CHƯƠNG III VUA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC NĂM 1285
Ta
đã thấy ngay vào năm 1279, khi Trần Nhân Tông lên ngôi ở Đại Việt
và khi nhà Tống bị tiêu diệt ở Trung Quốc, Hốt Tất Liệt liền ra lệnh
đóng chiến thuyền tiến đánh Đại Việt, ý chừng muốn thừa thắng xông
lên, sử dụng đội quân bách chiến bách thắng, đè bẹp sức chiến đấu của
dân tộc ta. Tuy nhiên, do rút kinh nghiệm trong cuộc chiến 1258, lần
này Hốt Tất Liệt chuẩn bị phương hướng và sách lược kỹ càng hơn với
việc cho Toa Đô tiến đánh Chiêm Thành vào năm 1282 để làm gọng kìm
phía nam cùng với hai gọng kìm đông bắc và tây bắc, nhằm bóp nát Đại
Việt.
Thực tế ta sẽ thấy cuộc chiến sẽ xảy ra theo hướng đúng như thế, nhưng kết quả hoàn toàn khác.
Hốt Tất Liệt chuẩn bị cuộc chiến năm 1285
Sau
thất bại của việc áp đặt chính quyền bù nhìn Trần Di Ái lên nước ta
vào cùng năm 1282, Hốt Tất Liệt vẫn kiên trì chờ đợi thắng lợi từ
chiến trường Chiêm Thành. Nhưng chiến thắng đã không bao giờ xảy ra,
như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 2b2-3 và 2b9-11 đã ghi nhận về sự tan
rã của đội quân Toa Đô từ Chiêm Thành chạy về Trung Quốc và “bình
chương của Hồ Quảng hành tỉnh là A Lý Hải Nha xin tự thân mình đến bờ
biển thu thập đám quân tan rã từ Chiêm Thành”. Quân dân Chiêm Thành đã
tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ, vừa đánh vừa đàm, dìm đội
quân Toa Đô trong vũng lầy của chiến tranh du kích tại một đất nước
nhiệt đới.
Chờ
mãi không thấy chiến thắng, mà chỉ thấy thư yêu cầu viện binh, Hốt
Tất Liệt ngày Đinh Sửu 28 tháng 5 năm Chí Nguyên 21 (1284) đã tước hổ
phù của Ô Mã Nhi do thất bại trong khi đem quân đi tiếp viện cho Toa
Đô. Rồi đến ngày Mậu Tý 12 tháng 7 năm đó ra lệnh cho con là Thoát
Hoan chính thức cầm quân đánh Chiêm Thành như Bản kỷ của Nguyên sử 13
tờ 4a8 đã chép. Song đây là một quyết định giả vờ, vì đối tượng xâm
lược chủ yếu của Thoát Hoan không phải là Chiêm Thành, mà chính là Đại
Việt. Cũng chính trong ngày Mậu Tý ấy, phái bộ của trung lượng đại
phu Nguyễn Đạo Học do vua Trần Nhân Tông cử đi đem phương vật biếu vua
Nguyên, đồng thời để dò xét tình hình. Đó cũng là ngày vua Nguyên
cho phái bộ Lê Anh của ta về nước.
Hốt
Tất Liệt cho tổ chức bộ máy chỉ huy quân sự khổng lồ, mà ngoài
Thoát Hoan ra thì gồm hầu hết các tướng tài của đội quân Mông Cổ từng
có chiến công trong việc tiêu diệt nhà Tống. Đó là A Lý Hải Nha, người
chiến thắng của các thành Tương Dương, Ngạc Châu, Phàn Thành, Tỉnh
Giang, Giang Lăng và nhiều chiến trường khác nữa của Trung Quốc. Rồi
Lý Hằng, kẻ chiến thắng trong chiến dịch Nhai Sơn, hoàn thành việc
tiêu diệt vương triều Tống. Và một loạt các tướng tá đã từng cộng tác
với A Lý Hải Nha và do chính A Lý Hải Nha cất nhắc bồi dưỡng như Áo Lỗ
Xích, Trình Bằng Phi, Ô Mã Nhi, Toa Đô, Phàn Tiếp, v. v. Nói cách
khác, Hốt Tất Liệt đã tập hợp một bộ sậu tác chiến đầy kinh nghiệm
và có bản lĩnh.
Khi
Thoát Hoan còn ở Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh vào tháng 7 năm Chí
Nguyên 21 (1284), vua Trần Nhân Tông đã sai phái bộ Nguyễn Đạo Học
sang gặp Thoát Hoan. Và theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ
5b12-6a6, Thoát Hoan đã sai lý vấn quan Khúc Liệt (Kỳlô) và tuyên sứ
Tháp Hải Tản Lý (Taqai Sarợq) cùng với Nguyễn Đạo Học đem thư của A Lý
Hải Nha trách vua ta và đòi vua phải cung cấp lương thực cho quân
Nguyên và lên biên giới đón Thoát Hoan vào đất nước mình trên đường
chúng đi đánh Chiêm Thành. Khi Thoát Hoan tiến quân đến huyện Hành
Sơn của Hồ Nam thì Khúc Liệt và Tháp Hải Tản Lý đã trở về từ Đại Việt
cùng với phái bộ Trần Đức Quân và Trần Tự Tông do vua Trần Nhân Tông
gửi lên cùng bức thư của vua, từ chối việc mượn đường của Thoát Hoan:
“Từ nước tôi đến Chiêm Thành, thủy bộ đều không tiện”. Khi nhận được
thư này, Thoát Hoan lại cho Triệu Tu Kỷ gửi thư lại cho vua Trần Nhân
Tông yêu cầu mở đường và cấp lương. Cùng lúc lại được tin Trần Hưng
Đạo đem quân lên án ngữ biên giới.
Tất cả chi tiết này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b11 chép vào tháng 2 của năm Chí Nguyên thứ 22 (1285).
Lý do nằm ở chỗ Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 6a5 đã ghi tháng 12
năm Chí Nguyên 21, quân của Thoát Hoan đã tới nước ta. An Nam chí
lược 4 tờ 53 ghi càng rõ hơn: “Tháng 12 ngày 21 Giáp Tý, quân đã đến
đón ở biên giới An Nam”. Điều này hoàn toàn phù hợp với những ghi chép
của Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a2-3: “Năm
21 tháng 10, quân đến Vĩnh Châu. An Nam sai Hưng Đạo Vương đem quân
2 vạn đóng những nơi xung yếu để chặn quân vua. Tháng 12, đánh bại
chúng ở ải Khả Ly”.
Như
vậy, đúng ra phải tới tháng 10 năm Chí Nguyên 21 (1284), Thoát Hoan
mới tiến quân đến huyện Vĩnh Châu của Hồ Nam. Tại đây, A Lý Hải Nha
lại sai vạn hộ Triệu Tu Kỷ viết thư đòi vua ta phải “mở đường, sửa
soạn lương thực đến đón Trấn Nam Vương”, như An Nam truyện của Nguyên
sử 209 tờ 6a5-6 đã ghi. Cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ
6a6-7, tới Ung Châu của Quảng Tây, Thoát Hoan được tin tướng điện
tiền Phạm Hải Nhai của Đại Việt đem quân đến đóng các xứ Khả Lan, Vi
Đại Trợ. Thoát Hoan cho tiến quân tiếp đến Tư Minh của Quảng Tây, viết
thư cho vua Trần Nhân Tông, để lặp lại các đòi hỏi mà A Lý Hải Nha đã
nói tới. Rồi tiếp tục dẫn quân vào đất nước ta ở Lộc Châu, tức
huyện Lộc Bình của Lạng Sơn ngày nay.
Tại
đây, khi nghe tin vua Trần Nhân Tông đã điều quân đóng các ải Khâu
Ôn và Khâu Cấp Lãnh, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đã chia quân làm hai
ngả để tiến. Việc chia quân này theo An Nam chí lược 4 tờ 53 là vào
ngày 21 Giáp Tý tháng 12 năm Giáp Thân, tức ngày 27 tháng giêng năm
1285, và nó cũng cho biết cánh quân phía Tây do Vạn Hộ Bột (An Nam chí
lược viết Lý, LMT) La Hợp Đáp Nhi (Bolqadar) và chiêu thảo A Thâm
(Atsin) chỉ huy do đường huyện Khâu Ôn tiến xuống. Còn cánh phía Đông
thì có khiếp tiết Tản Đáp Nhi Đãi (Tatartai) và vạn hộ Lý Băng Hiến
tiến xuống bằng đường Cấp Lãnh.
Ngay
thời điểm này vua Trần Nhân Tông vẫn sai thiện trung đại phu Nguyễn
Đức Dư và triều thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn đưa thư tới Thoát Hoan yêu
cầu lui quân, nhắc tới tờ chiếu Hốt Tất Liệt năm 1261 về việc “sắc
riêng cho quân ta không vào bờ cõi nhà ngươi”, như An Nam truyện của
Nguyên sử 209 tờ 6a9-10. A Lý Hải Nha đã giữ Nguyễn Văn Hàn lại và
cho Nguyễn Đức Dư cùng đi với tổng bản A Lý đem thư hắn trả lời việc
xin lui quân của phía ta bằng cách nói rằng: “Sở dĩ dấy quân là vì
Chiêm Thành chứ không phải vì An Nam”. Nhưng A Lý đến vùng đất huyện
Cấp Bảo thì gặp quân Đại Việt do quản quân Nguyễn Lộc chỉ huy, rồi các
nơi thôn Lý, huyện Đoản, Vạn Kiếp đều có quân của Hưng Đạo Vương,
nên A Lý không tiến lên được. A Lý Hải Nha bèn sai Nghê Nhuận đi do
thám hư thực để tính việc tiến quân. Chẳng bao lâu, Tản Đáp Nhi Đãi,
Lưu Bang Hiến và Tôn Hựu báo cáo là đến ải Khả Ly gặp quân Giao đánh
trả. Đó là viết theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a3-b2.
Trận Nội Bàng
Trong
trận đánh tại ải này, Tôn Hựu đã bắt được 2 tướng của ta là quản
quân phụng ngự Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu và sau đó giết 2 tướng này. Rồi tiến
đến Động Bàng, đại quân của Thoát Hoan đã giao chiến với quân ta và
tướng Tần Sâm trúng thương, đã hy sinh. Tiếp theo, chúng tiến quân đến
đóng ở thôn Biến Trú.
Ngày
26 tháng 12 ĐVSKTT viết: “Giặc đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng,
Thiết Lược và Chi Lăng”. Thế là sau 5 ngày tiến quân từ Lộc Châu
xuống, cánh quân phía tây của Bột La Đáp Nhĩ cũng như đại quân của
Thoát Hoan đã thành công khi phá vỡ tuyến phòng ngự chủ yếu để bảo vệ
kinh thành Thăng Long bằng cách vượt qua các cửa ải chính của nước ta ở
phía bắc và bắt đầu tiến xuống đồng bằng phía nam. Đặc biệt khi
đánh vào ải Nội Bàng, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b5, đại
quân của Thoát Hoan đã chia làm 6 mũi để bao vây và tiến chiếm.
Bản
kỷ của Nguyên sử 13 tờ 6a5-6 viết: “Tháng đó, quân Trấn Nam Vương
đến An Nam, giết những lính thú, chia quân sáu đạo để tiến. Hưng Đạo
Vương của An Nam đem quân cự lại”.
Như
vậy, đây có thể nói là một trận đánh lớn, nếu không phải là trận
đánh quyết chiến chiến lược, bởi vì chỉ huy trận đánh này về phía ta
là do chính Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo thực hiện và chắc chắn
quân ta đã tổn thất nặng với Đại liêu ban Đoàn Thai bị giặc bắt sống.
Sau này, như sẽ thấy dưới đây, vua Trần Nhân Tông đã ra lệnh cho
Trần Hưng Đạo điều động quân ở các lộ về, mà riêng quân của các vương,
con của Trần Hưng Đạo, đã lên tới gần 20 vạn. Hơn nữa, Trần Hưng Đạo
đã rút khỏi Nội Bàng trong một tình thế hết sức bức bách và vội vã,
có vẻ như mặt trận Nội Bàng tan vỡ đột ngột, nằm bên ngoài dự kiến của
chính bản thân Trần Hưng Đạo.
ĐVSKTT
5 tờ 45a4 -b1 viết về việc rút quân khỏi trận đánh này một cách khá
hình ảnh bằng cách kể lại chuyện Tỳ tướng Yết Kiêu chờ đợi ông tại
Bãi Tân: “Trước đây Hưng Đạo Vương có gia nô tên là Dã Tượng và Yết
Kiêu. Ông đối đãi họ rất hậu. Khi quân Nguyên đến, Yếõt Kiêu giữ
thuyền ở Bãi Tân. Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo. Lúc quan quân thua
trận, quân thuyền đều giải tán. Vương muốn theo lối chân núi mà đi. Dã
Tượng nói: ‘Yết Kiêu chưa thấy đại vương, tất không dời thuyền chỗ
khác’. Vương đi ngay đến Bãi Tân, chỉ có thuyền của Yết Kiêu còn đấy.
Vương mừng lắm, nói rằng: ‘Chim hồng hộc có thể bay cao được là nhờ
vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi’.
Vương nói xong thì thuyền chèo đi, quân kỡ của giặc đuổi theo không
kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đóng giữ Bắc Giang”. Thế đủ biết
mặt trận Nội Bàng tan vỡ trong tình huống hoàn toàn bất lợi, thậm chí
có vẻ bất ngờ, không những đối với vị chỉ huy trực tiếp là Trần Hưng
Đạo, mà còn đối với vua Trần Nhân Tông, vị lãnh tụ đồng thời là chỉ
đạo tối cao của cuộc kháng chiến thời bấy giờ.
Sự
tình này ta có thể thấy qua việc vua Trần Nhân Tông, khi được cấp
báo về tình hình chiến sự Nội Bàng, đã bỏ ăn sáng, dong thuyền đi suốt
ngày ra Hải Đông, để gặp Trần Hưng Đạo, như ĐVSKTT đã mô tả: “Lúc ấy
vua ngự chiếc thuyền nhẹ, sang lộ Hải Đông. Ngày đã gần chiều, vua
chưa ăn cơm sáng, có tiểu tốt là Trần Lai đem dâng cơm gạo xấu. Vua
khen là trung, ban cho tước thượng phẩm, kiêm chức tiểu tư xã xã Hữu
Triều Môn ở Bạch Đằng”. Rõ ràng việc vua Trần Nhân Tông bỏ ăn sáng và
lập tức cho thuyền ra Hải Đông để gặp Trần Hưng Đạo, chứng tỏ mặt trận
này đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược quốc phòng của
nhà Trần lúc đó.
Có
thể nói, nó cho ta thấy chủ trương tác chiến ban đầu của vua Trần
Nhân Tông và Trần Hưng Đạo hình như là đưa quân lên chặn giặc ngay tại
những vùng địa đầu biên giới của tổ quốc theo chiến lược Lý Thường
Kiệt đã làm hơn 200 năm trước. Việc mặt trận Nội Bàng tan vỡ, do thế,
đòi hỏi phải có những quyết định chiến lược mới, thay đổi chiến lược
cũ trong việc đối phó với kẻ thù, phải có một phương án tác chiến mới
mà có thể vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo đã dự phòng. Vì vậy,
vua Trần Nhân Tông phải trực tiếp đi gặp Trần Hưng Đạo.
Trần
Hưng Đạo và vua Trần Nhân Tông đã bàn gì trong cuộc hội kiến chớp
nhoáng ở Hải Đông, ngày nay ta không được biết. Nhưng sau cuộc gặp đó
ĐVSKTT 5 tờ 44b7 -45a4 đã ghi: “Hưng Đạo Vương vâng lệnh điều quân dân
các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiên
phong vượt biển vào nam. Thế quân đã hơi nổi. Các quân nghe thế,
không quân nào là không đến tụ họp. Vua làm thơ đề ở cuối thuyền
rằng:
Cối Kê việc cũ ông nên nhớ
Hoan Ái vẫn còn mười vạn quân
Hưng
Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng
Trí Vương Hiện đốc xuất quân các sứ Bằng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên
Sinh, Long Nhã, cộng 20 vạn quân đến họp ở Vạn Kiếp theo sự điều khiển
của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên”.
Sự
thay đổi phương án tác chiến chiến lược thực tế đã xảy ra, mà rồi
đây ta lần lượt sẽ thấy nó thể hiện trong phương pháp chỉ đạo chiến
tranh của vua Trần Nhân Tông. Phương án mới này thường được các nhà
quân sự hiện nay gọi là phương án “rút lui chiến lược và phản công
chiến lược”. Cuộc hội nghị chớp nhoáng giữa Trần Nhân Tông và Trần
Hưng Đạo sau khi mặt trận Nội Bàng tan vỡ, thể hiện tư duy quân sự sắc
sảo không chỉ của Trần Hưng Đạo, mà của chính Trần Nhân Tông với tư
cách là vị tổng tư lệnh quân đội của nước ta thời bấy giờ. Chỉ một
việc Trần Nhân Tông bỏ ăn cả ngày để đi gặp Trần Hưng Đạo đủ chứng
tỏ tình hình nguy ngập như thế nào. Không những thế, nó còn cho ta
thấy, Trần Nhân Tông đã bám sát tình hình tác chiến của quân đội ta
thời bấy giờ chặt chẽ và sít sao tới mức nào, để khi tình hình diễn
biến phức tạp bất lợi và có nhiều nguy cơ, thì vua Trần Nhân Tông đã
chủ động đi tới hiện trường giải quyết dứt điểm các vấn đề vừa mới
nảy sinh. Việc điều động quân từ các lộ và vương hầu tập kết ở Vạn
Kiếp là một thí dụ điển hình. Hai câu thơ cho thấy rõ ràng vua Trần
Nhân Tông viết để nhắn gửi cho Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh thời
bấy giờ. Về “việc cũ Cối Kê”, tức việc Câu Tiễn nước Việt xưa bị Phù
Sai nước Ngô đánh bại, nhưng cuối cùng qua gian khổ, nhịn nhục, đã
vùng lên tiêu diệt Phù Sai để chiến thắng. Điều này hàm ý sự kiện mặt
trận Nội Bàng tan vỡ là một tổn thất vô cùng to lớn đối với quân đội
Đại Việt. Chính vào thời điểm này, Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã
hỏi thử vị tướng trực tiếp chỉ huy mặt trận là Trần Quốc Tuấn xem nên
có đầu hàng không. Nhà chiến lược thiên tài đã trả lời: “Bệ hạ hãy
chém đầu thần trước rồi hãy hàng” như ĐVSKTT 6 tờ 11B đã ghi. Tuy thế,
khi đã tập kết quân các lộ về, riêng quân của các vương hầu, như Hưng
Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng
Trí Vương Hiện đã lên tới con số hai chục vạn, chứng tỏ thực lực
quân đội ta lúc ấy đang được bảo toàn. Đứng trước một tập đoàn quân
hùng mạnh như thế, ngoài việc phát động tinh thần quyết chiến quyết
thắng của “việc cũ Cối Kê”, vua Trần Nhân Tông còn động viên và làm
phấn khởi các tướng lĩnh và quân nhân hiện diện bằng cách báo cho họ
biết một tin vui là lực lượng ta vẫn còn 10 vạn quân tại Hoan Ái sẵn
sàng bổ sung vào chiến đấu. Hơn nữa, sau trận Nội Bàng, phía địch vẫn
thừa nhận “Hưng Đạo Vương vẫn còn binh thuyền hơn 1000 chiếc, đóng
cách Vạn Kiếp 10 dặm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6 đã
ghi.
Trận Vạn Kiếp
Cuộc
tấn công Nội Bàng vào ngày 26 Tết năm Giáp Thân của Thoát Hoan, mà
An Nam chí lược ghi là ngày 27, chắc chắn đã kéo dài mấy hôm. Thế mà
năm Giáp Thân sắp hết, Tết năm Ất Dậu đã gần kề, quân dân Đại Việt
đang rộn ràng ăn Tết bằng chiến đấu và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Trận Nội Bàng đã kết thúc. Trần Hưng Đạo đã rút về Vạn Kiếp và tập
kết quân từ các lộ để sửa soạn cho cuộc chiến sắp tới. ĐVSKTT 5 tờ
45b2-3 cho ta biết: “Ngày mồng 6 tháng giêng mùa xuân năm Ất Dậu Thiệu
Bảo thứ 7 (1285) Ô Mã Nhi nhà Nguyên đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi
Phả Lại, quan quân vỡ chạy”. Tuy nhiên, Nguyên sử 13 tờ 6a6 lại ghi:
“Tháng đó (tức tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 21), Hưng Đạo Vương của
An Nam đem quân chống lại ở Vạn Kiếp, bèn tiến quân đánh bại nó.
Vạn hộ Nghê Nhuận đánh, chết ở Lưu Thôn”.
Thế
là từ chiến thắng Nội Bàng, Thoát Hoan đã triển khai ngay kế hoạch
tấn công Vạn Kiếp, chứ không chờ gần 10 ngày mới cho lệnh tấn công,
như ĐVSKTT đã có. Dẫu sao đi nữa, trong trận chiến Nội Bàng và những
trận trước như Động Bàng, Khâu Ôn, nếu quân ta có tổn thất, thì nhất
định quân địch cũng tổn thất không kém do tinh thần chiến đấu ngoan
cường của quân đội ta. Vì vậy, cả hai bên đều cần thời gian, gấp rút
tổ chức lại quân đội và sắm sửa khí tài phục vụ cho cuộc chiến sắp
tới.
Theo
An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6-7, Thoát Hoan cho dựng công
trường đóng chiến thuyền và thành lập các cánh quân thủy giao Ô Mã Nhi
chỉ huy, tiến xuống Vạn Kiếp. Trên đường tiến, chúng đã lượm được hai
lá thư vua Trần Nhân Tông gửi cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha về việc
yêu cầu chúng chấp hành lệnh năm Trung Thống thứ 2 (1261) của Hốt Tất
Liệt và đòi chúng rút quân về. Đồng thời, A Lý Hải Nha gửi thư cho
vua Trần Nhân Tông yêu cầu mở đường “cho triều đình đem quân đánh
Chiêm Thành”, rồi giao cho sứ ta bị chúng giữ lại là Nguyễn Văn Hàn
đem tới Vạn Kiếp.
Đến
giờ phút đó, A Lý Hải Nha vẫn còn dở giọng như An Nam truyện của
Nguyên sử 209 tờ 6b11-7a3 đã ghi: “Triều đình đem quân đánh Chiêm
Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử, bảo mở đường, chuẩn bị lương,
không ngờ đã trái mệnh triều đình, để bọn Hưng Đạo Vương đem quân
chống lại, đánh bị thương quân ta. Để cho sinh linh An Nam chịu tai
họa, chính là do nước ngươi làm ra. Nay đại quân qua nước ngươi, để
đánh Chiêm Thành, hoàng đế truyền lệnh cho thế tử hãy nghĩ kĩ đi. Nước
ngươi quy phụ đã lâu, nên nghĩ đến đức thương yêu to lớn của hoàng
đế, mà lập tức ra lệnh rút quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ
làm ăn sinh sống. Quân ta đi qua, không mảy may xâm phạm. Thế tử hãy
ra đón Trấn Nam Vương, cùng bàn việc quân. Nếu không, đại quân sẽ
đóng lại ở An Nam, mở phủ”.
Về
phía Đại Việt, thì như đã thấy, vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo
đã điều động quân các lộ vùng đông bắc như Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm
và các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh và Long Nhãn về đóng ở
Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Núi Phả Lại, theo An Nam Chí Nguyên 1 tờ 42
mục Sơn xuyên thì “ở huyện Từ Sơn, mặt kề Bình Than, sông Như Nguyệt
quanh bên trái, sông Ô Cách bọc bên phải, cảnh vật mỹ lệ, là cảnh đẹp
một phương”.
Bản thân Trần Nhân Tông theo An Nam truyện của Nguyên sử 209
tờ 7a3-4 thì đem “các quân Thánh Dực hơn một nghìn thuyền giúp Hưng
Đạo Vương cự chiến”.
Vậy
là, khi Tết Ất Dậu chưa tới, theo Bản kỷ của Nguyên sử, Ô Mã Nhi đã
ra lệnh tấn công căn cứ Vạn Kiếp. Một trận đánh ác liệt đã nổ ra.
Tướng Nguyên là vạn hộ Nghê Nhuận đã tử trận tại Lưu Thôn. Điều này
phù hợp với mô tả trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b5-6. Theo
đó, sau trận Nội Bàng, “Hưng Đạo Vương trốn đi, quan quân đuổi đến
Vạn Kiếp, đánh các ải, đều phá được”. Trận Vạn Kiếp đã xảy ra như vậy
trước Tết Ất Dậu.
Trận Bình Than
Đến
ngày mồng 9 Nhâm Ngọ tháng giêng, theo An Nam chí lược 4 tờ 54 vua,
Trần Nhân Tông “đem 10 vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên soái Ô
Mã Nhi, chiêu thảo Nạp Hải (Naqai), và trấn phủ Tôn Lâm Đức đem những
thuyền bắt được từ trước đến đánh tan”. Cũng ngày này, Bản kỷ của
Nguyên sử 13 tờ 7a8-9 ghi nhận:
“Ô
Mã Nhi dẫn quân gặp Hưng Đạo Vương của An Nam bèn đánh bại”, tuy
không nói ở đâu. Thế thì, trận Bài Than với 10 vạn quân do vua Trần
Nhân Tông chỉ huy chắc chắn phải gồm cả nghìn chiến thuyền do Trần
Hưng Đạo bố trí cách Vạn Kiếp chừng 10 dặm, mà Nguyên sử nói tới ở
trên.
Bài
Than ở đây tức chính là Bình Than, bởi vì An Nam Chí Nguyên 1 tờ
46-47 khi viết về sông Bình Than, đã nói: “Một tên là Bàn Than, lại có
tên Bài Than ở tại huyện Chí Linh, phát nguyên từ Xương Giang đến
sông Thị Cầu, thì hai nhánh hợp lưu chảy qua hai núi Chí Linh và
Phả Lại, quanh co mênh mông không rõ đâu là bờ bến, đến cửa sông Đồ Mộ
thì rẽ thành hai nhánh và chảy vào biển”. Bài Than trong trích dẫn
này là đọc theo thủ bản B do Gaspardone đã ghi lại ở phần khảo dị
trang 47.1
Vậy,
Bình Than “mặt kề” với núi Phả Lại, nơi ba năm trước đã chứng kiến
hội nghị quân sự đánh Nguyên do vua Trần Nhân Tông chủ trì, thì bây
giờ đang là địa điểm diễn ra trận thủy chiến dữ dội nhất của lịch sử
quân sự dân tộc do chính vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy với cả
10 vạn quân tham dự. Có thể nói đây là một trong những trận thủy
chiến lớn nhất, để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời thể hiện chủ
trương rút lui chiến lược của bộ chỉ huy tối cao.
Trận Thăng Long
Sau
các trận Vạn Kiếp, Phả Lại và Bình Than, quân địch tiến đánh Vũ
Ninh và Đông Ngạn, rồi tiến xuống Gia Lâm.Trong khi đó, quân ta rút về
Thăng Long theo đường sông Thiên Đức và có những trận đánh lẻ tẻ với
quân Nguyên trên đường sông này. ĐVSKTT 5 tờ 45b3-5 ghi: “Ngày 12 giặc
đánh Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngạn, bắt được quân ta, đều có thích vào
cánh tay hai chữ sát thát bằng mực, chúng rất giận, đem giết rất
nhiều, rồi tiến đến Đông Bộ Đầu, dựng cờ lớn. Vua muốn sai người xem
rõ hư thực của giặc mà chưa được người. Chi hầu cục thủ Đỗ Khắc Chung
tiến lên tâu rằng: ‘Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi’. Vua mừng
nói: ‘Đâu biết trong đám ngựa kéo xe muối, lại có ngựa ký ngựa kỷ’.
Rồi Chung nhận thư xin đi”.
Nhưng
thực tế, theo Nguyên sử 13 tờ 7a9 thì đó là ngày “Ất Dậu thế tử An
Nam là Trần Nhật Huyên đem hơn nghìn chiến thuyền chống cự. Ngày Bính
Tuất, đánh nhau, đại phá. Nhật Huyên trốn đi, bèn vào thành y, rồi trở
ra đóng ở bắc sông Phú Lương”. An Nam chí lược 4 tờ 54 viết: “Ngày 13
Bính Tuất, thế tử giữ Lô Giang, lại bị vỡ, bỏ chạy.Trấn Nam Vương
vượt sông, vào yến tiệc ở cung đình”. Kinh tế đại diễn tự lục trong
Nguyên văn loại 41 tờ 27a4-56 cũng ghi tương tự: “Quan quân đến sông
Phú Lương, Nhật Huyên chính mình cự chiến, bị thua, bỏ thành chạy về
phủ Thiên Trường, quan quân vào quốc đô”.
An
Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a4 viết về trận đánh này càng rõ
hơn: “Trấn Nam Vương liền cùng quan hành tỉnh tự mình đến Đông Ngạn,
sai quân đánh, giết được rất nhiều, bắt được 20 thuyền. Hưng Đạo Vương
thua chạy.
Quan
quân buộc bè làm cầu, sang bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên bố trí
binh thuyền, dựng rào gỗ dọc theo sông. Thấy quan quân đến bờ, lập
tức nổ pháo, hô lớn, thách đánh. Đến chiều lại sai Nguyễn phụng ngự
mang thư đến Trấn Nam Vương và quan hành tỉnh, xin rút đại quân. Hành
tỉnh lại đưa thư trách, rồi lại tiến quân. Nhật Huyên liền bỏ thành
chạy, đồng thời sai Nguyễn Hiệu Nhuệ đem thư xin lỗi và biếu phương
vật, cùng xin rút quân. Hành tỉnh lại đưa thư chiêu dụ, rồi điều quân
sang sông, đóng ở dưới thành An Nam. Hôm sau, Trấn Nam Vương vào quốc
đô nước đó. Cung thất đều trống trơn, chỉ lưu lại mấy tờ chiếu sắc
và mấy lá thư của hành tỉnh, tất cả đều bị xé nát”.
Qua
báo cáo này ta rút được ba nhận xét. Thứ nhất, trận Bình Than, tuy
là một trận thủy chiến lớn với sự tham dự của cả một tập đoàn quân
trên 10 vạn người, vẫn là một trận vận động chiến, đánh để rút và chủ
động nhử địch vào nơi mình muốn. Cho nên, khi Thoát Hoan cho quân buộc
bè làm cầu để vượt sông Thiên Đức, tức sông Đuống ngày nay, để lên
bờ sông Phú Lương, tức sông Hồng, vua Trần Nhân Tông, một lần nữa, lại
“nổ pháo, hô to, đòi đánh”, trực tiếp chỉ huy trận thành Thăng Long.
Thứ
hai, tuy thách đánh quân thù, nhưng vua Trần Nhân Tông vẫn duy trì
hành lang quan hệ nào đó với quân thù, để phục vụ cho ý đồ chiến thuật
và tình báo của ta. Nguyên sử ghi việc Nguyễn Phụng Ngự và Nguyễn
Hiệu Nhuệ được vua Trần Nhân Tông sai mang thư cho Thoát Hoan. Những
tên này không thấy sử ta nói tới. thay vào đó, ĐVSKTT 5 thì ghi tên Đỗ
Khắc Chung.
Thứ
ba, vua Trần Nhân Tông có thể chủ động quan hệ với giặc như thế là
nhờ bảo toàn lực lượng từ trận Bình Than, cùng kéo về Thăng Long để
làm cuộc triệt thoái chiến lược về Thiên Trường, rút toàn quân và dân
thủ đô, nhằm tránh ba mũi gọng kìm, tức mũi gọng kìm cánh quân phía
đông bắc của chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha, cánh quân phía tây bắc
do Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasir ud Din), và đặc biệt là gọng kìm phía nam
do Toa Đô chỉ huy.
Chính
trong ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu ấy (1285), khi Thoát Hoan vào
kinh thành yến tiệc với thuộc hạ, xong rồi rút ra đóng ở phía bắc sông
Hồng, Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 7a10-11 báo cho ta biết “bọn Toa Đô,
Đường Cổ Đãi (Tangutai)Ợ đem quân hội với Trấn Nam Vương”. Đường Cổ
Đãi là tên tướng, mà khi xuất quân, Thoát Hoan đã sai đến Chiêm
Thành gọi Toa Đô đem quân về cùng hợp đồng chiến đấu, như An Nam
truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b12-13 đã ghi: “Sai Tả thừa Đường Ngột
Đãi chạy dịch đến Chiêm Thành, hẹn với Tả thừa Toa Đô đem quân cùng
dến hội”. Tuy nhiên, Toa Đô mới đem quân đi, chứ chưa đến hội kịp, như
sẽ thấy. Vậy là, tất cả những cánh quân chủ yếu do Thoát Hoan chỉ
huy, đã tập hợp về Thăng Long, để rồi chúng sẽ nhận những đòn phản
công giáng trả sấm sét của quân dân Đại Việt với những chiến thắng
Chương Dương, Tây Kết, Hàm Tử lẫy lừng.
Nhưng
trước khi có những chiến thắng này, thì từ trung tâm ở Thăng Long,
Thoát Hoan một mặt “sai Vạn hộ Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh đem quân mở
đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, mỗi 30 dặm lập một trại, 60 dặm đặt
một trạm, mỗi một trại, một trạm đóng quân 300 tên để trấn giữ và tuần
tra, lại sai Thế Anh dựng đồn, chuyên đôn đốc công việc của trại,
trạm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b7-9 đã ghi. Đây là
biện pháp củng cố hậu phương của chúng đối với những vùng chúng đã
chiếm được, nhưng luôn luôn bị quân ta quấy nhiễu.
Mặt
khác, cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b-9-10, Thoát
Hoan đã ra lệnh cho “Hữu thừa Khoan Triệt (KoỊnaỊk) dẫn Vạn hộ Mang Cổ
Đãi (Manqudai) và Bột La Hợp Đát Nhi (Bolqadar) bằng đường bộ và Lý
tả thừa dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô (Omar ba’atur) bằng đường thủy”, truy đuổi
và tiến đánh các cánh quân của ta đang rút lui cùng những cứ điểm
đóng quân dọc theo sông Hồng cùng các chi lưu của nó, để phòng vệ
cho Thiên Trường ở phía nam Thăng Long. Và trận đầu tiên đã diễn ra ở
bãi Thiên Mạc.
Trận Đà Mạc
Đà
Mạc hay cũng gọi Thiên Mạc, mà sau này có tên bãi Mạn Trù là một
bãi đất nằm ven sông Hồng thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay, như Khâm định
Việt sử thông giám cương mục 6 tờ 42a3-4 viết: “Sông Thiên Mạc tức hạ
lưu sông Phú Lương ở tại bãi Mạn Trù của huyện Đông Yên vùng tỉnh Hưng
Yên”. Ở đây, quân ta có một cứ điểm do tướng Trần Bình Trọng chỉ
huy. Theo An Nam chí lược 4 tờ 54 thì “ngày 21 Nhâm Thìn đánh vỡ ải
Thiên Hán, chém được tướng Bảo Nghĩa Hầu”. Ngày Nhâm Thìn tháng giêng
năm Ất Dậu ấy phải là ngày 19, chứ không phải 21.
Chắc
chắn 21 viết sai của 19, vì đây là những chữ số rất dễ viết lộn.
Còn Thiên Hán thì rõ ràng chữ Hán viết sai của chữ Mạc vì dạng chữ
chúng giống nhau.
An
Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b10 không ghi rõ ngày tháng, nhưng
có chép trận Thiên Mạc và việc quân Nguyên bắt được Kiến Đức Hầu
Trần Trọng. Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ
27a6-7 cũng chép việc bắt được Kiến đức Hầu Trần Trọng, nhưng ghi việc
này sau trận A Lỗ và Thiên Trường và trước khi vua Trần Nhân Tông rút
ra cửa Giao thủy. Trong số những thông tin này, thông tin của An Nam
chí lược tương đối chính xác, vì Lê Thực đã ghi lại những điều ít
nhiều mình có biết tới và có tham gia.
Trần
Trọng đây chắc chắn là vị anh hùng Trần Bình Trọng của ĐVSKTT. Chỉ
có điểm khác là, thay vì Bảo Nghĩa Hầu, phía Trung Quốc lại có Kiến
Đức Hầu. Tước Kiến Đức Hầu có thể là tước được phong khi Trần Bình
Trọng còn sống. Còn tước Bảo Nghĩa Hầu là tước được phong khi Trần
Bình Trọng đã mất, để nêu cao khí phách oanh liệt của vị dũng tướng
lúc đối diện với những cám dỗ của kẻ thù, mà tình tiết sẽ được ghi rõ
trong ĐVSKTT dưới đây. Việc An Nam chí lược 4 tờ 54 ghi khác với
Nguyên sử, bởi vì Lê Thực đang còn ở tại Việt Nam và làm việc với
Chương Hiến Hầu Trần Kiện, lúc vị anh hùng hy sinh và triều đình phong
tước, nên biết rõ sự thay đổi tước hầu của chính Trần Bình Trọng.
Phía
Trung Quốc không ghi rõ ai trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Nhưng
phía Việt Nam, qua trận đánh này lại thêm một vị anh hùng. Đó là Trần
Bình Trọng. ĐVSKTT viết: “Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (vương là
dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, ông cha làm
quan đời Thái Tông, được ban quốc tính họ Trần) đánh nhau với giặc ở
bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết. Khi bị bắt,
không chịu ăn. Giặc hỏi việc nước, không trả lời. Hỏi: ‘Có muốn làm
vương đất Bắc không ?’. Vương thét lớn: ‘Thà làm quỷ nước Nam, chứ
không làm vương đất Bắc’. Rồi bị giết”.
Điểm
khác biệt cơ bản là ĐVSKTT đã ghi trận Đà Mạc và cái chết oanh liệt
của Trần Bình Trọng vào tháng 2 năm At Dậu, sau sự kiện đầu hàng của
Chương Hiến Hầu Trần Kiện và bọn thuộc hạ Lê Thực. Trong khi đó chính
bản thân Lê Thực lại được ghi vào ngày Nhâm Thìn tháng giêng năm Ất
Dậu. Trong trường hợp này, Lê Thực tỏ ra đúng hơn, khi ta căn cứ
trên diễn tiến của tình hình chiến sự thời bấy giờ. Hơn nữa, Thực lại
là người sống đồng thời với Trần Bình Trọng và trực tiếp tham gia nghe
ngóng một số những tình hình đó. Và thứ ba nữa, Thực không có lý do
gì cần phải thay đổi ngày tháng của cuộc tấn công vào cứ điểm Đà Mạc
của quân Nguyên.
Cuối
cùng, như đã thấy, Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng hy sinh chỉ cách
việc đầu hàng của chính Thực trong một khoảng thời gian rất ngắn, trên
dưới một tháng, nên chắc chắn có tác dụng to lớn đối với bản thân
Thực. Thực tế, Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 36b2 đã
chép là vua Trần Nhân Tông, khi nghe báo tin Trần Bình Trọng hy sinh,
đã vật vã kêu khóc, chứng tỏ sự hy sinh ấy đã có một tác động to lớn
trong giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Tước Bảo Nghĩa Hầu có lẽ
được vua Trần Nhân Tông đổi phong cho Trần Bình Trọng nhằm nhấn mạnh
nghĩa khí không đầu hàng giặc của vị anh hùng vào một thời điểm, mà
chắc chắn nhà vua thấy xung quanh mình đã xuất hiện những kẻ không
còn giữ được nghĩa vua tôi, tinh thần trung quân ái quốc và muốn đi
đầu hàng giặc.
Thêm
vào đó, ĐVSKTT chủ yếu chép lại Đại Việt sử ký tục biên của Phan
Phu Tiên. Mà Phan Phu Tiên khi viết bộ sử của chính mình, lại không có
được những thuận lợi của những nhà viết sử khác. Đất nước ta đã bị
quân Minh xâm lược gần 20 năm và trải qua những cuộc chiến tranh giải
phóng dữ dội do những người yêu nước như Trần Trùng Quang, Nguyễn
Biểu, Phạm Ngọc, Lê Lợi lãnh đạo. Do thế, những sử liệu chắc chắn bị
quân thù tịch thu, phá hủy. Đặc biệt, các sử liệu do quốc sử quán nhà
Trần ghi chép, ta hiện không biết chúng có được Hồ Quý Ly có kế hoạch
đem cất giấu hay không. Chỉ một sự kiện hai cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại năm 1285 và1288 đã được ĐVSKTT chép rất sơ sài, thậm chí có
những điểm hoàn toàn sai lạc, là một thí dụ điển hình. Cho nên, người
ta không ngạc nhiên trước những sai khác vừa nêu trên.
Nói
tóm lại, trận Đà Mạc không phải một trận lớn. Nhưng qua trận Đà
Mạc, ta không chỉ thấy khí phách anh hùng, liều mình vì nước, không
chịu đầu hàng giặc của người tướng chỉ huy là Trần Bình Trọng, mà còn
thấy được ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của quân dân Đại Việt
trong những thời điểm khó khăn nhất của tổ quốc. Chính những con
người như thế đã làm nên những chiến thắng vang dội về sau như trận
chiến Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết v. v.
Trận A Lỗ
Sau
trận Đà Mạc bắt được Kiến Đức Hầu Trần Trọng, An Nam chí lược 4 tờ
54 đã viết tiếp: “Thế tử lui giữ ải Hải Thị, đóng cọc đắp bờ ngăn sông
phía tây để đánh. Quan quân trên dưới bắn chéo. Bọn chúng vỡ lớn”.
Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a6 viết:
“Đại quân đuổi Nhật Huyên ở sông A Lỗ và sông Đức Cương”.
Căn
cứ vào hai báo cáo này, rõ ràng Hải Thị và sông A Lỗ chỉ cùng một
nơi. Đặc biệt, An Nam Chí Nguyên 1 tờ 47 có chép: “Sông Hải Triều ở
tại Khoái Châu phân lưu từ sông Hà Lỗ, trên thông với sông Ngọc
Châu”. Hà Lỗ đây chắc chắn là sông A Lỗ, mà Kinh thế đại điển tự
lục vừa nói tới. Còn Khoái Châu thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên bây giờ.
Mà Đà Mạc, tức Thiên Mạc theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục
6 tờ 42a3-4 lại ghi ở vào địa phận tỉnh Hưng Yên, và nằm trên hạ lưu
sông Hồng. Vậy hai căn cứ Đà Mạc và A Lỗ nằm rất gần nhau. Đây có lẽ
là cụm cứ điểm nhằm phòng vệ cho Thiên Trường.
Với
chi tiết “trên dưới bắn chéo”, ta thấy đây rõ ràng là hai cánh quân
thủy bộ địch do Khoan Triệt và Lý Hằng chỉ huy, đã đuổi theo đại quân
của vua Trần Nhân Tông và tiến đánh căn cứ A Lỗ, sau khi đã chiếm
được căn cứ Đà Mạc. Đây một lần nữa là một trận đánh tiêu hao lớn, chủ
động nhử quân địch theo hướng quân ta muốn.
Trận Đại Hoàng
Sau
chiến thắng A Lỗ, theo
An Nam chí lược 4 tờ 54,
“ngày mùng 3 Đinh Tỡ
tháng hai, Trấn Nam Vương phá
quân Thế tử ở sông Đại
Hoàng”. Đây là lần đầu tiên
ta thấy sự xuất hiện
của Thoát Hoan trên vùng đất
gần Thiên Trường. Sông Đại
Hoàng, theo An Nam Chí Nguyên
1 tờ 42 “là hợp tại
phủ Lý Nhân, trên tiếp sông
Lô, dưới thông với sông
Giao Thủy phủ Phụng Hóa”. Còn
Khâm đinh Việt sử thông
giám cương mục 6 tờ 44a5-6,
khi chú thích về Hoàng
Giang, đã viết: “Hoàng Giang ở
tại vùng huyện Nam Xương
phủ Lý Nhân, trên tiếp với
sông Thiên Mạc, dưới thông
với sông Giao Thủy”. Vậy, Đại
Hoàng hay Hoàng Giang do
tiếp giáp với Thiên Mạc, là
một căn cứ khác trong cụm
căn cứ phía nam Thăng
Long, nhằm bảo vệ Thiên Trường.
Đây
chắc chắn là một trận
đánh lớn, vì Thoát Hoan đã
dẫn đại quân mình từ Thăng
Long truy kích xuống, trong
khi quân ta cũng hội về
Đại Hoàng, mà ngoài vua Trần
Nhân Tông trực tiếp chỉ
huy, còn có các tướng Trần
Hưng Đạo, Trần Quang Khải.
Tuy nhiên, một lần nữa, nó
chỉ là một trận đánh chặn,
tiêu hao sinh lực địch, để
cho quân ta rút lui an
toàn, chứ chưa phải là
những trận phản công.
Tình hình quân sự sau khi ta rút khỏi Thăng Long
ĐVSKTT
không ghi trận A Lỗ và
Đại Hoàng này. Nhưng sau
trận Đà Mạc, ĐVSKTT 5 tờ
47a5-6 đã viết: “Thế giặc bức
bách, hai vua ngầm đi
chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ
Nguyên, sai người lái thuyền
ngự ra Ngọc Sơn để đánh
lừa quân giặc”. Thực tế, quân
nhà Trần thời điểm này
chưa đến nỗi bức bách xiêu
dạt và hai vua Trần Thánh
Tông và Trần Nhân Tông
không đến nỗi cô lập phải
hoạt động một cách lén lút
như thế. Nguyên sử 13 tờ
8b8-10 viết:
“Tháng
3 ngày Bính Tý Kinh Hồ
Chiêm Thành hành tỉnh xin
thêm quân. Lúc bấy giờ Trần
Nhật Huyên trốn về hai xứ
Thiên Trường và Trường Yên,
binh lực lại tập hợp. Hưng
Đạo Vương đem hơn ngàn
chiến thuyền về nhóm ở Vạn
Kiếp, còn Nguyễn Lộc thì ở
Vĩnh Bình, mà quan quân
thì đi xa lại đánh lâu,
treo lơ lửng ở giữa. Quân
của Toa Đô và Đường Cổ
Đãi lại đến không đúng lúc,
nên xin thêm quân. Vua cho
đi đường thủy là nguy
hiểm, ra lệnh cho quân tăng
viện đi theo đường bộ”.
Thế
là cuộc chiến tranh, sau
khi vua Trần Nhân Tông rút
khỏi Thăng Long và đưa quân
về đóng ở vùng Thiên
Trường và Trường Yên, thì quân
địch ở vào một tình thế
hết sức khó khăn. Chúng
tự nhận xét là chúng đã
bị treo lơ lửng ở giữa
một mẻ lưới thiên la địa
võng của quân dân Đại Việt
đang sẵn sàng chụp lên đầu
chúng.
Thực
tế quân ại Việt đang
triển khai chiến lược bao vây
và tiêu diệt đám quân viễn
chinh này bằng ba mũi.
Mũi phía bắc do tướng Nguyễn
Lộc chỉ huy và sẽ có
những đóng góp to lớn với
những trận đánh làm thất
kinh táng đởm bọn cướp nước
và bán nước, như sẽ thấy
sau. Mũi phía đông thì do
chính Trần Hưng Đạo đưa
chiến thuyền trở lại Vạn Kiếp
trấn giữ để chặn đường rút
về ngả phía đông của
bọn giặc. Còn lại là toàn
bộ đại quân thì tập trung
tại vùng Thiên Trường và
Trường Yên, thuộc hai tỉnh Nam
Định và Ninh Bình ngày
nay, do vua Trần Nhân Tông
và Thượng hoàng Trần Thánh
Tông trực tiếp chỉ huy cùng
với hai danh tướng Trần
Quang Khải và Trần Nhật Duật.
Đây là mặt trận chủ yếu,
có những diễn biến phức
tạp về phía địch cũng như
ta.
Trần Kiện, Tú Viên, Văn Lộng đầu hàng
Về
phía địch, bọn Toa Đô
đang ráo riết kéo quân ra
phía bắc theo lịnh của Thoát
Hoan do Đường Ngột Đãi
đem tới và sẽ có những
đụng độ lớn với quân ta,
như sẽ thấy dưới đây. Còn
về phía ta, sau các trận
đánh và việc rút khỏi Thăng
Long cùng các cứ điểm Đà
Mạc, A Lỗ và Đại Hoàng,
một bộ phận trong giới
lãnh đạo chính trị và quân
sự của Đại Việt lúc bấy
giờ tỏ ra hết sức hoang
mang, mất hết niềm tin vào
tiềm lực dân tộc và sự
lãnh đạo sáng suốt của vua
Trần Nhân Tông cùng Thượng
hoàng Trần Thánh Tông, quốc
công Trần Hưng Đạo và thái
sư Trần Quang Khải. Chúng kéo
nhau liên hệ với giặc
để xin đầu hàng, mà tên
đầu tiên là Trần Kiện cùng
thuộc hạ của y vào ngày
mồng 1 tháng 2 năm At
Dậu. ĐVSKTT 5 tờ 46b5-7, viết:
“Ngày Giáp Thìn mồng 1
tháng 2, con thứ của Tỉnh
Quốc đại vương Quốc Khang là
thượng vị Chương Hiến Hầu
tên Kiện và liêu thuộc là
bọn Lê Thực đem cả nhà
đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô
sai đưa bọn Kiện về Yên
Kinh. Thổ hào ở Lạng
Giang là bọn Nguyễn Thế Lộc
và Nguyễn Lĩnh đánh chặn ở
trại Ma Lục. Gia nô của
Hưng Đạo Vương là Nguyễn
Địa Lô bắn chết Kiện. Thực
đem xác Kiện để lên mình
ngựa trốn đi trong đêm, chạy
được mấy mươi dặm đường,
đến Khâu Ôn chôn tại đấy”.
Sự
kiện này An Nam chí
lược 4 tờ 54 viết càng
rõ: “Thế tử sai em là
Chiêu Văn Vương Trần Duật, hầu
Trịnh Đình Toản đem quân
đánh ở Nghệ An, thua chạy.
Thế tử ở trong thế gấp,
sai con anh mình là Chương
Hiến Hầu Trần Kiện đón
đánh ở Thanh Hóa, giằng co
hồi lâu, sức yếu, không có
viện binh, Chương Hiến bèn
cùng bọn Thực đem quân ra
hàng”. An Nam chí lược 13
tờ 131-32 viết càng chi
tiết hơn: “Mùa đông năm ấy
(1284) đại quân của Trấn Nam
Vương tiến vào nước. Thế
tử đánh thua. Hữu thừa Toa
Đô lại từ Chiêm Thành tiến
mặt hậu. Thế tử hoảng hốt
không có sách lược bèn
gọi Kiện lên, giao đem quân
đánh Toa Đô. Sức yếu không
viện, vào lúc đó Thế tử
còn mất chưa thể biết.
Kiện gọi bọn Thực vào: ‘Thế
tử bị gọi mà không vào
chầu đến nỗi có chiến tranh.
Nguy hiểm ở trong sớm
chiều, mà vẫn chấp mê không
tỉnh, nỡ để cho nước mất
nhà tan ư ?’. Tháng giêng
năm sau (1285), Kiện đem
bọn Thực vài vạn người, dâng
vũ khí đầu hàng Trấn nam
vương”.
Như
thế, việc Trần Kiện đầu
hàng là một diễn biến phức
tạp, vì đây là lần đầu
tiên một tôn thất của hoàng
gia, đồng thời nắm trong
tay một đạo quân lớn đóng
tại một mặt trận xung yếu
là Thanh Hoá đã đầu hàng
giặc. Nếu không ngăn chặn
kịp thời, tác động của việc
đầu hàng ấửy sẽ rất lớn.
Nó sẽ lan ra và có
nguy cơ đe doạ làm sụp
đổ mặt trận phía nam. Tính
chất quan trọng của mặt trận
này, ngay khi rút khỏi
Thăng Long, vua Trần Nhân Tông
đã nhìn thấy, và sau ngày
rằm tháng giêng năm At
Dậu (1285) đã cử Chiêu Văn
Vương Trần Nhật Duật vào trấn
nhậm.
Cuối
tháng giêng, An Nam chí
lược 4 tờ 54 và Kinh
thế đại điển tự lục trong
Nguyên văn loại 41 tờ 27a5-6
chép:
“Đại
vương Giảo Kỳ, Hữu thừa
Toa Đô, Tả thừa Đường Ngột
Đãi, tham chính Hắc Đích từ
Chiêm Thành đánh vào phủ
Bố Chính”. Rồi từ đó, Toa
Đô tiến ra Nghệ An. Trần
Nhật Duật không cản được,
phải rút lui.
Cho
nên, ĐVSKTT 5 tờ 46b4-5
viết tiếp: “Ngày 28 Hưng Đạo
Vương bàn xin thượng tướng
thái sư Quang Khải ngăn quân
của nguyên soái Toa Đô ở
Nghệ An”. Nghĩa là sau
khi Trần Nhật Duật không ngăn
nổi,ư cấp báo về cho bộ
chỉ huy tối cao thì vua
Trần Nhân Tông đã cử Trần
Quang Khải vào chi viện.
Chính trong thời gian này,
Trần Kiện được giao việc nắm
quân ở Thanh Hoá. Tại đây,
An Nam chí lược 13 tờ
132 ghi: “Tháng giêng, Kiện
đem bọn Thực cùng vạn quân,
dâng vũ khí, hàng Trấn
Nam Vương”.
Trận Phú Tân
Ngày
hôm sau, tức ngày Ất Tỡ
mồng hai tháng hai năm
Ất Dậu (1285), An Nam chí
lược 4 tờ 54 ghi tiếp:
“Giảo Kỳ đem kỡ binh vượt
cửa kinh Vệ Bố, phá quân
nhà Trần, giết tướng chúng
là Đinh Xa và Nguyễn Tất
Thống”. Rồi ngày mồng ba, khi
Thoát Hoan tấn công cứ
điểm Đại Hoàng và vua Trần
Nhân Tông rút lui về Thiên
Trường, theo An Nam chí
lược 3 tờ 54, đám Trần
Tú Viên và Trần Văn Lộng
đã ra đầu hàng. Bốn ngày
sau, tức ngày mồng sáu tháng
hai, An Nam chí lược 4
tờ 54 chép: “Ngày Kỷ Dậu
mồng sáu, Giảo Kỳ đem bọn
Chương Hiến đánh phá quân
của người em Thế tử là
Thái sư Trần Khải ở bến
Phú Tân, chém đầu ngàn cái,
Thanh Hóa, Nghệ An đều
hàng”. Đây chính là lúc Toa
Đô dã hội quân được với
bọn Thoát Hoan, đúng như An
Nam truyện của Nguyên sử
209 tờ 7b4-7 đã viết: “Đường
Ngột Đãi cùng quân của bọn
Toa Đô đến từ Chiêm
Thành hợp với đại quân (của
Thoát Hoan), từ khi vào nước
Đại Việt, bảy lần lớn
nhỏ đánh nhau, lấy đất hơn
hai ngàn dặm, bốn sở cung
vua, trước đánh bại quân
của Chiêu Minh Vương. Chiêu Hiếu
Vương và đại liêu Hộ
đều chết. Chiêu Minh Vương trốn
xa, không dám ra mặt trở
lại. Còn ở Nghệ An,
Diễn Châu, Thanh Hóa, Trường Yên
thì bắt được bọn Trần
thượng thư, rể của Lương phụng
ngự của Giao Chỉ và Triệu
Mạnh Tín, Diệp lang tướng
hơn 400 người của nhà vong
Tống”.
Trần
Kiện đã dắt bọn Giảo Kỳ
tấn công cứ điểm Phú
Tân do chính Thượng tướng Trần
Quang Khải chỉ huy cùng
con mình là Văn Túc Vương
Đạo Tải, cháu là Tả Thiên
Vương Đức Việp. Trước khi
Trần Quang Khải rút quân khỏi
cứ điểm thì Chiêu Hiếu
Vương và đại liêu Hộ đã
hy sinh.
Việc
đầu hàng của Trần Kiện
từ đó có một tác động
rất to lớn. Mặt trận phía
nam với nhiều tướng giỏi như
Thượng tướng Trần Quang Khải,
Chiêu Văn Vương Trần Nhật
Duật đã lần lượt rút khỏi
vùng Thanh-Nghệ và tập trung
vào vùng Thiên Trường, để sau
trận Đại Hoàng ngày mồng
ba tháng hai năm Ất Dậu
(1285) và trận Phú Tân ngày
mồng sáu, vua Trần Nhân Tông
cùng với Trần Hưng Đạo
và Trần Quang Khải thực hiện
một cuộc rút lui chiến
lược. Trước khi rút lui để
thực hiện kế hoãn binh, vua
Trần Nhân Tông đã sai
Trung Hiến Hầu Trần Dương và
Nguyễn Nhuệ đến hòa đàm với
Thoát Hoan. Đồng thời lại
sai người hầu cận là Đào
Kiên đem công chúa An Tư
đến cho Trấn nam vương để
làm “thư bớt nạn nước”.
Thoát Hoan bèn cho Thiên Hộ
Ngãi đến dụ vua Trần Nhân
Tông đến hội đàm.
Vua
không nghe, như An Nam
chí lược 4 tờ 54 đã ghi.
ĐVSKTT 5 tờ 47a1 có ghi
sự kiện dâng công chúa
An Tư nhưng lại chép vào
trước trận Đà Mạc.
Chiến lược rút về Thanh Hóa
Vậy
là sau các trận Đại
Hoàng và Phú Tân, toàn bộ
quân chủ lực nhà Trần ngoài
những đơn vị được bố trí
ở các địa phương, đã tập
trung về Thiên Trường, rồi
thực hiện một cuộc rút lui
chiến lược tại cửa biển
Giao Thủy, như An Nam truyện
của Nguyên sử 209 tờ
7b10-11 đã ghi. Nguyên sử cũng
ghi tiếp là phía quân
Nguyên không biết quân ta rút
đi đâu. Rồi ở tờ 7b11-12
nó chép: “Tông tộc là Văn
Nghĩa Hầu, cha là Vũ
Đạo Hầu và con là Minh
Trí Hầu, rể là Chương Hoài
Hầu cùng Chương Hiến Hầu, và
quan của nhà vong Tống
là Tăng tham chính, con của
Tô thiếu bảo là Tô Bảo
Chương, con Trần thượng thư
là Trần Đinh Tôn liên tiếp
đem nhau đến hàng”. Việc đầu
hàng của Văn Nghĩa Hầu
tức Trần Tú Viên, ta đã
thấy xảy ra vào ngày mồng
ba tháng ba năm Ất Dậu
(1285), như An Nam chí lược
4 tờ 54 có ghi ở
trên.
Chính
bọn đầu hàng này đã
cung cấp thông tin cho Thoát
Hoan, nên sau đó Nguyên sử
209 tờ 7b13-8a3 đã cho
biết:
“Nhật
Huyên đến cửa biển An
Bang, bỏ thuyền chèo giáp
trượng, chạy trốn trong núi
rừng. Quan quân bắt được thuyền
một vạn chiếc, chọn cái
tốt để đi, còn thừa đều
đốt bỏ. Rồi lại đuổi ba
ngày đêm trên bộ, bắt sống
được mấy tên lính khai rằng
Thượng hoàng và Thế tử
chỉ có thuyền bốn chiếc, Hưng
Đạo Vương và con ba chiếc,
Thái sư 80 chiếc, chạy
vào phủ Thanh Hóa. Toa Đô
cũng báo Nhật Huyên và Thái
sư chạy vào Thanh Hóa. Ô
Mã Nhi bạt đô đem quân
1300 người và chiến thuyền
60 chiếc giúp Toa Đô tập
kích quân của Thái sư”. Vậy
rõ ràng đây là một cuộc
rút lui lớn, cuộc rút lui
chiến lược do chính vua
Trần Nhân Tông cùng Thượng
hoàng, Trần Hưng Đạo và Trần
Quang Khải thực hiện.
Cuộc
rút lui này đã xảy ra
vào lúc nào ? An Nam
chí lược 4 tờ 54 viết:
“Ngày Nhâm Ngọ mồng chín
tháng ba, Giảo Kỳ với Đường
Cổ Đái đem quân thủy ra
biến vây Thế tử ở Tam
Trĩ, suýt bắt được Thế tử”.
Tuy nhiên, theo ĐVSKTT 5
tờ 47a5-6 thì sự kiện rút
về Tam Trĩ này (tức vùng
núi Ba Chẻ ở Quảng Ninh)
từ cuối tháng giêng. Đến
ngày Giáp Tuất mồng một tháng
ba, ĐVSKTT 5 tờ 47b4-5 lại
viết: “Hai vua bỏ thuyền
mà đi bộ đến Thủy Chú,
lấy thuyền ra sông Nam Triệu
(tức huyện Thủy Đường), vượt
biển Đại Bàng vào Thanh
Hóa”. Thế rõ ràng cuộc rút
lui đã xảy ra chắc chắn
trước ngày mồng chín tháng
ba (chính xác là ngày Nhâm
Ngọ mồng mười) và sau trận
đánh Phú Tân vào ngày
mồng sáu cùng tháng.
Thực
hiện cuộc rút lui chiến
lược vào Thanh Hóa này hiển
nhiên là để tránh hai gọng
kìm của các cánh quân
Thoát Hoan ở phía bắc tiến
xuống, và cánh quân phía nam
do Toa Đô chỉ huy đánh
lên vùng Thiên Trường và
Trường Yên.
Đại
quân của Thoát Hoan và
Toa Đô như vậy đã nằm
tại vùng đồng bằng Bắc Bộ,
còn quân chủ lực ta đóng
tại phía nam ở Thanh Hóa.
Từ đây, vua Trần Nhân Tông
cùng Thượng hoàng và các
tướng Trần Hưng Đạo, Trần
Quang Khải, Trần Nhật Duật... đã
chia quân tiến hành một
cuộc phản công lớn, giải phóng
thủ đô Thăng Long, giải
phóng đất nước thoát khỏi sự
chiếm đóng của quân thù.
Trần Ích Tắc đầu hàng
Vào
thượng tuần tháng ba năm
Ất Dậu này, khi vua Trần
Nhân Tông cùng bộ chỉ huy
tối cao của cuộc kháng
chiến vệ quốc đang thực hiện
cuộc rút lui chiến lược,
thì theo An Nam chí lược
4 tờ 54 “ngày 15 Mậu
Tý, em vua là Chiêu Quốc
Vương Trần Ích Tắc đem đồ
đảng đến nội phụ”. ĐVSKTT 5
tờ 47b5-7 chép sự kiện
này sau ngày mồng một tháng
ba: “Chiêu Quốc Vương Ích
Tắc và bọn Phạm Cự Địa,
Lê Diễn, Trịnh Long đều đem
gia thuộc đến hàng Nguyên”.
Số phận Ích Tắc sau này
là số phận của kẻ đầu
hàng, sống lây lất và chết
ở quê người, muôn đời chịu
tiếng ô nhục. Cuộc chiến
tranh vệ quốc đang đi đến
những giờ phút quyết định và
kết thúc vinh quang đang
chờ đón những anh hùng có
tên và không tên đã và
đang hy sinh cho Tổ quốc
muôn vàn mến yêu của họ.
Cuộc phản công: Chiến thắng A Lỗ
Sau
cuộc rút lui chiến lược
về Thanh Hóa cùng bộ chỉ
huy chiến lược của mình vào
thượng tuần tháng ba, vua
Trần Nhân Tông tại đây chắc
chắn đã tập hợp quân đội
và phân chia công tác,
chuẩn bị cho cuộc phản công
lớn. Trong 20 ngày còn lại
của tháng ba này, các sử
liệu Trung Quốc không thấy
nói gì, chỉ thấy chép việc
quân Nguyên đưa bọn đầu
hàng như Chương Hiến Hầu, Minh
Thành Hầu, Nghĩa Quốc Hầu
v. vỢ lên Trung Quốc. Còn
phía nước ta, ĐVSKTT 5 tờ
48a7-8 nhắc đến một nhận
xét của vua Trần Nhân Tông
đối với đạo quân Toa Đô:
“Bọn
giặc nhiều năm đi xa,
vạn dặm lương thảo, thế tất
mệt mỏi. Lấy nhàn đợi mệt,
trước phải cướp chí khí
của chúng, thì ắt phá được
chúng”. Nhận xét này có thể
vua Trần Nhân Tông đã
phát biểu trong cuộc hội nghị
quân sự cao cấp tại Thanh
Hóa lúc ấy. Dẫu sao,
thời gian này là thời gian
quý báu để cho quân ta
ráo riết chuẩn bị phản công.
Đến
tháng tư, An Nam chí
lược 4 tờ 54, khi nói về
cuộc phản công này, chỉ
chép được một câu: “Mùa hè
tháng tư, An Nam nhân lúc
sơ hở, đánh lấy lại La
thành”. Còn An Nam truyện
của Nguyên sử 209 tờ 8a7-9
chỉ chép một cách tổng quát:
“Quan quân nhóm