Chương
VIII
Phần
Cuối
-oOo-
CÁC HỘI
NGHỊ KIẾT TẬP VÀ KINH ÐIỂN
Giàn hỏa táng đức
Phật vừa được dập tắt thì chư Tỳ-kheo bắt đầu tự
hỏi: làm gì bây giờ? Trưởng lão Mahàkassapa đặc biệt quan
tâm việc này, vì lời nhận xét của Tỳ-kheo Subhadda hình như
cứ văng vẳng bên tai tôn giả rằng sau khi bậc Ðại Sa-môn
diệt độ, chư Tăng có thể làm gì tùy thích.
Vì vậy, tôn giả liền
triệu tập Tăng chúng lại và bảo "Chư Tôn giả, chúng
ta hãy cùng đọc lại Pháp và Luật với mục đích không để
cho tà giáo nào hay tà giới nào lọt vào, và không để một
nhóm người tà kiến nào lớn mạnh trong khi các bậc đa văn
thông tuệ lại suy yếu". (Cv 11. 1. 1, giản lược). Ý
tưởng tập họp một hội đồng (sangiti) và cách trình
bày phương pháp làm việc đã được chính đức Phật ban
bố khi ngài có lần diễn tả cho Sa-di Cunda biết phương pháp
tự trị tập thể của Giáo hội.
"Này Cunda, chư vị
đã được ta thuyết giảng Giáo Pháp mà ta chứng ngộ, chư
vị phải tập họp nhau lại và cùng nhau tụng đọc Giáo Pháp
mà không tranh cãi, hãy so sánh từng ý nghĩa và từng văn cú
với nhau để cho Giáo Pháp thanh tịnh này được tồn tại lâu
dài vì lợi ích và an lạc của quần sanh, vì lòng từ mẫn
đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư
Thiên và nhân loại".(DN
29. 17)
Chư Tăng lập tức đồng
ý với đề nghị của Trưởng lão Mahàkassapa triệu tập
một hội đồng. Chư vị thỉnh cầu tôn giả chọn các thành
viên tham dự nhưng không được bỏ sót tôn giả Ànanda. Dù
vẫn còn là vị hữu học, tôn giả đã chứng nhập lưu đạo,
do đó vị ấy không thể đọa lạc và trước kia đã đạt
tri kiến uyên thâm về Pháp và Luật dưới sự hướng dẫn
của đức Phật.
Việc đề cử ưu tiên
Tỳ-kheo Ànanda làm thành viên hội đồng có một lý do đặc
biệt. Trong Giáo hội sự kiện ai cũng biết là đã có nhiều
lần bất đồng ý kiến giữa Trưởng lão Mahàkassapa không
khoan nhượng và Trưởng lão Ànanda nhiều từ tâm. Bởi vì Trưởng
lão Ànanda thỉnh thoảng có giáo giới các Tỳ-kheo-ni, nên Tôn
giả Mahàkassapa hoài nghi vị ấy liên hệ đến tình cảm và
đã có lần đe dọa vị ấy đừng để Tăng chúng điều tra
theo Giới luật (SN 16. 10) . Vào một dịp
khác, vì một số Sa-di dưới sự hướng dẫn của tôn giả
Ànanda đã rời bỏ Giáo hội nên Trưởng lão Mahàkassapa gọi
tôn giả Ànanda lúc ấy đã cao niên là "con nít" (kumàraka),
chuyện ấy được một vài Tỳ-kheo-ni nghe lọt (SN 16. 11).
Nhưng về phương diện
khác, tôn giả Mahàkassapa không thể phủ nhận rằng tôn giả
Ànanda đã lắng nghe và ghi nhớ nhiều Pháp thoại của đức
Phật hơn bất cứ Tỳ-kheo nào khác. Do vậy, vì quyền lợi
Chánh Pháp, tôn giả đưa vị ấy vào danh sách các thành viên
của hội đồng. Danh sách này được xem là bao gồm 500
Tỳ-kheo, tất cả chư Thượng tọa trưởng lão (Thera) (Cv 11.
1. 2), nghĩa là Tỳ-kheo có ít nhất mười tuổi hạ.
Có lẽ khi còn ở Kusinàrà,
Giáo hội đã đồng ý với danh sách của tôn giả Mahàkassapa
và đã quyết định chọn Ràjagaha làm địa điểm của hội
nghị. Thời điểm được quy định là mùa mưa sắp tới (483
trước CN). Không một Tỳ-kheo nào, ngoài năm trăm vị này,
được phép vào thành Ràjagaha trong suốt mùa mưa ấy, để
cho hội đồng có thể tập họp mà không bị phiền nhiễu.
Khi đến kinh đô nước
Magadha, chư Tăng dành một tháng dựng am thất trú mưa cho mình
và sửa chữa các tinh xá cũ đã hư nát. Sự thực sau chuyến
hành trình dài từ Kusinàrà đến Ràjagaha, chư Tăng vẫn còn
nhiều thì giờ như vậy trước khi trời đổ mưa (thường vào
giữa tháng Năm) là một bằng chứng nữa cho thấy Ðại Bát
Niết-bàn phải được phỏng định đã xảy ra vào tháng ba
hay tư năm 483 trước CN.
Cuối cùng mọi người và
mọi vật đều sẵn sàng để hội nghị bắt đầu họp,
tất cả trừ tôn giả Ànanda, người vẫn chưa trở thành
một vị A-la-hán. Tủi hổ, tôn giả chuyên tâm hành thiền
hầu như suốt đêm ấy cho đến khi tảng sáng trước giờ phút
hội nghị khai mạc, tôn giả muốn nghỉ ngơi đôi chút,
bỗng nhiên "giữa lúc nhấc bàn chân lên khỏi sàn nhà
và đặt đầu xuống giường", vị ấy đạt thành sự đoạn
tận lậu hoặc (àsava) và giải thoát sanh tử" (Cv
11.1. 3).
Giờ đây tôn giả đã
trở thành một bậc Thánh, một A-la-hán, sự kiện ấy tất
nhiên tăng thêm thế lực của hội đồng. Có lẽ chính vì
muốn làm cho hội đồng có uy tín cao hơn mà ngay trước khi
hội nghị bắt đầu, các thành viên quyết định ban đạo
quả A-la-hán cho vị Tỳ-kheo lão thành này, người đã mang y
bát suốt bốn mươi năm mà chưa đắc giải thoát.
Theo các bộ Luận thư,
hội nghị kiết tập Kinh Ðiển của năm trăm Tỳ-kheo đã
diễn ra tại Ðộng Sattapanni dưới Ðỉnh Vebhàra (nay là
Vaibharà) ngọn núi ở cực tây bắc của dãy núi đồi bao
quanh Ràjagaha. Lời trần thuật này không được ghi lại ở
đâu trong Kinh Tạng cả. Nếu điều ấy đúng sự thực, thì
nó lại làm phát sinh các mối hoài nghi về số lượng thành
phần tham dự (con số ấy dẫu sao vẫn không được xem là chính
xác), bởi vì năm trăm Tỳ-kheo không thể nào có đủ chỗ cư
trú dù ở trong động hay phía trước động cũng vậy.
Suốt thời gian bảy tháng
tiếp theo sau đó, tôn giả Mahàkassapa chất vấn Tỳ-kheo Upàli
về Luật của Giáo hội (Vinaya) và Tỳ-kheo Ànanda về
Kinh hay Pháp thoại của đức Phật (sutta) (Cv 11. 1. 7).
Nếu hội đồng giữ im lặng, lời dạy của bậc Ðạo Sư do
Tỳ-kheo Upàli hay Ànanda truyền đạt đều được xem là được
tường thuật chính xác và như vậy là được công nhận làm
thánh điển. Mỗi Tỳ-kheo hiện diện đều được khuyến khích
nêu các điểm vấn nạn hay bổ sung, hoặc tuyên bố những
lời phát biểu của đức Phật mà vị ấy nhớ rõ, để ghi
thêm vào.
Thánh điển được
thiết lập như vậy không phải viết thành văn mà là ghi vào
tâm trí. Ở cổ Ấn Ðộ, viết văn bản chỉ được dùng cho
các khế ước hay hợp đồng trước luật pháp, nghĩa là các
tài liệu tương đối ngắn hạn không được xem là đáng ghi
nhớ trong tâm trí. Còn những kinh văn có mục đích thành đạt
sự thông hiểu am tường đời sống đều được học thuộc
lòng để có thể tụng niệm bất cứ lúc nào. Chúng được
lưu truyền mãi cho các thế hệ Tỳ-kheo trẻ hơn bằng cách
truyền tụng và lập lại thường xuyên.
Các điểm bất đồng
giữa hai tôn giả Mahàkassapa và Ànanda lại có nguy cơ bùng ra
một lần nữa trong suốt thời kỳ họp hội đồng, khi tôn
giả Ànanda nêu lời đức Phật dạy (DN 16. 6. 3) đại ý là
sau khi đức Phật diệt độ, nếu chư Tăng muốn, có thể
hủy bỏ các giới điều nhỏ (sikkhàpadani). Lập tức tôn
giả Kassapa chất vấn: "Hiền
giả Ànanda, hiền giả có hỏi đó là các giới điều nào không?".
"Thưa tôn giả, tôi
không hỏi". Tôn giả Ànanda
bị buộc phải thừa nhận điều này.
Sau đó một cuộc thảo
luận khởi lên về những gì được xem là tiểu giới điều.
Cuối cùng tôn giả Kassapa đề nghị với hội đồng rằng Tăng
chúng nên duy trì tất cả giới luật, để cho các đệ tử
tại gia không nghĩ rằng Giáo hội đã trở thành lỏng lẻo
sau khi đức Phật Tổ diệt độ. Hội đồng chấp nhận lời
đề nghị này bằng cách im lặng (Cv 11. 1. 9).
Dĩ nhiên, điểm sơ sót
của tôn giả Ànanda gây nên nhiều bàn tán trong một thời
gian, và cũng giống các trường hợp tương tự, nó đã đưa
đến việc nhắc lại một số lỗi lầm khác của vị
Tỳ-kheo trưởng lão này. Vì lý do hòa hợp Tăng chúng, tôn
giả Ànanda chính thức làm lễ sám hối lỗi lầm (Cv 11. 1.
10).
Ngôn ngữ được hội đồng
kiết tập Ràjagaha sử dụng để ghi lời thuyết giảng của
đức Phật thành Thánh điển là tiếng Pàli, một hình thức
cao cấp tiến bộ của ngôn ngữ Magadhì, vừa tránh dùng các
thổ ngữ địa phương, vưà có phần từ vựng được làm
cho phong phú nhờ các cách diễn tả vay mượn từ các ngôn
ngữ Ấn Ðộ có liên hệ. Pàli được công nhận là ngôn
ngữ chung (lingua franca) vượt lên mọi địa phương, chỉ được
giới trí thức nói thời ấy, song giới bình dân cũng hiểu
biết. Các quốc vương ở Bắc Ấn sử dụng Pàli làm ngôn
ngữ trong giới chánh quyền giữa các triều đình, vì thế,
thái tử Siddhattha Gotama đã quen thuộc ngôn ngữ này từ
thời niên thiếu, còn hai tôn giả Upàli và Ànanda cũng có
thể đã nói thứ tiếng này lưu loát.
Hội đồng kiết tập
vừa kết thúc và hình thức nguyên thủy của Kinh Ðiển Pàli
vừa được thiết lập thì Tỳ-kheo Puràna cùng một nhóm
Tỳ-kheo thân hữu đến Ràjagaha để khất thực. Ðầy tự hào
về nhiệm vụ vừa hoàn thành, các Tỳ-kheo trong hội đồng yêu
cầu vị ấy chấp thuận Thánh Ðiển mà chư vị đã hệ
thống hóa. Tỳ-kheo Puràna đáp: "Chư vị Thượng tọa
trong Giáo hội đã khéo hợp tụng và soạn thảo Kinh Luật thành
Thánh Ðiển. Song tôi thích ghi nhớ Pháp theo cách chính tôi đã
lắng nghe và thọ giáo từ đức Thế Tôn". (Cv 11. 1.
11)
Ðiều này không nhất
thiết ám chỉ rằng có những dị biệt cụ thể giữa quan
niệm về Pháp của vị này và quan niệm của hội đồng. Có
lẽ lời nói của Tỳ-kheo Puràna chỉ ngụ ý: "Tại
sao tôi là người đã từng nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng và
vẫn con mang nhiều ấn tượng sâu sắc trực tiếp về nhân cách
của ngài mà tôi lại phải chấp nhận việc xác lập lời ngài
dạy thành Kinh Ðiển do người khác làm chứ?".
Một trăm năm sau Hội Ðồng
Kiết Tập Ðầu Tiên, vào năm 383 trước CN, Hội Ðồng Kiết
Tập Thứ Hai lãnh trọng trách xét duyệt Kinh Ðiển nguyên
thủy. Nguyên nhân họp hội đồng này là sự bất hòa hợp
ý kiến về Giới luật (Vinaya). Sau nhiều hoạt động
liên tục, một ủy ban đã quyết định chống đối việc
chấp nhận mười điểm canh tân được đề nghị, và nhằm
mục đích xác nhận quyết định này, một lần nữa, Kinh Ðiển
lại được hợp tụng trong vòng tám tháng do một Giáo hội
gồm bảy trăm vị Thượng tọa ở Vesàli dưới sự chủ trì
của Trưởng lão Tỳ-kheo Revata (Cv 12. 2. 8). Ðể chứng minh
sự tuân thủ truyền thống của chư Tăng, các thành viên
trong hội đồng tự xưng mình là Thượng Tọa Bộ (Theravàdin)
nghĩa là "những vị hộ trì Giáo Lý của chư Thượng
tọa". Còn những vị canh tân lại cho mình là chiếm đa
số, tự xưng là Ðại Chúng Bộ (Mahàsanghika), nghĩa là các
thành viên của Ðại chúng". Từ Ðại Chúng Bộ, đã phát
triển vào khoảng đầu Công nguyên, thành tông phái Ðại
thừa (Mahàyàna: cỗ xe lớn).
Nếu Hội Ðồng Kiết
Tập Ðầu Tiên thấy phận sự của mình là thiết lập Giáo
Pháp của đức Phật một cách trung thực và hệ thống hóa
Kinh Ðiển cho Giáo hội tương lai, thì Hội Ðồng Thứ Hai đã
gạn lọc - hay đúng hơn "đã lắng nghe" khối lượng
Kinh Ðiển vĩ đại này theo đúng một số nguyên tắc biên
tập. Mặc dù có lời đức Phật khẳng định: "Không
ai biết mọi việc" (MN 90), hội đồng vẫn quan tâm
mong muốn chứng minh Nhất Thiết Trí của đức Phật, sự toàn
tri kiến mà theo quan điểm của chư vị, ngài đã đạt được
ngay lúc Giác Ngộ (Bodhi) khiến ngài trở thành đức
Phật.
Bởi thế, chư vị nỗ
lực cắt bỏ từ tạng Kinh Ðiển nguyên thủy mọi sự liên
quan đến bất cứ kết luận và sự công nhận nào thuộc
về thời kỳ sau của bậc Ðạo Sư; đồng thời cố tìm cách
làm cho những lời ngài xác nhận ở các giai đoạn đầu tiên
và các giai đoạn về sau của đời ngài phù hợp nhau.
Ðiều may mắn là chư
vị không phải bao giờ cũng chú tâm thận trọng lúc làm
việc này, vì vậy các nhà Ấn Ðộ học ngày nay vẫn tìm
được vài dấu hiệu chứng tỏ sự tiến bộ trong quá trình
phát triển trí tuệ của đức Phật. Nhằm mục đích làm cho
trí tuệ toàn tri kiến của đức Phật trở nên rõ ràng hơn,
chư vị đã bổ sung vài điểm khá thô sơ vào bài kinh để
chứng tỏ bậc Ðạo Sư đã biết những việc ngài sắp được
trình báo. Ví dụ, khi y sĩ Jìvaka kê đơn thuốc cho ngài, đức
Phật đã biết đó sẽ là thuốc gì, song vẫn chờ đợi đơn
thuốc ấy.
Hơn nữa, Hội đồng ở
Vesàli dưới quyền chủ tọa của Trưởng lão Revata phải
chịu trách nhiệm về sự gia tăng số kinh điển. Do cả trăm
năm ghi vào ký ức và khẩu truyền, nhiều đoạn kinh văn đã
đóng cứng thành các "khối ngôn từ". Khi Kinh Ðiển
được duyệt lại, các khối ngôn từ này được xen lẫn vào
bất cứ nơi nào có vẻ thích hợp với đề tài, thậm chí có
nơi làm cho dòng tư tưởng mất cả ý nghĩa. Sau cùng, Hội Ðồng
Thứ Hai này cũng đã khuyếch trương Kinh Ðiển bằng cách
đưa vào số tài liệu đã được gạt bỏ ra ngoài khối lượng
Kinh Ðiển nguyên thủy.
Hội Ðồng Kiết Tập
Thứ Ba được tổ chức tại Pàtaliputta (nay là Patna) vào năm
253 trước CN dưới sự bảo trợ của vị Ðại Ðế Phật
tử của Ấn Ðộ, Asoka Moriya (Skt. Asoka Maurya). Hội đồng này
gồm cả ngàn Tỳ-kheo do Trưởng lão Moggaliputta Tissa chủ
tọa. Trong chín tháng làm việc, hội đồng một lần nữa
lại tổng duyệt Kinh Ðiển của Thượng Tọa Bộ và thêm vào
hai tạng Kinh và Luật hiện hành một tác phẩm thứ ba có tính
chất lý luận học thuật. Cùng với sự bổ sung một số tác
phẩm mang tính học thuật khác nữa trong vòng hai thế kỷ
kế tiếp đó, cuối cùng xuất hiện một bộ sách thứ ba
được mệnh danh Luận A-tỳ-đàm hay Thắng Pháp (Abhdhamma).
Ba bộ thánh điển được đặt tên là "tạng" hay
giỏ (pitaka), và vì thế Kinh Ðiển Pàli thường được
gọi là Tam Tạng (Tipitaka).
Chính nhờ sự nghiệp
hoằng Pháp thành công viên mãn của Ðại Ðế Asoka (vị vua
ngự trị độc tôn từ 269 - 232 trước CN), mà Tam Tạng Pàli
được bảo tồn cho đến thời đại chúng ta.
Chính Ðại Ðế Asoka phái
hoàng tử Mahinda đi giáo hóa đảo quốc Ceylon (Sri Lanka) theo
đạo Phật, nên ngài đã bảo đảm cho Phật Pháp an trú trong
ngôi nhà tiếp tục tồn tại vượt qua bao cơn khủng hoảng
lịch sử. Tại các tinh xá trên đảo quốc này, Kinh Tạng Pàli
được bảo trì trong tâm trí chư Tỳ-kheo cho đến thế kỷ
thứ nhất trước CN, chư vị viết Kinh Ðiển lên các lá
bối-đa khô, talipot (Corypha umbraculifera) (Dv 20. 20f; Mhv
33. 100f).
Ngôi tinh xá xây bằng đá
tảng Aluvihàra (P. Àlokavihàra), nơi công trình bối biên này
đã được hoàn thành, hiện nằm cách Matale 3km về phía
bắc. Người du khách đến Sri Lanka bằng xe hơi từ Kandy lên
phía bắc, sau khi đi ngang qua Matale, sẽ không khỏi đưa mắt
sang bên trái nhìn về những tảng đá vĩ đại của tinh xá
Aluvihàra với niềm thành kính tri ân ngôi cổ tự, nơi mà Giáo
Pháp có giá trị bất biến vượt thời gian của đấng Giác
Ngộ đã được ghi chép thành văn cách đây hai ngàn năm trước.
Dịch
giả cẩn bút
Trọng Xuân Ðinh Sửu 1997
-ooOoo-
THƯ MỤC TÀI
LIỆU THAM KHẢO
I. TAM TẠNG PÀLI:
Tất cả những dịch
phẩm TAM TẠNG của Hội Kinh Tạng Pàli Luân Ðôn: Pàli Text
Society, London. Ngoài ra còn có:
-
Dìgha Nikàya
bản dịch của M. O’C Walshe xuất bản với nhan đề: Thus
have I heard - The Long Discourses of the Buddha (Như vầy tôi
nghe - Kinh Trường Bộ của đức Phật) London 1987.
-
Majjhima Nikàya
(Trung Bộ Kinh) bản dịch của cố Thượng Tọa Nànamoli.
-
An Analysis of The Pàli
Canon (Phân tích Kinh Ðiển
Pàli): Russell Webb, BPS, 1975.
II. SỬ KÝ CỔ ÐẠI VỀ
ÐỨC PHẬT
Ngoài các sử ký về đức
Phật trong Kinh Tạng Pàli, còn có bốn cổ sử Ấn Ðộ.
-
Nidànakatthà
(Duyên Khởi Chuyện Tiền Thân Ðức Phật) do T.W. Rhys
Davids dịch từ Pàli sang Anh ngữ, PTS, 1925.
-
Mahavastu do
J.J. Jones dịch từ Sanskrit sang Anh ngữ, London, 1949-56.
-
Lalita Vistara
do P.E. Foucaux dịch từ Sankscrit sang Pháp ngữ (Paris 1884)
và R. L. Mitra dịch sang Anh ngữ, Calcutta, 1881.
-
Buddhacarita
của Asvaghosa, do E.B Cowell dịch từ Sanskrit sang Anh ngữ,
Oxford, 1894.
III. SỬ KÝ HIỆN ÐẠI
Le Buddha
(Ðức Phật) của A. Bareau, Paris, 1962.
The Life of Gotama The Buddha
(Cuộc Ðời Ðức Phật Gotama), E.E Brewster, London, 1956.
The Buddha
(Ðức Phật), M. Carrithers, London, 1983.
The Life of the Buddha
(Cuộc Ðời Ðức Phật), A. Foucher lược dịch từ Pháp
ngữ, Conn, 1963.
The Living Buddha
(Ðức Phật Trụ Thế), D. Ikeda, New York, Tokyo, 1976.
The Life of the Buddha As It
Appears in The Pàli Canon (Cuộc
Ðời Ðức Phật xuất hiện qua Kinh Tạng Pàli), Thượng
Tọa Nànamoli, BPS, 1972.
The Buddha (Ðức
Phật), M. Pye, London 1979.
The Life of the Buddha
(Cuộc Ðời Ðức Phật) H. Saddhatissa, London, 1976.
The Life of the Buddha As
Legend and History (Cuộc Ðời
Ðức Phật: Huyền Thoại và Lịch Sử), E.J. Thomas, London,
1960.
The Biography of the Buddha
(Tiểu Sử Ðức Phật) K.D.P. Wickremesinghe, Colombo, 1972.
IV. ÐỊA LÝ
Geography of Early Buddhism
(Ðịa Lý Thời Phật Giáo Nguyên Thủy) B.C. Law, Varanasi
1973.
Cities of Ancient India (Kinh
Thành Cổ Ấn Ðộ), B.N. Puri, Meerut. Delhi - Calcutta 1966.
V. HOÀN CẢNH XÃ HỘI VÀ
ÐỜI THƯỜNG Ở CỔ ẤN ÐỘ
Daily Life in Ancient India
from 200 BC to 700 AD (Ðời
Thường ở Cổ Ấn Ðộ từ 200 trước CN đến 700 sau CN),
J. Auboyer, London, 1965.
The Wonder That Was India.
A Survey of the Culture of the India Sub-Continent before the Coming of
the Muslims (Kỳ Diệu Thay Cổ Ấn Ðộ. Khảo Sát Văn Hóa
Tiểu Lục Ðịa Ấn trước thời HỒI GIÁO Xâm Nhập), A.L
Basham, London, 1967.
Indian Culture in the Days of
the Buddha (Văn Hóa Ấn Ðộ
Thời Ðức Phật) A.P de Zoysa, Colombo, 1955.
Everyday Life in Early India,
(Cuộc Sống Thường Ngày ở Cổ Ấn Ðộ), M. Edwardes,
London, 1969.
Ancient India: A History of
its Culture and Civilization (Cổ
Ấn Ðộ: Lịch Sử Văn Hóa và Văn Minh) D.P. Kosembu, New
York, 1965.
The Age of Vinaya: A
Historical and Culture Study (Thời
Ðại Luật Tạng: Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hóa), G.S.P
Misra, New Delhi, 1972.
Buddhist India (Ấn
Ðộ Theo Ðạo Phật), T.W. Rhys Davids, London 1903, Calcutta
1957.
Society at the Time of the
Buddha (Xã Hội Thời Ðức
Phật) N. Wagle, Bombay 1963.
VI. CHÍNH TRỊ THỜI ÐỨC
PHẬT
The Magadhas in Ancient India
(Các Vương Quốc Magadha
ở Cổ Ấn Ðộ), B.C Law, Delhi, 1976.
An Early History of Vaisàlì
(Lịch Sử Cổ Ðại Vaisàlì),
Y. Mishra, Delhi, 1962.
History of Kosala up to the
Rise of the Mauryas (Lịch
Sử Kosala cho đến Thời Hưng Thịnh của Triều Ðại Mauryas),
V. Pathak, Delhi, 1963.
Studies in the Buddhist Jàtakas
(Nghiên Cứu Bộ Chuyện
Tiền Thân Ðức Phật), B.C. Sen, Calcutta, 1974.
Republics in Ancient India
1500 BC - 500 AD (Các Nền
Cộng Hòa ở Cổ Ấn Ðộ từ 1500 trước CN - 500 sau CN),
JP. Sharma, Leiden, 1968.
VII. GIÁO HỘI - ẢNH HƯỞNG
VĂN HÓA CỦA ÐẠO PHẬT - CÁC HỘI ÐỒNG KIẾT TẬP KINH TẠNG
Vihàras in Ancient India
(Các Tinh Xá Cổ Ấn Ðộ) D.K. Barua, Calcutta, 1969.
The World of Buddhism (Thế
Giới Phật Giáo), H. Bechert & R. Gombrich, London, 1984.
Buddhist Centres in Ancient
India (Các Trung Tâm Phật
Giáo Cổ Ấn Ðộ), B.N. Chaudhury, Calcutta, 1969.
Buddhist Sects in India (Các
Tông Phái Phật Giáo ở Ấn Ðộ), N. Dutt, Calcutta, 1970.
Early Monastic Buddhism
(Ðạo Phật Trong Giáo Hội Nguyên Thủy), N. Dutt,
Calcutta, 1960.
Buddhist Monks and
Monasteries of India (Giáo
Hội và Tinh Xá Phật Giáo ở Ấn Ðộ), S. Dutt, London,
1964.
In the Blowing Out of a Flame
(Về Sự Tắt Lửa). M.
Edwardes, London, 1976.
Women under Primitive
Buddhism (Phụ Nữ thời
Phật Giáo Nguyên Thủy), I.B Horner, Delhi, 1975.
The Buddha - Buddhist
Civilization in India and Ceylon (Ðức
Phật - Văn Minh Phật Giáo ở Ấn Ðộ và Tích Lan), T.
Ling, London, 1973.
The Origin and The Early
Development of Buddhist Monachism
(Nguồn Gốc và Sự Phát Triển Sơ Khởi Nếp Sống Trong
Tinh Xá Phật Giáo), P. Olivelle, Colombo, 1974.
The Buddhist Councils (Các
Hội Ðồng Phật Giáo), L. de La Valleé Poussin, Calcutta, 1976.
VIII.
PHÁP VÀ LUẬT PHẬT GIÁO
Early Buddhist Jurisprudence
- Theravada Vinaya (Luật Pháp
thời Phật Giáo Nguyên Thủy - Luật Thượng Tọa Bộ) D.N
Bhagvat, Bombay, 1939.
Early Buddhist Monachism
(Nếp Sống Tinh Xá thời Phật Giáo Nguyên Thủy), S.
Dutt, Bombay, 1960.
The Patimokkha: 227
Fundamental Rules of A Bhikkhu (Giới
Bổn: 227 Giới Căn Bản của Tỳ-kheo), Thượng Tọa Ñ ànamoli
dịch, Bangkok, 1966.
IX. SÁCH CỔ NGỮ
A Dictionary of Buddhism
(Tự Ðiển Phật Học), T.O. Ling, New York, 1972.
Dictionary of Pàli Proper
Names (Tự Ðiển Danh Từ
Riêng Pàli), G.P. Malalasekera, London, 1960.
Encyclopaedia of Buddhism (Bách
Khoa Tự Ðiển Phật Học), G.P. Malalasekera, Colombo, 1961.
Buddhist Dictionary
(Tự Ðiển Phật Học), Nyànatiloka Thera, Colombo, 1972.
Dictionary of Early Buddhist
Monastic Terms (Tự Ðiển
Từ Ngữ Phật Giáo Nguyên Thủy), C.S. Upasak, Varanasi, 1975.
X. GIÁO LÝ
Selfless Persons Imagery and
Thought in Theravada Buddhism (Những
Vị Hữu Tình Vô Ngã - Ảnh Tượng và Tư Tưởng Phật Giáo
Thượng Tọa Bộ), S. Collins, Cambridge, 1982.
Buddhist Thought in India (Tư
Tưởng Phật Giáo Ấn Ðộ), E. Conze, London, 1962.
Buddhism
(Ðạo Phật), R.A. Gard, New York & London, 1961.
Buddhism - A Non - Theistic
Religion (Ðạo Phật - Một
Tôn Giáo Vô Thần), H.Von Glasenapp, London, 1970.
The Psychological Attitude of
Early Buddhist Philosophy (Thái
Ðộ Tâm Lý của Triết Lý Phật Giáo Nguyên Thủy), Lama A.
Govinda, London, 1961.
The Early Buddhist Theory of
Knowledge (Lý Thuyết Về
Tri Kiến Trong Phật Giáo Nguyên Thủy), K.N. Jayatileke, Delhi,
1980.
Buddhist Images of Human
Perfection (Tranh Tượng
Phật Giáo về Sự Hoàn Thiện Nhân Cách), N. Katz, Delhi,
1982.
History of Indian Buddhism (Lịch
Sử Phật Giáo Ấn Ðộ), E. Lamotte (bản Anh dịch),
London, 1987.
What the Buddha taught
(Những Gì Ðức Phật Dạy), W. Rahula, Bedford, 1959.
Buddhism, an Outline of its
Teachings and Schools (Ðạo
Phật: Sơ Lược các Giáo Lý và Tông Phái), H.W. Schumann,
London, 1973.
Indian Buddhism
(Ðạo Phật ở Ấn Ðộ), A.k Warcler, Delhi, 1980.
XI. SÁCH CHUYÊN KHẢO VỀ CÁC
TÔN GIÁO KHÁC Ở THỜI ÐỨC PHẬT
The Àjivikas:
A Vanished Indian Religion (Ðịnh Mệnh Phái: Một Ðạo
Giáo đã Biến Mất ở Ấn Ðộ), A. L. Basham, London, 1978.
Early Jainism
(Kỳ-na Giáo Nguyên Thủy), 1951 K.K. Dixit, Ahmedabad, 1978.
A Classical Dictionary of
Hindu Mythology & Religion (Tự
Ðiển Thần Thoại và Ấn Ðộ Giáo), J. Dowson, London, 1953.
The Jain Path of Purification
(Con Ðường Thanh Tịnh của Ðạo Kỳ-na), P.S. Jaini,
Delhi - Varanasi - Pàtna 1979.
Iconographic Dictionary of
the Indian Religions (Tự Ðiển
Tranh Tượng Các Tôn Giáo Ấn Ðộ), G. Liebert, Leiden, 1976.
The Doctrine of the Jainas
(Giáo Lý Ðạo Kỳ-na) W. Schubring, Delhi, 1978.
A Dictionary of Hinduism: Its
Mythology, Folklore and Development
(Tự Ðiển Ấn Ðộ Giáo: Thần Thoại, Văn Hoá Nhân Gian và
sự Phát Triển), M & J. Stutley, Bombay - Delhi, 1977.
Hìndu World - An
Encyclopaedic Survey of Hinduism (Thế
Giới Ấn Giáo - Khảo Sát Tổng Quát về Ấn Giáo), B.
Walker, London, 1968.
XII. KHẢO CỔ HỌC PHẬT
GIÁO
Buddhist Monuments (Ðền
Ðài Phật Giáo), D. Mitra, Calcutta, 1971.
Archaeological Remains of
Kapilavastu, Lumbini & Devadaha
(Di Tích Khảo Cổ ở Kapilavastu, Lumbini & Devadaha),
B.K. Rijal, Kathmandu, 1979.
Buddhist Shrines in India
(Tự Viện Phật Giáo ở Ấn Ðộ), D. Valisinha, Colombo,
1948.
XIII. THẢO MỘC VÀ THÚ
VẬT Ở ẤN ÐỘ
The Book of Indian Birds
(Các loài Chim Ấn Ðộ), S. Ali, Bombay, 1961.
Some Beautiful Indian Trees
(Một Số Cây Ðẹp ở Ấn), E. Blatter & W.S Millard,
Bombay, 1977.
Flowering Trees and Shrubs of
India (Các Loài Cây Hoa Ấn
Ðộ), D.V. Cowen, Bombay, 1970.
100 Beautiful Trees of India
(100 Loài Cây Ðẹp Ấn Ðộ), C. Mc Cann, Bombay, 1966.
The Book of Indian Animals
(Ðộng Vật Ấn Ðộ), S.H. Prater, Bombay, 1971.
-ooOoo- |