PHẦN II. TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNG
LỜI DẪN
Phần thơ văn Trần Nhân Tông sẽ chia làm sáu bộ phận. Đó là thơ, phú, bài giảng, ngữ lục, văn xuôi và văn thư ngoại giao.
1. Thơ
Về
thơ, chúng tôi dựa chủ yếu vào Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và
Chu Xa sưu tầm vào giữa những năm 1434-1443 và được cả thảy 26 bài, kể
luôn cả bài Ngự chế trúc nô minh ở phần Phụ lục. Trong số 26 bài này,
bài Hạnh Thiên Trường phủ được chua “đã thấy ở Quốc sử”. Nhưng bây
giờ ta khảo lại trong ĐVSKTT 5 tờ 58a9-b3 thì bài thơ ấửy được ghi
do Thượng hoàng Trần Thánh Tông làm. Vậy Quốc sử đây là chỉ bộ Đại
Việt sử ký do Phan Phu Tiên chấp bút. Ngô Sĩ Liên, khi viết ĐVSKTT về
triều nhà Trần, nếu có sự việc nào chép khác với Phan Phu Tiên, thì
đều ghi rõ. Thế mà, bài Hạnh Thiên Trường phủ này lại không thấy Ngô
Sĩ Liên có ghi chú gì khác cả. Thêm vào đó, nếu căn cứ vào Nam ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, đây đúng là bài thơ của Trần Thánh Tông.
Từ đó, dù Việt âm thi tập đã chép bài Hạnh Thiên Trường phủ ấy vào
thơ của Trần Nhân Tông, chúng tôi vẫn để riêng ra và xếp vào thơ của
vua Trần Thánh Tông. Vậy Việt âm thi tập sưu tầm được 25 bài.
Ngoài
25 bài thơ của Việt âm thi tập, Hồ Nguyên Trừng trong Nam ông mộng
lục có ghi lại cho ta 4 bài thơ. Bài làm trong khi ăn yến với Văn Túc
Vương Trần Đạo Tải có chép trong Việt âm thi tâp dưới tên Dự Văn Túc
Vương yến.
Còn
bài Vịnh mai, thì trong Việt âm thi tập, là bài thứ nhất của hai bài
thơ biết dưới tên Tảo mai. Còn lại hai bài tứ tuyệt với nhan đề Sơn
phòng mạn hứng là những đóng góp mới của Nam ông mộng lục. Như vậy,
Nam ông mộng lục ghi lại được thêm hai bài thơ nữa của vua Trần Nhân
Tông. ĐVSKTT, ngoài bài Dự Văn Túc Vương yến vừa kể, chỉ ghi thêm được
2 đoạn phiến. Một đoạn phiến là hai câu thơ vua Trần Nhân Tông ghi ở
cuối thuyền, khi quân ta rút từ Nội Bàng về Vạn Kiếp hội quân vào
tháng chạp năm Giáp Thân (1285):
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan Ái do tồn thập vạn binh.
Đoạn
phiến kia do vua Trần Nhân Tông cảm xúc làm ra, khi đem các tướng
giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn, Tích Lệ Cơ.v.v.. đến dâng trước
lăng vua Trần Thái Tông và thấy “chân ngựa đá ở lăng đều lấm bùn” vào
tháng 3 năm Mậu Tý (1288)
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
Bên cạnh hai đoạn phiến này, An Nam chí lược 17 tờ 159 còn trích hai câu:
Tự cố bất tài tàm tứ thổ
Chỉ duyên đa bệnh khuyết triều thiên
trong
bài thơ thất ngôn bát cú, mà vua Trần Nhân Tông làm để họa lại bài
thơ của Lý Tư Diễn trong buổi yến đãi y vào năm 1289. Sau khi ghi hai
câu này, An Nam chí lược viết tiếp: “Ngay nơi tiệc tiếp vần” (tức tịch
thứ vận), rồi chép bài Đường luật sau:
Vũ lộ uông dương phổ Hán ân
Phụng hàm đan chiếu xuất hồng vân
Thác khai địa giác giai hòa khí
Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần
Tận đạo tỷ thư thập hàng hạ
Thắng như cầm điện ngũ huyền huân
Càn khôn kiêm ái vô nam bắc
Hà hoạn vân lôi phục hữu tuân
(Ơn Hán tràn trề mưa móc tuôn
Chiếu son phượng ngậm khỏi mây hồng
Khí hòa góc đất đều lan tới
Bụi chiến sông trời rửasạch trơn
Thảy bảo thư vua mười lối viết
Còn hơn đàn Thuấn năm dây đờn
Đất trời thương hết không nam bắc
Sấm sét sao lo lại khốn thân)
Căn
cứ vào văn mạch của An Nam chí lược, thì đây đúng là bài thơ của
vua Trần Nhân Tông. Chỉ có điều, quyển 17 chỉ dành để chép thơ của
những người Trung Quốc đi sứ nước ta, nên bài này bản dịch của viện
Đại học Huế năm 1961 đã coi là của Lý Tư Diễn. Tất nhiên, truyền bản
của An Nam chí lược đôi khi cũng có những sai sót, như trường hợp
cắt văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông viết cho Hốt Tất Liệt
vào năm Chí Nguyên 30 (1293) thành hai văn thư khác nhau, như ta sẽ
trình bày dưới đây. Vì thế, bài thơ vừa dẫn chúng tôi vẫn coi là của
vua Trần Nhân Tông. Tiếp đến là bài thơ làm tại chùa hương Cổ Châu và
bài kệ Thị tịch của vua Trần Nhân Tông ghi trong Thánh đăng ngữ lục tờ
26a3-4 và 28 a2 -4:
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thăng xuân
(Số đời một hơi thở
Tình người đôi biển ngân
Cung ma chật hẹp lắm
Nước Phật khôn xiết xuân)
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu
(Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vầy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây)
và bài kệ Truy tán Tuệ Trung Thượng Sĩ của vua Trần Nhân Tông trong Thượng Sĩ ngữ lục 43a2-4:
Vọng chi di cao
Toản chi di kiên
Hốt nhiên tại hậu
Chiêm chi tại tiền
Phù thị chi vị
Thượng Sĩ chi thiền
(Nhìn lên càng cao
Dùi càng thêm cứng
Chợt ở phía sau
Thấy liền trước đứng
Cái đó gọi là
Thiền Thượng Sĩ vững)
Cuối cùng là bài kệ Thân như do Thiền tông bản hạnh 15b4-5 chép:
Thân như hô hấp tỡ trung khí
Thế tợ phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân
(Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời tựa gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua)
Bài
kệ này hai câu sau nguyên có trong bài giảng của vua Trần Nhân Tông
tại chùa Sùng Nghiêm. Nhưng hai câu đầu không biết Chân Nguyên lấy
ở đâu, để cho ta bài kệ tứ tuyệt vừa thấy. Tuy thế, đây là một bài
thơ khác cần được ghi nhận.
Vậy,
tổng số thơ của vua Trần Nhân Tông là 32 bài, cộng với ba đoạn
phiến. Những sưu tập lớn về sau như Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn
cũng không có thêm một bài nào mới, thậm chí không có được số lượng
như ta vừa thấy. Tuy nhiên, bây giờ nếu ta trích hết tất cả các bài
thơ chữ Hán nguyên vẹn hay đoạn phiến của vua Trần Nhân Tông hiện nằm
rải rác trong các bài phú, văn xuôi và bài giảng, con số không chỉ
có 31 bài và ba đoạn phiến, bởi vì chỉ riêng hai bài Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ta có thêm hai bài thơ chữ Hán.
Rồi trong văn xuôi tức bài Thượng sĩ hành trạng, ta có bài Tán Tuệ
Trung. Đến các bài giảng thì tối thiểu ta có hai bài thơ hoàn chỉnh,
đó là bài thơ dài bốn chữ Hữu cú vô cú và bài thơ tứ tuyệt Hàm huyết
trong buổi giảng tại chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh. Về bài giảng tại
viện Kỳ Lân cũng ở núi Chí Linh, ta có bài thơ Nhược vị. Ngoài ra
trong hai bài giảng này có nhiều đoạn phiến thơ hai câu mà ta có thể
đếm tới con số 32. Vậy, nếu tính hết, tổng số thơ của vua Trần Nhân
Tông lên tới 34 bài hoàn chỉnh và 35 đoạn phiến. Tuy nhiên, vì các bài
thơ và đoạn thơ nằm trong các bài giảng và bài văn xuôi, nên khi tách
ra, sẽ mất đi một phần nào ý nghĩa toàn cảnh, làm cho chúng trở nên
khó hiểu. Do thế, trong Toàn tập này, chúng tôi để nguyên chúng trong
các bài giảng văn xuôi. Người đọc có thể tự tìm lấy khi cần.
Về
thơ của vua Trần Nhân Tông, với số lượng 32 bài nguyên vẹn và ba
đoạn phiến, khi in lại nguyên bản Hán văn của chúng, chúng tôi lấy bản
in năm 1729 của Việt âm thi tập làm bản đáy. Những bài thơ và đoạn
phiến không có trong Việt âm thi tập, mà có trong ĐVSKTT và Nam ông
mộng lục, chúng tôi dùng Nội các quan bản của ĐVSKTT và bản in Kỷ lục
vựng biên của Nam ông mộng lục do Thẩm Tiết Phủ sưu tầm và Dương Tiễn
Trần thị khắc vào năm 1617, mà sau này Tùng thơ tập thành sơ biên đã
in lại và Trung Hoa thư cục xuất bản vào năm 1985. Còn những bài
có trong Thánh đăng ngữ lục, Thượng sĩ ngữ lục và Thiền tông bản hạnh
thì chúng tôi dùng truyền bản của những bản in năm 1750, 1745 và 1903.
Những truyền bản khác như Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển,
Trần triều thế phả hành trạng và Lịch triều hiến chương loại chí chỉ
dùng để làm khảo dị.
Việc
sắp xếp thứ tự các bài thơ trong phần dịch tiếng Việt đúng ra phải
dựa vào trật tự thời gian ra đời của chúng.Thực tế, trong số 32 bài
thơ của vua Trần Nhân Tông hiện biết, phần lớn, ta có thể sắp xếp
chúng theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, vì sắp xếp theo thứ tự thời
gian ấy cũng không giúp ta hiểu thêm gì mới về vua Trần Nhân Tông, và
vì để cho người đọc tiện theo dõi phần nguyên bản chữ Hán, cho nên ở
đây chúng tôi sắp xếp các bài thơ dịch, dựa trên thứ tự của Việt âm
thi tập. Những bài nào không có trong Việt âm thi tập, mà số lượng chỉ
có 7 bài thơ nguyên vẹn và 3 đoạn phiến, thì chúng tôi xếp sau các
bài thơ ở Việt âm thi tập, dù biết rằng có những bài thơ hay đoạn
phiến vua Trần Nhân Tông viết rất sớm so với một số bài có trong
Việt âm thi tập. Để cho tiện việc theo dõi, chúng tôi đánh số thứ tự
các bài thơ từ 1 đến 35, bắt đầu với Việt âm thi tập, sau khi trả bài
Hạnh thiên trường về cho thơ văn vua Trần Thánh Tông. Gặp những bài
thơ nào không có đầu đề, chúng tôi lấy hai chữ khởi đầu của bài thơ
để đặt tên.
2. Phú
Về
phú, ta hiện có hai bài viết bằng tiếng Việt biết dưới tên Cư trần
lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, mà bản in xưa nhất hiện
còn là do sa di ni Diệu Thuần thực hiện theo sự chỉ đạo của thầy là
thiền sư Liễu Viên vào năm Cảnh Hưng thứ 6 Ất Sửu (1745) tại chùa Liên
Hoa ở kinh thành Thăng Long. Đây là bản in xưa nhất và in sau bản
Thiền tông bản hạnh của thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) từ tờ 22 a1
đến 31a2 gồm 10 tờ. Mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 17
chữ. Những dòng có lời chú in bằng cỡ chữ nhỏ thành hai dòng, nhưng số
chữ mỗi dòng không thay đổi, nên mỗi dòng có ghi chú lên tới đến 34
chữ. Chữ khắc đẹp, chân phương, rõ ràng và dễ đọc.
Sau
lần in này, đến năm Gia Long thứ tư (1805), thiền sư Huệ Thân đã
cho khắc lại, nhưng đến thời thiền sư Thanh Hanh (1840 -1936) thì bản
gỗ của lần in này không còn. Cho nên, vào năm 1932 ông đã cho khắc bản
in lại tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang. Đây là truyền bản thứ hai ta
hiện có về hai bài phú vừa nói của vua Trần Nhân Tông. Quá trình
truyền bản là như vậy. Hai bài phú của vua Trần Nhân Tông không phải
“im hơi lặng tiếng trong suốt mấy trăm năm để rồi mãi đến những năm
30 của thế kỷ này mới xuất hiện”. Không những thế, Cư trần lạc đạo phú
đã được chính Chân Nguyên trích dẫn trong Kiến tính thành Phật lục và
Kiến tính thành Phật lục lại được trùng san vào năm Chính Hòa thứ 19
(1698). Vậy từ giữa thế kỷ thứ 17 trở đi Cư trần lạc đạo phú đã được
lưu hành khá rộng rãi.
Trong
thế kỷ này, nó đã được nhiều người tập trung nghiên cứu. Sau khi
thiền sư Thanh Hanh cho in mộc bản vào năm 1932, thì đến năm 1942 Hoa
Bằng đã cho phiên âm ra quốc ngữ và công bố trên báo Tri Tân. Tiếp
theo, Đào Duy Anh cho nghiên cứu tình trạng văn bản và xác nhận hai
bài phú vừa nói là văn bản thuộc đời Trần. Cơ sở chủ yếu cho việc
xác nhận này là dựa vào công tác phân tích văn thể, tự dạng và từ
vựng. Về văn thể, Cư trần lạc đạo phú được viết theo lối phú của thời
Đường, nhưng đối và vần còn lỏng lẻo, khi so với các bài phú của thời
Trần mạt và Lê sơ. Về tự dạng thì lối viết giả tá còn chiếm ưu thế
đối với hình thanh. Còn về từ vựng, các bài phú này có nhiều từ xưa,
mà khi so với các tác phẩm quốc âm đời sau như Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, ít còn thấy dùng tới. Đồng thời với Đào Duy Anh, Hoàng
Xuân Hãn cũng nghiên cứu các tác phẩm này của Trần Nhân Tông và đi đến
cùng một kết luận. Đặc biệt Hoàng Xuân Hãn là người duy nhất sở hữu
được truyền bản xưa nhất của hai văn bản này, đó là bản in năm 1745
của sa di ni Diệu Thuần, mà Đào Duy Anh không có, khi làm công tác xác
nhận vừa nêu. Nói chung, trong học giới không ai đặt vấn đề về tác
quyền của vua Trần Nhân Tông về hai tác phẩm ấy.
Vậy
thì, về Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, hiện
tại ta sở hữu được hai truyền bản, đó là bản in 1745 và 1932. Trong
khi in lại nguyên bản quốc âm của hai bài phú này, chúng tôi dĩ nhiên
chọn in lại nguyên bản của bản in năm 1745. Bản in năm 1932 chỉ dùng
làm khảo dị.
3. Bài giảng
Về
bài giảng, ta hiện có hai bài, được giảng vào hai đợt khác nhau. Đó
là bài giảng vào năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm và bài
giảng năm Bính Ngọ (1306) tại viện Kỳ Lân. Bài giảng trước được ghi
lại trong Thánh đăng ngữ lục và không ai bàn cãi về tác quyền của vua
Trần Nhân Tông đối với bài giảng này. Nhưng bài giảng ở viện Kỳ Lân,
vì được chép chung trong sách Thiền đạo yếu học, mà người ta giả
thiết là một tên khác của Tham thiền yếu chí do Pháp Loa viết, nên có
người cho bài giảng này, ngoài phần Niêm hương, là do Pháp Loa giảng.
Nói cách khác, đây là bài giảng của Pháp Loa. Tuy nhiên, nếu nghiên
cứu kỹ bài giảng ấy, ta thấy có những câu trả lời gần giống câu trả
lời có trong bài giảng năm 1304, thậm chí có những câu hoàn toàn đồng
nhất. Chẳng hạn, khi vị tăng hỏi: “Dùng công án cũ làm gì?”, câu trả
lời là: “Mỗi lần nêu ra, một lần mới”. Câu trả lời đây cũng là câu
đáp lại câu hỏi: “Dùng đờm dãi của người xưa làm gì?”. Rõ ràng những
câu hỏi và đáp tương tự thế này cho phép ta coi bài giảng năm 1306 tại
viện Kỳ Lân cũng do vua Trần Nhân Tông thực hiện, nhưng do Pháp Loa
chép lại trong tác phẩm Thiền đạo yếu học của mình như một mẫu hình
tham vấn thiền cho người đọc tham khảo. Vì vậy, chúng tôi đề nghị xếp
bài giảng ấy vào hệ tác phẩm của Trần Nhân Tông.
Về
truyền bản dùng để in lại nguyên văn hai bài giảng trên, thì đối
với bài giảng năm 1304, chúng tôi dùng bản in năm 1750 biết dưới tên
Việt quốc Yên Tử sơn Trúc Lâm chư tổ thánh đăng ngữ lục. Bản Thánh
đăng ngữ lục này, ngày trước chúng tôi có một bản in chỉ có bài tựa
của thiền sư Chân Nghiêm ghi lại quá trình đóng góp để thực hiện bản
in ấy, trong đó có công đóng góp của vua quan nhà Mạc, đặc biệt là
Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn và các công chúa. Đây có thể là bản in đời
Mạc còn lại. Vì nó không giống với bản in năm 1750 và bản Thánh đăng
ngữ lục mà Gaspardone giới thiệu trong Bibliographie Annamite,1 mang
ký hiệu AC. 604, vì bản này được ghi rõ ràng in vào năm Tự Đức thứ
nhất (1848). Nhưng sau năm 1984 bản của chúng tôi bị lấy mất. Dù ai có
lấy, thì cũng vì lợi ích của học thuật nước nhà, xin công bố ra, để
người lưu tâm tới văn học, tư tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam có
cơ hội sử dụng được văn bản xưa. Còn bài giảng kia thì nằm trong Tam
tổ thực lục, bản in năm 1903, mà sau này Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ
in dập lại trong Việt Nam Phật điển tùng san. Trong khi in lại nguyên
văn chữ Hán hai bài giảng ấy, chúng tôi sử dụng bản Thánh đăng ngữ lục
năm 1750 cho bài giảng thứ nhất và bản Tam tổ thực lục năm 1905 cho
bài giảng thứ hai.
4. Ngữ lục
Ngữ
lục là những phát biểu của vua Trần Nhân Tông trong các cuộc đón
tiếp sứ giặc do sứ giặc ghi lại. Những ghi lại này không hoàn toàn
trung thực, điều ấy là chắc chắn. Tuy nhiên, chúng có thể cung cấp một
cái nhìn về phong khí của một thời và cách ứng xử của vua Trần Nhân
Tông dưới con mắt kẻ thù. Đồng thời, chúng cũng có thể cho ta thấy
quan điểm của vua theo quan điểm đối phương. Vì thế, trong phần Ngữ
lục, chúng tôi cho trích hai đoạn phát biểu của vua Trần Nhân Tông
trước và sau hai cuộc chiến tranh vệ quốc 1285 và 1288. Ta sẽ thấy
quan điểm nhất quán của vua là đấu tranh không nhân nhượng, không bao
giờ chịu khuất phục vào chầu Hốt Tất Liệt, dù nó có đòi hỏi bao nhiêu
đi nữa.
Hai
đoạn ngữ lục, một trích từ buổi đãi yến Sài Thung vào năm 1278 chép
trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a12-b2. Còn đoạn kia phát
biểu trong bữa tiệc đãi Trương Lập Đạo năm 1291, chép trong Trương
thượng thư hành lục của An Nam chí lược 3 tờ 47. Nguyên bản dùng để in
lại chúng là lấy từ hai tác phẩm vừa nói.
5. Văn xuôi
Về
văn xuôi của vua Trần Nhân Tông, ta hiện có bản tiểu sử của Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, biết dưới tên Thượng sĩ hành trạng in
vào cuối sách Thượng sĩ ngữ lục cùng với những bài tán tụng của môn
nhân thượng sĩ như bài tán của chính vua Trần Nhân Tông, của Pháp Loa,
Bảo Pháp, Tông Cảnh, Thiên Nhiên, Pháp Cổ, Huệ Nghiêm và Pháp Đăng
với lời bạt của tướng Trần Khắc Chung. Bản hành trạng này không đề
tên người viết. Nhưng căn cứ vào nội dung, nó dứt khoát phải do vua
Trần Nhân Tông chấp bút, vì đã nói tới việc gặp tang của Nguyên Thánh
mẫu hậu và tác giả phải chính thức đi mời thượng sĩ Tuệ Trung. Nhờ
việc đi mời này, tác giả đã có một cuộc nói chuyện về thiền với
thượng sĩ và sau đó thì được ấn chứng. Vấn đề tác quyền của vua Trần
Nhân Tông đối với bản hành trạng này cũng không ai đặt ra. Chỉ có
người dịch Thượng sĩ ngữ lục là Trúc Thiên, khi đến đoạn cho người đi
mời thượng sĩ Tuệ Trung, chua thêm người đi mời là Pháp Loa.1 Pháp
Loa sinh năm 1284 và Tuệ Trung thượng sĩ mất năm 1291. Dứt khoát không
bao giờ Pháp Loa có thể “nguyện đội ơn dạy dỗ của thượng sĩ”.Đây là
một lời chua thiếu cẩn thận và người ta có thể phát hiện một cách dễ
dàng sự sai trái của nó.
Bản
in Thượng sĩ ngữ lục xưa nhất, mà ngày nay còn có được, là bản in
năm Chính Hoà thứ tư (1683) do thiền sư Tuệ Nguyên chùa Long Động núi
Yên Tử đề tựa. Bản in ấy về sau đã được in lại một lần thứ hai vào năm
Cảnh Hưng 24 (1763). Truyền bản lần in 1763 này sau đó đã được thiền
sư Thanh Cừ nhận lại từ sư cụ Thanh Lân và cho in lại vào năm Thành
Thái thứ 15 (1903) và do thiền sư Thanh Hanh đề tựa. Bản in năm Thành
Thái 15 sau đó đã được Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ cho in dập lại trong
bộ Việt Nam Phật điển tùng san vào năm 1943. Và đây là bản được phổ
biến rộng rãi nhất ngày nay. Do hiện chúng tôi chưa sở hữu được bản
in năm 1683, nên trong khi in lại, chúng tôi chỉ sử dụng bản in năm
1943.
6. Văn thư ngoại giao
Về
văn thư ngoại giao, ta hiện có bốn nguồn chính. Đó là An Nam truyện
của Nguyên sử 209, Biểu chương của An Nam chí lược 6, Thiên nam hành
ký và phần Phụ lục của Trần Cương Trung thi tập.
Nguyên
sử còn giữ cho ta 8 đoạn phiến của 8 lá thư mà vua Trần Nhân Tông
đã viết cho Hốt Tất Liệt và các thuộc hạ của y. Lá thư sớm nhất do
Nguyên sử ghi lại là vào tháng 11 năm Chí Nguyên thứ 15 (1278) khi Sài
Thung đến Ung Châu, để phản đối việc dùng con đường Ung Châu đến nước
ta và yêu cầu phải trở về dùng con đường Vân Nam cũ. Đây rõ ràng là
một đoạn trích trong lá thư chắc chắn dài hơn, nhưng ngày nay đã mất.
Những lá thư sau của vua Trần Nhân Tông trong Nguyên sử cũng có dạng
như thế chủ yếu cũng chỉ là những đoạn trích. Tuy nhiên, phải nói đây
là những đoạn trích tương đối trung thành. Ta biết được điều này, vì
có một số lá thư chỉ được trích trong Nguyên sử, nhưng lại được giữ
trọn vẹn trong An Nam Chí lược.
Chẳng
hạn, đoạn trích từ tờ biểu tháng 12 năm Chí Nguyên 15 (1278) do
phái bộ Phạm Minh Tự, Trịnh Quốc Toản và Đỗ Quốc Kế đem qua cho Hốt
Tất Liệt trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4b-6 viết:
“Cô
thần bẩm khí yếu đuối, mà đường xá thì khó khăn, chỉ luống phơi
xương trắng, đến nỗi bệ hạ xót thương, mà không ích gì cho thiên triều
muôn một. Nép mong bệ hạ thương xót tiểu quốc xa xôi, khiến thần được
cùng bọn đơn côi quan quả, giữ được tính mệnh để suốt đời phụng sự
bệ hạ. Đó là sự may lớn của cô thần, cũng là phúc to của sinh linh
tiểu quốc”.
Đây
đúng là đoạn trích từ tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 chép trong phần
Biểu chương của An Nam chí lược 6 tờ 75-77: “Thần sinh trưởng Việt
Thường , bẩm khí nhuyễn nhược, (...), khủng đạo thượng hữu phường, đồ
bộc bạch cốt, trí bệ hạ nhân tâm, diệc tự ai thương chi nhĩ (...).
Phục vọng bệ hạ ai cô thần chi đơn nhược, lân tiểu quốc chi liêu
viễn, lịnh thần đác dự quan quả cô độc, bảo kỳ tính mạng, dĩ chung sự
bệ hạ, thử thần chi chí hạnh, ức diệc tiểu quốc sinh linh chi đại
phước dã”.
Từ
so sánh hai đoạn này, ta thấy chắc chắn tám đoạn trích văn kia cũng
được giữ nguyên vẹn tình trạng văn bản chứ không bị sửa đổi nhiều,
đến nỗi đánh mất hết diện mạo nguyên thủy của chúng. Từ đó, chúng tôi
coi những đoạn trích văn ấy, dù ngắn ngủi và đoạn phiến, vẫn đại biểu
cho những văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông, mà hiện nay ta
chưa tìm lại được. Những trường hợp toàn văn lá thư còn được lưu giữ ở
những nguồn khác, chúng tôi vẫn cho dịch và số thứ tự 1, 2, 3... của
các văn thư sẽ được đánh thêm chữ a, b để phân biệt.
Trong
8 đoạn phiến này chúng tôi chỉ chọn trích 6 đoạn phiến thôi, vì hai
đoạn phiến còn lại quá ngắn, viết vào khoảng tháng 2 năm Chí Nguyên
22 (1285). Một trả lời Thoát Hoan về việc mượn đường đi đánh Chiêm
Thành:
“Nước đây đến Chiêm Thành thủy bộ chẳng tiện, xin tùy sức phụng dâng quân lương”. Còn một báo về việc đi cống:
“Kỳ
cống sẽ nhằm tháng mười, xin đường trước, dự bị sức dân. Nếu ngày
Trấn Nam Vương xuống xe, mong có thư báo”. Văn bản chúng tôi dùng để
in lại nguyên văn chữ Hán là bản của Tứ bộ bị yếu.
Nguồn
thứ hai là từ phần Biểu chương của An Nam chí lược 6. Phần này hiện
bảo lưu được 8 văn thư của vua Trần Nhân Tông. Nhưng thực tế chỉ có 7
văn thư. Bởi vì,lá thư đề “Chí Nguyên tam thập niên tam nguyệt An Nam
Trần bách bái” ở An Nam chí lược 6 tờ 78-79 thực tế là một phần sau
của lá thư đề ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 (1293) chép trong
Trần Cương Trung thi tập phụ lục tờ 20b4-21b8. Phần đầu của lá thư
này lại bị cắt ra ở An Nam chí lược 6 tờ 79 dưới nhan đề “Chí Nguyên
tam thập niên tam nguyệt sơ tứ nhật An Nam Trần thượng biểu”.
Trừ
văn thư bị cắt làm hai mảnh này, An Nam chí lược giữ lại cho ta 7
văn thư tương đối nguyên vẹn mà vua Trần Nhân Tông đã gửi cho Hốt Tất
Liệt và con y là Nguyên Thành Tông. Hốt Tất Liệt 5 lá, Nguyên Thành
Tông 2 lá:
1.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 15 (1278)
2.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 29 (1292)
3.Thơ mừng thọ Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30 (1293)
4.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30(1293)
5.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 30 (1293)
6.Văn thư gửi Nguyên Thành Tông năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)
7.Văn thư gửi Nguyên Thành Tông xin thỉnh Đại Tạng kinh năm 1295
Nhữmg
văn thư do An Nam chí lược chép, khi so với những văn thư có tương
đương trong Trần Cương Trung thi tập phụ lục, thì tỏ ra có một số xuất
nhập về ngữ câu chữ. Tuy nhiên, do vì An Nam chí lược có nhiều sai
sót như việc cắt đôi văn thư ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 vừa
nói, nên trong những trường hợp ấy chúng tôi chọn dịch bản của Trần
Cương Trung thi tập phụ lục và chỉ dùng bản của An Nam chí lược để
tham khảo. Bản An Nam chí lược chúng tôi dùng là hiệu bản do Đại
học Huế xuất bản vào năm 1961. Hiệu bản này không tốt lắm, nhưng tối
thiểu nó cho những cách đọc khác nhau từ các truyền bản như Lạc thiện
đường, Nhật Bản nội các văn khố, Đông Kinh Tỉnh gia đường văn khố và
sao bản của Bảo tàng Anh ở Luân Đôn. Cho nên khi dịch những văn thư,
mà không có trong các nguồn khác, thì chúng tôi dùng hiệu bản này.
Trong những trường hợp chúng tôi không đồng ý với hiệu bản, chúng tôi
dựa vào cách đọc của những truyền bản có ghi chú ở phần khảo dị, mà
điều chỉnh cho thích hợp, để dịch.
Nguồn
thứ ba là Thiên nam hành ký do Từ Minh Thiện ghi lại trong đợt đi
sứ tới nước ta vào năm Chí Nguyên 26 (1289). Từ Minh Thiện chép cả
thảy được 6 văn kiện sau xếp theo thứ tự đã có trong Thiên nam hành
ký:
1.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 25 (1288)
2.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt năm Chí Nguyên 26 (1289).
3.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt tháng 3 năm Chí Nguyên 26 (1289)
4.Văn thư gửi hoàng hậu cùng tháng năm
5.Văn bản gửi cống vật năm Chí Nguyên 26 (1289)
6.Văn kiện gửi cống vật năm Chí Nguyên 23 (1286)
Trong
6 văn kiện này thì văn kiện cuối cùng có một lời chua: “Một đoạn ở
đây được bổ thêm vào tờ trạng dâng phương vật”(thử nhất đoạn bổ nhập
phương vật trạng trung). Điều này chứng tỏ văn kiện số 6 đúng là văn
kiện ghi những phương vật do vua Trần Nhân Tông gửi biếu cho Hốt Tất
Liệt vào năm 1286, sau khi ta đã đánh bại đợt tấn công năm 1285 nhằm
làm dịu tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa ta và triều đình
Nguyên. Nó cho thấy có tới 52 món đồ vàng bạc châu báu cùng những chim
thú lạ như chim Bát ca tức chim thu tử (sari), chồn gió, cá sấu v.vỢ
Vua Trần Nhân Tông muốn qua chúng để làm cho Hốt Tất Liệt thấy quan
điểm của vua Trần Nhân Tông về cuộc chiến tranh 1285. Đó là do các bọn
tướng biên giới tham công gây nên, như chính vua đã bày tỏ trong lá
thư viết về sau vào năm Chí Nguyên 25 (1288), chứ không phải do Hốt
Tất Liệt.
Năm
văn kiện còn lại tất cả đều thuộc vào những trao đổi ngoại giao vào
năm Chí Nguyên 25 và 26. Những văn kiện này không thấy chép ở bất
cứ nơi nào khác. Chúng soi sáng cho ta rất nhiều về những quan hệ Việt
Nguyên, sau khi quân Đại Việt đã quét sạch những đội quân xâm lược do
Thoát Hoan chỉ huy. Văn bản mà chúng tôi dùng nằm trong bộ Thuyết phu
51 tờ 18b3-23b7 do Hàm phần lâu in dập lại. Nguyên bản Hán văn
chúng tôi sẽ dùng bản Hàm phần lâu này.
Bên
cạnh bản in của Hàm phần lâu, chúng tôi cũng sở hữu một bản chép
tay Thiên nam hành ký như tập thứ nhất trong Bắc thư tải Nam sự ngũ
tập. Bản chép tay này không biết do ai thực hiện và vào lúc nào.
Nhưng người chép trong Tiểu dẫn cho biết ông đã dùng bản của Tục
thuyết phu. Khi so sánh, chúng tôi thấy có một số xuất nhập, không
biết đến từ đâu. Chẳng hạn, tờ trạng dâng cống vật nằm cuối sách
Thiên nam hành ký, bản Hàm phần lâu ghi năm Chí Nguyên 23, trong khi
bản chép tay lại ghi năm 26 và không có lời chua nhỏ “thử nhất đoạn bổ
nhập phương vật trạng trung”. Chúng tôi, vì thế, coi bản chép tay như
một dị bản để tham khảo, còn dùng bản Hàm phần lâu, để in lại nguyên
bản Hán văn các văn thư của vua Trần Nhân Tông do Từ Minh Thiện ghi
lại.
Nguồn thứ tư là Trần Cương Trung thi tập phụ lục hiện còn lưu giữ cho ta 7 văn thư, đó là:
1.Văn thư gửi Lương Tăng ngày 13 tháng giêng năm Chí Nguyên 30 (1293)
2.Văn thư gửi Lương Tăng ngày 21 tháng 2 cùng năm
3.Văn thư gửi Lương Tăng ngày 25 tháng 2 cùng năm
4.Văn thư gửi Lương Tăng ngày 1 tháng 3 cùng năm
5.Bài thơ chúc thọ Hốt Tất Liệt
6.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt nhân bài thơ ấy ngày 4 tháng 3 cùng năm
7.Văn thư gửi Hốt Tất Liệt cùng ngày tháng năm
Đấy
là 7 văn kiện mà Trần Phu với tư cách là phó đoàn của phái bộ Lương
Tăng do Hốt Tất Liệt gửi đến nước ta vào năm 1293 đã sao chép lại cho
ta trong thi tập của ông. Bốn văn kiện đầu là những trao đổi giữa vua
Trần Nhân Tông và Lương Tăng về nội dung của việc đi sứ, chủ yếu là
đòi biện giải về việc sang chầu và những tù binh do ta bắt được.
Điểm lý thú là trong đợt tiếp sứ này, vua Trần Nhân Tông đã gửi biểu
và tấu cùng một bài thơ mừng Hốt Tất Liệt thọ 80 tuổi, trong khi Hốt
Tất Liệt đang hung hăng chuẩn bị đợt xâm lược nước ta lần thứ tư. Bài
thơ mừng Hốt Tất Liệt vạn thọ đã được Trần Phu chép lại như sau:
Thiên tứ hoàng đế
Đế tứ thứ dân
Thần chúc thánh thọ
Ức vạn niên xuân
(Trời ban cho vua
Vua ban xuống dân
Thần chúc thánh thọ
Ức vạn năm xuân)
Đây
là bài thơ thù tạc hiếm thấy, và qua nó ta thấy ý chí muốn xây dựng
một nền hòa bình lâu dài giữa hai dân tộc láng giềng. Vua Trần Nhân
Tông biết rất rõ ý đồ xâm lược của Hốt Tất Liệt cho nên đã kiên trì
dùng những đòn ngoại giao mềm dẻo nhưng cương quyết, nhằm đè bẹp ý chí
xâm lược ấy, sau khi đã trực tiếp đánh bại các đạo quân xâm lược do
Hốt Tất Liệt gửi qua. Đọc những văn kiện trên cho ta thấy phần nào
đối pháp ngoại giao của vua Trần Nhân Tông.
Văn bản mà chúng tôi dùng là bản chép tay của Tứ khố toàn thư đặt tại Văn uyên các của Trần Cương Trung thi tập.
Bản
chép tay này do Đỗ Quần Ngọc chép và bốn người khác đọc và hiệu đối
là La Cẩm Sâm, Tôn Cầu Phú, Hà Tư Quân và Thái Đình Hành. Vì là bản
do vua Càn Long ra lệnh chép, nên chữ viết đẹp, chân phương, rõ ràng,
dễ đọc, có đóng dấu vuông của Văn Uyên Các ấn ở đầu quyển một và cuối
quyển hai có đóng dấu vuông của Càn Long ngự lãm chi bảo, quyển ba ở
trang đầu cũng có dấu của Văn Uyên Các ấn và cuối quyển Trần Cương
Trung thi tập phụ lục lại cũng có dấu Càn Long ngự lãm chi bảo. Các
thư của vua Trần Nhân Tông được chép trong Trần Cương Trung thi tập
phụ lục ở các tờ 5b6-6a5, 11a7-12a5, 15aa2-18a7, 19a1-6, 19a7-8,
19b1-20a6 và 20a7-22a2. Mỗi tờ 2 trang, mỗi trang có 8 dòng, mỗi dòng
20 chữ, chép tụt xuống một chữ.
Tổng
kết như vậy ta có cả thảy 22 văn kiện ngoại giao hiện còn do vua
Trần Nhân Tông gửi cho vua quan nhà Nguyên. Chúng tôi xếp thứ tự các
văn kiện này theo trật tự thời gian mà chúng đã được viết, tức từ văn
kiện đầu tiên vào tháng 11 nhuận năm Chí Nguyên 15 (1278) cho đến văn
kiện cuối cùng vào ngày mồng 4 tháng 3 năm Chí Nguyên 30 (1293) để cho
người đọc tiện theo dõi. Các nguyên bản Hán văn, chúng tôi cũng sắp
đặt theo một thứ tự như thế.
7. Khảo dị và chú thích
Tác
phẩm của vua Trần Nhân Tông tồn tại nhiều truyền bản khác nhau như
đã thấy trên. Cho nên, về mặt văn bản học, chúng tôi đưa ra nhiều vấn
đề. Điều may mắn là đa số các tác phẩm này xuất hiện trong các truyền
bản tương đối xưa. Chúng đa số được chép hoặc in vào thế kỷ 18. Cụ
thể, về thơ, ta có bản in của Việt âm thị tập của năm Bảo Thái thứ
10 (1729). Về phú, bản in Thiền tông bản hạnh của sa di ni Diệu Thuần
thực hiện vào năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745). Về bài giảng, nằm trong bản
in năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750) của Thánh đăng ngữ lục. Về ngữ lục, văn
thư ngoại giao, chúng tôi cơ bản sử dụng các tư liệu Trung Quốc như
Nguyên sử, Trần Cương trung thi tập, Thiên nam hành ký và An Nam chí
lược. Những tác phẩm này, chủ yếu là những bản in xưa hay là những
bản chép tay ở thế kỷ 18 trở về trước. Vì thế về mặt khảo dị, chúng
tôi giới hạn tối đa khi sử dụng những bản in hay chép tay của những
thế kỷ sau. Nói thẳng ra, trừ những trường hợp cần thiết, chúng tôi
mới sử dụng những bản in chép tay hậu kỳ này khi phiên âm hay dịch
nghĩa các tác phẩm của vua Trần Nhân Tông công bố trong toàn tập.
Về
chú thích, chúng tôi chỉ chú thích những từ cổ và một số điển tích
ngữ học. Còn các điển tích khác như về địa danh, nhân danh lưu hành
trong các kinh điển trong hay ngoài Phật giáo, chúng tôi sẽ không chú
thích. Lý do nằm ở chỗ nếu giải thích các điển cố ấy, sẽ có một
lượng từ rất lớn mà không gian toàn tập này không cho phép. Thực tế,
chỉ riêng đối với tiếng Việt như 2 bài phú, Cư trần lạc đạo và Đắc
thú lâm tuyền, ta có thể làm một cuốn từ điển nhỏ cỡ 300 trang. Chúng
tôi hy vọng sẽ có những nghiên cứu sâu hơn về các tác phẩm của vua
Trần Nhân Tôngtrong tương lai theo từng cụm một. Khi đó những loại
điển cố trên sẽ được chú thích chi tiết và đầy đủ.