NGỮ LỤC
VĂN TRẦN NHÂN TÔNG
HÀNH TRẠNG CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG
Thượng
sĩ là con trai đầu (lòng) của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương và anh cả
của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi thái vương mất, Hoàng
đế (Trần) Thái Tông cảm nghĩa, phong cho tước Hưng Ninh Vương.
Thuở
nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, được giao
trấn giữ quân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lược, có công với
nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái
Bình.
Con
người Thượng sĩ, khí lượng thâm trầm, phong thái nhàn nhã, từ tuổi để
chỏm, rất mến cửa không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường,
lĩnh hội yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy, ngày ngày chỉ lấy niềm vui
thiền làm thích, không hề vì công danh mà trở ngại. Rồi lui về sống ở
phong ấp Tịnh Bang, đổi làm hương Vạn Niên.
Thượng
sĩ cùng đời hòa quang, chưa từng đụng chạm người vật, nên hay mạnh
nối giống pháp, dìu dắt sơ cơ. Ai tìm đến hỏi, người cũng chỉ bảo cho
biết điều cương yếu, khiến họ trụ tâm, mặc tính hành tàng, không mắc
danh thực.
Đức Dụ Lăng mộ tiếng từ lâu, sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm
những lời hầu chuyện nhà vua đều là siêu tục. Nhân thế, vua suy tôn làm
sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay.
Một
lần vào chầu, Thái hậu làm tiệc lớn đãi, Người gặp thịt cứ ăn. Thái
hậu lấy làm lạ hỏi rằng: “Anh tu thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao
được?”. Thượng sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần
làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn
Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”
Khi
Thái hậu qua đời, đức Dụ Lăng trai tăng ở cung cấm. Nhân khi khai
đường thuyết pháp bèn mời danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ
ngắn để bày tỏ kiến giải của mình. Nhưng thảy đều “ngầu bùn sũng nước”
chưa có chỗ ngộ. Đức Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng
sĩ viết một hơi xong bài tụng tự thuật như sau:
Kiến giải bày kiến giải,
Tựa dụi mắt làm quái.
Dụi mắt làm quái rồi.
Sáng sủa thường tự tại.
Đức Dụ Lăng xem xong, viết tiếp:
Sáng sủa thường tự tại,
Cũng dụi mắt làm quái.
Thấy quái không thấy quái,
Quái kia liền tự hoại.
Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.
Tới khi Đức Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi bệnh. Mở ra xem, Đức Dụ Lăng viết kệ trả lời, có câu:
Mực nồng khí nóng mồ hôi đẫm,
Quần mẹ sinh ta ướt chửa từng.
Thượng
sĩ đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi Đức Dụ Lăng trở bệnh nặng,
Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.
Nay
ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa
xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh
Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên.1 Ta
cho người sống quá tục, sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi:
“Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh
được tội báo?” Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giả thử có một người
đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia
không biết, hoặc có ném vật gì vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua
có giận chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến
nhau vậy.” Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:
Vô thường các pháp hành,
Tâm ngờ tội liền sanh.
Xưa nay không một vật,
Chẳng mống cũng chẳng mầm.
Ngày ngày khi đối cảnh.
Cảnh cảnh từ tâm ra.
Xưa nay không tâm cảnh.
Chốn chốn thảy bờ kia.
Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?”.
Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
Ăn cỏ và ăn thịt,
Chúng sinh mỗi có thức.
Xuân về muôn cỏ sinh,
Chỗ nào thấy tội phúc.
Ta
nói: “Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là
để làm gì?” Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc
tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho ta:
Trì giới và nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.
Như khi người leo cây,
Đang yên tự tìm nguy.
Nhu người không trèo nữa,
Trăng gió làm được gì.
Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.” Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.
Một
hôm, ta hỏi người về tôn chỉ công việc mình. Thượng sĩ ứng khẩu đáp:
“Hãy quay nhìn lại công việc của chính bản thân mình chứ không tìm đâu
khác được.” Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm
thầy.
Ôi! Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Bàn huyền thuyết diệu như gió mát trăng thanh.
Đương thời thạc đức các phương, có người cho Thượng sĩ tin sâu biết rõ, làm ngược làm xuôi, thật khó mà lường được.
Sau,
người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không ở phòng riêng, mà cho kê
một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà trống, nằm theo thế cát tường, nhắm
mắt mà tịch. Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên.
Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn
quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến
luyến làm rối chân tính của ta?” Dứt lời người êm thấm mà tịch. Bấy giờ
là ngày mồng một tháng tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ
bảy, hưởng thọ 62 tuổi.
Ta thân đến nhà làm lễ viếng và làm bài Thiêu hương báo ân tụng, nhưng không chép ra đây.
Sau
khi nối đạo, những lúc lên đàn thuyết pháp, ta tự nghĩ có bốn điều ân
nặng, sửa pháp khó đền, nên sai thợ vẽ chân dung của người để dâng
cúng, và tự làm bài tụng, ghi rằng:
Đây bậc cổ chùy,
Người đâu dễ vẽ
Thước góc Lương hoàng,
Mõ chuông Thái đế.
Hay tròn hay vuông
Mỏng dầy đủ vẻ.
Biển pháp một ngươi,
Rừng thiền ba phía.
VĂN THƯ NGOẠI GIAO
TRẦN NHÂN TÔNG
1
Lá thư tháng 11 nhuận năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Nay nghe quốc công nhọc đến tệ quốc, biên dân không ai là không
kinh hãi, không biết là sứ giả người nước nào mà đến ở đây. Xin rút
quân về đường cũ để mà tiến.
2a
Tờ biểu tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Cô thần bẩm khí yếu đuối, mà đường sá thì khó khăn, chỉ luống
phơi bộ xương trắng, đến nỗi bệ hạ phải xót thương mà không ích gì cho
thiên triều trong muôn một. Nép mong bệ hạ thương xót tiểu quốc xa xôi,
khiến thần được cùng bọn đơn côi quan quả, giữ được tính mệnh để suốt
đời thờ phụng bệ hạ. Đó là nỗi may mắn lớn nhất của cô thần mà cũng là
phúc to của sinh linh tiểu quốc.
2b
Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
Năm Chí Nguyên thứ 15, thế tử An Nam là cô thần, Trần, dâng biểu nói:
Hoàng đế bệ hạ được trời trên yêu mến. Cha thần thuận về thánh
hóa, thấm nhuần ơn đức nhân từ như đất trời, hưởng lượng bao dung dơ
uế như núi biển. Cha thần một đời đội ơn cảm đức rất hậu. Năm Chí
Nguyên thứ 14 (1277), bất hạnh cha thần thất lộc. Ngày sắp mất, gọi cô
thần đến bảo: “Bệ hạ khoan nhân đại độ, không bỏ sót nước nhỏ, thì
chắc con tất được ân như đời trước. Ta nay chỉ vì trời không cho thêm
tuổi, khiến không được thờ phụng thiên triều mà lấy làm hận thôi”. Thần
e sợ mới gặp tang cha mà kỳ cống hiến hằng năm lại vừa tới. Thần
chẳng dám vì nỗi buồn tang cha mà lụy tới công việc. Lại thêm bọn sứ
trước là Lê Khắc Phục lâu ngày chưa về để tiếp tục việc cống nạp hằng
năm, nên tiếp tục sai bọn Trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, Trung
lượng đại phu Ngô Đức Thiệu làm hành nhân sứ vâng đem biểu văn, phương
vật, đến cửa khuyết dâng hiến, tuân theo chức nghiệp của cha thần,
chẳng dám để rơi mất lời giáo huấn dùng lòng trung để dạy con. Sinh
linh tiểu quốc đều bảo: “Sau khi cha thần mất đi, thì thần sẽ kế tục
chí hướng, làm tiếp sự nghiệp của cha thần, chính ở tại một việc làm
đó. Bệ hạ thương yêu người trung trực, càng thêm khen thưởng, thì thế
tử của ta ở trong sự không may mắn mà thật có sự may mắn”. Rồi mỗi mỗi
tự ngóng cổ trông lên trời trăng miền bắc để ngóng mong.
Kịp
tới năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), bọn Châu Trọng Ngạn chưa về. Chỉ
thiên sứ Sài thượng thư mang chiếu thư cùng với bọn Lê Khắc Phục lần
trước, cùng đến tiểu quốc. Thần đem bá quan nghênh tiếp đủ lễ, đốt
hương vái đọc, nép thấy chiếu thư bảo phải vào chầu. Thần khôn xiết
kinh sợ, và sinh linh cả nước truyền nghe lời ấy nhao nhao mất hết bình
tĩnh. Ấy bởi vì thần sinh trưởng ở nước Việt Thường, bẩm khí yếu
đuối, thủy thổ không quen, nóng lạnh chẳng chịu. Dù xem được quang cảnh
thượng quốc, sung làm khách của vương đình, thì vẫn sợ có chuyện trên
đường, luống phơi xương trắng, đến nỗi lòng nhân của bệ hạ cũng tự cảm
thấy xót thương, mà chẳng ích gì cho thiên triều trong muôn một.
Bệ
hạ một thể với trời. Thần thờ phụng bệ hạ giống như thờ trời. Dù
trông lên trời xanh chín tầng xa thẳm, mà oai trời chưa thường dám trái
trong gang tấc, ơn vua chưa thường không ghi lòng tạc dạ. Khi làm bề
tôi thời Châu Thành Vương thì trùng dịch đến cống. Đến thời Võ đế thì
bỏ ngoài không tính vì thương nước nhỏ, đường sá xa xôi, núi sông sâu
hiểm. Huống nay, bệ hạ nơi nào xe thuyền đến tới, sương móc xa rơi,
trời trăng chiếu tới, thì chẳng ai là chẳng thần phục, so với nhà Châu,
nhà Hán thật cách nhau vạn vạn, không thể cùng một ngày mà nói hết. Từ
thuở khai thiên lập địa đến nay chưa có lúc nào thiên hạ được thống
nhất to lớn như ngày nay.
Bệ
hạ thi hành nhân đức trước hết là nhằm cho người hoang quả cô độc.
Đến các loại nhỏ mọn như côn trùng thảo mộc cũng mỗi mỗi thỏa được tính
mình. Thần mắc tội với trời, chỉ sợ không được thấm nhuần ơn phước.
Chính trị của bệ hạ tốt hơn nhà Châu, lòng nhân của bệ hạ sâu hơn nhà
Hán. Nép mong bệ hạ thương nỗi đơn chiếc yếu đuối của cô thần, xót nơi
xa xôi của tiểu quốc, mà khiến cho thần được cùng với quan quả cô độc
giữ được tính mạng của mình để suốt đời phụng thờ bệ hạ. Đó là điều
rất may của cô thần, mà cũng là phúc lớn của sinh linh tiểu quốc.
Thư tháng 11 năm Chí Nguyên 20 (1284)
Lá thư tháng 11 năm Chí Nguyên thứ 20, gửi cho Bình chương chính sự của Kinh hồ Chiêm Thành hành tỉnh là A Lý Hải Nha:
Về
một việc thêm quân, thì Chiêm Thành thờ phụng tiểu quốc lâu ngày. Cha
tôi chỉ vụ lấy đức mà giữ họ. Đến thân của kẻ côi này cũng kế thừa chí
hướng của cha mình. Từ khi cha tôi thuận về với thiên triều 30 năm đến
nay, vũ khí can qua tỏ ra không cần dùng tới, quân lính bỏ về làm dân.
Ấy một phần giúp vào việc cống hiến cho thiên triều, và một phần tỏ
tấm lòng không mưu đồ gì khác. Rất mong các hạ thương xót xét cho.
Còn
về việc giúp lương, thì địa thế tiểu quốc tiếp giáp với biển, ngũ cốc
sản xuất không nhiều. Từ khi đại quân đi rồi, trăm họ vẫn còn trôi
dạt. Thêm vào đó, bị lụt hạn, sáng no chiều đói, ăn uống vẫn không đủ.
Tuy nhiên, các hạ ra lệnh thì vẫn không dám trái. Xin ở đất châu Vĩnh
An trên cõi Khâm Châu, xin đợi đem đến nạp.
Còn
việc tiếp tục bảo cô tử tự thân đến cửa khuyết, gặp mặt đức vua để
nhận lời dạy bảo, thì lúc cha già của thần còn sống, thiên triều đã
thương xót mà bỏ ra ngoài tính toán. Nay cha già của thần đã mất, còn
cô thì đang chịu tang, cảm bịnh đến nay, còn chưa khỏe lại như thường.
Huống nữa, kẻ côi này sinh trưởng ở nơi xó xa, chẳng chịu nóng lạnh,
chẳng quen thủy thổ, đường sá khó khăn, chỉ phơi xương trắng. Nếu lấy
bồi thần của tiểu quốc đi lại, còn bị khí độc nhiễm xâm, có lúc mười
người thì đến năm sáu, hoặc có khi chết đến hơn nửa. Các hạ cũng đã
biết rõ điều đó rồi. Chỉ mong riêng vì lòng thương giúp, mà tâu bày với
thiên triều hầu giúp thiên triều biết ý của kẻ côi này cùng tôn tôợc
quan lại mỗi mỗi sợ chết tham sống. Há chỉ một mình kẻ côi này nhận
được ơn ban mà còn sinh linh của một nước nhờ thế được an toàn. Cùng
chúc cho các hạ hưởng được phước lớn từ trời ấy mãi mãi.
4
Lá thư tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 21, gửi cho Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh
Chiêm Thành đã nội thuộc tiểu quốc. Đại quân đến đánh, lẽ đương
nhiên tiểu quốc phải thương xót, nhưng chưa từng dám nói ra một lời.
Ấy bởi thời trời việc người, tiểu quốc cũng đã biết rồi. Nay Chiêm
Thành lại làm chuyện phản nghịch chấp mê, không chịu trở lại. Đó gọi là
kẻ chẳng thể biết trời biết người. Kẻ biết trời biết người mà trở lại
cùng mưu với kẻ không biết trời biết người, thì tuy trẻ mới lên ba
cũng biết là không thể cùng được.
Huống là tiểu quốc ư ? Mong quí hành tỉnh xét kỹ.
5
Lá thư tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 21, gửi cho Thoát Hoan
Tuy
không thể chính mình thấy được ánh thừa, nhưng trong lòng đã rất hân
hạnh. Ngày trước, kính được chiếu vua nói rằng: “Có lệnh riêng quân ta
không được đi vào nước ngươi”. Nay thấy Ung châu doanh trại cầu đò,
thường thường liên tiếp. Thật rất sợ hãi, rất mong hiểu rõ lòng trung
thành mà thêm chút thương xót.
6
Thư tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho Thoát Hoan
Chiếu trước đã riêng ra lệnh “quân ta không được vào nước
ngươi”. Nay vì Chiêm thành đã xưng bề tôi mà làm phản trở lại, nhân
thế phát đại quân đi qua do bản quốc mà tàn hại trăm họ. Đó là việc làm
sai trái của thái tử, chớ không phải sai trái của bản quốc. Kính mong
chớ đi ra ngoài chiếu trước. Rút đại quân về. Bản quốc sẽ sắm đủ cống
vật, đem dâng lại có khác với trước.
7
Lá thư tháng 3 năm Chí Nguyên 23 (1286)
Ngày tháng 3 năm Chí Nguyên 23 (1286), thế tử nước An Nam là thần Trần Nhật Huyên kính gửi:
1.Hòm đựng biểu bằng gỗ son có quách bằng bạc phủ vàng cùng với chìa khóa, một bộ.
2.Voi thuần, một con.
3.Yên ngựa vàng góc liền với bàn ngồi, một chiếc (vàng góc nặng 10 lạng)
4.Đài bạc phủ vàng cùng trái bóng liền lông trâu, 5 bộ (cộng lại nặng 6 lượng 14 tiền).
5.Lục lạc bằng đồng có mạ vàng, 7 chiếc.
6.Sừng linh dương, một bộ.
7.Chiếu gấm màu lục đậm, một chiếc.
8.Dây bông hồng, bốn tao.
9.Tấm choàng mưa bằng vải lăng màu đỏ có dụ kim, một tấm.
10.Mâm ngự đá hoa góc vàng phủ bạc, một chiếc.
11.Bình lưu ly cùng với nắp vàng, 2 chiếc. Cộng lại nặng 1 lạng 6 tiền.
12.Đế đèn vàng, một đôi (cộng lại nặng 14 lạng).
13.Mâm sừng tê bốn góc phủ bạc, một chiếc.
14.Chén trầm hương vàng góc có nắp đậy, một chiếc.
15.Đĩa lá sen phủ vàng, một cái.
16.Dù vàng 3 lạng 7 tiền.
17.Đĩa lá sen vàng 5 lạng.
18.Đĩa dạng móng vàng 6 lạng 8 tiền, một cái.
19.Bầu vàng một cái 10 lạng.
20.Đĩa kim tê vàng góc liền đáy, một chiếc 4 lạng.
21.Chén tê giác vàng góc một cái (vàng góc 5 lạng)
22.Đĩa vàng dùng đủ một cái 2 lạng 8 tiền.
23.Lò vàng liền với đũa vàng một bộ.
24.Lò vàng một cái bốn lạng.
25.Đũa vàng một lạng ba tiền.
26.Que xóc thịt bằng vàng, một que 7 tiền.
27.Đai vàng ròng, một bộ 4 cái.
28.Bàn cờ bằng xương voi cái, có màu gỗ vằn sáng, góc vàng phủ bạc, một chiếc ba lạng.
29.Hộp phủ vàng có phủ xen vàng đỏ liền với múi, một chiếc 25 lạng.
30.Bộ quân cờ bằng ngà voi, một bộ 32 con.
31.Hoa tê ba cành phía dưới phủ vàng xen bạc, ba món nặng 18 lạng.
32.Sừng tê giác Đại ô năm chiếc liền với ván đáy có vẽ năm miếng.
33.Chậu rửa bằng vàng 5 chiếc, cộng 10 lạng.
34.Chậu rửa vàng đỏ 10 chiếc, cộng lại nặng 300 lạng.
35.Bình bạc đựng đầy dầu tô hợp hương, ba chiếc (dầu cộng nặng 163 lạng, bình cộng nặng 79 lạng).
36.Đoạn lông vàng nước Tây Dương hai xấp.
37.Quyến mịn vải ngũ sắc 50 tấm.
38.Gấm mọi 100 tấm.
39.Vải trắng nước Chà Và 20 cân.
40.Vải chen màu nước Chà Và 10 cân.
41.Lông chim trả 100 chiếc.
42.Bạch đàn hương 2 tể, cộng lại nặng 10 cân.
43.Mai hương đàn 2 tể, nặng 70 cân.
44.Ca ma nhiên hương 100 cân.
45.Thảo quả 10 cân.
46.Ngà voi 20 chiếc.
47.Sừng tê giác 20 chiếc.
48.Chim ó 20 con.
49.Chim trĩ hai con.
50.Rái cá một con.
51.Cá sấu 8 con.
52.Chim bát ca một con.
8
Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
Chí Nguyên năm thứ 25 (1288) nước An Nam dâng biểu nói:
Vi thần, thế tử nước An Nam Trần Nhật Huyên lo sợ, trăm lạy
quên chết phục tội, dâng lời lên Hoàng đế bệ hạ được trời cao yêu mến.
Được Thánh chỉ lúc này, như gió ấm cởi lòng, kính mong thánh thể sinh
hoạt vạn phúc. Cha con của vi thần, qui thuận thiên triều đã 30 năm
hơn. Dẫu vi thần đau mang bệnh tật,ử đường sá xa xôi,ử bệ hạ vẫn để cho
ở bên ngoài tính toán, chỉ nhận lấy phương vật cống hiến, mà sứ thần
dâng lên, năm tháng chưa từng thiếu sót
Đến
năm 23 (1286) bình chương A Lý Hải Nha vì tham lập công biên giới,
làm trái với thánh chỉ. Do thế, tiểu quốc sinh linh một phương phải
chịu lầm than. Sau khi đại quân về rồi, vi thần mới biết lòng hạ thần
bị ngăn chận, do lời dữ mà bị vu oan là làm phản, gọi thành tội lỗi của
thần. Thần đặc biệt sai bọn thông thị đại phu Nguyễn Nghĩa Toàn, hiệp
trung đại phu Nguyễn Đức Vinh, hữu vũ đại phu Đoàn Hải Cung, Trung đại
phu Nguyễn Văn Ngạn phụng đem phương vật đến trước cửa khuyết, ý muốn
thêm chút lòng thương của bệ hạ, há mong gì hơn. Thế mà họ đều không
trở về.
Chí
Nguyên năm thứ 24, mùa đông, lại thấy đại quân thủy bộ đều tiến sang,
thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người
dân già trẻ, đập phá sản nghiệp trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá
phách, không gì là không làm. Lúc bấy giờ, thần sợ chết, liền trước
trốn đi. Tham chính Ô Mã Nhi nói với người trong nước truyền báo cho
thần rằng: “Mày chạy lên trời, tao theo lên trời. Mày chui xuống đất,
tao theo xuống đất. Mày trốn trong núi, tao chạy vào núi. Mày chạy
xuống biển, tao sẽ xuống biển”. Trăm thứ tủi nhục, lời nói chẳng hết.
Thần
nghe những lời ấy, biết mình không khỏi tội, càng đi trốn xa hơn,
những mong thái tử xót thương, riêng theo nguyện vọng của tiểu quốc, mà
đưa đại quân đi về.
Tham
chính Ô Mã Nhi lâu nắm binh thuyền, riêng ra ngoài biển, bắt hết biên
dân vùng biển, lớn thì giết chết, nhỏ thì bắt đi, cho đến treo trói,
xẻ mổ, mình đầu khắp chốn. Trăm họ bị bức tới chỗ chết, bèn dấy lên cái
họa của con thú chân tường. Vi thần sợ sẽ dây dưa đến mình, nên tự
thân tới ngăn cản, nhưng đường xa lại không kịp. Khi nghe thấy trăm họ
đưa đến đại vương Tích Lệ Cơ, một người, bảo là thuộc quí thích của
đại quốc, thần ngay ngày đó đã sắm lễ đối đãi, hết mực tôn trọng. Thần
kính hay là không kính, đại vương tất biết. Còn việc làm của Ô Mã Nhi
tàn khốc bạo ngược, thì chính đại vương mắt thấy. Vi thần chẳng dám nói
dối.
Thủy
thổ của tiểu quốc rất độc, viêm chướng thật nhiều, thần sợ ở lâu tất
sinh tật bệnh. Tuy vi thần đã hết lòng phụng dưỡng thì cũng không khỏi
được tội các tướng tham lợi quân công ở biên giới mà có lời tâu không
căn cứ. Vi thần đã kính cẩn, có đủ lễ vật đi đường, sai người đến
trước biên giới đưa tiễn đại vương về nước.
Kính
mong bệ hạ đức sánh càn khôn, ơn hơn cha mẹ, trí như đem đuốc rọi chỗ
tối, sáng đủ để biết tình ngay gian, nguyện xin xét kỹ mà thêm lượng
khoan hồng, hầu khiến vi thần miễn khỏi tội lỗi, được hết lòng thờ trời
suốt đời, há chỉ vì vi thần cùng với sinh linh một phương, tử sinh cốt
nhục, muôn đời nhận được ơn sinh thành đại tảo, mà cũng để cho hết
thảy các nước được may mắn thật hưởng sự nhân từ của lòng nhân bệ hạ.
Ngoài
ra, những kẻ sót mất của đại quân còn hơn những ngàn người, thần đã
phát lệnh đưa về. Nếu sau này có gặp nữa, thì thần cũng tìm ra và bảo
trở về.
Tiểu
quốc gần đây gặp phải binh hỏa. Vả lại lúc này khí trời còn nóng,
cống vật và sứ giả khó có kiếm ra. Đợi đến mùa đông mới có thể sai đi
được.
Lòng hạ thần không có gì khác, không dám van trời nài thánh, hoảng sợ quên chết, phục tội khôn xiết, kính cẩn tâu bày.
9
Tờ biểu tháng tư năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
Thế
tử nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên, sợ hãi quên chết phục tội,
dâng lời lên hoàng đế bệ hạ được trời cao yêu mến. Lúc này ba xuân
sáng đẹp, muôn vật sinh sôi, kính mong thánh thể sinh hoạt vạn phúc.
Vi
thần vào ngày 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 26, thấy Lưu thiên sứ, Lý
thị lang, lang trung Đồng Đường Ngột Đãi, Cáp Tán, Ống Cát Lạp Đãi đã
phụng đem thiên chiếu cùng các tiểu sứ của thần là mấy bọn bề tôi
Nguyễn Nghĩa Toàn trở về. Thần khôn xiết vui mừng kính cẩn đốt hương
vái đọc ở chính điện. Đến khi quân đội một lần cùng đến, hồn vi thần
phách tán, lòng dạ như bị dội đập. Thật đúng như người ta thường nói,
sướng chưa trọn mà buồn đã tới, vui chưa thỏa mà sợ lại đến. Vi thần
liền trốn ở góc biển, lâu ngày bị bệnh tật, đường sá xa xôi, thủy thổ
khó khăn. Mạng sống tuy liên hệ với số trời, nhưng tình người thì lại
rất sợ chết mất.
Thêm
vào đó, đại quân đã lắm lần chinh phạt, giết cướp lại nhiều. Anh em
không kẻ hiền lương, dựng chuyện tâu sàm không ít. Trước đây, quốc thúc
Di Ái rõ ràng trốn mất ở ngoài biên cảnh, bèn trở ngược vu cáo thần là
đã làm việc chuyên giết. Lại người em giữa Ích Tắc tự đem mình đến
trước đại quân xin vái đầu hàng. Ấy là muốn đến trước để lập công cho
mình. Huống nữa là những người đến thay mà tâu bày, thì lại càng thêm
ngoa dối. Vi thần thập tử chứ không có một chút sống nào.
Bệ
hạ đức quá Đường Ngu, sáng sánh trời trăng, thì lòng chân thành hay
dối ngụy, không điều gì là không tỏ rõ, việc tối tăm nhỏ nhiệm không gì
là không soi tới. Do thế, đại quân sau trước giết tróc, vi thần vẫn
thường ghi lòng hai chữ trung thuần. Năm qua tháng lại chưa từng bỏ
thiếu. Ấy là bởi vì cậy có thánh nhân ở trên trời, như mặt trời rọi
tới những nơi chưa tỏ rõ. Khi đại quân vừa rời khỏi, mà thiên sứ chưa
tới, thì vi thần đã sai bọn trung đại phu Trần Khắc Dụng, phiếm nghĩa
lang Nguyễn Mạnh Thông kính đem vật mọn đến cửa khuyết hiến dâng tạ
tội, những mong khoan hồng, riêng ban lòng xem xét. Thế cũng đủ thấy
lòng sợ chết tham sống của vi thần. Ngoài ra tuyệt nhiên không dám làm
việc bội nghịch nào khác.
Năm
ngoái, bách tánh của tiểu quốc đem quan quân tới. Vi thần chính mình
hỏi han thì chỉ được ba tên là đại vương Tích Lệ Cơ, tham chính Ô Mã
Nhi và tham chính Phàn (Tiếp). Bá tính đều cho ba người này đã giết vợ
con họ, đốt phá nhà cửa họ, nên phần lớn muốn làm chuyện phi nghĩa. Vi
thần chính mình ra sức bảo vệ, cấp dưỡng hậu hĩ, thê thiếp họ thì cơm
ăn áo mặc phủ phê, hành trang đi đường thì được chuẩn bị đầy đủ đưa đến
trước. Đặc biệt sai sứ thần là Tùng nghĩa lang Nguyễn Thịnh đi theo
đại vương Tích Lệ Cơ, Đồng Đường Ngột Đãi đến cửa khuyết.
Trong
khi đó, hai tham chính bị rớt lại sau. Nguyên do vì đại quân mới rút,
lòng sợ hai tham chính chưa hết cơn giận, tất gây họa hại. Vì thế mạn
phép lưu lại sau mới ra đi, há có hẹn rày mai. Vi thần chẳng may việc
trái với lòng.
Phàn tham chính bỗng gặp bệnh sốt. Vi thần đem hết thuốc men
của mình nhờ những thầy thuốc bộ hạ của Phàn tham chính để chữa, nhưng
đã không khá, dần dần đến chỗ mất thân. Vi thần đã hỏa táng, làm đủ
mọi lễ công đức, xong rồi nhân thế, cấp ngựa, lụa giao cho thê thiếp
của Phàn tham chính đưa hương cốt trở về. Bọn thiên hộ Mai Thế Anh,
Tiết Văn Chính đi theo hộ tống về nhà cùng một lần. Ngày Lưu thiên sứ
đến đều bảo đã qua tới Ung Châu rồi. Phàm việc quản đãi hằng ngày ấy có
kính trọng hay không thì hỏi đám thê thiếp cũng có thể biết vậy.
Tham
chính Ô Mã Nhi thì đúng kỳ tiếp tục đi sau để trở về. Ông ấy cho
đường trở về, do đi qua Vạn Kiếp nhân thế xin trước đến Hưng Đạo Vương
giúp cho phương tiện đi về. Trong hành trình trên bộ dưới nước, đêm gặp
phải hỏa hoạn, thuyền chở vì thế nước tràn vào. Tham chính thân hình
cao lớn, khôn hay vớt kịp, đến nỗi chết chìm. Nhân phu tiểu quốc lặn
tìm cũng đều chết theo. Thê thiếp và tiểu đồng của tham chính suýt hãm
chết, song nhờ thân hình nhẹ nhỏ mới cứu được khỏi. Vi thần hỏa táng,
làm đủ công đức. Thiên sứ là lang trung (Lý Tư Diễn) chính mắt trông
thấy. Hoặc nếu bất kính, thì có thê thiếp của ông ấy ở đó khó có thể
che giấu. Vi thần kính cẩn chuẩn bị đầy đủ cho việc trở về, cũng giao
cho thê thiếp cùng với một xá nhân lang trung tiếp tục trở về nước sau.
Ngoài
ra, các quân nhân còn bị hãm tại chỗ vi thần trước đây, kể hết có hơn
tám ngàn người. Trong số đó hoặc có những vị đầu mục, vi thần đều
không biết. Nay nhờ chiếu dụ, vi thần lại đi tìm kiếm, được đầu mục
quân nhân bao nhiêu tên, thì cùng theo thiên sứ mà trở về. Sau này còn
có sót mất hoặc chưa tìm hết thì vi thần cũng sẽ cho ra về, không dám
lưu lại một người nào.
Cúi
mong bệ hạ như núi biển bao hàm, dơ bẩn chứa hết, nuôi mắt sáng, rộng
tai rõ, mỗi mỗi khoan hồng, bỏ ngoài tính toán, khiến cho vi thần khá
được một đời bảo toàn đầu cổ để trọn lòng thờ trời, mà còn mong đời đời
kiếp kiếp tan thịt nát xương báo đáp ơn vua trong muôn một. Xét mong
ơn vua ngay thẳng, rất đỗi sợ hãi kính tâu.
10
Tờ trạng tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
Chí
Nguyên ngày tháng 3 năm 26 (1289) thế tử nước An Nam là vi thần Trần
Nhật Huyên dâng trạng tâu xin tiến phương vật, nói rằng:
Thế
tử nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên nép nghĩ, tháng 2 năm nay
gặp thiên sứ Lưu án sát vâng đem chiếu trời. Vi thần, lâu mắc bệnh tật,
sợ tội, kính cẩn chuẩn bị vật mọn, sai bọn bồi thần Đàm Minh Thông,
Thị đại phu Chu Anh Chủng và một hành nhân, khiến tùy thiên sứ đi đến
thượng quốc dâng hiến. Nay kê đầy đủ tên số vật kiện ở dưới, tại chỗ
cuối quyển, phía trên mỗi hạng vật mọn, theo trạng dâng lên. Cúi mong
thánh từ phủ tứ giám nạp. Kính trạng.
11
Thư tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
Ngày tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289), thế tử nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên dâng trạng thơ lên Hoàng hậu, nói rằng:
Thế tử nước An Nam Trần Nhật Huyên kính cẩn cúi đầu dâng thơ, nói:
Lúc
này đường huệ phong quang, tiêu phòng trời ấm. Kính nghĩ Hoàng hậu
điện hạ sinh hoạt vạn phúc, chủ trương nội trị hưng thịnh, công lao
dồn lại cho bá vương, biểu thị mẫu nghi hóa dục, lòng nhân coi mọi
người cùng đồng như một, gây nên cơ sở thể hiện đức hiếu sinh. Cho nên
được lòng vui của muôn nước, không nỡ để một kẻ hèn mất nơi, xin lòng
thương cho đến hoang vu cùng được dự tắm lòng từ rộng lớn, còn lo âm
nhạc cho hòa, càng giúp ao ngọc thêm thọ. Kính cẩn ghi đủ vật mọn ở tại
giấy riêng để xin dâng hiến, cúi mong giám nạp.
Thần rất sợ rất hãi, cúi đầu kính nói.
12
Thư tháng 3 năm Chí Nguyên (1289)
Ngày tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 26 (1289), thế tử nước An Nam
thần Trần Nhật Huyên dâng thơ tiến phương vật, kể rằng:
1.Bông tai đeo toàn bằng vàng có kết trân châu, một đôi.
2.Giỏ đồi mồi, một cái.
3.Áo lĩnh chầu bằng vàng có ngọc châu màu đỏ, một cái.
4.Hộp bạc, một cái.
5.Ngọc châu màu, 16 hạt (gồm ngọc châu hoàng long 4, ngọc châu tử ni 4, ngọc châu bích ni 4, ngọc châu thạch lựu 4).
6.Trân châu 276 hạt (lớn 2, vừa 10, cỡ như hạt mè 200)
7.Xuyến trân châu có tráng vàng một cặp (châu 1000 hạt, vàng nặng một lạng).
8.Chén kim khuyên một bộ. Cộng lại là 4 lạng 5 tiền.
9.Chén hoa tê, đĩa vàng toàn dùng một chiếc, nặng 3 lạng.
10.Chén vàng liền nắp một cái, nặng 9 lạng 6 tiền.
11.Gấm một xấp.
12.Đoạn thiên ty hai xấp.
13.Vải quyến ngũ sắc sợi nhỏ 20 xấp.
14.Vải trắng nước Chà Và 1 xấp.
15.Lông chim trả 50 chiếc.
Trên đây là những hạng mục vật mọn kèm theo thơ dâng lên. Cúi mong hồng từ phủ tứ giám nạp. Kính giãi bày.
12
Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 29
Năm
Chí Nguyên thứ 29 (1292), thế tử An Nam Trần dâng biểu nói, vi thần
sáu thước, xưa nhờ cha dạy về việc thần sự thiên triều, không được bỏ
phế một việc hằng năm cống hiến. Kíp kíp mãi ghi ở lòng. Sở dĩ là sợ
tội tiếm thiết, nên đặc biệt sai bọn trung lượng đại phu Nghiêm Trọng
Duy, hữu vũ đại phu Trần Tử Trường vào tháng 9 năm Chí Nguyên thứ 27
(1290) phụng đem vật cống đến cửa khuyết dâng hiến, trên để tỏ hết lòng
thành thờ trời, dưới để nối chí tổ tiên. Kịp đến tháng 2 năm nay,
thiên sứ chính nghị đại phu Trương Hiển Khanh, phụng thuận đại phu Bất
Nhã Tiết Mục Nhi vâng đem chiếu trời và vật ban cùng Nghiêm Trọng Duy
trở về tới tiểu quốc. Tông tộc, quan lại, bá tính kỳ lão cả nước hớn hở
bảo nhau rằng: “Thánh thiên tử đem lòng nhân mà thương vi thần, dùng
trung thứ mà đãi người, thì chắc chắn đám sinh linh chúng ta thoát khỏi
cảnh đồ thán.”
(...)
Thần và bá
tính tiểu quốc khôn xiết kinh sợ. Việc đó, cha thần ngày còn sống, đã
thường khiến sứ tâu lên, đúng vào lúc thần chưa dự vào chính sự, nên đó
vốn là chỗ thần không biết, chớ không phải riêng dám qui lỗi cho cha
thần, lại để tìm cách tự mình lại được khỏi tội. Vạn nhất mà thiên
triều riêng rủ lòng khoan tha, thì đó là một điều may mắn cho thần. Nếu
không thì đó là tội của thần đáng bị giết đi không xiết.
Đến
việc bảo thần phải tự mình tới cửa khuyết, thánh thiên tử không tiếc
vương tước phù ấn, lại phong đất đai như cũ, thì thần với tôn tộc quan
lại của tiểu quốc, hồn kinh sống lại, vía chết lại yên, vì cho rằng
thiên triều, nếu không nghĩ tới, há có thể giải đáp giống như thế ư?
Cha ông của thần thời còn sống, thiên triều khen có lòng trung thành,
thương chỗ xa xôi, bỏ ra ngoài mà không tính tới. Cho nên, năm Trung
Thống thứ 12 (1269) đã có chiếu phong làm tước vương, ban cho phù ấn,
riêng ra lệnh: “Quân ta không vào nước ngươi, áo mũ lễ nhạc, không đổi
tục cũ”. Tổ phụ của thần nhờ thế mà giữ được đầu cổ cho đến chết. Sinh
linh đến nay nhận ơn không ít.
Đến
đời cha thần, không may biên cương gây họa, nhưng việc thờ trên vẫn
một lòng chung thủy không đổi. Kịp đến đời thần, mạo thay giữ đất, thẹn
được thiên triều nghĩ tới tấm lòng của cô thần, lại biết thần sinh
trưởng nơi góc xa, không thuộc thủy thổ, không quen nắng mưa. Các sứ
thần của tiểu quốc đi lại thường vì lam chướng mà chết đến sáu, bảy.
Nếu thần không thể tự lượng thì chỉ chết ở dọc đường, rốt không ích gì
cho công việc. Vả lại, tiểu quốc là một nước mọi rợ, phong tục bạc ác,
một ngày sống mà rời nhau thì anh em chắc không thể dung thứ cho nhau.
Thánh thiên tử có lòng nuôi vật, có dạ thương côi, thì một bề
tôi của tiểu quốc còn không nỡ bỏ sót. Huống nữa, cha ông của thần
đời đời thờ vua, mà vội vàng trong một ngày nỡ khiến cho xương cốt
chóng phơi, xã tắc trở thành gò đống ư ?
Than
ôi! Người đời nếu có kẻ được gặp mặt thánh, thì ở trong sách Phật gọi
đó là phước lớn, còn sách Nho thì gọi đó là chuyện ngàn năm một thuở.
Thần há không muốn xem quang cảnh thượng quốc, thân mình được tắm gội
ơn vua, mà đã vội trái mệnh để chuốc lấy họa ư? Trời trên soi tỏ. Thật
tình, vì thường tham sống sợ chết, thần xa cách thiên triều mà mắc tội
ở góc trời thì sự che chở khoan dung chỉ cậy có bệ hạ sáng như trời
trăng, lượng như thiên địa. Nếu không, dồn hết nước cả bốn biển cũng
không đủ để rửa sạch tội của thần.
Thần
nói hết lời, như gan phổi bày ra. Kính mong bệ hạ thương xót kẻ cô
độc này, nghĩ tới sự khốn cùng của nó mà xét cho lòng cô trung của vi
thần, tha tội nặng của vi thần, giúp vi thần được tạm kéo dài hơi tàn
để hết lòng thành thờ kẻ lớn, bá tính mỗi giữ được tính mạng để hưởng
lấy đức hiếu sinh. Há chỉ vi thần thịt nát xương tan, khôn có thể mong
báo ơn vua trong muôn một, mà cùng khắp hết gầm trời, muôn miệng một
lời cùng chúc tuổi vua muôn ức.
14
Thư ngày 13 tháng giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
Cô
tử gửi thư cho thiên sứ đại tướng quân trướng hạ. Nay xét xe sứ mới
đến, đầy thành xuân khí lung linh, liền biết có ý mới sinh, bút báo dạy
răn để đón tiếp chiếu trời. Việc đủ để ghi nhận, hết lòng nhớ nghĩ.
Cảm động lắm, cảm động lắm.
Lễ
đón chiếu trời, từ xưa đã có. Từ ngày cha ông qui thuận đến nay đã
định thành lệ thường, huống chi thân này dám mà không làm theo hết. Bèn
kính cẩn đặc sai bề tôi chấp chính của bản quốc là Lê Khắc Phục ra tới
biên cương xa đón. Đến ở trong nước, lễ tiếp được khiến dàn bày, tới
ngày những mong rủ xuống những lời giáo huấn. Sơn lam chướng khí, e
chẳng phải đất để có thể ở lâu dài. Nghĩ mong sớm được có lời bảo ít
nhiều để an ủi lòng ngóng trông đau đáu. Kính đưa thư đáp này, rất mong
xét nghĩ, khôn nói xiết hết.
Viết vào ngày 13 tháng giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
15
Thư ngày 21 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
Cô
tử viết thư lại cho thiên sứ đại tướng công các hạ. Cô thẹn được bút
hoa của ngài đáp lại, rủ xuống tấm lòng hết sức dạy dỗ yêu thương. Thật
cảm kích, thật cảm kích. Cô là bề tôi thờ tiên triều từ ông nội đến
nay đã hơn 30 năm, tuế cống không dứt, tuy hai lần gặp binh hỏa, vẫn
thủy chung một lòng. Việc phải đắc tội chỉ là không thể đền chầu mà
thôi. Cô há không biết lễ là nếu có lệnh vua đòi thì không được lần
lữa. Nhưng như tình thường tham sống sợ chết, sao như chim bay cao cá
lặn sâu, chỉ có lòng muốn sống mà thôi, huống nữa là con người ư. Nếu
thiên hạ không nơi bất tử và xưa nay không có người bất tử, kẻ hiểu lẽ
đó, chỉ có Phật mà thôi. Còn con người ai có thể làm được. Tệ ấp của
cô cách xa thiên triều quan san vạn dặm. Tướng công thực đã biết đủ
rồi. Giá như cô đem cái thân yếu đuối bé nhỏ này, gắng gượng mà ra đi
đợt này thì việc không tử vong trên đường sá là hiếm lắm. Mà việc tử
vong của cô đây cố nhiên là không đáng xót. Song nó không làm thương
tổn được lòng nhân yêu người, yêu vật của thánh triều ư ? Sách nói, vua
là trời. Việc thờ vua của cô đây còn hơn cả việc thờ trời. Trời không
có bực mà lên, nhưng còn có thể nhờ sớm tối để mà đối so. Vua không có
bực để mà gần, nhưng có thể nhờ sớm tối mà hướng mộ. Cô nếu không tự
lượng lực mà ra đi, thì còn muốn cầu đối so hướng mộ được ư ? Cô mượn
lẽ của người xưa, nói năng không kiêng kỡ, lòng dạ như đã giãi bày,
mong nhờ tướng công tạm vì cô mà nghĩ kỹ cho muôn một, chớ tiếp lời
dại. Thư không hết lời.
Viết vào ngày 21 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
16
Thư ngày 25 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
Cô
tử viết thư đáp lại thiên sứ đại tướng quân các hạ. Cô bất tiếu, cúi
mong không bị chê quê, nhiều lần được ban thơ từ, tình nhiều, thương
lắm. Nhiều lần nhọc nhằn ban thơ, lời lẽ phong phú, tình nghĩa dạt dào,
thương yêu quá hơn cốt nhục, thân thiết như cố nhân. Ý khăng khăng,
dám không phơi hết lòng dạ để tỏ tình trong muôn một.
Còn
một việc đến chầu, thì cô chịu tội vậy. Bởi vì cậy vào lòng nhân của
thánh triều như trời đất , mỗi mỗi trình xin lòng thương xót. Tướng
công đã thật biết rồi, không cần nói thêm nữa. Về sự vinh dự của người
thần tử được vào chầu, thì cô há không muốn. Chỉ nếu đem con đi thì
khốn nỗi miệng nó còn hôi sữa, gân cốt chưa cứng cáp, không tập cưỡi
ngựa, không quen gió sương, trên đường sá sẽ thấy như thế nào. Cô đây
tuổi đã quá 30 mà còn lo không giữ được thân này, huống chi là đứa con
mọn ấy. Nếu đem việc cũ của Anh Tề mà xét xem thì lại làm cho tội cô
đây thêm nặng
Về
tướng tá của quan quân, hoặc có kẻ còn rơi sót lại nơi tệ ấp, thì cha
của cô ngày còn sống, đã tìm kiếm hết thảy như bộ thuộc của đại vương
Tích Lệ Cơ, già trẻ của Ô Mã Nhi và Phàn tham chính, Tôn Lộ Man, Hà
phụng ngự, Đường Ngột Công, Cát La Thị, Đường Vạn Hộ, Hồ Anh, Quách
Toàn và bọn vạn hộ, thiên hộ đầu mục quan quân... đều đã theo nhau
thứ lớp đưa về xong. Kỳ dư, hoặc có kẻ gặp lam chướng mà chết, hoặc đã
trốn về, thì cô không biết được. Trương thượng thư ngày đến cũng đã nói
tới điều này. Cô đã tìm hỏi các nơi thôn xóm, tới nay chưa có được
tin tức gì. Cô há có tiếc mấy người này để nỡ bỏ sinh linh một phương.
Vả lại, sở dĩ việc cô đưa trở về, ấy quả có lệnh của triều đình, chứ
đâu phải cô tự làm sao? Còn họ ở đây thì chỉ chuốc lấy tốn kém, phí
dụng, chứ có ích gì đâu.
Cô
từ sau khi cha mất đi, đã ăn chay, tụng kinh, phóng sanh vật mạng,
còn lo không đủ để báo ơn cha trong muôn một. Huống nữa là có việc bỏ
tù hay giết hại tướng tá của thiên triều, để lụy tới cha mình ở dưới
đất sao. Tướng công tuy đem điều đó ra dặn dò, cô vẫn không đợi nói
hết.
Còn việc xâm lược biên giới, lời đó càng không đáng tin. Kinh Thi nói: “Khắp dưới gầm trời đâu chẳng đất vua.
Đem hết bờ cõi đâu chẳng tôi vua”. Tiểu quốc tuy nằm ở một xó,
cũng là đất bề tôi của đại quốc. Mấy năm gần đây mới gặp binh họa,
trăm họ tử vong, ruộng đất bỏ phế. Tướng công đã tận mắt thấy rồi. Nay
đất của tệ ấp mười nhà thì chín nhà đã trống. Thế chưa đủ sao? Sao rảnh
mà đi lấy thêm chỗ khác ư. Nay đem việc tiểu quốc thành sự đại quốc,
chỉ biết lo sợ, còn e không giữ được, sao dám sanh lòng kiêu căng ấy ư.
Gần đây, thiên sứ qua lại nhiều lần, tới đến tiểu quốc. Việc đón đưa ở
Lục châu, tiểu quốc sợ tội xâm vượt biên giới, nên luôn tránh đi, chỉ
dừng ở Khâu Ôn mà thôi. Lời cô không tin, thì còn có các thiên sứ.
Hiện nay, lời tướng công có bảo phải trả lại biên giới. Lời nói ra làm
thần rất sợ hãi. Cô vốn không có ý xâm lược biên giới, mà lại dám có
lời trả lại biên giới ư? Như tướng công đã bảo, thì cô cũng sẽ răn ước
đám dân biên giới chớ sinh sự bậy, để thể hiện lòng thành thờ trời của
cô.
Vật
là để tỏ lòng thành. Tả truyện có việc dâng rau cần. Kinh Thi có rau
khe suối bãi bờ, rau tần, rau tảo, đồ nơm, đồ sọt, nước huỳnh, nước
lạo, có thể dâng quỷ thần, có thể đãi vương công,1 Ấy là bởi tại lòng
thành, chứ không phải tại vật. Cô ở xó bên ngoài đất viêm hoang, xa
cách mặt trời. Thế mà sở dĩ tỏ rõ lòng thành của mình, ấy là tại ở thổ
sản mà thôi. Nay tướng công cho đó là hư dối, không đủ để thể hiện
lòng thành thờ vua thì cô sắp lấy gì để gửi tấm lòng mình ư? Có chỗ để
gửi tấm lòng thành của mình mà còn không thể khỏi tội lệ. Nữa là không
có chỗ mà gửi lòng thành thì tội lệ đó sẽ như thế nào.
Trộm
nghĩ, thân cô đã không thể đến triều, mà con của cô lại không thể vào
chầu. Cả nước kinh hoàng, chẳng biết làm gì, chỉ có đem hết tâm lực
của mình, gửi lấy tánh mạng mình, gượng khiến một lão thần tâm phúc
thay thế đến cửa trời mà giãi bày tội lỗi. Thế mà nay tướng công lại có
lời là phải có một cận thần cốt nhục. Cô chưa biết xét người ấy là
thế nào, hoặc là anh em chăng? hoặc là bà con chăng? hoặc là một lão
thần tâm phúc chăng? Cô hư đốn, hoàng thiên không thương xót, nên anh
em bà con đều là những kẻ chẳng biết gì, không thông xưa nay, không rõ
thời sự. Giả sử lấy một người đưa đi lần này, thì không chỉ mắc tội
với thiên triều, mà còn e di họa cho tiểu quốc.
Đó
là đám trước đây, tướng công há không biết sao. Cô cho là anh em bà
con, tiếng tuy là rất thân nhưng thực là kẻ thù; còn lão thần tâm phúc,
tiếng tuy là bề tôi nhưng thật ra đó là cha con. Cô chưa biết ý tướng
công, dùng danh ư, dùng thực ư ? Nếu muốn dùng hư danh mà không dùng
điều thực, thì không chỉ cô đây mắc lấy tội không thể hết tình, mà
tướng công cũng có cái lụy là bỏ thật mà lấy dối. Lời nói này của cô
chưa khỏi bị chê là xảo quyệt, trang sức, văn hoa, dối trá. Chỉ may mắn
mong tướng công uyển chuyển rõ hết tấm lòng mà thương xót tha cho.
Cơ
an nguy sống chết của cô đây lệ thuộc vào trong ba tấc lưỡi của tướng
công. Những mong lấy ý thương xót cô và lòng che chở dân, đặc biệt
uyển chuyển một lời, dâng tới tai trời, giãi bày nỗi niềm không nơi
nương tựa của thân cô sáu thước, ý không đâu nói tỏ của dân một phương.
Há không chỉ sinh linh một nước cô đây được vái lạy của ban của trời
đất cha mẹ. Dầu tiên tổ phụ của thần nghe được ở dưới đất cũng bất giác
tay múa chân nhảy lăm lăm mong báo lại, thì chỉ có một nén tâm hương
dâng lên ở cõi u minh.
Thơ không nói hết. Viết vào ngày 15 tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
17
Thư ngày 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
Cô viết thư đáp lại thiên sứ đại tướng công các hạ. Nay nép
thấy nhọc nhằn xe hoa sứ tới, nhà thẹn tệ ấp tiêu điều, chẳng biết lấy
gì để đãi người trưởng giả khi trở về. Mạo đem tí vật mọn để làm lễ
tiễn. Thư đến khiêm nhượng từ chối, tình các hạ thật cao, còn lễ thế
nào thì cô kính cẩn, giao phó cho sứ thần bản quốc đem tới, mong được
nhận lãnh. Nếu mong đáp được chút tình, ấy là tại lòng chứ không phải
tại vật. Kính đưa thư đáp này. Tha thiết mong được xem xét, suy nghĩ.
Thư không nói hết lời.
Viết vào ngày mùng 1 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
18
Nguyên nước An Nam dâng bài ca Vạn thọ cùng biểu và tấu.
Trời ban cho vua.
Vua ban xuống dân.
Thần chúc thánh thọ
Ức vạn năm xuân.
19
Tờ biểu ngày 4 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293).
Ngày lành tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30, bề tôi nước An Nam là Trần Nhật Tôn trăm vái, dâng lời của bề tôi Nhật Tôn:
Kính nghĩ, tuổi vua ức vạn, sánh tám ngàn năm xuân thu mới tới,
đất Hạ đôi ba, ngang với năm trăm dặm đất miền hoang ngoài cõi. Khắp
trời mừng vui, từ xưa chưa nghe tới. Bề tôi Nhật Tôn thật mừng, thật
vui, cúi đầu, cúi đầu kính nghĩ Hiến Thiên Thuật Đạo Nhân Văn Nghĩa Vũ
Đại Quang Hiếu hoàng đế bệ hạ thông minh sánh trời, trí dũng thiên phú,
vì một giận mà yên thiên hạ, đem năm phước ban tới thứ dân, lấy trọn
bốn phương, là việc từ Hán Đường chưa từng có. Thế mà không bỏ sót tiểu
quốc, đem tấm lòng Nghiêu Thuấn ra dùng, có bắt thì có tha, được danh
tất được thọ.
Bề tôi Nhật Tôn, đất nam ngồi giếng, mặt bắc ngóng sao, ba mươi
năm chăm chăm khuyển mã, một tấc lòng rực rỡ trời cao, cúi bày gương
vàng, luống mong cửa khuyết xem soi, xa dâng chén ngọc, sâu trông cửa
ngọc đóng cất.
Bề
tôi Nhật Tôn kính cẩn trai giới tắm gội, tự chính mình soạn viết bài
tụng vạn thọ một chương, viết vào sách vàng, để vào hòm vàng, sai bồi
thần Đào Tử Kỳ,... đem biểu mừng ca để tâu. Bề tôi Trần Nhật Tôn đâu
dám nhìn trời trông thánh, cảm kích thiết tha, khôn xiết hãi hùng, thật
vui thật mừng, cúi đầu cúi đầu kính nói.
Ngày mùng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30, bề tôi nước An Nam Trần Nhật Tôn dâng biểu.
20
Tờ tâu ngày 4 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (l293).
Bề tôi nước An Nam là Trần Nhật Tôn kính cẩn quên chết cúi đầu trăm vái dâng lời:
Thần ngày 14 tháng giêng năm nay nép thấy thiên sứ thượng thư
bộ lại Lương Tăng, lang trung bộ lễ Trần Phu vâng đem chiếu trời xuống
tới hạ quốc. Thần, Nhật Tôn, kính cẩn đem tôn tộc quan lại nhanh chóng
ra đường đốt hương nghênh đón, rồi khi tới lối trải thảm, ba lần đốt
hương cung nghênh, trăm vái quì đọc chiếu trời, nói rằng:
“Tội lỗi nước ngươi nay đã tự giãi bày. Trẫm lại có lời gì. Bậc thánh thiên tử rộng rãi khoan hồng.”
Như thế, bọn thần Nhật Tôn khôn xiết vui mừng, rất là hớn hở,
tự bảo tội lỗi đầy trời của cha con thần mấy chục năm, đến ngày hôm nay
đều được xóa sạch. Kẻ còn người mất thảy đều vái trời cha đất mẹ đã
ban cho cái ơn sống lại.
Song,
trong đó còn nói đến các
loài có sự sống thì có loài
nào an toàn mãi mãi cả
đâu, thiên hạ có đất bất tử
đâu.Thần, Nhật Tôn vẫn biết
rằng xưa nay không có người
bất tử, thiên hạ không có đất
bất tử. Nhưng chỗ cậy là
có trời hiếu sanh. Thánh thiên
tử lấy trời làm lòng mình,
thì tất phải thương kẻ côi
mòn, lấy lòng nhân mà xem mọi
người cùng như nhau. Thì tiểu
quốc có thể trường cửu, có
thể an toàn, có thể bất
tử. Nếu không thế thì đi đâu
chẳng phải là đất chết ư.
Chiếu
trời lại nói: “Chỉ đem văn
dối đồ cống hàng năm, khéo
giả để lừa, thì đạo nghĩa ở
đâu.” Thần, Nhật Tôn, nép đọc
đến đây hồn xiêu phách tán,
gan ruột rã rời, tuy sống
mà như đã chết, tuy còn mà
như đã mất. Thần, Nhật Tôn,
thân này bất hạnh chẳng gì
lớn hơn, đã không sinh ra nơi
triều đình của thiên tử, lại
không thể đến sân thiên tử.
Cái để tỏ được lòng thành
của mình thì ở thổ sản mà
thôi. Thần, Nhật Tôn, há không
biết là thánh triều bao phủ
cả gầm trời, trèo núi vượt
biển đi tới muôn phương. Đồ
cống trân quí, chẳng món gì là
không có, thì sao phải chỉ
chăm chăm một mình tiểu quốc
dâng hiến ư ? Song, thần,
Nhật Tôn, còn không xét đến
tội mình mà lại làm việc mạo
muội đó, thì thật là vì
đạo nghĩa thờ vua có chỗ
không thể bỏ được. Trong chiếu
trời tuy có hỏi đạo nghĩa ở
đâu, thì ở tại thần hạ.
Thần hạ dám bỏ được chức cống
hay sao.
Nép
mong hoàng đế bệ hạ với
lòng cha mẹ, với lượng càn
khôn, bao chứa đồ dơ, riêng
ban lòng thương, nghĩ đến ông
nội của thần là bề tôi Quang
Bính, lòng son qui thuận, hèn
nhận sắc phong, để giúp cho
thần Nhật Tôn nối được ơn
xưa, lo làm chức cũng như cũ,
trên để tỏ hết lòng thành
thờ vua, dưới để hoàn thành
chí nguyện tiên tổ. Há chỉ vi
thần một thân được bảo toàn,
tạm kéo dài được hơi tàn,
mà cũng để cho sinh linh
một phương cùng hưởng đức lớn
hiếu sinh của trời đất, chăm
chăm tốc thành khuyển mã. Thần,
Nhật Tôn, tự bảo dù ngàn
sống muôn chết, thân nát xương
tan cũng không đủ báo đền ơn
vua trong muôn một. Thần, Nhật
Tôn, đâu dám cầu trời khấn
thánh, khôn xiết quên chết, kính
cẩn tâu bày.
Ngày mùng 4 tháng 3 năm
Chí Nguyên thứ 30 (1293). Bề
tôi nước An Nam Trần Nhật Tôn
tâu.
21
Tờ biểu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)
Năm Nguyên Trinh thứ nhất,
thế tử An Nam, Trần, dâng biểu
mừng hoàng đế Thành Tông lên
ngôi.
Rồng bay chín lớp, trên ngôi
rồng trở lại trời xuân. Ngựa
ruổi ngàn non, trước cửa ngọc
kính dâng biểu tạ. Một người
có phúc, muôn nước đều yên.
Kính nghĩ, hoàng đế bệ hạ
văn trị ngời sáng bên trong,
lòng nhân bay khắp hải ngoại,
xa thương gần mến, thường giữ
đạo để làm lòng, dẹp võ dụng
văn, cất khí giới mà không
đánh, quyết mở rộng lòng lành
thăm thẳm của vua ta, muốn
sáng tỏ công lao rực rỡ của
tiên tổ. Dẹp sấm sét để
ra ơn mưa móc, cắt đất phong
để tỏ lượng càn khôn, cùng
dân đổi mới, theo vật gầy
xuân.
Bọn
thần may mắn gặp thời sáng
sủa, mừng vui nghe lịnh sâu
xa. Trông trời bắc khuyết, lòng
xiêu theo sao Bắc cực ngôi
cao, giữ đất Nam hoang, nguyện
chúc vua Nam Sơn thượng thọ.
22
Tờ biểu xin Đại Tạng kinh
Họ Trần nước An Nam dâng biểu xin Đại Tạng kinh:
Thần ở Viêm hoang, lâu theo
đấng Giác, mãi nhớ bối diệp,
truyền tự Trung Hoa. Vào thời
Đường Tống, từng có ngựa trắng
chở sang. Ngày đại binh kéo
đến thì đã hóa nên tro
tàn. Thở than chẳng thấy văn
kinh, ý sâu rốt cuộc khó tìm,
như vào nhà tối mà không
đuốc tuệ, như vượt bể khổ mà
thiếu thuyền từ. Nghĩ đến
tiểu quốc thiếu kinh Đại Tạng,
nếu không cầu thỉnh ở thượng
quốc, thì lấy đâu mở lối cho
quần sinh.
Kính
nghĩ, hoàng đế bệ hạ là
vua Nghiêu Thuấn đương thời, là
Phật Thích Ca tái thế, lấy
sự độ người giúp vật làm tâm,
cho việc rộng ban cứu chúng
là lòng. Tiếng ngọc may không
giữ kín, tạng báu mong được
mở toang. Từ trời mà xuống,
ban cho một vạn năm trăm
ngàn hơn cuốn kinh, vượt biển
về nam, cứu ức triệu người dân
khốn khổ. Công đức ấy hơn
công đức trước, quảng đại vô
biên. Thánh nhân nay là thánh
nhân xưa, lưu truyền có thế.
NGUYÊN BẢN
Thơ
Phú
Bài giảng
Ngữ lục
Văn xuôi
Văn thư ngoại giao
-Yamamoto
Tatsuro, Annamshi kenkyu, I, Tokyo:
Yamakawa shuppansha, 1950, tr. 1
- 43.
-Lê Mạnh Thát, Thánh đăng ngữ
lục, Tu thư Vạn Hạnh, 1980.
-Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên
Thiền sư toàn tập, I, Viện
Phật học Vạn Hạnh, Tp. Hồ Chí
Minh,
1980.
-E. Gaspardone, Ngan-nan Tche Yuan,
Hanoi: Imprimarie d’Extrême-Orient, 1932,
p. 47.1 Câu này có thể
dịch: “ Tri Kiến là huyện Kiến
xưa”. Kiến do thế có thể
là một lên gọi địa phương
của Tri Kiến.
-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, I, Nxb. Thuận
Hóa, 1999, tr. 574 - 578.
-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, I, Tp. Hồ
Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh, 1999,
tr. 428.
-Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
giáo sử luận, Sai gòn: Lá bối,
1974, tr. 377.
[1] Lê Mạnh Thát, Lục độ
tập kinh và Lịch sử khởi
nguyên dân tộc ta, Tu thư Đại
học Vạn Hạnh 1972, tr.254-321;
Khương Tăng Hội toàn tập, I,
Tu thư Đại học Vạn Hạnh 1975,
tr.172-188.
-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập I, NXB
Thuận Hóa 1999, tr. 474 -
490.
-Lê Mạnh Thát, Kiến tính
thành Phật lục, trong Chân Nguyên
thiền sư toàn tập, Tu thư
Đại học
Vạn Hạnh,
1982, tr. 72.
-Lê Mạnh Thát , Lục độ
tập kinh và Lịch sử khởi
nguyên dân tộc ta, Tu thư Đại
học Vạn Hạnh,
1972,
tr.264-271
-Lê Mạnh Thát, Tuệ Trung
thượng sĩ toàn tập, cảo bản,
1979
-Trần Lê Sáng, Tìm hiểu văn
phú thời kỳ Trần - Hồ
trong Tuyển tập 40 năm tạp chí
Văn học,
1960 - 1999,
tập 2, Tp. Hồ Chí Minh:
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1999,
tr. 231-232
-Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về
Thiền uyển tập anh, Nxb. Tp.
Hồ Chí Minh, 1999, tr. 239
và 481-482.
-Ông Nguyễn làng Cổ Đô, tức
chỉ Nguyễn Bá Lân (1701-1785),
nguyên người xã Cổ Đô, huyện
Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây cũ,
đậu tiến sĩ năm 1731, làm quan
đến chức Thượng thư tước Lễ
Trạch Hầu, có biệt tài về
phú Nôm, tác phẩm có Ngã ba
hạc phú, Giai cảnh hứng tình
phú và Vịnh sử thi quyển.
Bản hạnh viết về Huyền Quang
hiện chưa tìm thấy.
-Đặng Thai Mai, Mấy điều tâm
đắc về một thời đại văn
học, trong Thơ văn Lý - Trần,
I, Hà nội:
Nxb.
KHXH, 1977, tr. 42.
-Xem Lê Mạnh Thát, Viên Thái
thiền sư toàn tập, Sai gòn:
Tu thư Vạn Hạnh, 1977.
-Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
giáo sử luận, Sài gòn: Lá bối,
1974, tr. 397-398.
-Viện Triết học, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, Hà Nội: Nxb.
KHXH, 1991, tr. 224.
-E. Gaspardone, Bibliographie Annamite,
Bulletin de l’École Franổaise d’Éxtrême-
Orient XXXII
(1932) 144
-Thượng sĩ Huệ Trung, Ngữ
lục, Tu thư Đại học Vạn Hạnh,
1969,tr. 175.
-Dấu: yêu dấu
1 Mựa chớ
2 Giấy, sồi: các loại vải xấu
3 Chỉn:chỉ, chính
4 Cốc: biết
5 Thửa: biết
6 Xá: hãy, nên
-Đồ: uổng
-Nguyên chú:
Hỏi: “Chân như là cái gì?”
Đáp: “Trong lắng sáng tròn rực thái hư”
Lại hỏi: “Bát nhã là gì?”
Đáp: “Nguồn gốc trí tuệ tự mình”.
Lại hỏi: “Chân Phật là gì?”
Đáp: “Đương cơ đối đáp là ai?”
Lại hỏi: “Chân kinh là gì?”
Đáp: “Đương cơ nêu lên quá rõ ràng”.
Lại hỏi: “Thế nào là truyền giao?”
Đáp: “Thầy trò bốn mắt nhìn nhau.”
Lại hỏi: “Hiểu ý là thế nào?”
Đáp: “Trở về nguồn gốc không bàn nghĩ.
Nếu có bàn nghĩ thì sa ngã thôi.”
Kệ rằng:
Nó nay chính là ta
Ta nay không là nó
Nếu hay hiểu như vậy
Chân như mới được rõ
Hiểu lòng mình là Phật
Nên gọi rõ đạt chân như
Hiểu lòng mình là Pháp
Nên gọi pháp môn một chữ
Muôn pháp về một
Nên gọi nhất thể Như Lai
Kệ rằng:
Tất cả muôn pháp
Đều tự tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu hiểu đất lòng
Ứng dụng không ngại
Chẳng gặp thượng căn
Thận trọng chớ hứa
Lại kệ:
Chân như bát nhã tông
Người không, ta cũng không
Phật quá hiện vị lai
Tính pháp vốn vẫn chung
Lại nói:
Đường đường mặt mũi thực
Lồ lộ chủ nhân ông
Bao hàm ngoài trời đất
Xuyên suốt giữa biển sông
Lúc dùng thành diệu hữu
Chỗ lặng thật hư không
Người người đều đầy đủ
Vật vật thảy tròn không
Từ nay lĩnh ngộ được
Thôi việc chạy tây đông.
1 Cong: Trong
2 Khuấy bổn: quên gốc
3 Biến: lần
4 Miễn: lẫn, với
5 Chằm: khâu; xể: để lòa xòa
6 Bạc; trắng; thoa: hẩm
1 Cất: nêu lên; ma: mà
2 Cầm: đàn cầm; huyền: dây
3 Xoang: tấu nhạc
4 Han: hỏi
5 The: vải thưa; Duộc: cái
muỗng, vá; Thưng: ngăn, che
1 Lòi: dây cột; Tơ: dây kéo.
2 Tua: nên
1 Xá: đường xá
1 Mảng: nghe
2 Rạt thảy: dẹp hết (sát rạt)
3 con giàng: cái gường
4 mà cả: mặc cả
5 ang: cha
1 Lưỡi: bản năm 1754 không
có, lấy từ bản 1932 điền
vào.
2 Hượm: chớ.
3 Lệ: sợ.
4 dang: tránh (ra)
1 Tượng: phàm, hễ
2 đòi: theo
3 ghẻ: chia rẽ
4 Chiền: chùa
1 Nhẫn: đến, tới
1 óc: gọi, kêu
1 Bả: trả
1 Phô: nhiều
1 Tuyết Đậu: thiền sư Trùng
Hiển (980 - 1052) phái Vân
Môn, tác giả của Tuyết Đậu
minh giác ngữ lục.
Dã Hiên: gọi đủ là Dã
Hiên Tuân của phái Lâm Tế,
sống sau năm 865, mất trước
năm 999, hiện còn một bài thơ
chép trong Thiền tông tụng cổ
liên châu thông tập, 21.
1 Những chữ Hán dùng trong
câu này lấy từ hai bài
thơ Thái tần và Thái phiền
trong thiên Quốc phong của Kinh
Thi để nói về vật mọn có
thể dùng đãi công hầu và
cúng quỉ thần.
Bài Thái tần:
Vu dĩ thái tần
Nam giản chi tân
Vu dĩ thái tảo
Vu bỉ hành lạo
Vu dĩ thinh chi
Duy khuông cập cữ
Vu bỉ Tương chi
Duy kỷ cập phủ.
Bài Thái phiền:
Vu dĩ thái phiền
Vu dĩ vu chỉ
Vu dĩ dụng chi
Công hậu chi thị
Vu dĩ thái phiền
Vu giản chi trung
Vu dĩ dụng chi
Công hậu chi công