BÀI GIẢNG TRẦN NHÂN TÔNG
BÀI GIẢNG TẠI CHÙA SÙNG NGHIÊM
“Lúc
đầu khai đường, Thượng hoàng
lên tòa giảng, niêm hương
báo ân xong, bèn đếõn tòa
giảng. Thượng thủ đánh bảng.v.v.
xin mời Điều Ngự. Bèn nói:
‘Đức Thích Ca Văn Phật vì
một việc lớn mà xuất
hiện ở đời, 49 năm, nhúc
nhích đôi mép môi, mà chưa
từng nói một chữ. Ta nay
vì các người mà lên tòa
giảng này, thì nói cái gì?’
Rồi Thượng hoàng ngồi xuống
giường thiền. một chốc, bèn
nói:
Đỗ quyên rền rỉ, trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
Lại đánh xuống một cái:
- Chẳng có gì cả, hãy
đi ra đi, đi ra đi.
Một vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Hiểu theo như trước là chẳng phải.
Lại tiến lên hỏi:
- Thế nào là Pháp?
Đáp:
- Hiểu theo lối trước là chẳng phải.
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?.
Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là Tăng?
Đáp:
- Hiểu theo lối trước lại chẳng phải.
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là như sao?
Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là một việc hướng thượng?
Đáp:
- Đứng chống đầu gậy chọc trời trăng.
Lại đứng lên hỏi:
- Dùng công án cũ để làm gì?
Đáp:
- Mỗi lần nêu ra mỗi lần mới.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?
Đáp:
- Ểnh ương nhảy không ra khỏi đấu.
Lại đứng lên hỏi:
- Hiện ra rồi chìm mất là thế nào?
Đáp:
- Còn tùy còn tùy bước ếch cát bùn vương.
Tiến lên hỏi:
- Thế còn nhảy không ra?
Điều Ngự bèn lên tiếng:
- Tên mù kia thấy cái gì?
Bèn đứng lên nói:
- Đại tôn đức lừa người để làm gì?
Điều
Ngự bèn thở dài. Vị
tăng ngẫm nghĩ. Điều Ngự liền
đánh. Vị tăng lại định đi
ra hỏi. Điều Ngự liền
hét. Vị tăng cũng hét.
Điều Ngự nói:
- Lão tăng bị ngươi hét
một tiếng, thì hét hai
tiếng rốt ráo thế nào? Nói
mau, nói mau.
Tăng ngẫm nghĩ.
Điều Ngự lại hét một tiếng, nói:
- Con hồ tinh hoang kia
vừa mới đến liến thoắng,
nay ở chỗ nào rồi?
Tăng lạy và rút lui.
Hỏi:
- Đại đức siêng năng khó
nhọc tu hành, lâu trải
năm tháng, đối với sáu thần
thông của Phật, nay chứng
được thần thông nào?
Đáp:
- Cũng được sáu thần thông.
Lại đứng lên hỏi:
- Năm thần thông thì hãy
để đó, còn tha tâm
thông thì thế nào?
Đáp:
- Đất nước chỗ ông có
bao nhiêu thứ tâm, Như Lai
biết hết, Như Lai thấy
hết.
Tăng đưa thẳng nắm tay lên, nói:
- Đã có thể biết hết,
thấy hết, thì có biết cái
này có vật gì không ?
Đáp:
Như có như không
Chẳng không chẳng sắc
Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi hòa
thượng Lang Da rằng: Đã là
“thanh tịnh bản nhiên”sao bỗng
chốc sinh ra núi sông
đất lớn? Ý chỉ thế nào?
Đáp:
- Rất giống thuyền câu ra bể?
Lại đứng lên hỏi:
-Thế là ý nghĩa gì?
Đáp:
Khói sóng ai hay tránh.
Riêng có việc khéo bàn
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật quá khứ?
Đáp:
Rừng vườn vắng vẻ không người quản,
Mận trắng đào hồng tự nở hoa
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật hiện tại?
Đáp:
Bạch thủy gia phong mê én sớm,
Đào thắm vườn tiên say gió xuân.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật vị lai?
Đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt,
Thôn chài nghe sáo khách mong nhà.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng ?
Đáp:
Áo rách ôm mây, mai húp cháo,
Bình xưa rót nguyệt, tối chưng trà.
Hỏi:
- Linh Vân giác ngộ khi
đào nở hoa là thế nào?
Đáp:
Tự búp tự nở theo thời tiết,
Hỏi tới Đông quân thảy chẳng hay
Lại đứng lên hỏi:
- Giết người không chớp mắt là thế nào?
Đáp:
- Toàn thân là mật.
Hỏi:
- Bậc đại tu hành có
còn rơi vào vòng nhân quả
nữa không?
Đáp:
Miệng tựa máu bồn chê Phật tổ,
Răng như cây kiếm thọc thiền lâm.
Một mai chết xuống A tỳ ngục,
Cười ngất nam mô Quán Thế Âm.
Hỏi:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
là thế nào?
Đáp:
- Lầm rồi.
Lại đứng lên hỏi:
- Bậc đại tôn đức nghĩ sao?
Đáp:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
Lại đứng lên hỏi:
- Đó là lời của tôi.
Đáp:
Nếu biết thần tiên lò lửa thuật
Viên đan nguyên ấy tử châu sa
Hỏi:
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
Đáp:
Đục vàng rớt trúng phân sư tử
Sắt núi Côn Lôn chim chá cô
Lại hỏi:
- Học nhân không hiểu.
Đáp:
Không được thương Hồ biết rành thách giá
Đáng cười kẻ chợ khổ lường nhau
Lại đứng lên hỏi:
- Báo thân tròn đầy là thế nào?
Đáp:
Cánh bằng gió đứng cao bay mãi
Ngọc Lệ trơn tru sóng biển trong
Tăng lạy vái.
Điều Ngự nói:
Nguyên lai đầy đủ muôn công dụng
Thiên lệch vì ngươi chẳng được nên
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là ngàn trăm ức hóa thân?
Đáp:
Mây mù kéo bắt lên trời lượn
Thước nước như xưa cửa ngực vây
Lại đứng lên hỏi:
- Như thế?
Điều Ngự nói:
Dưới núi nhóm mây cười chết kẻ
Bốn bề hỗn độn sắt ăn xong.
Tăng lạy vái rút lui.
Hỏi:
- Bàn huyền nói diệu,
đem cổ luận kim, thảy đều
nhờ vào ngôn ngữ. Chẳng dính
ngôn ngữ một câu làm sao
mà nói ra đây?
Đáp:
Gió xuân lất phất ngàn hoa nở
Gãy mất càng xe một tiếng thôi
Tăng ngẫm nghĩ, mở miệng.
Điều Ngự lại nói:
Chim kêu rỉ máu đâu dùng chỗ
Như cũ mây chiều vắt núi tây.
Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây nhóm là thế nào?
Đáp:
- Mưa mênh mông.
Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây phủ là thế nào?
Đáp:
- Sáng rõ
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?
Đáp:
- Chớ nhúc nhích. Nhúc nhích thì ba mươi gậy.
Hỏi:
- Thế nào là mặt mũi xưa nay?
Điều Ngự chặp lâu, nói:
- Hiểu không?
Đáp:
- Không hiểu.
Điều Ngự liền đánh.
Hỏi:
-Thế nào là ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp?
Đáp:
Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh tìm ta
Người ấy hành đạo tà
Chẳng thể thấy Như Lai.
Hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Cám trong cối
Hỏi:
- Thế nào là ý tây lai của tổ sư?
Đáp:
- Bánh vẽ.
Hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Đáp:
- Cùng hầm không đất khác.
Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi Triệu
Châu con chó có tính
Phật không, Châu bảo không có.
Ý chỉ thế nào?
Đáp:
Vị muối trong nước
Keo xanh trong màu
Hỏi:
Câu có câu không
Như dây bám cây
Thì thế nào?
Điều Ngự bèn nói:
Câu có câu không,
Dây khô cây đổ.
Mấy vị thầy tu,
Dập đầu trán vỡ.
Câu có câu không,
Gió vàng thể lộ.
Vô số cát sông,
Kiếm đâm dao bổ.
Câu có câu không
Lập chỉ lập tông.
Dùi rùa đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu có câu không
Chẳng có chẳng không,
Khắc thuyền tìm gươm,
Bản đồ kiếm ngựa.
Câu có câu không,
Đắp đỗi hay không.
Nón tuyết giày bông
Ôm cây đợi thỏ
Câu có câu không,
Từ nay từ xưa.
Quên trăng giữ ngón.
Chết đuối trên bờ.
Câu có câu không,
Như vậy như vậy,
Tám chữ mở toang,
Không còn mũi rẫy
Câu có câu không,
Ngó phải ngó trái.
Ráo riết hùa theo,
Ồn ào tranh cãi.
Câu có câu không,
Rầu rầu rĩ rĩ.
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây vui vẻ.
Bèn xuống tòa.
BÀI GIẢNG TẠI VIỆN KỲ LÂN
Ngày
mồng 9 tháng giêng nhuận
năm Bính Ngọ (1306), Trúc Lâm
đại tôn giả đến viện Kỳ
Lân khai đường, chỉ pháp
tòa nói:
- Tòa này là giường mây
khúc lục, là tòa báu kim
nghê. Ngồi đây đoán định
lời lẽ Phật tổ thì thật
rất chật hẹp.
Bèn niêm hương:
- Một nén hương này,
khói lành thơm phức, khí tốt
bay lên, ngưng đọng năm
phần pháp thân, biến khắp mười
phương lễ diệu. Sức nóng
lò hương dâng lên mười phương
ban phúc, chín miếu ứng
thiêng, tuổi vua lâu bền, ngôi
trời vững chãi.
Một
nén hương này, trong sạch
rễ mầm, hiếm lạ giống tính,
không mượn sức bón vun,
toàn nhờ xông thấy biết. Sức
nóng lò hương vâng xin mưa
thuận gió hòa, nước thái
dân yên, trời Phật thêm sáng,
xe pháp thường quay.
Một nén hương này, nướng
cũng không chín, đốt cũng không
cháy, gõ vào không mở,
kéo lại không đến, ngó trộm
thì con ngươi khô kiệt, ngửi
thử thì cửa não téc
đôi. Sức nóng lò hương dâng
lên Vô Nhị thượng nhân, Tuệ
Trung đại sĩ, mưa pháp
ơn nhuần, cháu con đều gội.
Thượng
hoàng đến tòa giảng, khi
thăng đường, thượng thủ đánh
bảng.
Vân vân.
Sư nói:
- Đại chúng, nếu nhắm
vào chân lý thứ nhất mà
nói, động niệm tức sai, mở
miệng là bậy, thì làm sao
hiểu chân lý, làm sao hiểu
quán tưởng ? Hôm nay,
hãy căn cứ vào chân lý
thứ hai mà nói, thế có
được không nào ?
Rồi Sư ngoảnh nhìn tả hữu, nói:
- Ở đây chẳng có
người nào có đủ được con
mắt to lớn hay sao. Nếu
có, hai đóa lông mày không
mất một mảy may. Nếu
không, bần đạo không khỏi cái
miệng lầm rầm, đưa ra
những lời thừa rách nát sáo
mòn.
Nhưng vì các
người, xin lấy ra một
phần hổ lốt. Hãy lắng nghe,
lắng nghe.
Này
xem, đạo lớn trống rộng,
đâu buộc đâu ràng, bản tính
sáng trong, chẳng lành chẳng
dữ. Bởi do chọn lựa, lắm
ngả sinh ngang, một giây
thoáng mờ, dễ thành trời vực.
Thánh phàm cùng chung một
lối, phải trái há được phân
ranh. Nên biết tội phước vốn
không, nhân quả rốt ráo
chẳng thật. Người người vốn đủ,
ai nấy tròn đầy. Phật
tính pháp thân như hình với
bóng, lúc ẩn lúc hiện, chẳng
dính chẳng rời. Lỗ mũi
thẳng xuống cửa mặt, lông mày
vắt ngang hố mắt, há dễ
tìm thấy được đâu ?
Nên
hãy đi tìm cái đạo
không thấy. Ba ngàn pháp môn
cùng về tấc dạ. Hà sa
diệu dụng thảy tại nguồn tâm.
Cái gọi là giới môn,
định môn, tuệ môn, các người
không thiếu. Nên trở về mà
tự nghĩ suy. Phàm những
tiếng ho hắng, mày dương mắt
nháy, tay cầm chân bước, đó
là tính gì? Biết được
tính đó là tâm gì, tâm
tính rõ thông, thì cái gì
đúng, cái gì là không đúng.
Pháp
tức là tính, Phật tức
là tâm. Tính nào chẳng phải
là pháp? Tính nào chẳng phải
là Phật. Tức tâm tức
Phật, tức tâm tức pháp, pháp
vốn chẳng pháp. Tức pháp
tức tâm, tâm vốn chẳng tâm,
tức tâm tức Phật.
Này các người, thời gian
dễ trôi qua, mạng người không
dừng lại. Cớ sao ăn cháo
ăn chay, mà không rõ
việc cái bát cái tô, chiếc
thìa đôi đũa để tìm hiểu?
* * *
Bấy giờ có vị tăng bước ra, nói:
Ăn cơm mặc áo, tầm thường việc
Sao phải quan tâm để phát ngờ.
Bèn lạy xuống, rồi đứng lên hỏi:
- Cõi thiền vô dục thì
không hỏi. Cõi dục không
thiền, xin nói cho một câu.
Sư đưa tay chỉ vào khoảng không.
Lại đứng lên hỏi:
- Dùng đờm dãi người xưa để làm gì?
Sư nói:
- Mỗi lần nêu ra, một lần mới.
Lại đứng lên hỏi:
- Người xưa đều nói như
thế nào là Phật, như thế
nào là pháp, như thế
nào là tăng. Chỉ như thế
nào ấy thì việc thế nào?
Sư đáp:
- Như thế nào. Việc như thế nào.
Lại đứng lên nói:
Không dây đàn gảy tri âm ít
Cha đánh con nghe, cách điệu cao.
Vân vân.
* * *
Một hôm, sư nghe đồ đệ tụng kinh, bèn hỏi:
- Chúng làm gì thế?
Có tăng đi ra, thưa:
- Chúng niệm Phật tâm.
Sư nói:
Nếu bảo là tâm,
Tâm tức không Phật.
Nếu bảo là Phật,
Phật tức không tâm.
Thì gọi cái gì là tâm?
Tăng không nói.
* * *
Lại hỏi một vị Tăng:
- Chúng đang làm gì?
Tăng đáp:
- Niệm Phật.
Sư nói:
- Phật vốn vô tâm thì niệm cái gì?
Lại đứng lên nói:
- Niệm việc đó.
Sư hỏi:
- Việc đó là việc gì?
Lại đứng lên nói:
- Không biết.
Sư nói:
- Ông đã không biết, thì
người nói đó là ai?
Vị Tăng không đáp lời.
Vân vân.
Lỗ kiến vỡ đê
Mảy bụi che mắt
Một hạnh vừa mất
Trăm hạnh đổ theo.
Trân trọng
NGỮ LỤC
NÓI CHUYỆN VỚI SÀI THUNG (1278)
Tiên
quân tôi qua đời. Tôi
mới nối ngôi. Thiên sứ đến
mở đọc chiếu thư, khiến tôi
sợ vui lẫn lộn ở trong
lòng. Trộm nghe chúa nước
Tống bé nhỏ, mà thiên tử
thương xót, còn phong cho tước
công, thì đối với tiểu
quốc tất cũng được thêm lòng
thương xót. Xưa có bảo sáu
việc, đã nhờ ơn tha
miễn. Còn lễ tự thân đến
chầu thì tôi sinh trưởng thâm
cung, không tập cưỡi ngựa,
không quen phong thổ, sợ chết
dọc đường. Em tôi từ
thái úy trở xuống cũng đều
thế cả.
Thiên sứ trở về, xin
kính cẩn dâng biểu bày tỏ
lòng thành, cùng cống vật lạ.
NÓI CHUYỆN VỚI TRƯƠNG LẬP ĐẠO (1291)
Bản
quốc quy phụ Thiên triều
ba mươi năm nay, lòng thờ
bề trên chưa ngày nào có
chút xao lãng, lễ cống hàng
năm chưa từng thiếu sót.
Kể từ đời ông, rồi tới
cha, cho đến ngày nay, trước
sau một lối.
Nhiều
lần tiếp được chiếu vời,
chỉ vì đau yếu không thể
vào chầu, đến nỗi Thánh
thượng nổi giận, dấy quân sang
đánh, khiến cho sinh linh
nước tôi bị giết hại, lăng
mộ bị bới đào, chùa chiền
bị đốt phá, cây cối bị
chặt đẵn không thể kể xiết.
Bản quốc chẳng có tội
tình gì mà phải chịu nạn
lớn như vậy.
Chiếu thư của thiên tử
lần nào cũng nói nước tôi
có tội giết quốc thúc, đuổi
sứ giả, chống cự quân
thiên triều, tội ấy đến nay
chưa thể tha, nhưng quốc
thúc tôi vốn do tiên vương
tôi sai sang chầu “Thiên tử”
để thay mặt giải bày,
“Thiên tử” lại phong quốc thúc
làm vương, khiến cho quốc
thúc tôi tự hãi không biết
tránh đi đâu. Chẳng phải
nước tôi hại quốc thúc mà
quốc thúc tự trốn ra miền
Hải Nam, người trong tông
tộc cầm quân nghênh chiến, điều
ấy quả thực tôi không hề
biết vậy.
Duy một việc không sang
chầu là vì tham sống sợ
chết chứ không có ý gì
khác; xa ngoài vạn dặm, đường
đất gian nguy, chướng khí
núi non, không quen thủy thổ,
nếu chết ở giữa đường
phỏng có ích gì cho “thượng
quốc” đâu? Liền mấy năm nay,
lễ cống không thiếu sót,
cẩn thận thờ người trên, phỏng
có thiệt gì cho “thượng
quốc” đâu? Tâm tình đó của
người dưới không được đề đạt
đến người trên vậy.
Nay
thiên sứ sang đây, mong
được kể rõ nỗi oan của
bản quốc,để ngài về kinh tâu
bày trước “thiên tử”. “Khắp
cả gầm trời, chẳng đâu không
phải đất nhà vua; khắp các
bến bờ trên cõi đất,
chẳng ai không phải bề tôi
nhà vua. Cả nước Nam này
đã là dân của “Thiên tử”
thì lại càng không có chí
gì khác. “Thiên tử” coi
bốn bể là nhà, nước tôi
tuy không sang chầu được thì
cũng vẫn ở trong lãnh vực
ấy, vẫn là bề tôi của
xã tắc, điều này duy trời
đất biết cho thôi.