Chương
V
Ðức
Phật Gotama và các phương diện tâm lý
-oOo-
NHÂN
DẠNG CỦA NGÀI
Kinh Ðiển Pàli có
nhiều đoạn miêu tả đức Phật do Bà-la-môn Sonadanta phát
họa. Quả thật, trước kia vị Bà-la-môn chưa gặp bậc Ðạo
Sư vào thời điểm miêu tả này, vị ấy chỉ lập lại
những gì đã được nghe, nhưng sau đó vị ấy diện kiến
ngài và nhận ra rằng điều này thật chính xác:
"Quả thật Sa-môn
Gotama diện mạo tuấn tú, khả ái, gợi niềm tin tưởng, đặc
biệt có làn da như màu hoa sen, màu da tương tự như Phạm
thiên, rực rỡ như Phạm thiên. Diện mạo ngài thật cao
sang. Giọng nói ngài thanh lịch, ngôn từ ngài diễn đạt cũng
vậy, tao nhã, tế nhị, hùng hồn, trong sáng và chính xác".
(DN 4.6)
Làn da tươi sáng của
đức Phật được nhiều người đồng thời chú ý. Ngài thường
được miêu tả "có màu da sáng như vàng" và
sau cuộc tranh luận sôi nổi với vị cư sĩ Ni-kiền-tử
Saccaka Aggivessana, vị ấy nhận xét rằng "màu da của
Tôn giả Gotama vẫn giữ nguyên vẻ trong sáng" (MN 36.
49). Trong một xứ như Ấn Ðộ, nơi người ta chú trọng đến
màu da và da có màu "lúa vàng" được xem là dấu
hiệu của cả giai cấp thượng lưu (vanna: nghĩa đen: màu
da) cùng với gia tộc cao sang, nhận xét này có ý nghĩa không
chỉ là ca ngợi diện mạo đức Phật mà còn tán tụng các
tổ tiên của ngài nữa.
Tuy nhiên không thể
kết luận về nguồn gốc gia tộc của đức Phật do màu da
của ngài. Dân chúng ở cộng hòa Sakiya một phần gốc Ấn,
đa số gốc Indo-Ariyan. Họ nhập cư từ miền Tây và Nam, và
một phần gốc Mông Cổ từ Bắc tràn xuống dọc theo các
thung lũng bên bờ sông. Thời đức Phật có hai sắc tộc, dân
Ấn màu nâu và dân Mông Cổ vàng nâu, đã đồng hóa với
nhau trong lãnh thổ bộ tộc Sakiya này, vì thế có nhiều
mẫu người tạp chủng và nhiều dân tộc có đủ màu da
phối hợp.
Một dấu hiệu cho
thấy đức Phật có lẽ thuộc về sắc tộc Ấn Ðộ hơn là
sắc tộc Mông Cổ ở vùng Tuyết Sơn là chiều cao của ngài.
Dân tộc Mông Cổ thường mập lùn, thô kệch, thấp hơn dân
Ấn Ðộ, còn kinh sách ghi chép rằng đức Phật Gotama, ngay
cả khi đang du hành giữa đám dân chúng Ấn Ðộ ở miền
Nam sông Hằng, cũng vẫn hiện rõ dáng điệu oai nghi cao
cả.
SỰ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA NGÀI
Nếu quốc vương
Suddhodana ở Kapilavatthu từng nuôi hy vọng rằng Thái tử
của ngài sẽ trở thành một người cường tráng đầy năng
động, quan tâm đến thế sự và có tham vọng trị nước,
thì ngài đã thất vọng. Vì nam tử này chẳng hề bị lôi
cuốn vào các trò tiêu khiển tập thể hay các buổi huấn
luyện quân sự, mà lại trở thành một người thích cô độc,
với nhiều khuynh hướng về suy luận triết lý và trầm tư
mặc tưởng. Thay vì hưởng thụ mọi lạc thú đúng với
vị trí một hoàng tử, chàng lại phát triển các tiêu
chuẩn của riêng mình và bất mãn với thế gian vì phải
chịu đựng những sự bất toàn hảo ở đời. Ðồng
thời, chàng lại trầm tư về cách làm thế nào chàng có
thể vượt lên cảnh đời ấy theo ý mình. Tóm lại, theo ngôn
từ tâm lý học, chàng là mẫu người trí thức nhạy cảm,
thường xuyên hướng nội. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên
khi đời sống gia đình và hôn nhân không làm chàng thỏa mãn
và chàng đã nắm lấy cơ hội từ giã thế tục để thành
Sa-môn khất sĩ.
Chúng ta cần phải nhìn
thấy trong kinh nghiệm Giác Ngộ (bodhi) của đức
Phật vào năm 528 trước CN cả một biến cố trọng đại
không chỉ đem lại Ðạo Pháp cho thế giới, mà còn chuyển
biến Thái tử Siddhattha Gotama với khuynh hướng nội tâm
nổi bật ấy thành đức Phật hướng ngoại theo định kỳ.
Kinh nghiệm Giác Ngộ ấy đã đổ xô về hướng biểu lộ
tâm tư qua ngôn ngữ với một sức mạnh vĩ đại biết
chừng nào! Nó khiến đức Phật đi tìm nhiều người để
ngài có thể khai thị các khám phá của ngài và truyền
thụ kho tàng tâm linh mà ngài vừa tìm được.
Suốt bốn mươi lăm năm
hoạt động hoằng Pháp này, ta có thể quan sát đức Phật
chuyển dịch giữa khuynh hướng thiên về nội tâm và khuynh
hướng ngoại giới. Các thời kỳ thuyết Pháp thành công
rực rỡ khiến ngài du hành từ vùng dân cư đông đúc này
đến vùng khác, có thể được phân biệt rõ ràng với
những thời kỳ ngài mệt mỏi vì quần chúng và tìm cách
độc cư an tịnh. Ngài thích du hành một mình (AN 6. 42 &
SN 22. 81) "như tây ngưu". Giáo Pháp của ngài hợp
với người thích độc cư, chứ không phải với những người
ham quần chúng, ngài tuyên bố như vậy (AN 8. 30).
Tuy thế, ngài chỉ dành
cho khuynh hướng độc cư ở trong một số giới hạn, bởi
vì dù ngài truyền bá một giáo lý hướng nội ẩn dật, ngài
cũng phải hướng ngoại và du hành giữa quần chúng nếu ngài
muốn có nhiều người được cảm hóa vào đạo. Về sau, có
sự phân biệt giữa một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha),
một vị Giác Ngộ riêng mình, xem các khám phá của mình là
sở hữu riêng, nên đã giữ im lặng về việc ấy, và một
vị Toàn Giác hay Chánh Ðẳng Giác (Sammà- Sambuddha) là
vị Phật tuyên bố sự khám phá của mình về con đường
cứu khổ cho đời. Lý tưởng của vị Phật Toàn Giác cao
thượng hơn vì một bậc đại tuệ hiền trí có tri kiến
tối thắng không chỉ nghĩ đến tự lợi mà còn nghĩ đến
lợi tha (AN 4. 186) .
Khi tuổi càng cao, các
giai đoạn hướng nội tâm của đức Phật càng kéo dài.
Về phương diện truyền bá Giáo Pháp, ngài hài lòng với
sứ mạng thành công của ngài và không còn cảm thấy nỗi
phấn khởi của người diễn thuyết khi thính chúng bám sát
từng lời nói của mình và ngài chán ngán danh vọng (AN 5.
30) . Mặc dù ở độ tuổi tám mươi ngài vẫn còn đầy đủ
trí lực (MN 12. 62) và diễn thuyết hùng biện, các ảnh dụ
của ngài đã thiếu vẻ tân kỳ và màu sắc linh động, còn
các bài giảng Pháp của ngài có phần nào lập lại theo khuôn
mẫu cũ. Như vậy, càng ngày ngài càng cảm thấy việc giáo
huấn chư Tăng là vừa đủ cho ngài, nên chỉ khuyên răn
giới cư sĩ khi được yêu cầu. Về phần còn lại, thì
từ nay Giáo hội đã phát triển thành một cơ cấu có địa
bàn rộng lớn với nhiều đệ tử truyền bá Giáo Pháp danh
tiếng lẫy lừng, cần phải đảm nhận chức vụ thuyết
giảng này (DN 29. 15).
Trong các lý do khiến
đức Phật giảm bớt hoạt động thuyết Pháp, cần phải
thêm một điểm quan trọng nữa: khoảng từ độ tuổi sáu
mươi, sức khỏe không cho phép ngài tiêu hao năng lực
nhiều.
Trước kia, đức Phật
vẫn luôn luôn nhận thức rõ vấn đề sức khỏe, và ngài
cũng tuân hành các giới luật của đời Sa-môn. Trong những
tháng nóng nhất cuối mùa hạ ở Ấn Ðộ, ngài cho phép mình
ngủ trưa sau buổi thọ thực (MN 36. 46) và kiêng ăn buổi
tối để "giữ gìn sức khỏe, tươi vui, khinh an, dõng
lực và sống dễ chịu". (MN. 70)
Ngoài chứng bao tử đôi
khi gây xáo trộn, đó là điều không thể tránh được
trong đời khất sĩ mà ngài đã chữa khỏi bằng cách xoa
dầu và dùng thuốc nhuận tràng (Mv 8. 1. 30), uống mật mía
với nước nóng (SN 7. 2. 3) hoặc cháo lỏng có ba dược
liệu (Mv 6. 17. 1), ngài còn mắc chứng đau lưng lúc về già,
có lẽ vì một đốt xương sống bị trặc. Ðứng lâu
khiến ngài đau lưng (AN 9. 4) và mặc dù lúc ngài đến
viếng Kapilavatthu, ngài ngồi trong hội trường mới xây,
dựa lưng vào cột, xương sống cũng làm ngài đau nên ngài
phải nằm xuống và bảo Tỳ-kheo Ànanda giảng tiếp Pháp
thoại (MN 53) .
Hơi ấm thật tốt lành
cho chứng đau lưng ấy, có lẽ điều này khiến bậc Ðạo
Sư thường xuyên tắm các suối nóng khi trú tại Ràjagaha.
Một bài kinh (SN 48. 5. 1) tả cảnh đức Phật về già thường
ngồi ở tinh xá Ðông Viên sưởi ấm lưng trần dưới
nắng chiều tà trong lúc thị giả Ànanda vừa xoa bóp đôi
chân gầy yếu của ngài vừa mải mê bàn luận về sự suy
tàn của thân thể lúc tuổi già. Chẳng bao lâu, trước khi
viên tịch, bậc Ðạo Sư nhận xét rằng thân ngài chỉ được
duy trì sức sống nhờ chống đỡ bằng dây đai chằng
chịt (DN 16. 2. 25).
CÁCH ÐỨC
PHẬT TỰ NHẬN XÉT MÌNH
Như đã nói ở trên,
sự Giác Ngộ bừng lên trong tâm vị vương tử Thích-ca ba mươi
lăm tuổi này không chỉ là một hoạt động của tri thức,
mà còn là một chuyển biến về nhân cách nữa. Do Giác
Ngộ, ngài cảm nhận vô cùng sâu sắc rằng một bậc Giác
Ngộ không còn thuộc vào một hạng người nào trên thế
gian này nữa, mà đúng hơn, ngài tượng trưng cho một loại
hữu tình đặc biệt (AN 4. 36):
"Ðừng xưng hô
với ta (theo cách thân mật cũ) là ‘hiền giả’", ngài
bảo các bạn đồng tu khổ hạnh ngày trước của ngài, khi
ngài gặp chư vị sau thời kỳ Giác Ngộ, "nay ta là
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác" (Mv 1. 6. 12).
Ðặc biệt phi thường
do quả Giác Ngộ, lại có nguồn gốc quý tộc, học vấn
xuất sắc và trí tuệ ưu việt, đức Phật thấy không có
lý do gì phải e ngại bất kỳ ai cả. Với các đại vương
và tiểu vương ở vùng "Trung Nguyên", ngài nói
chuyện thẳng thắn, không có gì dè dặt, và đàm đạo bình
đẳng với các Bà-la-môn thông thái nhất thời ngài. Ðối
trị với sự kiêu mạn của một số Bà-la-môn đã có lần
bày tỏ vẻ khinh bỉ một cách thô lỗ (DN 3), ngài cương
quyết không chịu để cho họ xem ngài thấp kém hơn họ.
Khi một trong số ấy trách ngài không đảnh lễ các vị Bà-la-môn
chuyên nghiệp cao sang, không đứng dậy chào họ hoặc mời
họ ngồi, bậc Ðạo Sư đáp lại rằng ngài không thấy có
ai trên đời xứng đáng để ngài tỏ ra tôn trọng như
vậy (AN 8, 11) . Ngài chỉ muốn phản bác
lại những điều tương tự như thế, chứ không có ý gì hơn.
Ngài đã từng tuyên bố, "Một vị A-la-hán không
cảm thấy hơn hay kém bất cứ ai khác". (AN 6. 49)
Ngành tôn giáo đối
chiếu thường phân biệt các vị sáng lập tôn giáo thành
những nhà tiên tri và những nhà huyền bí.
Nhà tiên tri là một người
hướng ngoại quá nhiệt tình, tâm trí bị ám ảnh bởi kinh
nghiệm thần linh nên cố thuyết phục người đồng loại
tuân lệnh Thượng Ðế, và tìm cách cải tạo thế giới
theo ý Thượng Ðế. Vị ấy tạo được số tín đồ bằng
những lời hứa hẹn hạnh phúc và đe dọa trừng phạt đọa
đày, và vì không tránh né tranh chấp ở đời, nên khi vị
ấy gặp xung đột với những kẻ theo truyền thống cũ, thì
thông thường phải chịu mạng vong do bạo lực.
Trên phương diện khác,
nhà huyền bí khởi đầu từ quan điểm rằng giải thoát
khổ đau không thể được chứng đắc ở ngoại giới hay
qua sự can thiệp của một vị thần linh nào, mà nó chỉ có
thể tìm thấy ở nội tâm - qua sự thâm nhập vào bên trong
của mỗi người. Bậc hiền trí như vậy sống hòa hợp
với thế giới. Thái độ căn bản của vị ấy là thái độ
thanh thản, buông xả nội tâm, an nhiên tự tại.
Ðức Phật tượng trưng
mẫu người huyền bí này. Vì ngài phủ nhận sự hiện
hữu của một bản ngã, một cái Tuyệt Ðối, nên kinh
nghiệm Giác Ngộ của ngài mang hình thức một sự đột phá
trong tri kiến, chứ không phải sự hòa nhập vào cái huyền
bí (unio mystica). Ðó chính là tuệ giác thấy rằng thế
giới với tất cả khổ đau (dukkha) có thể được
nhiếp phục, và nhờ nỗ lực mỗi người, ta có thể chặt
đứt vòng luân hồi sanh tử (Samsàra). Kinh nghiệm
của ngài về cái siêu nhiên, do đó ngài đạt địa vị cao
quý ở đời, là sự chứng đắc giải thoát bằng cách "dập
tắt", tịch diệt, Niết-bàn.
Bất cứ ai gặp ngài
đều cảm thấy rằng người này vẫn ở trong thế
giới, nhưng không còn thuộc về thế
giới này nữa, và chính tuệ giác siêu phàm ấy đã
khiến ngài không bị nhiễm
ô giữa thế giới hiện tượng luôn biến chuyển.
"Này các Tỳ-kheo,
Như Lai (tức chính đức Phật) đã liễu ngộ thế giới và
đã giải thoát khỏi thế giới. Như Lai đã liễu ngộ
nguồn gốc của thế giới (và của khổ đau) và đã giải
thoát khỏi thế giới. Như Lai đã liễu ngộ sự đoạn
tận thế giới và đã tự mình chứng đắc sự đoạn tận
ấy. Như Lai đã liễu ngộ và thuyết giảng con đường đưa
đến sự đoạn tận thế giới. Bất cứ những thứ gì
trong thế giới từng được (do tri kiến giải thoát) thấy,
nghe, cảm nhận, thức tri, chứng đắc, tầm cầu, suy tư,
tất cả những thứ ấy đều được Như Lai liễu ngộ. Chính
vì lý do này, ngài được gọi là Như Lai". (AN
4. 23, giản lược)
"Này các Tỳ-kheo,
ta không tranh chấp với đời, chính đời tranh chấp với
ta. Người Thuyết Pháp không tranh chấp với bất cứ ai
giữa đời.
Bất cứ điều (kiến)
gì được người hiền trí bác bỏ, ta cũng đều bác bỏ.
Bất cứ điều (kiến) gì được người hiền trí chấp
nhận, ta cũng đều chấp nhận ...
Giống như một hoa sen
xanh hay trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong nước (và vì
có lớp màng phủ bên ngoài) nên không bị nước làm ô
nhiễm. Cũng vậy, Như Lai đã sinh trưởng trong đời, đã vươn
lên khỏi đời và an trú không bị đời làm nhiễm ô".
(SN 22. 94, giản lược)
Thật không có một nhà
huyền bí nào tự miêu tả đặc tính của mình chính xác hơn
thế nữa.
Lời đức Phật khẳng
định rằng ngài chỉ công nhận những quan điểm (kiến) nào
được người hiền trí công nhận đáng cho ta quan sát kỹ
lưỡng. Lời ấy dựa trên niềm tin vững chắc rằng Giáo
Pháp của ngài không phải là thứ triết lý do suy tư tạo
thành, mà phát xuất từ tuệ giác thực chứng và tượng trưng
chân lý khách quan. Ngài chắc chắn là bất cứ ai thể
nhập vào tri kiến uyên thâm về thế giới cũng sẽ xác
nhận Pháp chính là thực
tại đơn thuần, không gì khác.
Với niềm xác tín như
vậy, thật không lạ gì khi ngài xem các quan điểm khác
chỉ là tà kiến, hý luận vọng tưởng và nhận định vô
căn cứ (DN 1. 1. 29). Các vấn đề lý luận siêu hình như là
thế giới thường hằng hay vô thường (DN 1. 2), bản ngã (mà
ngài đã bác bỏ sự hiện hữu) là gì và có tồn tại sau
khi chết không (DN 1. 2. 38) và tương lai sẽ ra sao..., tất
cả những vấn đề đó ngài đều bài bác như những điều
vô ích. Chỉ một thứ tri kiến cần thiết: đó là giải
thoát tri kiến (DN 1. 3. 30).
Những kẻ khác có
thể đã công kích những lý thuyết mà họ xem là sai lầm,
và tranh luận với những ai giữ quan điểm ấy, song đức
Phật không làm như vậy, ngài có thái độ điển hình của
nhà huyền bí không "tranh chấp với ai ở đời":
Có người thường
nói với tâm sân,
Một số nói tâm hướng thật chân,
Ðể mặc cho người đời muốn nói,
Bậc hiền trí tịnh chẳng quan tâm.
(SNip 780)
Bậc trí tịnh tâm
thấy khắp nơi
Không còn thành kiến với người đời
Tử sinh, ngài đoạn trừ si, mạn,
Không chấp thủ gì, để ý ai.
Lắm kẻ bận tâm chuyện thế gian
Người không vướng bận, biết sao bàn?
Người không chấp nhận, không bài bác,
Rũ sạch mọi thiên kiến, chẳng màng.
(SNip 780-7)
Các từ
"kiến", "quan điểm", dịch từ "ditthi"
(Pàli) chỉ tất cả các quan điểm lý luận ở đời không
được thực chứng.
Kinh Ðiển Pàli ghi
lại nhiều trường hợp hễ đức Phật thấy một cuộc
tranh luận nào thiên về lý thuyết, thì ngài liền tìm cách
đưa đề tài ấy trở lại con đường thực tiễn đi đến
giải thoát. Trong các vấn đề tín ngưỡng, ngài là một người
chủ trương thực tiễn, như ngài đã giải thích cho
Tỳ-kheo Màlunkyaputta với ảnh dụ mũi tên độc. Màlunkya-putta
đã suy tư nhiều về đủ mọi vấn đề lý luận siêu hình
mà vị ấy đưa ra tham vấn đức Phật. Bậc Ðạo Sư đáp:
"Này Màlunkyaputta,
hỏi thế này cũng giống như trường hợp một người bị
bắn một mũi tên tẩm thuốc độc rất nặng. Bằng hữu người
ấy mời một y sĩ, song người bị thương ấy bảo: "Ta
không muốn nhờ nhổ mũi tên này ra cho đến khi ta biết rõ
tên họ, gia tộc người bắn cung, kẻ ấy cao hay thấp, da
đen, nâu, hay vàng, sống ở đâu, cây cung và dây cung ra sao,
mũi tên được làm bằng gì và loại lông chim nào kết vào
mũi tên. Này, Màlunkyaputta, người kia có thể chết trước
khi tìm được mọi câu giải đáp ấy". (MN
63, giản lược)
Lời khuyên nhủ tiến
hành theo cách thực tiễn, tiêu chuẩn làm phương tiện lợi
ích cho giải thoát, được đức Phật đưa ra cho dân chúng
thuộc bộ tộc Kàlàmas ở Kesaputta, một thị trấn nhỏ ở
vương quốc Kosala. Những người ấy hỏi ngài làm thế nào
phân biệt giả chân khi các Sa-môn, Bà-la-môn nói những điều
tương phản nhau. Ðức Phật bảo họ:
"Này các vị Kàlàmas,
đừng tin theo truyền thuyết, truyền thống, cũng đừng tin
theo những gì người ta thường nói hay uy quyền của kinh điển,
cũng đừng theo các lý luận siêu hình hay các lối suy
diễn, hoặc do thích thú một số học thuyết quan điểm,
hoặc vì cảm phục tài đức một bậc đạo sư. Nhưng đúng
hơn, khi nào chính chư vị nhận xét: "Các pháp này là
bất thiện, đáng chê trách, bị người trí chỉ trích và
nếu được thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau",
thì này các vị Kàlàmas, chư vị hãy bác bỏ chúng.
... Và khi chính chư
vị nhận xét: "Các pháp này thuần thiện đáng được
chấp nhận, được người hiền trí tán thán và nếu được
thực hiện, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc", thì này
các vị Kàlàmas, chư vị hãy chấp nhận chúng". (AN
3. 65, giản lược)
Tiêu chuẩn duy nhất để
đánh giá một lý thuyết là tính cách hữu hiệu của nó
đưa đến giải thoát: giá trị của nó nằm ở trong kết
quả nó đạt được. Nếu
giá trị giải thoát của nó đã được xác lập, thì người
ta phải tuân thủ nó.
Ðức Phật cũng thực
tiễn khi trình bày các khám phá mới của ngài, và chỉ
giới hạn những điều ngài khai thị cho phù hợp với cứu
cánh giải thoát. Có lần đang lúc ngài ngồi nghỉ gần
Kosambì dưới một khóm cây rừng Simsapà, tức cây Asoka (Saraca
indica) với các chùm hoa nở tuyệt đẹp, ngài nắm một
ít lá rụng trong bàn tay và hỏi:
"- Này các
Tỳ-kheo, cái nào nhiều hơn, nắm lá Simsapa trong tay ta, hay
đám lá trên các cây kia?
- Bạch
Thế tôn, chỉ có một ít lá trong tay Thế tôn, còn trên cây
kia thật nhiều lá.
- Cũng
vậy, này các Tỳ-kheo, có rất nhiều điều ta đã khám phá,
nhiều hơn hẳn những gì ta đã khai thị. Chỉ có một ít
điều ta đã khai thị mà thôi. Và tại sao ta lại không khai
thị các điều kia? Bởi vì chúng không có lợi ích, không
phục vụ đời Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham,
an tịnh, thắng trí, Giác Ngộ, Niết- bàn". (SN
56.12. 4 , giản lược)
Trong khi một số đạo
sư Ấn Ðộ tự xưng là có khả năng giải thoát cả thế
giới này, đức Phật Gotama nói rõ là chỉ những người nào
"biết lắng tai nghe" do có căn tánh nghiệp
lực thuận lợi, mới có thể được giải thoát. Ngài
thấy ngài chính là người hướng dẫn con đường đưa đến
giải thoát, song ngài không
thể bắt buộc những người được ngài chỉ đường
phải đi con đường ấy.
"Chỉ một số ít
đệ tử được ta thuyết giảng, chứng đắc cứu cánh
tối thượng, Niết-bàn. Những kẻ khác không chứng đắc
cứu cánh ấy... Có Niết-bàn, có con đường đưa đế
Niết-bàn và có ta là người chỉ đường. Nhưng trong các
đệ tử được ta thuyết giảng chỉ một số chứng đắc
cứu cánh, một số khác thì không. Ta biết làm gì được?
Ta chỉ là người chỉ đường". (MN
107 , giản lược)
TÍNH TÌNH
* ÐẶC TÍNH TÂM LÝ:
Từ, Bi, Hỷ, Xả
Ðức Phật bài bác
niềm tin của giai cấp Sát-đế-lỵ (võ tướng) khi ngài
dạy rằng các võ tướng chiến sĩ ngã xuống ngoài mặt
trận sẽ phải chịu một tái sanh bất hạnh vì nghiệp
lực. Do các hận sân của vị ấy tăng trưởng đối với
kẻ thù, một chiến sĩ chết trận có thể tái sanh vào Ðịa
ngục Saràjità, ngài tuyên bố như vậy (SN 42. 3). Mặc dù
sự trận vong của người anh hùng có ích lợi cho tổ
quốc, nó lại đem đến một tái sanh khổ đau cho người
tử sĩ.
Chủ trương hòa bình vô
điều kiện của đức Phật biểu lộ rõ ràng trong ba vần
kệ của Pháp Cú, ở đó ngài diễn tả bất bạo động là
phương tiện chấm dứt thù nghịch hận sân:
"Nó làm nhục tôi,
tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Hận thù như vậy chẳng hề nguôi.
"Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
Không chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Hận thù như vậy sẽ dần nguôi.
Các mối hận thù giữa thế gian
Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân,
Vô sân trừ khử niềm sân hận,
Ðịnh luật muôn đời của cổ nhân.
(Dhp 3-5)
Khi các tôn giáo của dân
bản xứ Ấn Ðộ bị người Hồi giáo đàn áp vào thế
kỷ thứ mười một và mười hai, hàng ngàn Tỳ-kheo chịu
để cho họ giết mà không kháng cự. Các nguồn kinh điển
Tây Tạng đã ghi nhận hành động tự điều phục bản thân
anh dũng ấy.
Vô sân là một lý tưởng
cao thượng nhưng lạnh lùng, nó cần được lòng từ (mettà)
bổ sung. Dù cho các tên trộm cướp sát nhân có chặt tay chân
của một Tỳ-kheo bằng cái cưa, các Tỳ-kheo cũng không được
để cho thù hận khởi lên trong lòng. Thậm chí ở trong hoàn
cảnh như vậy, chư vị cũng phải tự kiềm chế, và tự
nhủ:
"Tâm ta sẽ không
dao động, ô nhiễm và ta sẽ không thốt ra một ác ngôn nào.
Chúng ta sẽ an trú với từ tâm, không sân hận. Sau khi đã
làm thấm nhuần khắp người kia với từ tâm, chúng ta sẽ
an trú trong trạng thái ấy biến mãn cùng khắp thế
gian..." (MN 21. 1, giản
lược).
Ðức Phật chứa chan lòng
từ hướng đến mọi cảnh giới có sự sống trên thế
gian. Các nghề nghiệp tạo khổ đau cho người hay vật,
những "nghề ác độc" như: đồ tể, bẫy chim,
bắt thú, thợ săn, chài lưới, trộm cướp, đao phủ, cai
ngục (MN 51), ngài xem là đáng bài bác và không phù hợp
với chánh mạng. Ngài chán ngán tránh xa việc tế lễ bằng
súc vật và còn cảm thấy thương xót luôn cả loài cây
cỏ, như khi ngài phủ nhận việc phá hại hạt giống và
cỏ cây (DN 1. 1).
Từ tâm là đặc điểm
chính yếu trong tính cách của đức Phật, y sĩ Jìvaka tuyên
bố như vậy với ngài trong một cuộc đàm thoại (MN 55),
song chính điểm này đức Phật cũng chế ngự, không cho phép
nó vượt quá một giới hạn nào đó: Ngài không để cho mình
nhúng sâu vào lòng bi mẫn. Sự
thăng bằng trong tâm trí và ổn định mọi tình cảm là điều
quan trọng nhất đối với ngài, và đã trở thành một
phần bản tánh của ngài do tu tập điều thân.
Vì thế, những cuộc
tấn công tới tấp chĩa thẳng vào ngài mà vẫn không làm
ngài nao núng. Ngay cả các triết gia đối thủ với ngài cũng
công nhận Sa-môn Gotama không thể bị khiêu khích và cũng không
dao động. Người cư sĩ Ni-kiền-tử như đã nói ở trên đây,
Saccaka Aggivessana, tuyên bố khi cuộc thảo luận được
chấm dứt (MN 36), rằng "màu da Tôn giả Gotama vẫn
giữ nguyên vẻ trong sáng", nghĩa là ngài không đỏ
bừng mặt; còn các đạo sư khác, trong những lúc tranh
luận, thường tránh né các câu chất vấn bằng cách nói
lạc hướng và nổi giận.
Tâm bình thản hay xả (upekkhà)
phối hợp với trí thông minh lanh lợi biểu hiện trong cách
đức Phật đối xử với Bà-la-môn Bhàravadja ở Ràjagaha.
Bất mãn vì một người trong gia tộc quy y Phật Pháp, vị này
phỉ báng đức Phật với các từ ngữ như "đồ ăn
trộm, lạc đà, lừa...". Ðức Phật bình thản để
cho vị ấy nguyền rủa, rồi bỗng nhiên ngài hỏi vị ấy
thỉnh thoảng có mời bạn bè về nhà ăn cơm không. Khi được
trả lời là có, ngài hỏi tiếp vị ấy phải làm sao nếu
khách không dùng các món ăn. Vị Bà-la-môn đáp các món ấy
sẽ dành cho phần mình. Ðức Phật tuyên bố: "Thế cũng
giống hệt như lời phỉ báng kia, ta không nhận nó, vậy nó
trở lại với ông!"(SN 7. 1. 2).
Trong một Pháp thoại
với các Tỳ-kheo ở Jetavana tại Sàvatthi, bậc Ðạo Sư
diễn tả tính cách an nhiên tự tại của ngài và khích lệ
chư Tăng nỗ lực tu tập tâm bình đẳng tương tự:
"Này các Tỳ-kheo,
nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai,
trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn...
Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng, sùng bái Như Lai,
trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn
khởi". (MN 22)
Hằng chục mẫu
chuyện ghi lại các sự kiện trong Kinh Tạng Pàli xác nhận
cách biểu lộ đặc tính của ngài như trên.
Tuy nhiên có những trường
hợp đức Phật không đơn giản chấp nhận những lời người
khác nói, mà ngài bước ra khỏi thành trì kiên cố của tâm
xả và chuyển sang thế công. Ðó là trường hợp có vấn
đề bảo vệ Giáo Pháp chống lại sự xuyên tạc và diễn
dịch sai lạc do các đệ tử ngài đề xướng. Giáo Pháp là
một khám phá vĩ đại của ngài, đó là công trình và
tặng vật của ngài dành cho thế gian; ngài không chấp
nhận sự có mặt của các Tỳ- kheo xuyên tạc Giáo lý do vô
tình hoặc ác ý trong Giáo đoàn của ngài, mà phận sự Giáo
đoàn là truyền đạt lời giáo huấn của ngài cho các thế
hệ sau. Khi Tỳ-kheo Sàti diễn tả Giáo Pháp theo ý nghĩa
rằng thức (viñ ñ ana) tồn tại mãi sau khi thân hoại
và mang một hình thái sống mới, như vây là tạo nên một
linh hồn bất tử, bậc Ðạo Sư cho gọi vị ấy đến và
hỏi xem có phải đấy là ý kiến của vị ấy không. Khi
Tỳ-kheo Sàti xác nhận là phải, đức Phật cao giọng bảo:
"Này kẻ ngu si kia
(moghapurisa), do ai mà ông nghe rằng ta đã thuyết giảng Giáo
Pháp như vậy? Này kẻ ngu si kia, ta đã chẳng từng dùng
nhiều pháp môn nói rằng thức do duyên khởi (và vì thế không
thể tồn tại mãi sau khi chết) hay sao? Này kẻ ngu si kia, ông
không chỉ xuyên tạc ta vì chấp thủ sai lạc, mà tự còn làm
hại mình và tạo nhiều điều tổn đức đưa đến bất
hạnh lâu dài!" (MN 38)
Sau đó ngài tiếp tục
hỏi các Tỳ-kheo hiện diện để chư vị xác nhận rằng
Tỳ-kheo Sàti, con người đánh cá, không có một chút ánh sáng
kiến thức nào về Giáo Pháp cả. Chúng ta chỉ còn biết thương
hại vị Tỳ-kheo tội nghiệp ấy, theo như bài kinh miêu
tả, đã ngồi im lặng, hổ thẹn, lo âu, rụt vai lại, không
nói nên lời.
Tỳ-kheo Arittha, trước
kia là người huấn luyện chim ưng, cũng không tiến bộ gì
hơn. Vị này hiểu Giáo Pháp theo ý nghĩa là các hành động
được đức Phật xem là chướng ngại pháp chẳng
bao giờ đưa đến khổ ưu cả. Vị này cũng bị bậc Ðạo
Sư khiển trách là "kẻ ngu si" (MN 22). Ðiều
đáng chú ý là trong cả hai trường hợp này Kinh Ðiển
nhắc đến nguồn gốc hèn kém của các Tỳ-kheo bị quở
mắng như vậy. Hình như là đức Phật chỉ mong những người
thiếu học vấn cố rèn luyện các đức tính theo giới
hạnh, chứ không mong có nhiều khả năng trí tuệ.