Chương II
528 trước
CN
Thành lập Giáo Hội và khởi đầu Hoằng Pháp
-oOo-
NHỮNG
BÀI THUYẾT PHÁP ÐẦU TIÊN
Theo truyền thống, đấng
Giác Ngộ trẻ tuổi sống bảy ngày đầu tiên sau khi thành đạo
dưới cội bồ-đề để hưởng "giải thoát lạc"
(Mv1.1.1). Ta có thể nhận điều này đúng sự thực, vì nền
tảng giáo lý đang cần bổ sung nhiều đặc điểm chi tiết,
đồng thời một tâm trạng vừa hân hoan, vừa lưu luyến thân
tình có lẽ đã giữ bậc Giác Ngộ ở nán lại địa điểm
đầy ý nghĩa như vậy đối với ngài. Ta ít tin hơn vào câu
nói rằng sau bảy ngày dưới cội bồ đề, ngài lại sống
thêm bảy ngày nữa dưới một số gốc cây khác ở Uruvelà.
Dưới gốc Ða Mục Tử (Ficus Indica) ngài giải thích cho
một Bà-la-môn hỏi ngài về bản chất thực sự của đạo Bà-la-môn,
giáo lý bao gồm trong một đời sống đạo đức thanh tịnh và
tinh thông kinh Vệ-đà (Mv1.2).
Càng có vẻ huyền
thoại hơn nữa là sự kiện được xem như đã xảy ra vào
tuần thứ ba sau khi Giác Ngộ, dưới gốc cây mucalinda (Barringtonia
acutangula). Theo Ðại Phẩm (Mv 1. 3), khi một cơn bão báo
hiệu gió mùa nổi lên, con rắn hổ mang sống dưới gốc cây
cuộn mình quấn quanh ngài và che ngài khỏi bị mưa bằng
chiếc mào mở rộng. Nguồn gốc chuyện này có thể là con
rắn ấy bị nước mưa tràn vào lỗ phải bò ra nằm sát trước
vị Sa-môn này, nhưng không làm hại ngài.
Từ cây mucalinda đức
Phật đi đến cây ràjàyatana (Buchanania latifolia) và cũng
ở lại dưới gốc cây ấy một tuần. Chính tại đây, hai thương
nhân Tapussa và Bhallika đang du hành từ Ukkalà (thuộc Orissa?) có
lẽ đến Ràjagaha, cúng dường ngài cháo mạch và mật ong để
"tạo thêm an lạc và phước đức". Ngài dùng thực
phẩm cúng dường ấy và hai vị thương nhân kia "quy y
bậc Giác Ngộ cùng Giáo Pháp của ngài" - Giáo Pháp mà
lúc ấy ngài chưa tuyên bố - và như vậy đã trở thành các
đệ tử tại gia đầu tiên của ngài (Mv. 1.4).
Tuần thứ năm sau khi Giác
Ngộ, ngài lại đến ở một lần nữa dưới bóng mát cây Ða
Mục Tử. Có thể do lời thỉnh cầu giáo hóa của Tapussa và
Bhallika gợi ý, ngài suy xét xem có nên giữ giáo lý cho riêng
ngài hay tuyên thuyết cho người đời vì "giáo
lý ấy thật thâm áo, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực
nghiệm, tuyệt diệu, không phải do lý luận, tế nhị, chỉ
người có trí thấu triệt được mà thôi".
Kinh Ðiển Pàli (Mv1.5 và
MN 26) ghi lại các mối hoài nghi này theo hình thức một cuộc
đối thoại với Phạm Thiên Sahampati (Tự Tại Thiên, Ta-bà
Chủ). Rõ ràng đức Phật muốn làm cho sự xung đột giữa các
tư tưởng nội tâm ngài trở thành dễ hiểu, nên đã sử
dụng hình ảnh vị Phạm Thiên lừng danh này để trình bày
những tranh luận đối lập nhau khi ngài do dự thuyết Pháp. Dĩ
nhiên, ngài cũng như đa số các người đương thời, vẫn tin
có các thần linh (các vị này cũng phải chịu sanh tử luân
hồi theo luật tự nhiên của mọi loài). Song việc chính ngài
thấy rõ tận mắt vị Phạm Thiên ấy một cách linh động như
các kinh điển tuyên bố, có lẽ do sự diễn giải của chư
Tỳ-kheo về sau.
Trong cuộc "đối
thoại" tiếp theo đây được rút gọn vào các điểm
chính yếu, các lý luận thiên về đời sống an tịnh cá nhân
đối lập với lý luận vị tha quên mình, và các lý luận
sau đã thắng các lý luận trước.
Ðức Phật bảo: "Thế
giới này thích thú dục lạc, song Giáo Pháp (Dhamma) của ta hướng
đến viễn ly, ly tham, ái diệt. Giả sử ta thuyết giảng Giáo
Pháp này, tức phải đi ngược dòng, và người đời không
hiểu được ta, điều ấy sẽ gây nhọc lòng cho ta".
Phạm Thiên đáp: "Thế
giới sẽ hủy diệt nếu đấng Toàn Giác không quyết định
thuyết Pháp. Do vậy, cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết Pháp.
Có những người ít nhiễm bụi trong mắt, nếu không được
nghe Pháp, chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng nghe Pháp, chúng
sẽ đạt giải thoát".
Lý luận của Phạm Thiên
gợi lên lòng bi mẫn của đức Phật đối với chúng sanh và
cùng với tiếng gọi lớn: "Các cửa Bất tử đều
rộng mở cho những ai muốn nghe", ngài đồng ý
thuyết Pháp. Vị Phạm Thiên hân hoan đảnh lễ đức Phật,
đi vòng quanh ngài với thân hướng về phía hữu theo nghi
thức Ấn Ðộ, rồi biến mất. Như thế các Thiên thần cũng
biết cách giữ lễ độ đối với một bậc Giác Ngộ.
Khi đang suy xét xem ngài
nên giảng Pháp đầu tiên cho người nào, đức Phật nghĩ
ngay đến những vị có thời từng là Ðạo Sư của ngài: Àlàra
Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi biết rằng cả hai đều từ
trần, ngài liền nghĩ đến năm vị đồng tu khổ hạnh với
ngài thuở trước, mà ngài biết bấy giờ chư vị đang trú
tại Lộc Uyển (Vườn Nai) ở Isipatana (Chư Tiên Ðọa Xứ)
gần Benares (Ba-la-nại) hay Vàrànasi. Ngài biết chư vị ấy
sẽ nhanh chóng thông hiểu giáo lý. Trong niềm hân hoan chiến
thắng vì đã có sẵn phương tiện độ sanh trong tay, cùng
quyết định dâng trọn đời mình cho sứ mạng cao cả này,
ngài khởi hành đến Benares. Nếu ta xét rằng ngài phải
khất thực mỗi buổi sáng và cái nắng gắt buổi trưa thật
bất tiện cho việc đi bộ, thì ta phỏng đoán ngài phải
cần ít nhất là mười bốn ngày cho cuộc hành trình dài 210
km này (theo đường chim bay).
Khoảng giữa Uruvelà và
Gayà, ngay sau khi ngài khởi hành, ngài gặp một du sĩ lõa
thể tên Upaka nào đó thuộc phái Àjivika, là người chủ trương
thuyết định mệnh cực đoan. Vẻ hân hoan nội tâm tỏa ra trên
khuôn mặt sáng chói của ngài khiến vị này chú ý và hỏi
ai là Ðạo Sư của ngài và Giáo Pháp ngài như thế nào. Ðức
Phật đầy tự tin tuyên bố ngài đã được giải thoát
nhờ ái diệt, ngài là vị thắng giả chiến trường, vì
vậy ngài không có Ðạo Sư, mà chính ngài là bậc Ðạo Sư.
Nghe điều này, Upaka cũng không cảm phục và nói: "Có
thể là như vậy, thưa hiền giả" rồi lắc đầu rẽ
vào một con đường khác bên cạnh. (Mv1.6; MN 26, MN 85). Các nhà
kiết tập Kinh Tạng Pàli đã có thể dễ dàng cắt bỏ tiểu
đoạn này vì nó làm hỏng phần nào hình ảnh của đức
Phật. Song chư vị đã không làm như vậy chứng tỏ lòng tôn
trọng sự thật lịch sử.
Còn các vị Kondañña,
Bhaddiya, Vappa, Mahànàma và Assaji thật bất mãn khi thấy Sa-môn
Gotama, người bạn đồng tu cũ trước kia đã rời bỏ chư
vị, nay lại đi đến gần Vườn Nai ở Isipatana. Quả thật
chư vị đã đồng lòng không chào hỏi cũng không đứng lên
đảnh lễ ngài. Song khi ngài đến gần, chư vị đã bị chinh
phục trước vẻ cao quý của một bậc giải thoát khiến chư
vị đều cư xử với ngài vô cùng kính cẩn. Chư vị cầm
lấy bình bát và thượng y của ngài, sửa soạn chỗ ngồi
cho ngài, rửa chân ngài và xưng hô "Hiền giả" (Àvuso)
với ngài theo thói quen. Song đức Phật bác bỏ cách xưng hô
này:
"Này các Tỳ-kheo, đừng
gọi Như Lai (Tathàgata: Bậc Ðến Như Vậy) là "Hiền
giả" (như một trong các vị). Này các Tỳ-kheo, Như Lai là
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". (Mv1.6.12
; MN 26)
Một bậc Giác Ngộ tượng
trưng một hạng người độc nhất, trên thực tế vẫn có hình
dáng bề ngoài như mọi người, cũng phải chịu biến hoại
về thể chất (do kết quả của tiền nghiệp chưa tiêu
trừ), song vị ấy không còn bị trói buộc vào vòng luân
hồi sanh tử. Bao lâu ngài chưa đắc Niết-bàn vô dư y tối
hậu (đại diệt độ), ngài vẫn sống như một bậc giải
thoát ở đời, song nội tâm không còn tham luyến đời, buông
xả đối với đời. Mọi kiết sử ràng buộc từ gia đình
đến xã hội, đều bị ngài cắt đứt.
Lời tuyên bố đã khám
phá con đường đưa đến Bất Tử tức con đường Giải thoát,
đã Giác Ngộ Chân Lý và chứng đắc Pháp (Dhamma) của
ngài lúc ấy được năm nhà tu khổ hạnh, bạn đồng tu cũ,
đáp lại với vẻ hoài nghi. Chư vị hỏi, làm thế nào một
người đã từ bỏ khổ hạnh để chọn đời sống sung túc
lại có thể chứng đắc Chân Lý? Ðức Phật giải thích
rằng ngài chẳng hề tham đắm đời sống sung túc, và để làm
sáng tỏ mọi việc, ngài thuyết giảng một bài kinh (sutta)
cho chư vị, bài kinh danh tiếng Chuyển Pháp Luân, khởi
đầu sự nghiệp hoằng Pháp của ngài. Bài kinh trình bày Pháp
(Dhamma) là Trung Ðạo, và nêu lên hệ thống Bốn
Chân Lý: đó là một căn bản hợp lý chứa đựng đầy
đủ các lời dạy tinh vi:
"Có hai cực đoan, này
các Tỳ-kheo, mà người xuất gia không nên hành trì. Ðó là
hai cực đoan nào? (Một mặt) đắm mình vào dục lạc, thấp
kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không
ích lợi. (Mặt khác) chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ
đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không ích lợi.
Này các Tỳ-kheo, Như Lai
đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung Ðạo chính là
con đường khiến cho ta thấy và biết (tác thành nhãn và trí),
con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, Giác Ngộ, Niết-bàn.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh
đế về Khổ (Dukkha): sanh là khổ, già là khổ, bệnh là
khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; thân
cận những gì ta không thích là khổ, xa lìa những gì ta
thích là khổ, cầu không được là khổ; tóm lại, ngũ
thủ uẩn (tạo thành một cá nhân sống thực) là khổ.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh
đế về Nguồn gốc của Khổ (Samudaya): Ðó chính là khát
ái (tanhà) đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm
thấy lạc thú chỗ này chỗ kia: đó là Dục ái (Kàmatanhà),
Hữu ái (bhavatanhà) và Phi hữu ái (Vibhavatanhà).
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh
đế về Khổ Diệt (Nirodha) chính là sự đoạn trừ,
diệt tận hoàn toàn khát ái đó, quăng bỏ nó, chấm dứt
nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh
đế về Con Ðường đưa đến Khổ Diệt (Magga). Ðó là
Thánh Ðạo Tám Ngành tức là:
Chánh Kiến (Sammà-Ditthi)
Chánh Tư duy (Sammà-Sankappa)
Chánh Ngữ (Sammà-Vàcà)
Chánh Nghiệp (Sammà-Kammanta)
Chánh Mạng (Sammà-Àjìva)
Chánh Tinh tấn (Sammà-Vàyàma)
Chánh Niệm (Sammà-Sati)
Chánh Ðịnh (Sammà-Samàdhi)
(Mv1.6.17, 19, 22 = SN 56.
11. 5 - 8)
Năm vị tôn giả hết
sức chú tâm lắng nghe lời ngài, và ngay khi ngài thuyết
giảng, tôn giả Kondañña đã quán triệt Giáo Pháp: "những
gì chịu qui luật sinh khởi đều phải chịu qui luật hoại
diệt". (Mv. 1. 6. 29) Sau đó, tôn giả liền xin đức
Phật nhận làm đệ tử và đức Phật lấy phương ngôn: "Ðến
đây, này Tỳ-kheo, Giáo Pháp đã được khéo giảng, hãy sống
đời Phạm hạnh (thanh tịnh) để đoạn tận khổ đau" để
nhận tôn giả làm một Tỳ-kheo (Bhikkhu) (Mv 1. 6 . 32). Như
vậy tôn giả Kondañ ñ a là vị Tỳ-kheo đầu tiên trong lịch
sử Phật giáo, và sự thọ giới của tôn giả đánh dấu
khởi điểm của Tăng đoàn (Sangha) tồn tại cho đến ngày
nay.
Trong các nước Châu Á
theo đạo Phật, lễ "Chuyển Pháp Luân" được cử hành
hằng năm vào ngày rằm tháng Àsàlhà (tháng 5-6) như vậy
khoảng hai tháng âm lịch (56 ngày) được xem là đã trôi qua
giữa thời đức Phật Thành Ðạo tháng Vesàkha và thời
thuyết Pháp tại Isipatana.
Chẳng bao lâu lời dạy
của đức Phật đã khiến cho tôn giả Vappa và Bhaddiya hiểu Pháp
(Dhamma) và hai vị cũng được nhận làm Tỳ-kheo. Trong lúc
chư Tỳ-kheo (nghĩa đen là Khất sĩ) Kondañ ñ a, Vappa và Bhaddiya
đi khất thực để cung cấp thức ăn cho cả nhóm, bậc Ðạo Sư
thuyết giảng riêng cho tôn giả Mahànàma và Assaji. Trong chốc lát,
chư vị cũng đắc tri kiến cần thiết (của bậc Nhập lưu) và
xin thọ giới (Mv1. 6.33-7). như vậy đã có sáu Tỳ-kheo trên
thế gian - đức Phật và năm đệ tử của ngài.
Vài ngày sau lễ thọ
giới của năm vị đệ tử, đức Phật dạy chư vị bài Pháp
về Vô Ngã (Mv1.6.38-46; SN 22.59). Ðiều đáng chú ý là bài Pháp
này nêu lên một ý tưởng chưa hề được gợi lên vào thời
Giác Ngộ hoặc thời Pháp ở Isipatana, và ý tưởng này thực
sự gây kinh ngạc trong một hệ thống giáo lý hướng về tinh
thần: phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn. Ðiều này
chứng tỏ đức Phật đã phát triển phương diện triết lý
trong Pháp của ngài từ khi Thành Ðạo.
Kinh Vô Ngã Tướng bắt đầu
từ sự thừa nhận rằng mỗi cá thể thực sự gồm có năm
uẩn - chỉ có năm - (khandha) thành tố, tức là sắc,
thọ, tưởng, hành (sankhàra) và thức. Vì ở Ấn Ðộ,
bản ngã, linh hồn (atta hay àtman) luôn ám chỉ một cái gì
thường hằng, vĩnh cửu tồn tại sau khi chết, còn ngũ uẩn thì
không có gì thường hằng vĩnh cửu cho nên phải kết luận là
không có uẩn nào chứa đựng một linh hồn cả. Trong ngũ uẩn
kết hợp thành một cá nhân toàn vẹn có đời sống tâm lý
hay tinh thần, song không có một linh hồn theo nghĩa một thực
thể trường cửu: cá nhân là
vô ngã (anatta), không có linh hồn.
Một lý luận thứ hai hỗ
trợ lý luận đầu tiên. Tính chất biến đổi và hoại diệt
của ngũ uẩn khiến chúng gây khổ đau (dukkha) và một
vật gây khổ đau, (và không làm thỏa mãn) không thể là một
linh hồn trường cửu.
Khi năm Tỳ-kheo nghe lời
thuyết giảng này của đức Phật, tâm của chư vị thoát
khỏi mọi lậu hoặc (àsava) đưa đến tái sanh, và do
vậy, chư vị trở thành các bậc Thánh (A-la-hán)
(Mv1.6.47). Tri kiến của chư vị về Giáo Pháp cứu khổ bấy
giờ cũng trở thành mênh mông, sâu thẳm như tri kiến đức
Phật, chỉ khác ngài ở điểm nguồn gốc tri kiến ấy mà thôi.
Về phương diện giáo lý, một đức Phật được định nghĩa
là vị tự tìm ra con đường giải thoát cho mình, trong khi một
bậc A-la-hán được giải thoát nhờ nghe Pháp thuyết giảng.
(SN 22. 58)
Sự đắc quả tương đối
dễ dàng của năm vị đầu tiên cũng như nhiều vị Tỳ-kheo và
cư sĩ về sau đã khiến cho nhiều người đọc Kinh Ðiển nghĩ
rằng quần chúng thời đức Phật có sẵn căn cơ hướng đến
tuệ giác nhiều hơn chúng ta thời nay. Ðiều này cũng có thể
xảy ra, vì trong lịch sử thế giới có thể thấy nhiều thời
kỳ tinh thần thăng tiến hay suy giảm.
Một lý do khác để giải
thích sự kiện thường tuyên bố đắc quả A-la-hán là người
Ấn Ðộ cổ đại vẫn có niềm tin chắc rằng nhận thức và
chứng đắc là một: Bất cứ ai quán triệt Tứ Thánh Ðế và
theo Thánh Ðế thứ hai, ai nhận thức chính tham ái (tanhà)
là nguyên nhân tái sanh và đau khổ, liền đoạn tận tham ái
nhờ tri kiến ấy và như vậy là trở thành một bậc A-la-hán.
Ngày nay, chúng ta ít lạc quan hơn về hiệu năng của nhận
thức ấy.
SÀRNÀTH,
ÐỊA ÐIỂM KHẢO CỔ
Sarnàth giống như một
ốc đảo thanh bình nằm kế cận tiếng còi xe điện ồn ào và
tiếng chuông xe kéo leng keng ở Benares. Thành phố tấp nập này
của Ấn giáo chỉ cách 8km với cảnh yên tĩnh của Lộc Uyển
(Migadàya) ở Isipatana, nay tên là Sàrnàth (Sanskrit: Sàranganàtha:
Lộc Vương), song ở đây, phong cảnh trông thật khác hẳn -
trật tự và trang nghiêm. Ðoạn cuối con đường nhựa được
viền với những hàng cây xoài rậm rạp và cây me hùng vĩ. Khuôn
viên có tường đá bao quanh được Ban Khảo Cổ Ấn Ðộ chăm
sóc cẩn thận. Giữa các quần thể di tích là các sân cỏ điểm
lấm tấm những chùm hoa giấy tím đỏ khắp nơi.
Ngôi đền nổi bật nhất
ở Sàrnàth là Ðại Tháp Dhamekh cao 44m, một tháp tròn, đường
kính 27m dựng trên một bệ đá, xây bằng gạch với nhiều nơi
có hình đá chạm trổ trang hoàng, khoảng giữa hẹp dần lên
đến 2/3 đường kính đáy. Tất cả tháp này gồm nhiều mái
che và hình thẳng mở rộng ra từ một tháp nhỏ bằng gạch và
đất sét thời vua Asoka (thế kỷ thứ ba trước CN).
Nguồn gốc danh từ Dhamekh
được tranh luận mãi cho đến khi khám phá ra một tấm bia ký
bằng gạch nung của người mộ đạo mới ổn định vấn đề
này. Chữ khắc trên bia ghi tên tháp là Dhamàka (Skt:
dhammacakra), nghĩa là nó đánh dấu nơi đức Phật thuyết
giảng cho năm Tỳ-kheo đầu tiên: Chuyển Pháp Luân (Pàli:
Dhamma-cakka). Những người hành hương chiêm bái tháp này, cũng
như mọi tháp khác đều được xây đặc bên trong, vì vậy không
vào được, chỉ còn cách đi vòng quanh về phía hữu, một
phong tục Ấn Ðộ bày tỏ lòng tôn kính các bậc cao trọng.
Vượt qua các di tích đền
tháp cổ, khách hành hương đi từ Ðại Tháp Dhamekh đến ngôi
đền chính ở Sàrnàth, có các tường gạch dày 2m, cao 5m.
Nhận xét theo vẻ xây dựng kiên cố và lời tường thuật
của Pháp sư Huyền Trang, ngôi cổ tháp hẳn đã cao chừng 60m.
Di tích các bức tường bao quanh một vùng rộng 13m x
13m. Ðây là nền trong của chánh điện mà theo lời ngài
Huyền Trang miêu tả vào thế kỷ thứ bảy, đã bài trí một tượng
Phật bằng kim loại. Có lẽ ngôi đền xuất hiện khoảng thế
kỷ thứ hai hay thế kỷ thứ ba (sau CN) ngay trên vị trí ngày xưa.
Năm vị Tỳ-kheo dựng một am thất bằng lá dành cho bậc Ðạo
Sư, nơi ấy ngài an cư mùa mưa năm 528 trước CN. Ðịa điểm này
là nơi hành thiền thuận lợi đối với các khách chiêm bái
từ Sri Lanka, Miến Ðiện, Thái Lan. Thường các sư Tây-Tạng
mang y đỏ tía cũng đến đây hành lễ Pùja hoặc tưởng niệm
bậc Ðạo Sư với 108 lần khấu đầu đảnh lễ và thắp đèn
dầu cúng Phật.
Về phía tây chánh điện,
du khách thấy một trụ đá thẳng ghi sắc dụ của Ðại đế
Asoka (thế kỷ thứ ba trước CN). Trụ đá có đáy dày 70cm và
phần trên dày 55cm, xưa cao 16m, nay đã vỡ thành nhiều mảnh vì
hậu quả cuộc tàn phá Benares và Sàrnàth của tướng
Qutb-ud-Din năm 1194. Phần đầu trụ đá này ở trong bảo tàng
địa phương, là một cổ vật danh tiếng, có hình tượng bốn
con sư tử điêu khắc tinh xảo ngồi đối lưng nhau, vì cũng như
sư tử có tiếng rống lớn nhất giữa muôn loài, vang dậy tứ
phương, đức Phật là bậc Ðạo Sư vang danh đệ nhất trong
thời ngài và ngài hoằng Pháp khắp mọi hướng.
Ðầu trụ đá hình sư
tử ngày nay là quốc huy của Cộng hòa Ấn Ðộ, và bánh xe 24
nan hoa hiện diện bốn phía ở đế của đầu trụ đá - là
biểu tượng của Phật Pháp và của nền cai trị công chính -
ngày nay hiện diện trên quốc kỳ Ấn Ðộ.
Sắc dụ của hoàng đế
ghi bằng chữ Bràhmì trên một phần trụ đá còn tồn tại
thật ra không thích hợp với vẻ tôn nghiêm của thánh địa này.
Sắc dụ ấy cảnh báo Tăng chúng và Ni chúng đề phòng sự
chia rẽ Giáo hội cùng ra lệnh cho những kẻ gây bất hòa
phải mặc bạch y thay vì hoàng y của Giáo hội và phải rời
Giáo hội. Ðệ tử cư sĩ phải tuân giới luật vào các ngày
trai giới (Bố-tát: Uposatha) tức các ngày mồng một,
mồng tám (trăng non), ngày rằm trăng tròn và ngày hai mươi ba
ở giữa nửa tháng sau (23).
Vì sắc dụ không đề
cập các sự kiện thuyết pháp đầu tiên ở Isipatana, nên người
ta đã kết luận rằng cột đá được mang đến Sarnàth từ
một nơi nào đó. Nội dung sắc dụ phù hợp với việc thời xưa
nó đã được đem đến từ Kosambì.
Cách phía nam ngôi đền và
trụ đá Asoka độ vài mét, du khách thấy một nền cao hình tròn.
Ðây là nền Bảo Tháp Dharmaràjika, xưa cao 30m với một lan can
bằng đá. Bảo tháp này cũng do vua Asoka dựng lên, nay chỉ còn
sót một vài lớp gạch. Phần kia đã bị Jagat Singh, đại
thần của tiểu vương Chet Singh ở Benares phá hủy để lấy
gạch năm 1794. Trong lúc triệt hạ ngôi tháp, họ tìm được
một bình đá tròn ở khoảng 9m dưới đỉnh tháp, đựng một
hộp thánh tích bằng cẩm thạch, hộp này giữ một phần tro xá-lợi
Phật mà vua Asoka đã rước về từ nơi hỏa táng nguyên thủy
đến Sàrnàth với mục đích là nơi đức Phật Sơ Chuyển Pháp
Luân và thành lập Tăng đoàn cũng hưởng phần xá-lợi. Còn đại
thần Jagat Singh lại giải quyết phần xá-lợi theo kiểu Ấn Ðộ
giáo: Ông truyền lệnh làm lễ rải tro trên sông Hằng.
Tuy nhiên việc phá hủy
Bảo Tháp Dharma-ràjika và khám phá xá-lợi Phật cũng có mặt
thuận lợi. Bản tường thuật về Bảo Tháp của Anh kiều
tại địa phương này đã khiến công chúng quan tâm vùng Sàrnàth
đưa đến việc điều tra di tích khảo cổ ở đây.
PHÁT
TRIỂN GIÁO HỘI
Từ Lộc Uyển ở Isipatana
(Sàrnàth ngày nay), đức Phật ít thích đến viếng thành phố
Benares. Ngoài khoảng cách chừng một giờ rưỡi đi bộ, còn
phải băng qua sông Varunà, (nay là Barnà) và phải di chuyển
bằng phà có trả tiền là thứ mà một khất sĩ không cất
giữ! Nhất là dân Benares thường chống đối đám du sĩ hành
khất nên khó kiếm được thực phẩm bố thí ở đó.
Tuy nhiên, mối liên lạc
với Benares đã được thiết lập sẵn dành cho đức Phật mà
không cần ngài phải làm gì cả. Việc đó là do thanh niên Yasa
(Da-xá), nam tử của một thương nhân hào phú, chủ tịch một
nghiệp đoàn ở Benares, có lẽ là chủ ngân khố hoặc thương
nhân tơ lụa bán sỉ. Yasa là một thanh niên được nuông chìu
mọi mặt quá thỏa mãn với cuộc sống truy hoan đã làm cho
nội tâm chàng trống rỗng. Kinh Ðiển Pàli (Mv1.7) nhắc đến
ba ngôi nhà chàng ở theo từng mùa, đám nữ vũ công bao vây chàng,
song chàng vẫn hờ hững dửng dưng, cùng đôi hài bằng vàng -
có lẽ được thêu chỉ bằng vàng - mà chàng mang thuở đó.
Do vậy chàng Yasa chán ngán
đời sống gia đình đầy xa hoa, với tâm trạng bất mãn, một
sáng sớm kia đến viếng Vườn Nai ở Isipatana, đảnh lễ đức
Phật và kính cẩn ngồi xuống cách ngài một khoảng. Ðức
Phật nhận ra vẻ chán chường cuộc sống thế tục ở thanh niên
này, bèn thuyết giảng cho chàng một bài Pháp "thuận
thứ". Phương pháp này chứng tỏ tài năng giảng dạy của
ngài, lần đầu tiên ngài ứng dụng với Yasa, gồm cách trình
bày trước hết các vấn đề dễ hiểu như bố thí, trì
giới, cõi Thiên và sự bất lợi của dục lạc.
Nếu người nghe có khả năng
thọ giáo thêm, ngài sẽ tiếp tục thuyết giảng Tứ Thánh Ðế,
đó là chân lý về khổ, khổ tập, khổ diệt và con đường
chấm dứt khổ. Phương pháp sư phạm này chứng tỏ hiệu quả
tức thời đối với Yasa. Chàng đắc "Pháp nhãn vô
trần ly cấu" tức là thấy "bất cứ vật gì
chịu quy luật sanh khởi đều phải chịu quy luật hoại
diệt". (Mv1.7.6)
Trong lúc ấy, mẫu thân chàng
Yasa đang lo âu về con trai bà nên xin chồng bà đi tìm con. Vì
thế phụ thân chàng cũng đến Vườn Nai và hỏi đức Phật
về con trai mình. Thay vì đáp thẳng, đức Phật bảo ông ngồi
xuống, rồi cũng thuyết giảng "bài Pháp thuận thứ"
của ngài vừa chứng tỏ thành công với chàng Yasa. Song vì
phụ thân chàng Yasa quá lo âu nên không thể thọ giáo thêm
nữa, ngài chỉ giảng cho ông nghe phần đầu dễ hiểu trong Giáo
Pháp. Lập tức phụ thân chàng Yasa xin quy y Phật, Pháp, Tăng và
xưng mình là cận sự nam cư sĩ (Upàsaka). Như vậy, sau
Tapussa và Bhallika, ông là đệ tam cư sĩ tại gia của Giáo hội
Phật giáo, mặc dù ông là người đầu tiên được giáo hóa
với phương thức Tam Quy Phật, Pháp, Tăng vẫn còn tồn tại đến
ngày nay.
Cuối cùng, thân phụ chàng
Yasa mới nhận thấy con trai ông đang ngồi trong hội chúng vây
quanh đức Phật, và ông van xin chàng trở lại nhà vì mẹ già
đang ưu phiền về chàng. Song chàng Yasa nhìn đức Phật với
vẻ khẩn cầu tha thiết khiến ngài bảo rằng một người đã
khinh chê cuộc sống thế gian như Yasa không thể tiếp tục
sống đời cũ nữa.
Thân phụ Yasa đành chấp
nhận lý luận của ngài, song ông thỉnh Phật đến thọ thực
ngày hôm sau có Yasa theo hầu. Ðức Phật im lặng nhận lời, đó
là cách bày tỏ đồng ý thông thường trong đạo Phật - có
lẽ đi kèm với một dấu hiệu chấp nhận vẫn thịnh hành đến
nay, là vẽ hình số 8 nằm ngang với chiếc cằm.
Ngay sau khi phụ thân ra
về, thanh niên Yasa xin thọ giới Tỳ-kheo. Ðức Phật nhận
lời thỉnh cầu của chàng và chẳng bao lâu Tỳ-kheo Yasa đắc
Thánh quả A-la-hán, "Giờ đây có bảy vị A-la-hán trên
thế gian". (Mv1.7)
Mặc dù chuyện này mang tính
khích lệ đạo đức, đó cũng là một truyền thuyết cảm động
của thời ấy. Không những nó nêu rõ ước vọng tâm linh tha
thiết xâm chiếm tâm hồn dân Ấn ở thế kỷ thứ sáu trước
CN đã khiến cho vô số người rời bỏ nhà cửa trang trại để
phiêu lưu trên đường đời khất sĩ vô định, nó còn cho ta
thấy nỗi đau lòng mà cha mẹ, đôi khi cả vợ con nữa, phải
chịu đựng trước cảnh chia ly với con, chồng, cha họ.
Buổi cơm cúng dường mà
thân phụ chàng Yasa thỉnh mời đức Phật, Ðạo Sư của ông và
chính cả con trai ông nữa, diễn ra sáng hôm sau. "Ðược
tôn giả Tỳ-kheo Yasa theo hầu", bậc Ðạo Sư lên đường
tiến về nhà song thân tôn giả , và được mẫu thân và
"nguyên hiền phụ" của tôn giả nghênh tiếp. Sau khi
hai bà này thọ giáo bài Pháp thuận thứ với đầy đủ chi
tiết của đức Phật, hai bà liền quy y Tam bảo, như vậy đã
trở thành các nữ đệ tử cư sĩ đầu tiên, các cận sự nữ
(Upàsikà) của đức Phật. Kế đó, cùng với phụ thân tôn
giả, hai bà phục vụ chư Tăng suốt buổi thọ thực (Mv1.8)
Việc tôn giả Yasa xuất
gia đầu Phật đã gây nhiều tiếng vang lớn. Sự kiện một giáo
lý hướng nội thúc giục một chàng thanh niên chán hưởng
thụ rời bỏ đời sống đầy lạc thú để trở thành một
Sa-môn khất sĩ là bằng cớ hùng hồn cho thân hữu chàng thấy
giáo lý này hẳn phải phi thường xuất chúng, khiến thêm bốn
người trong đám ấy cũng làm theo chàng: Vimala, Subàhu, Punnaji và
Gavampati, tất cả cũng như tôn giả Yasa, đều là nam tử của
các thương nhân thuộc giai cấp Vệ-xá, đã được nhận làm
Tỳ-kheo theo lời tiến cử của tôn giả, và sau đó đều trở
thành A-la-hán (Mv1.9)
Chẳng bao lâu sau, thêm 50
thân hữu của tôn giả từ các vùng lân cận Benares cũng gia
nhập Giáo đoàn và đều đắc quả A-la-hán. Như vậy, chư vị
A-la-hán đã lên đến số 61 người (Mv1.10)