là vị Hoàng Đế Phật Tử Asoka.

Sự diễn dịch được những hàng chữ trên các Trụ Đá Asoka và việc nhận ra được tên của Vua Asoka là một sự kiện mang tính lịch sử, hé mở ra một sự thật là vào thời đại Asoka, Ấn Độ là một nước Phật Giáo!. Rõ ràng là những nhà chép sử Bà-la-môn đã cố tình bôi xóa đi thời đại Hoàng Kim Phật Giáo này. Việc khám phá ra điều này làm giàu có thêm cho lịch sử của Ấn Độ và Phật Giáo, mà những nhà viết sử Ấn Độ phải viết lại tất cả những quyển sách lịch sử của mình!.

 

8. Cuộc Phục Hưng Phật Giáo ở Ấn Độ (15), (16), (17)

Những Nhà Tiên Phong Trong Cuộc Phục Hưng Phật Giáo ở Ấn Độ

Khi ngài (1) Sir Alexander Cunningham (1814-1893) đến Ấn Độ, công việc khai quật và phục hồi nhiều di tích được xúc tiến nhanh hơn. Ngài là Tổng Giám Đôc đầu tiên của Ban Khảo Cổ Ấn Độ (ASI) và tất nhiên là nhà khám phá vĩ đại nhất về những di tích Phật Giáo ở Ấn Độ. Ngài đến Ấn Độ năm 1833 và phục vụ trong quân đội và những ban, ngành của chính quyền Anh phụ trách Ấn Độ và Miến Điện lúc đó. Bản thân ông là một kỹ sư. Ông bước vào nghành khảo cổ vì say mê khám phá cổ vật và vì lòng khó chịu khi những đền, đài, thánh tích… đã bị con người tàn phá một cách dã man. Việc ông tham gia vào những công trình tưởng niệm Phật giáo bắt đầu từ lúc ông đảm nhận khai quật khảo cổ Tháp Dhamek stupa ở Sanarth vào khoảng năm 1840 khi ông chứng kiến được những phần bị hư hại của bảo tháp do sự phá phách đê tiện của Jagat Singh, một viên quan tổng quản của Benares (Ba-la-nại). (Xem thêm phần nói về Sarnath sau này).

Sau cuộc khảo cổ này và sau 28 năm làm việc hết mình, ông được phong danh hiệu Nhà Khảo Cổ Ấn Độ (Surveyor of Indian Archaeology) vào năm 1861. Cũng năm này, một học giả người Pháp M. Stanisla Julien, cũng vừa cho xuất bản bản dịch quyển ký sự của nhà hành hương nổi tiếng người Trung Hoa Huyền Trang“Tây Vực Ký”, ghi lại những gì ngài đã chứng kiến trong cuộc hành hương những năm 629-644 sau CN.

Theo những miêu tả về những thành thị, nơi chốn, địa danh và những con đường… được ghi lại trong ký sự của ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang, ngài Cunningham đã khởi xướng một chương trình khám phá khảo cổ một cách có hệ thống cho toàn bộ miền Phật giáo ở miền Bắc Ấn Độ, và đã tìm ra nhiều di tích và thánh tích ở những thánh địa Phật Giáo như: Kusinara, Sankasia, Savatthi, Nalanda, Kosambi khôi phục lại năm 1870, với ngài Cunningham là Giám Đốc, ngài đã giữ vị trí này cho đến tận năm 1885. Kể từ khi ngài nghỉ hưu ở London đến khi ngài qua đời vào ngày 28 tháng 11 năm 1893, ngài đã viết nhiều quyển sách về Phật Giáo dựa vào những điều ngài đã tìm thấy được ở Ấn Độ. Sự mở mang cũng như cống hiến to lớn của ngài Cunningham trong việc khôi phục những di sản Phật giáo là không thể so sánh được. Phật tử ở khắp mọi nơi trên thế giới sẽ luôn luôn ghi nhớ công đức của ngài.

Trong khi ngài Cunningham đã dành trọn cuộc đời mình vào việc khôi phục những thánh tích, di sản ở những thánh địa thiêng liêng của Phật giáo, thì một người khác lại dành trọn cuộc đời mình vào công việc khôi phục nền Phật giáo, đó là Ngài (2) Tỳ kheo Anagarika Dharmapala (1865-1933), người đi tiên phong trong phong trào phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ. Ông được sinh ra ở Sri Lanka, tên là David Hewavitarana, sau này lấy pháp danh là Anagarika Dharmapala, có nghĩa là “Người xuất gia bảo vệ Chánh Pháp”. Ngài Dharmapala đã đến Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) vào năm 1891 sau khi đọc một số bài viết của Ngài Edwin Arnold, tác giả của quyển “Light of Asia” (Ánh Sáng Châu Á), miêu tả tình trạng đáng xót xa của Tháp Đại Bồ-Đề, nơi thánh địa thiêng liêng nhất của tín đồ Phật giáo. Những gì ngài chứng kiến đã làm ngài thật sự sửng sờ và đau buồn, vì vậy ngài đã nguyện sẽ cống hiến cả đời mình: “...để làm cho nơi thiêng liêng này được chăm sóc bởi những Tỳ kheo của chúng ta”.

Nhận thấy đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, trừ khi ngài phải chuyển tải thông điệp của Đức Phật, nên ngài đã lập ra Hội Đại Bồ-Đề Ấn Độ (Maha Bodhi Society of India) để phát động phong trào. Với Hội Đại Bồ-Đề Ấn Độ được thành lập, ngài bắt đầu tiến trình phục hưng phát triển lại Phật giáo vốn đã bị biến mất ngay trên quê hương của mình. Bắt đầu từ Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng), nơi xảy ra cuộc tranh đấu để giành lại quyền cai quản của Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi) từ những người Hindu, Hội Đại Bồ-Đề tiếp tục mở rộng hoạt động qua Sarnath, nơi Đức Phật khai giảng Bài Thuyết Pháp đầu tiên.

Khi ngài Anagarika Dharmapala đến Ấn Độ năm 1891, Sarnath chỉ còn là một làng nhỏ bé, xung quanh là rừng già, là nơi ăn cỏ của những con heo rừng. Ngài Dharmapala quyết định khôi phục lại di tích sống này, bằng cách xây một tu viện (vihara) bên cạnh Vườn Lộc Uyển. Sau khi hoàn thành tu viện Mulagandha Kuti Vihara vào năm 1931, tiếp theo là sự ra đời của Thư Viện Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society Library), Bệnh Xá Miễn Phí, Trường Tiểu học và Trung Học, Trường Cao Đẳng Sư Phạm, Nhà Khách cho những người hành hương và một tịnh xá cho các tu sĩ…, Sarnath đã trở lại với nhịp sống. Sự ảnh hưởng hoạt động của Hội Đại Bồ-Đề chẳng bao lâu được biết đến khắp Ấn Độ và đưa đến những phong trào phục hưng Phật giáo ở những thành phố lớn ở Ấn Độ.

Nếu không có sự giúp đỡ về tài chánh từ những thí chủ thì Hội Đại Bồ-Đề sẽ không thể nào thực hiện những hoạt động Phục Hưng Phật Giáo của mình được. Người giúp đỡ lớn nhất là bà Mrs. Mary Elizabeth Mikahala Foster, người vợ gốc Hawai của một nhà ngân hàng giàu có người Mỹ. Ngài Anagarika Dharmapala gặp bà trên tàu hạm đội SS Oceanic ở Honolulu vào ngày 18 tháng 10 năm 1893.

Chuyện kể lại rằng, bà thường xuyên có những cơn bốc đồng mà không thể nào kiềm chế được. Ngài Anagarika Dharmapala đã giúp bà thực tập giữ sự tĩnh lặng để kiểm soát những khi mất bình tĩnh. Bà đã làm được và rất ấn tượng với việc nhà sư đã giúp bà. Bà đã quyết định dùng của cải của mình để tài trợ vào Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo do ngài Anagarika Dharmapala khởi xướng.

Được nhắc đến như là một “Visakha” của Cuộc Phục Hưng Phật Giáo Hiện Đại (Visakha là tên của một vị nữ đại Hộ Pháp thời Đức Phật), bà đã trở thành nhà tài trợ chính của những hoạt động của Hội Đại Bồ-Đề. Một tấm bảng bằng đá cẩm thạch ngay trước cổng Tu Viện Mulagandhakuti Vihara ở Sarnath để ghi nhớ công đức của bà với những hàng chữ như sau:

Tu viện MULAGANDHAKUTI VIHARA được xây dựng, bởi Ngài ANAGARIKA DHARMAPALA là Người Sáng Lập và Tổng Thư Ký của Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society) với sự giúp đỡ của bà Mrs. MARY ELIZABETH FOSTER ở Honolulu và những người khác, trên khu Di Tích nơi Đức Phật Cồ-Đàm của chúng ta đã khai giảng Diệu Pháp (Saddhamma) cách đây 2.520 năm. Nguyện cho tất cả mọi chúng sinh được phúc lành! Phật Lịch 2475. Tây Lịch 1931”

Một trong những người bạn và là người giúp đỡ khác của Hội Đại Bồ-Đề có lẽ là Ngài Sir John Marshall, Tổng Giám Đốc Ban Khảo Cổ Ấn Độ (ASI) trong thời gian 1902-1928, ông được biết đến nhiều qua cuộc khám phá ra Nền Văn Minh Thung Lũng Sông Indus ở Harappa và Mohenjodaro và những cuộc khai quật khảo cổ của ông ở vùng Taxila kéo dài đến 20 năm. Vào năm 1925, khi Chính Phủ Ấn Độ quyết định đình chỉ việc xây dựng Tu Viện Mulagandhakuti Vihara nói trên, vì xây trên nền đất quá gần với bảo Tháp Dhamek Stupa, Hội Đại Bồ-Đề đã kêu gọi ông giúp đỡ. Một cuộc họp được triệu tập ở Taxila (gần Islamabad) có ngài Sir John Marshall, Devapriya Valisinha, thư ký Hội Đại Bồ-Đề và Bác sĩ C. A. Hewavitarne, em trai của ngài Anagarika, để bàn luận về vấn đề đang xây dựng tu viện ở Sarnath. Với sự giúp đỡ của ngài Sir John Marshall, cuộc tranh chấp đã được giải quyết yên ổn vào năm 1926, chính phủ đã cấp một lô đất khác cộng với toàn bộ số tiền đền bù cho việc xây nền móng của dự án trước đây và được thêm 20 mẫu đất được cấp để làm khu vườn cây của tu viện.

Trong khi đó, những người láng giềng ở vùng Varanasi thì hoàn toàn làm ngơ đối với sự nghiệp Phật Giáo và tất nhiên không ai đóng góp một rupee nào vào việc xây tu viện này. (Theo ghi chép của Hội Đại Bồ-Đề (The Maha Bodhi), Vol. 46, tháng 10 năm 1938, trang. 433-434).

Với trụ sở chính đặt tại Calcutta, Hội Đại Bồ-Đề đã mở rộng hoạt động của mình đến nhiều thành phố lớn ở Ấn Độ cũng như nhiều nước trên thế giới như: Nhật Bản, Triều Tiên, Hồng Kông, Sri Lanka,  Anh Quốc và Mỹ.

Sự ảnh hưởng của Hội Đại Bồ-Đề cũng rất thành công ở Ấn Độ, giúp hàng triệu người thuộc giai cấp hạ tiện của Ấn Độ giáo Hindu trở thành những Phật tử, nhờ sự đóng góp cả cuộc đời và tấm gương lỗi lạc của (4) Tiến Sĩ Babasaheb Ambedkar, Người Dẫn Đầu của Giai Cấp Nô Bộc Ấn Độ, và cũng là người đã chọn (3) Tỳ kheo Sayadaw U Chandramani ở Kushinagar làm người cố vấn cho buổi lễ kỷ niệm mang tính lịch sử của mình diễn ra vào tháng 10 năm 1956 ở Nagpur, Maharashtra. Sự kiện này đã mở ra cánh cửa cho đại quần chúng thuộc giai cấp bị khinh bỉ bởi những người Hindu có được cơ hội hòa nhập vào cộng đồng Phật giáo, trốn thoát được mọi phân biệt giai cấp sau hàng ngàn năm. Và sau đó, hàng năm lại có thêm nhiều người Hindu giáo thuộc giai cấp hạ tiện lại bước qua Phật giáo để tìm thấy sự nương tựa và hòa đồng. Đến nay đã có hơn 50 triệu Phật tử Ấn Độ (theo ước tính của nhiều học giả Phật giáo) đã được chuyển hóa từ những người theo đạo Hindu vốn khi xưa bị phân biệt, khinh khi. Sự kiện ở Nagpur là một Cuộc Chuyển Hóa Tôn Giáo Lớn Nhất trong lịch sử nhân loại.


9. Sayadaw U Chandramani ở Kushinagar, người Anh Hùng Phật Pháp (Sasana) ở Ấn Độ (18), (19)

Cuộc chuyển hóa lớn nhất về tôn giáo diễn ra ở Ấn Độ vào ngày 14 October 1956 tại khu đất lớn 14 mẫu Anh tên là khu ‘Diksha Bhumi’ ở Nagpur, Maharashtra (xem hình 49). Vào ngày lịch sử đó, có 380.000 người thuộc nghèo khó, được xếp vào giai cấp hạ tiện (Dalits) đã chuyển qua theo đạo Phật dưới sự dẫn dắt của Tiến sĩ Dr. Babasaheb Ambedkar (là một trong 4 nhà tiên phong trong cuộc phục hưng Phật giáo mà chúng ta đang đề cập).

Người được chọn để làm cố vấn về Phật Pháp và thực hiện Quy Y Tam Bảo và Ngũ Giới cho 380.000 Phật tử mới đó là Ngài Sayadaw U Chandramani ở Kushinagar. Cuộc chuyển hóa và quy y theo đạo Phật này là một cuộc chuyển hóa về tôn giáo lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Tại sao trong số tất cả những tu sĩ Phật giáo ở Ấn Độ lúc bấy giờ mà lãnh tụ kiệt xuất Tiến Sĩ Dr. Ambedkar lại chọn ngài U Chandramani, một Tỳ kheo người Miến Điện, làm người cố vấn Phật Pháp cho tiến sĩ? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta sẽ xem qua tiểu sử của người được gọi là “Người Anh Hùng Phật Pháp ở Ấn Độ”.

(Thật ra, nếu để hiểu rõ chi tiết về cuộc đời của những nhà tiên phong này, phải cần đọc một quyển sách về mỗi người. Nhưng vì khuôn khổ giới hạn của quyển sách, tác giả đã giới thiệu sơ lược mỗi người vài chục trang. Nhưng trong giới hạn bản dịch, người dịch chỉ trích sơ lược những sự kiện chính trong đời của nhà tiên phong mà thôi).

9.1 Những Năm Tháng Đầu Tiên

Sayadaw U Chandramani sinh tháng 6, 1876 ở quận Akyab (quận Sittwe ngày nay) thuộc Bang Rakkhine của người Arakan, Miến Điện. Ngài đã học Phật Pháp từ người chú của mình là ngài Sayadaw Ashin U Sandimar, một vị thầy nổi tiếng về Tam Tạng Kinh. Lúc bấy giờ, ngài trở thành một Sa-di với pháp danh là Shin Chandra (‘Shin’ trong tiếng Miến Điện nghĩa là Sa-di).

Lúc đó ngài Anagarika DhammapalaColonel Olcott, (những người sáng lập Hội Đại Bồ Đề), tìm đến  để giúp đỡ Hội Đại Bồ Đề ở đó. Hội cũng tìm những Sa-di trẻ tuổi, có lòng dũng cảm và nhiệt huyết cao, để đào tạo qua Ấn Độ trong sự nghiệp khôi phục lại Phật Pháp ở Ấn Độ. Hai Sa-di đã được chọn ở Thiền Viện của ngài Sayadaw U Sandimar, là Shin Chandra và Shin Thuriya. Vào tháng 11, 1891 cả hai người cùng với một người học trò là, Thar Doe Oo, lên đường sang Ấn Độ.

Khi đến nơi, cả 3 người ở tại Nhà Khách Kuthodaw ở Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) do Vua Miến Điện Mindon (1808-1878) xây dựng, gần Cây Bồ-Đề, cùng với những nhà sư Tích Lan. Lúc đó, Mahant đạo Hinhdu còn đang chiếm tháp Đại Bồ-Đề, đã từ chối sự có mặt của những nhà sư trẻ này ở nhà khách. Tháng 2, 1892, ông đã xúi giục những tín đồ của ông đến phá rối nhà khách và đánh đập các Tỳ kheo.

Shin Chandra quay về Miến Điện nhưng quay trở lại Ấn Độ với tâm nguyện thực hiện việc khôi phục lại Phật Pháp tại đây. Ở Calcutta, Shin Chandra và Thar Doe Oo gặp một thương gia người Arakan Miến Điện tên là U Kyi Zayi. Người này lấy làm cảm kích với những sa-di trẻ nên đã cung cấp chỗ ăn ở cho 2 người trong tòa nhà của Hội Đại Bồ-Đề. Sau đó, Shin Chandra chuyển đến ở chung trong một ngôi đền cùng với ngài Mahawira.

Lúc này, 2 sa-di bắt đầu thực hiện việc ăn chay trường.

Khi ngài Mahawira chuẩn bị về Kushinagar để ở luôn. Thương gia U Kyi Zayi đã đề nghị cúng dường miếng đất ở Kushinagar để xây tu viện. Ngài Mahawira đã tìm được miếng đất thích hợp và thương lượng mua lại từ người chủ đất Hindu. Nhưng sau khi nhận tiền cúng dường từ người thương gia U Kyi Zayi, ngài Mahawira đã bị cướp sạch trên đường đi.

Shin Chandra đã đi bộ nhiều ngày để tìm ngài Mahawira sau khi nghe tin ngài bị cướp, sau khi đến nơi gặp ngài Mahawira, Shin Chandra đánh điện báo tin cho thương gia U Kyi Zayi và thương gia này đã tiếp tục cúng dường thêm số tiền để bắt đầu xây dựng tu viện lại từ đầu.

Sau đó, Shin Chandra quay về Mandalay, Miến Điện để nhận lễ Đại Thọ Giới Tỳ kheo (Upasampada) ở tu viện Panwar Vihara (tức tu viện Ramugrama Vihara) vào tháng 2.

Sau khi quay lại Kusinagar, ngài bắt đầu dịch Kinh Pháp Cú qua tiếng Hindu và  đến năm 1909, hàng ngàn bản dịch đã được phân phát khắp Ấn Độ. Sau đó, ông tiếp tục dịch các kinh Maha Satipatthana Sutta, Anatta Lakkhana Sutta and Sangiti Sutta. Ngài dành hầu hết thời gian để dịch kinh điển qua tiếng Ấn Độ, và đã  làm cho người Ấn Độ bắt đầu biết đến giáo pháp Đức Phật.

Thương gia U Kyi Zayi và vợ Daw Mi Chan Mra tiếp tục cúng dường cho ngài Mahawira mua thêm lô đất rộng 5 mẫu Anh gần Tháp Đại Bồ Đề để xây Nhà Khách vào năm 1901 và một tu viện vào năm 1902. Năm 1919, ngài Mahawira qua đời ở tu viện này và ngài Sayadaw U Chandramani tiếp tục sự nghiệp của thầy mình và làm trụ trì Tu Viện Phật Giáo Miến Điện ở Kusinagar.

Theo gương thầy mình, Sayadaw U Chandramani làm việc hết sức mình để khôi phục Phật Pháp ở Ấn Độ. Năm 1908, ngài cho xây một tu viện nhỏ Migadarvoon ở gần Vườn Nai và ông đã đưa người cháu của mình là Ashin U Kittima đến dạy người địa phương ngôn ngữ và Phật Pháp. Sarnarth là nơi Đức Phật khai giảng bài Thuyết Pháp đầu tiên.

9.2 Công Nhận Kushinagar Là Nơi Di Tích Đại Bát-Niết-Bàn (Mahaparinibbana)

Năm 1901, ngài Sayadaw U Chandramani và thương nhân U Kyi Zayi nộp đơn lên chính quyền Anh ở Ấn Độ để xin phép cho những người hành hương đến tôn kính di tích tượng Phật Nằm ở bên trong Đền Đại Bát-Niết-Bàn. Chính quyền Calcutta chuyển hồ sơ qua Bộ Luật Pháp ở Lucknow, nhưng họ từ chối công nhận đó là di tích Bát-Niết-Bàn của Đức Phật.

Sau đó, nhờ kiên nhẫn khai quật tiếp tục Đền Đại Bát Niết Bàn, họ tìm thấy một bảng khắc chữ Brami. Ở Ấn Độ lúc đó không ai giải mã được ý nghĩa của dòng chữ, nên họ gửi qua London để tìm hiểu. Sau 2 năm, những chuyên gia người Anh đã dịch được hàng chữ: “Đức Phật đã qua đời tại nơi này”. Lúc này, sự kiên nhẫn của nhà sư đã được đền đáp. Chính quyền mới bắt đầu công nhận nơi di tích Đức Phật Đại Bát Niết Bàn. Đền Thờ Đại Bát-Niết-Bàn trở thành một thánh tích ‘sống’ trở lại. Điều này làm cho Kushinagar trở thành một nơi hành hương Phật giáo quan trọng nhất.

Trải qua hàng trăm gian khổ và tranh đấu, ngài đã cố gắng từng ngày trong suốt cuộc đời để tìm cách mua thêm đất đai và xây thêm nhiều tu viện, nhà nghỉ, trường học, bệnh xá. Vì lúc đó chính quyền không cho một cá nhân đứng tên đất đai cho mục đích tôn giáo, đặc biệt là ngài là người ngoại quốc. Nên ngài lập ra ‘Hội Tăng Đoàn Tỳ Kheo Kushinagar’ do ngài đứng đầu.

9.3 Khôi Phục Phật Pháp Ở Nepal

Theo lịch sử, Phật Giáo đã từng là tôn giáo chính ở Nepal cho đến thời triều đại của Vua Jayasthiti Malla, người trị vì đất nước đến thời cận đại (khoảng năm 1382 sau CN). Ông vua này áp đặt hệ thống tư tưởng giai cấp Hindu vào Nepal và nghiêm cấm phổ biến văn hóa và truyền thống Phật giáo và cưỡng ép những tu sĩ xuất gia không có vợ (hay chồng) phải cởi áo cà sa và quay lại cuộc sống phàm tục.

Sự Áp Bức Phật giáo của những thủ lĩnh đạo Hindu được thấy rõ nhất vào thời kỳ người Anh đô hộ Nepal khoảng năm 1816, khi ông Brian Hodgson đã đến nhận chức Trợ Lý về Cư Trú ở nhiệm sở mới. Ông đã thu thập những văn bản, luận giảng của những nhà Luật tạng Phật giáo như ngài Amrutananda và gửi qua Hội Châu Á Học vùng Bengal (Asiatic Society of Bengal) và tổ chức Ngôi Nhà Ấn Độ (India House) ở Paris và những thư viện khác. Một lần khác, Bộ Trưởng Rana Bahadur Jang của Nepal đã bố ráp, bắt giữ một Tu Viện Phật giáo và quăng tất cả kinh sách ra ngoài đường. Bác sĩ Dr. Wrights, một bác sĩ phục vụ cho những cư dân người Anh ở Nepal lúc đó, đã thu lượm những kinh sách đó lại và gửi lại về Đại Học Cambridge University. Chính từ nguồn kinh sách này mà học giả Burnuff và người học trò của ông là Max Muller đã biên soạn tác phẩm nói về lịch sử Phật giáo nguyên thủy (xem tham khảo Ref. 46, Ch. 15).

Tình trạng Phật giáo bị áp bức càng nặng nề hơn vào thời chế độ triều đại Rana, trị vì Nepal từ năm 1846-1953, nhưng thuyên giảm quyền lực phong kiến vương triều Shah chỉ còn là biểu tượng của nền quân chủ lập hiến và thủ tướng và chính quyền điều hành có thực quyền. Lúc đó, Phật giáo hoàn toàn bị quên lãng bởi toàn bộ nhân dân Nepal. Triều đại Rana này nghiêm cấm mọi hành vi và hoạt động Phật giáo và cấm không cho bất cứ ai chuyển hóa theo đạo Phật. Chỉ có những người theo đạo Phật là được phép chuyển đạo qua Hindu giáo.

9.4 Thọ Giới Vào Tăng Đoàn Cho Những Tỳ Kheo Nepal

Ngài Sayadaw U Chandramani đã đóng góp một vai trò quan trọng nhất trong việc khôi phục hội Phật Pháp ở Nepal. Ngài đã thọ giới cho những Tỳ kheo gốc Nepal vào Tăng Đoàn, và dạy họ thêm về giáo Pháp và giáo Luật. Vào lúc bấy giờ, hoàn toàn không có Tăng Đoàn Tỳ kheo ở Nepal. Đã hàng mấy trăm năm, người Nepal chỉ biết đến những ‘thầy tu’ Phật giáo Vajracharya từ trường phái Phật Giáo Newar ở Nepal hay Kim Cương Thừa (Vajrayana) và những Lạt-ma Tây Tạng (Tibetan Lamas). Người dân không hề biết đến những Tăng Ni của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Những ‘thầy tu’ Vajracharyas là những tu sĩ tại gia. Họ sống với gia đình, không phải độc thân (hôn nhân) và không xuất gia. Dĩ nhiên không phải tất cả tu sĩ Tây Tạng đều có gia đình (vợ hay chồng). Điều đó phụ thuộc vào nhánh phái mà họ theo.

Người Nepal đầu tiên được thọ giới vào Tăng Đoàn là ngài Mahapragna, một người được sinh ra ở Khattiya, Nepal. Trước kia, ngài đã từng được thọ giới thành một ‘Gelung’ (‘Gelung’ là danh từ để gọi một tu sĩ Tây Tạng) vào năm 1926. Sau đó ngài bị truy kết và nhốt tù vì tội chuyển đạo từ đạo Hindu sang đạo Phật và bị lưu đày sang Ấn Độ. Đến Ấn Độ, ngài đã gặp được ngài Sayadaw U Chandramani ở Kusinagara. Rất mộ phục Sayadaw[4], ngài đã xin thọ giới và đã đặt viên đá đầu tiên cho Tăng Đoàn Phật giáo Nguyên thủy trong lịch sử Nepal hiện đại sau hơn 600 năm vắng bóng Phật giáo và Tăng đoàn. Một người Nepal khác chuyển từ một ‘Gelung’ thành một Tỳ kheo dưới sự thọ giới của ngài Sayadaw U Chandramani là ngài Pragyananda. Ngài trở thành Tỳ kheo y vàng người đầu tiên xuất hiện trên đường phố Kathmandu vào cuối năm 1930. Ngài ngụ tại tu viện Kindol Vihara theo lời mời thỉnh giảng (Kinh) từ ông Dasaratna Shahu (sau đó trở thành Tỳ kheo Dhammaloka). Sự thuyết giảng của ngài đã làm cho chính quyền Rana chú ý, và họ lại bố ráp và bắt giam tất cả những thành viên của tu viện và sau này mới thả ra. May mắn là lúc đó ngài Pragnananda đang đi hành hương những thánh tích ở Ấn Độ.

Sau khi được thả, ông Dasaratna Shahu cũng đến Kusinagar và thọ giới trở thành Dhammaloka vào năm 1932. Ông quay lại Nepal trong y vàng và lại bị bắt và kéo theo câu chuyện dài về sự áp bức Phật giáo ở Nepal và tất cả các Tỳ kheo đều tiếp tục bị bắt và lưu đày.

Tỳ kheo nổi tiếng Ammitananda cũng được thọ giới bởi ngài Sayadaw U Chandramani ở Kusinagara, sau này tổ chức Phật giáo lưu vong của Nepal được lập ra tại Ấn Độ vào ngày 30 tháng 11, 1944, gọi là ‘Dharmodaya Sabha’, với ngài Sayadaw U Chandramani là chủ tịch và ngài Amittananda làm tổng thư ký.

Sau Thế Chiến thứ II kết thúc năm 1945, những Tỳ kheo Nepal về lại để xem tình hình và nhận thấy không còn chính quyền cũ hay ai áp bức trực tiếp nữa. Tăng Ni Đoàn với sự gia hộ từ Tam Bảo ở Kushinagar đã quay về truyền bá Phật giáo Nguyên Thủy ở Nepal. Ngài đã thu xếp gửi nhiều Tăng Ni Nepal qua Miến Điện và Tích Lan để học thêm về Kinh Điển. Ở Kathmandu, ngài Dhammaloka bắt đầu xây ngôi Chùa Phật Giáo Nguyên Thủy đầu tiên. Một ngôi chùa khác là ‘Tu viện Yanmangala Vihara’ cũng được xây ở thủ đô bởi ngài Buddhaghosa.

Vua Nepal đã tài trợ hàng trăm ngàn rupee cho tổ chức Phật giáo ‘Dharmodaya Sabha’ nói trên để xây những nhà khách Phật giáo dành cho những Tỳ kheo Theravada, mà ngài Dhammaloka và ngài Amittananda phụ trách tiến hành công trình.

Vậy là Phật giáo đã có đất sống trở lại ở Nepal. Và Phật Pháp lại được củng cố như một tôn giáo quan trọng trên mảnh đất nơi sinh của Đức Phật. Nhờ vào công đức tiên phong của người anh hùng Phật Pháp Sayadaw U Chandramani, ngày nay Nepal có được ngôi chùa, tu viện, 303 Tỳ kheo và Sa-di (và có 135 tu sĩ Tây Tạng). Trong số họ có người hành đạo tại Nepal, có một số người tu tập hay truyền đạo ở nước ngoài. (Theo Nguồn: The Ananda Bhoomi; năm 33; ấn bản số 32 & 33).

Hòa Thượng Kushinagar Sayadaw Ashin Chandramani đã viên tịch vào ngày 8 tháng 1972 vào tuổi 97, ngài đã sống gần 80 năm như một Tỳ kheo Miến Điện ở Kushinagar, Ấn Độ để phụng sự cho sự nghiệp Phật Pháp với một lòng tiên phong, kiên trung và vô cùng nhẫn nại, trong điều kiện sống nghèo nàn, khó khăn ở vùng đất này. Phật tử từ 32 nước giáo đã truy điệu, tưởng niệm sự ra đi của ngài. Những Phật tử ở xứ Akyab (Sittwe), Miến điện, nơi sinh của ngài, đã đúc một tượng đồng và đặt thờ tại một tu viện ở địa phương. Nhà văn Miến Điện, Akyab đã viết một quyển sách với tựa đề Cuộc đời của Sri Bhaddanta Chandramani ở Kushinagar xuất bản năm 1975 và đã được dịch ra tiếng Anh năm 1999.

Để noi gương truyền thống giữ gìn Phật Pháp và những thánh địa hành hương, Quỹ ‘U Chandramani Foundation Trust’đã được thành lập năm 2000 để tiếp tục phụng sự sự nghiệp cao cả của ngài. Năm 2004, những Phật tử ở Nagpur, bang Maharashtra, Ấn Độ, đã tặng 13 mẫu đất để xây 2 tòa nhà làm trung tâm hoạt động của Quỹ. Còn nhớ, Nagpur là nơi nhà sư, cùng với Tiến Sĩ Babasaheb Ambedkar, tổ chức lễ chuyển hóa tôn giáo và quy y Phật, Pháp, Tăng cho 380.000 người thuộc giai cấp hạ tiện (Dalits). Thiền sư Sayadaw U Rakkhita Dhamma, là một Tỳ kheo Miến Điện phụ trách trung tâm này cũng là một người bạn thân quen của tác giả quyển sách này từ những năm tu thiền tại Thiền Viện Chanmyay Yeiktha Meditation Centre ở Yangon.

 

10. Tiến Sĩ Babasaheb Ambedkar, Người Lãnh Tụ Của Giai Cấp Hạ Tiện Ấn Độ (20), (21), (22)

10.1 Một Người Uyên Bác, Học Rộng

Nếu nói về cuộc khôi phục Ấn Độ mà không nhắc đến Tiến Sĩ Bhimrao. R. Ambedkar thì thật là thiếu sót. Ông là nhà vô địch, người lãnh tụ của giai cấp hạ tiện Ấn Độ và bản thân là một người, thuộc giai cấp hạ tiện, thiên tài và xuất chúng nhất ở Ấn Độ. Ông chuyển hóa theo Phật giáo năm 1956 và nỗ lực cả cuộc đời để chuyển hóa hàng triệu người theo Phật giáo. Nhờ vậy, mà ngày nay đã có 50 triệu Phật tử ở Ấn Độ. Tuần báo Illustrated Weekly (ngày 1824/11/1979) miêu tả ông là người vĩ đại nhất sau Đức Phật. “Vậy còn thánh Gandhi?”, nhiều người lại hỏi. “Chúng tôi không ý chỉ điều gì về ai hơn ai so với Mahatma Gandhi. Mọi người ai đọc cuốn sách này sẽ đồng ý với ý kiến của tuần báo về Babasaheb”, ông V. T. Rajshekar đã viết vậy trong Tựa Đề cho quyển sách “Annihilation of Caste with a Reply to Mahatma Gandhi” (Sự Tiêu Diệt giai cấp bằng một Câu Trả Lời Cho Mahatma Gandhi”, do tiến sĩ B. R. Ambedkar viết.

(Nếu nói hết về TS. Bhimrao R. Ambedkar, ta cần nhiều quyển sách mới nói hết được về ông. Trong khuôn khổ quyển sách này, chỉ xin lược dịch và tóm lược tiểu sử và đóng góp cho công cuộc khôi phục Phật giáo Ấn Độ của ông – ND).

TS. Bhimrao Ramji Ambedkar sinh ngày 14 tháng 4, 1891 trong một gia đình Mahar Hindu giáo ở thị trấn Mhow, gần Indore, Madhya Pradesh. Ông từng giảng dạy khoa Kinh Tế Chính Trị tại Đại Học Sydenham College. Từ lúc sinh ra cho đến lúc học tiểu học, trung học và đến mãi lúc về nước giảng dạy khoa Kinh Tế Chính Trị tại Đại Học Sydenham College, ông vẫn luôn bị phân biệt đối xử là người thuộc giai cấp hạ tiện của Ấn Độ giáo Hindu, một pariah. Ông thậm chí bị cấm uống nước từ những bình nước để trong phòng cho các giáo viên uống.

Ông là một người hiếu học và uyên bác, có lẽ là người học nhiều trường và có nhiều bằng cấp nhất không những trong lịch sử thế giới giai cấp hạ tiện ở Ấn Độ của ông, cả toàn Ấn Độ mà còn có thể cả toàn thế giới cho đến ngày hôm nay. Ông có bằng Thạc Sĩ Khoa Học, Thạc sĩ & Tiến Sĩ Kinh Tế Học (London); Tiến Sĩ Luật (Columbia); Tiến Sĩ Khoa Học, Tiến Sĩ Văn Chương (Osmania); Luật Sư (Gray’s Inn, London)…

10.2 Dẫn Dắt Phong Trào Giải Phóng Giai Cấp Cho Những Người Thuộc Giai Cấp Hạ Tiện Đối Với Hindu Giáo.

Năm 32 tuổi, trở thành một người uyên bác và tài năng nhất đất nước, ông lập ra Hội Phúc Lợi của Tầng Lớp Bị Áp Bức (Bahishkrit Hitakarini Sabha) vào tháng 7, 1924 với mục tiêu khuyến học, cải thiện văn hóa và điều kiện sống và tiếng nói của tầng lớp nghèo nàn bị khinh khi. Ông cũng sáng lập tổ tuần báo “Bahishkit Bharat” để thông tin cho quần chúng. Năm 1926, ông lập ra tổ chức “Samta Sanik Dal” (có nghĩa là: Đội Quân Vì Bình Đẳng Xã Hội). Năm 1927-1932, ông dẫn đầu phong trào bất bạo động (Satyagraha) cho phép những người thuộc giai cấp hạ tiện được bước vào đền thờ Hindu và được uống nước từ những giếng hay hồ nước công cộng như mọi người Hindu khác. Hai lần nổi bật là phong trào tại đền thờ Kalaram Temple ở Nashik và tại Hồ Nước Chowdar ở Mahad với hàng chục ngàn người tham gia mỗi lần. Phong trào đòi bình quyền ở Hồ Nước Chowdar cũng chứng kiến cảnh những người hạ tiện đốt quyển “Manu Smriti”, quyển sách Luật Hindu cổ đại là công cụ đối xử phân biệt, khinh khi người nghèo khó, ‘hạ tiện’ một cách bất công và hướng dẫn cho tầng lớp ‘thượng lưu’ Hindu trừng phạt và đánh đập giai cấp ‘hạ tiện’ khi họ dám cả gan đọc hay nghe Kinh Vệ-đà!.

Việc làm giúp những người bị khinh khi của TS. Ambedkar đã gây sự chú ý đối với ngài Thống Đốc Bombay, ông này sau đó bổ nhiệm Ambedkar vào Hội Đồng Lập Pháp Bombay. Đây là bước đầu của 20 năm sau đó ông được chọn làm Bộ Trưởng Tư Pháp và là Kiến Trúc Sư Trưởng của Hiến Pháp Ấn Độ khi nước này giành lại độc lập năm 1947.

Ông đã tạo nền móng pháp lý để xóa bỏ sự khinh khi đối với giai cấp bần cùng. Cũng chính ông là người soạn thảo và đưa những biểu tượng Phật giáo thành những biểu tượng quốc gia của Ấn Độ, ví dụ như: biểu tượng Bánh Xe Chuyển Pháp Luân trên nền cờ Ấn Độ và biểu tượng Sư Tử trên đầu Trụ Đá Asoka ở Sarnath trên đồng tiền của Ấn Độ.

10.3 Sự Đối Đầu Của TS. Babasaheb Đối Với Gandhi

Trong quá trình đi tìm quyền lợi tốt hơn cho giai cấp cùng đinh, Ts Ambedkar đã phải đối đầu với nhân vật nổi tiếng là Gandhi, ông này từ chối việc trao những quyền về chính trị cho giai cấp “hạ tiện”. Tại Hội Nghị Bàn Tròn ngày 12 tháng 11, 1930 TS đã yêu cầu chính quyền thuộc địa trao quyền chính trị cho giai cấp “hạ tiện” Ấn Độ. Hội nghị thống nhất theo yêu cầu của ông, tuy nhiên điều đó không được hiện thực hóa, vì Đảng Quốc Đại do Gandhi lãnh đạo đã không tham dự phiên họp thứ nhất mà chỉ dự phiên họp thứ hai vào ngày 15 tháng 9, 1931 và họ đã bác bỏ việc trao quyền chính trị cho giai cấp “hạ tiện” Ấn Độ, mặc dù họ lại không phản đối việc giao quyền tương tự cho những người Sikhs và người Hồi giáo. Nhưng sự phản bác của Gandhi cũng bị thất bại, bởi vì Thủ Tướng Anh Quốc Ramsay MacDonald đã cho phép quyền bầu cử chính trị của Giai cấp “Hạ Tiện” (Dalits) trong một quyết định văn bản là Communal Award (Giải thưởng Cộng đồng) cho những người cùng đinh về công cuộc đấu tranh đòi quyền bầu cử độc lập do chính thủ tướng ban hành vào tháng 8, 1932. Sau khi thất bại trên Bàn Tròn, Gandhi áp dụng vũ khí cuối cùng của mình là Tuyệt Thực cho đến chết! Để yêu cầu sửa đổi quyết định của chính phủ Anh Quốc. Vì vậy, văn bản ban thưởng ‘The Communal Award’ đã phải bị sửa đổi và thay bằng Đạo Luật Poona Pact ngày 25 tháng 9, 1932, mà TS Ambedkar đành lòng phải ký vào để cứu sống Gandhi khỏi chết vì tuyệt thực và vì Ambedkar nhận thấy, nếu vì việc này mà M. Gandhi qua đời, những người Hindu (theo Ấn Giáo) có thể sẽ trả thù và có thể sẽ sát hại nhiều người thuộc giai cấp cùng đinh. Đạo luật mới dành nhiều chỗ từ giai cấp cùng đinh cho những giai cấp khác. (Vấn đề của Gandhi bề ngoài có vẻ sẽ ủng hộ những số ghế bầu cử cho giai cấp hạ tiện, nhưng mục đích chính của ông hoàn toàn về chính trị. Ông muốn giữ đa số ghế hay quyền phủ quyết về tay số người giai cấp cao của Hindu để đối phó với số ghế người Hồi giáo, bởi vì người ‘hạ tiện’ chỉ chiếm ¼ dân số Ấn Độ. Theo ông Gandhi, vào lúc đó chưa thể xóa bỏ triệt để hệ thống giai cấp).

TS. Ambedkar bắt đầu ý định từ bỏ đạo Hindu mà ông biết rõ từ trong chính thống là một tôn giáo phân biệt giai cấp và đối xử tàn bạo người cùng đinh. Cuộc đời bản thân ông cũng đã chứng kiến và là nạn nhân. Những người theo đạo Hindu, nhưng chỉ bởi vì mình thuộc tầng lớp hạ tiện, nghèo hèn, thì không được bước vào đền thờ Hindu! Và không được uống nước sạch chung với những người Hindu  giai cấp cao hơn!. Tại cuộc gặp mặt với quần chúng ngày 13 tháng 10, 1935 ở Yeola, ông nói với quần chúng rằng nếu họ chưa bao giờ được đạo Hindu che chở và bênh vực, họ nên nghĩ đến chuyện thay đổi ‘đức tin’ của mình để tìm đến một tôn giáo có đối xử bình đẳng, bình quyền. Còn nói về bản thân mình, ông phát biểu rằng: “Thật không may, tôi đã sinh ra là một người Hindu. Điều đó ngoài khả năng ngăn cản việc đó xảy ra của tôi, nhưng tôi thề chắc rằng tôi sẽ không chết là một người Hindu.

Khi TS. Ambedkar tuyên bố từ bỏ đạo Hindu, nhiều tôn giáo đã tiếp cận ông như một người nổi tiếng để khuyến khích ông theo tôn giáo của họ, như Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, đạo Sikhs, nhưng ông đã khước từ ngay. Trong bài phát biểu lịch sử “What way for Liberty?” (Con Đường Nào cho Tự Do?) ngày 30 & 31 tháng 5, 1936 ở Dadar, Mumbai, ông đã nói về con đường dẫn đến sự Tự Do của mỗi con người và ông không đặt vấn đề là chuyển hóa qua tôn giáo nào, nhưng ông đã dẫn những lời cuối cùng của Đức Phật nói với ngài Ananda được chép lại trong Kinh Đại Bát-Niết-bàn: Hãy là hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa của chính mình, không nên tìm nơi nương tựa từ bên ngoài; với Giáo Pháp là hòn đảo của mình, là nơi nương tựa của mình, không nên tìm nơi nương tựa khác”.

Và ông đã chọn đạo Phật làm tôn giáo mới của mình, bởi vì đạo Phật chủ trương không phân biệt giai cấp, công bằng xã hội, đúng như lời dạy của Đức Phật khi giảng giải đúng sai cho một ông Bà-la-môn ngạo mạn về sự trái đạo lý của sự phân biệt giai cấp, khinh khi  người khác trong “Kinh về Những Người Hạ Tiện” (Vasala Sutta, Suttanipata 1.7).

Ngày 14 tháng 10, 1956, ông đã kêu gọi và triệu tập Lễ chuyển đạo và Quy y đạo Phật một lần cho 380.000 người tại một khu đất rộng 14 mẫu Diksha Bhumi Nagpur, bang Maharashtra, trong đó có sự tham dự của Hòa Thượng Sayadaw U Chandramani ở Kushinagar. Tất cả 380.000 người cùng đọc theo ông lời tuyên thệ Quy y Tam Bảo và Tuân theo Ngũ giới. Đây là một cuộc chuyển đạo, quy y lớn nhất trong lịch sử tôn giáo. Trong buổi lễ này, ông cũng soạn thảo ra 22 điều quy y dành cho tất cả Phật tử mới. Nhiều người tiếp tục kéo đến Diksha Bhumi và hai ngày sau, ngày 16 tháng 10, 1956 hơn 300.000 người tiếp tục quy y cùng đọc 22 lời thệ nguyện.

10.4 Hai Mươi Hai Lời Thệ Nguyện Của Phật Tử Ấn Độ

22 Lời thệ nguyện đó là:

  1. Tôi sẽ không tin vào Brahma (Phạm Thiên), Thần Vishnu và Mahesh và sẽ không thờ phụng họ.
  2. Tôi sẽ không tin vào Rama và Krishna được cho là hóa thân của Thượng đế và sẽ không thờ phụng họ.
  3. Tôi không tin vào ‘Gauri’, Ganapati và những thần hay nữ thần khác của Hindu và sẽ không thờ phụng họ.
  4. Tôi không tin vào sự hóa thân của Thượng Đế
  5. Tôi không tin Đức Phật là hóa thân của thần Visnu. Tôi tin đấy chỉ là điều ngông cuồng và tuyên truyền sai trái.
  6. Tôi sẽ không thực hành lễ ‘Shraddha’ và sẽ không thực hành lễ ‘pind-dan’ của Hindu.
  7. Tôi sẽ không làm điều gì xâm phạm hay ngược lại những giới hạnh và giáo pháp của Đức Phật.
  8. Tôi sẽ không chấp nhận theo những nghi lễ do Bà-la-môn cử hành.
  9. Tôi tin vào sự bình đẳng của con người.

10. Tôi sẽ nỗ lực để thiết lập sự bình đẳng.

11. Tôi sẽ đi theo ‘Bát Chánh Đạo’ của Đức Phật.

12. Tôi sẽ đi theo mười hạnh ‘paramitas’ (Ba-la-mật) do Đức Phật chỉ ra.

13. Tôi sẽ có lòng từ bi đối với mọi chúng sinh và bảo vệ họ.

14. Tôi sẽ không ăn cắp.

15. Tôi sẽ không nói dối.

16. Tôi sẽ không sát sanh.

17. Tôi sẽ không dùng những chất độc hại như rượu, ma túy…[5]

18. Tôi sẽ nỗ lực đi theo Bát Chánh Đạo và thực hành lòng từ bi trong từng ngày.

19. Tôi từ bỏ Hindu giáo, vì nó làm phương hại đến con người và cản trở sự tiến bộ và phát triển của nhân loại, bởi vì nó dựa vào sự bất bình đẳng. Và tôi chọn đạo Phật là tôn giáo của tôi.

20. Tôi tin chắc Giáo Pháp của Đức Phật là một tôn giáo đích thực.

21. Tôi tin rằng tôi có tái sinh.

22. Tôi xin thệ nguyện và tin chắc rằng từ đây về sau tôi sẽ sống cuộc đời mình theo giới hạnh và giáo pháp của Đức Phật.

10.5 Tại Sao Những Người Hạ Tiện Chuyển Đạo Qua Phật Giáo?

Ngày 12 tháng 5, 1956 TS. Ambedkar đã trả lời trên đài BBC rằng: Theo ông, Phật giáo có 3 nguyên tắc kết hợp mà những tôn giáo khác không có. Những tôn giáo khác đều chủ trương có Thượng đế và Đời sống sau khi chết hay Linh hồn”. Phật giáo thì nhắm đến trí tuệ bát-nhã (panna) hiểu biết hơn là vấn đề mê tín và siêu nhiên; nhắm đến lòng bi mẫn (karuna) là tình yêu giữa người và người, chứ không phải kiểu quan hệ kiểu chủ-tớ; và sự bình đẳng (samata) thay thế cho sự phân biệt giai cấp. Đó là những thứ con người cần có để sống một cuộc đời tốt đẹp và hạnh phúc trên trái đất này. Thượng đế hay Linh hồn không thể làm điều đó. Ba nguyên lý này đã làm cho ông tham gia vào Phật giáo và ông muốn cả thế giới cũng biết đến như vậy.

Nhờ công đức của TS. Babasaheb Ambedkar, tầng lớp quần chúng đã quay lại được với đạo Phật của cha ông mình trong quá khứ sau khi bị liệt vào giai cấp ‘hạ tiện’ kể từ thời đại Gupta Period khoảng năm 400 sau CN. Ngày nay, con số Phật tử Ấn Độ đã lên đến 50 triệu người.

Nếu bạn hành hương qua Ấn Độ và gặp những Phật tử Ấn Độ ở những nơi hành hương thiêng liêng, bạn chỉ cần đưa tay lên chào và nói: “Jhai Bhim!(Bhim sống mãi!). Điều này sẽ làm ấm áp tấm lòng của họ, bởi vì đối với họ, Bhim (tên gọi tắt và thân mến của TS. Bhimrao Ramji Ambedkar) đã giành lại vị trí và danh dự cho tầng lớp bị khinh khi, áp bức. Họ sẽ đáp lại lời chào bằng chính câu: “Jhai Bhim!” từ những khuôn mặt hạnh phúc của họ và điều này luôn mang lại thêm nhiều niềm vui và niềm hoan hỷ cho trong suốt chuyến hành hương về đất Phật của chúng ta.

● Xem Hình “Bốn Nhà Tiên Phong Trong Cuộc Phục Hưng Phật Giáo Ở Ấn Độ”: (sau Phần V) - (1), (2), (3), (4).

▪ Dần dần, tất cả “8 thánh địa quan trọng” trong cuộc hành hương đều đã được khôi phục và phát triển như là những khu di tích và du lịch. Hầu hết những nơi thánh địa đều lấy lại được vẻ huy hoàng trong quá khứ và đều đang sống theo nhịp của cuộc sống, nhờ vào sự nỗ lực cùng nhau của Tăng Đoàn, những nhà khảo cổ, những nhà lịch sử và những đóng góp của những Phật tử vào trong việc phục hồi các di tích. Đặc biệt là vai trò và những đóng góp của tăng Đoàn ở Miến Điện và Tích Lan trong việc xây thêm tu viện, tịnh xá (vihara: tịnh xá, tu viện) để cho Tăng Đoàn, để các Tỳ kheo có thể cư ngụ và làm những người giữ gìn; và đã làm tăng thêm tính thiêng liêng của những khu vực thánh tích. Nhiều khu di tích nằm ở những vùng nông thôn xa xôi, thiếu thốn mọi phương tiện và những tu sĩ đến khu thánh tích đó đã góp phần quan trọng vào việc dạy học và giúp đỡ những người địa phương. Một lần nữa, đó là những di tích, thánh tích ‘sống’, đáng được tôn thờ và chiêm bái, mà hàng ngàn tín đồ đến viếng thăm mỗi năm từ khắp nơi trên thế giới để tỏ lòng thành kính đối với bậc Đại Sư (Sattha) mà thế giới đã hằng biết đến – Đức Phật – và để tích tạo công đức bằng những cuộc hành hương của lòng kính đạo và niềm tin. Một cuộc hành hương về những di sản Phật giáo chắc chắn sẽ làm cho Tâm cao đẹp hơn và làm tăng trưởng nhiều phẩm chất tốt đẹp trong mỗi người. Nhìn cảnh những người đạo hữu hành hương đến từ những miền xa xôi với cùng mục đích tôn vinh Đức Thế Tôn, chắc chắn sẽ làm khởi sinh những cảm giác hoan hỉ (mudita) ấm áp trong lòng người hành hương.

Đối với những người hành hương ‘để tâm’ và ‘khéo nhìn’, quang cảnh của những đền tháp huy hoàng ngày xưa, nay chỉ còn là những tàn tích và những đống đổ nát, có thể là cơ hội để mình quán chiếu và chiêm nghiệm thêm về sự Vô Thường của tất cả những pháp hữu vi (sankhara), những gì được sinh ra dù kiên cố đến đâu rồi cũng tàn hoại. Điều đó có thể sẽ khởi sinh trong lòng sự thúc giục về mặt tâm linh để mau mau tinh tiến thực hành con đường và Giáo Pháp của Đức Phật.

Những Phật Tử sau khi hoàn thành cuộc hành hương của lòng tin và lòng kính đạo, sẽ còn mang mãi những cảm giác khó thay đổi và khó quên trong lòng.

Không nơi đâu trên trái đất này có thể làm xúc động thật mạnh lòng người và thúc giục tâm linh hơn là những nơi chúng ta đến viếng thăm và tôn kính ở Tám Thánh Địa Phật Giáo này. Những thánh tích thiêng liêng cũng mang lại cho chúng ta những niềm ‘yên ủi’ và ‘an lạc’ cho đến tận sau này.

Những người Phật tử kính đạo nên lắng nghe theo lời dặn của Đức Phật trước khi Người ra đi và hãy cố gắng thu xếp một cuộc hành hương về đất Phật, ít nhất một lần trong cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta.



[1]Samvega là cảm xúc của Thái Tử Siddattha lần đầu tiếp xúc với cảnh người già, bệnh và chết. Đây là một từ khó dịch vì nó bao hàm nhiều mức độ của cảm xúc: a) cảm giác đè nặng do choáng sốc, vỡ mộng và chán ngán khi nhận ra sự phù phiếm, vô nghĩa của đời sống; b) cảm giác khiêm nhượng do nhận ra đã mình tự mãn và khờ dại khi sống một cách mù quáng; c) cảm giác bồn chồn khắc khoải do ý thức tính cấp bách của việc tìm cách thoát ra khỏi cái vòng quẩn quanh vô nghĩa này. Khó tìm được một từ nào trong ngôn ngữ chúng ta có thể gói ghém đầy đủ cả ba tâm trạng đó. Có lẽ chúng ta nên du nhập thẳng từ samvega vào trong ngôn ngữ của mình….Cảm xúc của Thái Tử với người thứ tư mà Người gặp ngoài cung điện: vị sa-môn du hành. Cảm xúc lúc này của Người có tên là pasada, một loại cảm xúc đa chiều khác, thường được dịch là ‘niềm tin trong sáng’ (‘niềm tin thanh tịnh’, ‘tâm tịnh tín.’). Đây là cảm xúc giữ cho cảm giác samvega không biến thành tuyệt vọng. Thái tử đã ý thức rõ tình trạng hiểm nguy của mình, và ý thức về một con đường thoát khỏi tình trạng ‘già, bệnh, chết’ và tin tưởng có một con đường sẽ thành công. (Chú thích theo tham luận “Tin vào Trái Tim- Giáo lý về Samvega & Pasada”, 1997, của Tỳ kheo Thanissaro do Thích Nữ Chân Giải Nghiêm dịch. Chúng ta nên tìm đọc về pháp luận rất hữu ích này (và nhiều pháp luận khác) trên: www.buddhanet.net/budsas/uni/u-thanis/00.htm - ND).

[2]Những ghi chép của Ngài Pháp Hiển là theo cách những người theo Phật giáo Đại Thừa lúc đó thì hay gọi họ (những người theo các 18 trường phái Kinh Bộ Nikayas) là Tiểu Thừa. Nhưng cách gọi đó đã trở thành ấu trĩ, mang tính khinh miệt họ và tự tôn mình của những người Đại Thừa. Sau này, trên thế giới người ta gọi họ là những người theo “Phật giáo Nguyên thủy”. Và chúng ta đang bàn luận về những cuộc hành hương về xứ Phật, nơi mà Đức Phật từ lúc ra đời cho đến khi từ giã trần gian Bát-Niết-bàn chưa hề giảng dạy một giáo pháp nào có tên Tiểu Thừa, Đại Thừa (hay xe lớn, xe nhỏ) cả. Và những thánh địa thiêng liêng là chứng tích của quê hương khởi thủy của Phật giáo mà chúng ta đang tâm nguyện chiêm bái, nên chúng ta cũng nên gọi bằng tên “Phật giáo Nguyên thủy”, ở những nơi chúng ta sẽ gặp gỡ, chứng kiến hàng ngàn Phật tử và tu sĩ mộ đạo đáng kính đến từ nhiều đất nước Phật giáo khác nhau. (Xem thêm quyển ‘Giáo Trình Phật Học’, Chương XVII của cùng tác giả; “Đạo Phật Nguyên Thủy và Đạo Phật Đại Thừa” của HT. TS. W. Rahula - ND).

[3]Theo truyền thuyết được ghi chép lại bởi những nhà hành hương Trung Hoa, Đức Phật đã để lại bóng của Người in trên hang động ở vách núi Nagahara (thủ phủ ngày xưa của thị trấn Jalalabad). Hang Động lớn này là nơi ở của Rồng Naga Gopala hủy diệt, nó đã định tiêu diệt vương quốc này, chỉ vì nó có một số xích mích với nhà vua trong kiếp trước. Vì lòng từ bi đối với những dân cư đang sống ở đây, Đức Phật từ Trung Ấn đã đến nơi đây để hàng phục con rồng và Người đã để lại bóng của mình trên vách hang động của Rồng Naga Gopala. Đức Phật dặn con rồng là phải nhìn lên bóng Phật mỗi khi tâm ác khởi sinh thì lập tức lòng từ sẽ được thay thế cho ác tâm. Về sau này, bóng Phật đã không còn được thấy nữa.

[4]Sayadaw là cách gọi một người tu sĩ Phật giáo Miến Điện. Trong tiếng Miến Điện, ‘Sayadaw’ là: Thầy, Sư, Tỳ Kheo. Ở đây có nghĩa là Sư U Chandramani.

[5]Theo nghiên cứu trong rất nhiều tài liệu, người dịch vẫn không tìm thấy nguyên bản chính thức khác nào của 22 Điều Thệ Nguyện này của TS. Ambedkar có ghi thêm một giới hạnh quan trọng trong Ngũ Giới là “Không tà dâm, ngoại tình”. Và cũng khó mà tưởng tượng đây là một sự thiếu sót của TS. Ambedkar. Vì ngay cả đó là thiếu sót do sơ suất, nhưng đến nay cũng không ai đề cập về vấn đề này, mặc dù lịch sử đã ghi rõ là cuộc Quy Y của 380.000 và hơn 300.000 người cách 1 ngày sau đó là quy y Tam Bảo & tuân theo Ngũ Giới của Phật giáo – ND.


Âm lịch

Ảnh đẹp