Chương
VII
485 trước
CN
Cuộc hồi
hương vĩ đại
-oOo-
NHỮNG
HÀNH TRÌNH CUỐI CÙNG
Theo thông lệ trong hơn hai mươi năm qua, đức Phật
an cư mùa mưa năm 485 trước CN tại Sàvatthi. Ngài không xem cơn
cuồng nộ của Ðại Vương Vidùdabha tàn phá bộ tộc Sakiya vừa
qua có liên hệ đến ngài.
Trong lúc trú tại tinh xá Kỳ viên của ông Cấp
Cô Ðộc, bậc Ðạo Sư hay tin rằng đại đệ tử Sàriputta của
ngài đã mệnh chung vì bệnh ở làng Nàlagàmaka, không xa
Ràjagaha. Chính Sa-di Cunda (ka), bào đệ của tôn giả Sàriputta
đem tin đến cùng các di vật của vị Tỳ-kheo quá cố: bình
bát, ngoại y và xá lợi của tôn giả được buộc lại trong
tấm vải dùng làm khăn lọc nước (SN 47. 3. 2. 3).
Khi mùa mưa đã chấm dứt, đức Phật lại bắt
đầu du hành, lần này về hướng nam. Khi ngài dừng tại
làng Ukhàcelà (hay Ukhàvelà) trên sông Hằng, hình như hung tin
tôn giả Moggallàna, đại đệ tử thứ hai của ngài, mệnh
chung đến tai ngài. Xúc động, ngài tuyên bố với chư Tỳ-kheo
rằng "Giáo hội nay đã thiếu vắng hai vị ấy. Giống
như một cây hùng vĩ đầy sức sống có các nhành lớn bị hư
hoại, cũng vậy là Sàriputta và Moggallàna từ Giáo hội đã mệnh
chung. Nhưng làm sao có vật gì đã sanh khởi lại không đoạn
diệt?" (SN 47. 3. 2. 4).
Chuyện Tiền Thân số 522 (Jàt
522) nêu chi tiết về sự từ trần của tôn giả
Moggallàna. Theo chuyện này, vị đại đệ tử ấy bị sát hại
gần Ràjagaha, ở vùng Hắc Thạch trên đỉnh Isigili (Thánh Sơn
nay là Núi Udaya?) vì tôn giả này đã lôi cuốn được quá
nhiều môn đồ từ các giáo phái Sa-môn khác nên họ đã
thuê một tên cướp giết ngài. Ngày tôn giả Sàriputta mệnh
chung được ghi nhớ là ngày rằm tháng Kattikà (tháng Mười -
Mười một), còn ngày tịch diệt của tôn giả Moggallàna vào
thượng tuần tháng kế tiếp (Jàt 95). Theo đây, cả hai vị
đại đệ tử đều tịch diệt năm 486 trước CN.
Những tháng cuối mùa mưa năm 485 còn thấy đức
Phật cao niên ở Ràjagaha, tại đấy vị đại thần Vassakàra
tìm cơ hội tham vấn ngài về dân Vajjì. Chẳng bao lâu sau,
ngài rời đi lên miền bắc, được thị giả Ànanda và hội
chúng Tỳ-kheo hộ tống. Câu chuyện trong Dìgha Nikàya (Trường
Bộ Kinh số 16. 1) kể rằng ngài gặp tôn giả
Sàriputta gần Nàlandà chắc hẳn đã được đưa vào văn cảnh
này do nhầm lẫn, bởi vì đúng thời điểm ấy, tôn giả
Sàriputta đã tịch diệt một năm tròn.
Trạm dừng chân kế tiếp là Pàtaligàma, nơi bậc
Ðạo Sư quan sát tiến trình xây dựng thủ đô mới của
Magadha và thành lũy Pàtaliputta. Trong số các chuyện khác xảy
ra, có chuyện ngài làm thượng khách của các đại thần Sunìdha
và Vassakàra, những người đang giám sát công tác xây dựng.
Họ đặt tên chiếc cổng ngài đi qua khi rời thành là "Cổng
Gotama" để tôn vinh ngài. Sông Hằng ở vùng Patna này có
thể rộng đến 2,5 km và đang mùa lũ lụt, song đức Phật
qua sông chẳng khó khăn gì cả (DN 161. 19).
Năm 484 đã bắt đầu từ lâu thì chư Tỳ-kheo
khoác y vàng này đến Vesàli (nay là Vaishàli), sau khi Tăng chúng
đã đi qua làng Kotigàma và Nàdika. Thành Vesàli là thủ đô của
cộng hòa Licchavi, tại đây chư vị cư trú trong vườn xoài của
Ambapàli (Cô Gái Vườn Xoài), người kỹ nữ sang trọng của
kinh thành đã quá xuân nhưng vẫn còn diễm lệ. Trước kia
Ambapàli đã có một con trai với cố Ðại Vương Bimbisàra, đặt
tên là Vimalakondañña, vị này sau trở thành Tỳ-kheo. Ngay khi
bà nghe tin bậc Ðạo Sư của con trai bà đang dựng lều trong
vườn xoài của bà, bà liền vội vã đến nơi thỉnh cầu ngài
thọ thực ngày hôm sau. Ðức Phật nhận lời bằng cách im lặng.
Các thị dân khác của thành Vesàli cũng muốn
thiết đãi bậc Ðạo Sư và vô cùng thất vọng khi nghe tin
Ambapàli đã ngầm đi nước cao hơn họ. Người kỹ nữ từ
chối lời họ đề nghị tặng bà nhiều tiền để nhường
cho họ bữa tiệc đãi vị khách danh dự ấy. Sáng hôm sau,
bà cúng dường đức Phật và Tăng chúng một bữa cơm thịnh
soạn, rồi sau đó lại cung tặng vườn xoài của bà
(Ambapàlivana) để bậc Ðạo Sư và Giáo hội làm tinh xá (DN
16. 2. 11) - chắc chắn một phần là với hy vọng con trai bà
có dịp an cư mùa mưa tại đó. Trong thời xuân sắc, bà đã
đề ra giá 50 kahàpanas, giá tiền năm con bò sữa, để được
một đêm ân ái với bà, vì thế bà có thừa khả năng cung cấp
những tặng vật đắt giá. Ngay sau đó, bà gia nhập hội
chúng Tỳ-kheo-ni và còn được xem là đã đắc thánh quả
A-la-hán (Thìg 252 -70).
Bậc Ðạo Sư đã du hành đến tận Vesàli với
hội chúng Tỳ-kheo, nhưng mùa mưa năm đó, 484 trước CN, ngài
muốn độc cư và chỉ có Ànanda, thị giả trung thành theo hầu,
để ngài chuyên tâm thiền định. Từ đây khi mưa bắt đầu
rơi, ngài yêu cầu chư Tăng tự tìm các tinh xá (Vihàra) cho
mình ở vùng ngoại ô thành Vesàli, trong khi chính ngài sẽ an
cư mùa mưa tại Beluva (nay là Basarh), một vùng ngoại ô ở miền
nam kinh thành (DN 16. 2. 22).
Ðó là một thời kỳ bất an. Bậc Ðạo Sư già
cả lâm trọng bệnh và chịu nhiều đau đớn. Tuy nhiên, ngài
vẫn duy trì tâm trí minh mẫn và nhiếp phục cơn bệnh bằng
sức mạnh của ý chí. Khi ngài có thể đứng dậy và ngồi dưới
bóng mát của am thất, tôn giả Ànanda bày tỏ nỗi lo buồn của
mình về cơn trọng bệnh vừa qua ấy. Tôn giả nói thực
là một niềm an ủi cho tôn giả khi nghĩ rằng đức Như Lai sẽ
không nhập Niết-bàn vô dư y trước khi chuẩn bị hành trang
cho Tăng chúng. Tuy nhiên, đức Phật lại không muốn làm
gì về việc này cả:
"Này Ànanda, tại sao chúng Tỳ-kheo lại chờ
đợi điều này ở ta? Ta đã thuyết giảng Chánh Pháp mà
không hề phân biệt "mật giáo" hay "hiển
giáo" vì Như Lai không có "bàn tay nắm chặt của vị
Ðạo Sư" còn giữ lại đôi phần chân lý nào đó. Nếu
có ai suy nghĩ: "Ta sẽ lãnh đạo Giáo hội" hoặc:
"Giáo hội phải chịu sự hướng dẫn của ta", thì
chính người ấy phải để huấn thị mọi vấn đề liên hệ
Giáo hội. Phần Như Lai không nghĩ theo cách ấy. Thế thì tại
sao Như Lai (tức là ta) lại phải để di huấn cho Tăng đoàn?
Nay ta đã già cả, đã suy yếu, đã đến hạn kỳ cuối cuộc
đời, ta vừa tròn tám mươi tuổi. Này Ànanda, giống như cỗ
xe cũ kỹ được làm cho chạy nhờ đám dây da chằng chịt
nâng đỡ, cũng vậy, thân Như lai được duy trì hoạt động
nhờ nâng đỡ bằng dây đai ...
Vì vậy, này Ànanda, phải tự làm hòn đảo cho
chính mình, hãy tự làm nơi an trú cho chính mình, không tìm nơi
an trú nào khác, lấy Chánh Pháp làm hòn đảo, lấy Chánh
Pháp làm nơi an trú, không tìm nơi an trú nào khác ...
Này Ànanda, những Tỳ-kheo nào hiện nay hay ngày
sau tự mình làm hòn đảo cho chính mình, lấy Chánh Pháp làm
nơi an trú, chứ không tìm nơi an trú nào khác, những vị nhiệt
tâm tu tập như vậy là các Tỳ-kheo chân chánh của ta và sẽ
nhiếp phục bóng tối của vô minh, của luân hồi sanh tử".
(DN 16. 2. 25, giản lược)
Như vậy, đức Phật chỉ định, không phải một
Ðạo Sư, mà là Ðạo Pháp (Dhamma) làm vị lãnh đạo
tương lai của Giáo hội. Vài ngày sau khi nói các lời này với
tôn giả Ànanda, ngài đã bình phục đủ sức để đi khất
thực trong thành Vesàli (DN 16.3.1).
Giống như mọi người mới trở lại với đời
sống sau một cơn bệnh hiểm nghèo, đức Phật già cả nhìn
ngoại cảnh với đôi mắt tươi sáng. Trong chuyến du hành đến
đền thờ Càpàla, ngài nói về vẻ đẹp khả ái của thành
Vesàli cùng các đền thờ chung quanh bằng những ngôn từ hầu
như rạt rào tình cảm (DN 16. 3. 2) và ít lâu sau đó, khi ngài
rời Vesàli với tiên liệu là ngài sẽ chẳng bao giờ trông
thấy kinh thành này nữa, ngài đã quay lại nhìn nó từ xa với
vẻ trầm tư (DN 16. 4. 1).
Cuộc hành trình tiếp diễn chầm chậm qua các
thôn làng Bhandagàma, Hatthigàma, Ambagàma, Jambugàma, rồi
Bhoganagara, và luôn tiến mãi về hướng tây bắc. Rõ ràng
ngài muốn đợi giờ phút mệnh chung mà ngài cảm thấy đang
đến gần, tại một trong các tinh xá ở kinh thành Sàvatthi.
Sau khi ngài đã không chỉ định Tỳ-kheo nào làm vị kế thừa
ngài lãnh đạo Giáo hội, và đã tuyên bố Giáo Pháp là uy
quyền tối thượng đối với Tăng chúng, ngài dùng một ít
thời gian còn lại trên đường đi để suy xét Tăng chúng phải
có thái độ ra sao đối với bất cứ Tỳ-kheo nào có thể tự
xưng mình đã nghe được Giáo lý này hay Giáo lý nọ từ
chính miệng bậc Ðạo Sư. Trong trường hợp như thế, ngài dạy
chư Tăng ở Bhoganagara rằng những lời của Tỳ-kheo ấy phải
được cân nhắc kỹ vì chúng có thể được chứng thực là
tương ứng với một bài kinh (sutta) và phù hợp với Luật
(Vinaya).
Chỉ khi nào điều này được xác định chắc
chắn, các lời ấy mới có thể được công nhận là lời dạy
của đức Như Lai (DN 16 . 4. 8). Sự tuyên bố khẳng định trên
đây chứng tỏ đức Phật chắc chắn các Pháp thoại của
ngài sẽ được ghi nhớ trong tâm trí chư Tỳ-kheo và được
truyền tụng mãi cho các thế hệ sau.
ÐẠI DIỆT
ÐỘ
Tại Pàvà, (có lẽ là Fazilnagar hiện nay, khoảng
16 km ở về phía đông nam Kasia), bậc Ðạo Sư và hội chúng
của ngài được người thợ rèn Cunda (Thuần-đà) mời thọ
thực ngày hôm sau. Ðể dành món đặc biệt dâng lên vị
khách tôn quý, ngoài các món khác, thợ rèn Cunda đã dọn món
Sùkaramaddava. Món này đích xác là thứ gì vẫn chưa chắc
chắn. Một vài học giả nghĩ rằng đó là thịt heo, một số
khác cho là măng tre mềm mọc gần các trại heo, số khác nữa
lại cho là một loại nấm, có thể là nấm mèo. Nhưng dù đó
là thứ gì đi nữa, đức Phật cũng đã nhìn món ăn này với
vẻ nghi ngờ, và bảo thợ rèn Cunda đừng mời Tăng chúng
món ấy. Tuy thế, chính ngài lại thọ dụng món kia với mục
đích không làm buồn lòng người thợ rèn có thiện ý (DN 16.
4. 13).
Mối quan tâm này đối với vị thí chủ là một
sự sai lầm. Ðức Phật liền mắc bệnh huyết lỵ và chịu
nhiều cơn đau bụng dằn vặt. Dù yếu đuối và kiệt sức
như vậy, ngài vẫn rời Pàvà và tiến về Kusinàrà. Nhiều lần
ngài bị bắt buộc phải rẽ sang một bên để tháo dạ và
nghỉ ngơi ở vệ đường.
Chứng đau bụng và huyết lỵ làm mất nhiều nước
ấy đi kèm với cơn khát. Khi ngài đòi uống nước, thị giả
Ànanda chỉ tay về phía con suối đã bị đám xe bò đi qua làm
vẩn đục nên chỉ có nước dơ bẩn không thể uống được
- tốt hơn là nên tiếp tục đi đến sông Kakutthà (nay là
Bàdhi hay Barhi) không xa đó mấy. Song bậc Ðạo Sư cương quyết
yêu cầu, rồi ngài uống nước từ dòng suối ấy mà ngay
lúc này đã trở lại lắng yên và trong trẻo như cũ (DN 16.
4. 20).
Vừa lúc ấy có một nam tử từ bộ tộc Malla
đi đến. Tên người ấy là Pukkusa. Ông nói chuyện với đức
Phật thì hóa ra đó là Pukkusa, một đồ đệ của đạo sư
Àlàra Kàlàma là người xưa kia đức Phật đã học tập trước
thời Giác Ngộ. Khi thiện nam Pukkusa thấy các tấm y của bậc
Ðại Ðạo Sư đang bệnh và thị giả ngài đều vấy bẩn,
ông liền bảo người hầu đem lại hai tấm y vàng kim sắc
dâng cúng đức Phật và tôn giả Ànanda. (DN 16. 4. 26)
Ngay khi thiện nam Pukkusa vừa khuất dạng, hội
chúng lại tiếp tục lên đường và đến sông Kakutthà, nơi
đó bậc Ðạo Sư uống nước, tắm rửa cùng nghỉ ngơi ở bờ
bên kia, rồi ngài dặn Sa-di Cundaka trải ngoại y lên mặt đất
dưới các cây xoài. Sự hiện diện của Sa-di Cundaka khiến đức
Phật nhớ lại người thợ rèn Cunda, tại nhà vị này ngài
đã phải bị ngộ độc vì thức ăn kia, nên ngài nhấn mạnh
cho tôn giả Ànanda hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách
người thợ rèn đã có thiện ý tối thượng (DN 16. 4. 37).
Ngay khi ngài lấy lại sức khoẻ đôi chút, cuộc hành trình lại
tiếp tục như trước.
Bậc Ðạo Sư đã kiệt lực như vậy vẫn cùng
Tăng chúng lội qua sông Hirañ ñ avati (nay là sông Bé Gandak),
đến tận Kusinàrà, thủ đô thứ hai của bộ tộc Malla, nơi
ngài đã biết vì nhiều lần du hành trước kia (MN 103;
AN 10. 44).
Khi ngài bảo ngài mỏi mệt và muốn nằm xuống,
tôn giả Ànanda sắp đặt chỗ nghỉ ngơi cho ngài dưới đôi
Sàla trong rừng Upavattana ở ven phía nam thành phố. Các cây
Sàla (Shorea robusta) đang nở rộ hoa, điều đó chỉ rõ
các tháng ba và tư, trái với truyền thống ghi bậc Ðạo Sư
diệt độ vào tháng Vesakha (tư-năm). Ngài cố gắng nghỉ ngơi,
nằm nghiêng về phía hữu, có lẽ hơi co lại vì đau nhức.
Do mồ hôi tiết ra kèm với chứng đau bụng và xáo trộn đường
ruột làm ngài cảm thấy lạnh, ngài bảo Tỳ-kheo Upavàna
đang quạt hầu ngài, đi lui ra. (DN 16. 5. 1)
Nay ngài đã chắc chắn rằng từ nơi đây trong
rừng Sàla song thọ gần Kusinàrà ngài sẽ không bao giờ trở
dậy nữa. Tâm trí thanh thản, ngài dặn tôn giả Ànanda về
những gì phải làm với thân ngài. Chư Tăng không cần phải
quan tâm về việc tang lễ của ngài, mà chỉ nên tinh tấn nỗ
lực để giải thoát. Có nhiều người đầy tín tâm đối với
đức Như Lai sẽ làm mọi sự cần thiết. (DN 16. 5. 10)
Tôn giả Ànanda vừa khóc vừa bước ra ngoài bộc
lộ nỗi ưu phiền: "Ôi, ta vẫn còn là kẻ hữu học,
ta còn phải tu tập nhiều (về phần ta). Thế mà nay bậc Ðạo
Sư, người đã thương tưởng ta, lại sắp diệt độ!".
Khi đức Phật nhận thấy thị giả trung thành của
ngài không ở đó, ngài cho gọi vị ấy vào và an ủi:
"Thôi đủ rồi, này Ànanda, đừng phiền muộn
khóc than. Ta đã chẳng thường bảo ông rằng chúng ta phải
chia lìa mọi vật thân thiết, khả ái đối với chúng ta,
chúng ta phải từ giã chúng vì không có vật gì tồn tại
mãi mãi hay sao? Phàm vật gì được sanh khởi, được thành
hình, được tạo tác (do nghiệp (kamma) của các đời trước)
tất phải chịu biến hoại. Không thể nào có một vật như
vậy lại không tiêu diệt. Này Ànanda, từ lâu nay ông đã ở
bên cạnh ta và chăm sóc ta với lòng nhẫn nại, từ ái, ân cần
tận tụy đem lại vô lượng an lạc cho ta. Ông đã tạo được
nhiều phước đức nhờ việc ấy. Hãy tinh tấn nỗ lực, chẳng
bao lâu ông sẽ đoạn trừ các lậu hoặc". (DN 16. 5.
14, giản lược)
Có lẽ nhân chuyến khất thực sáng hôm sau, và
chắc hẳn theo lời dặn của đức Phật, tôn giả Ànanda đã
báo tin bậc Ðạo Sư bị bệnh trong thành Kusinàra. Ngay sau đó,
vô số thị dân đi đến rừng Sàla song thọ để hội kiến
bậc thượng thủ tôn quý của Giáo đoàn, người mà họ đã
từng nghe nhiều điều kỳ diệu trong vòng bốn mươi lăm năm
qua. Tôn giả Ànanda cố hết sức ngăn ngừa cho bậc Ðạo Sư
đang quá mệt nhọc khỏi bị phiền nhiễu.
Subhaddha, một Sa-môn ngoại đạo, tối hôm ấy
đến yết kiến bậc Ðạo Sư liền bị đưa ra ngoài, song đức
Phật nghe được câu chuyện, bèn bảo tôn giả Ànanda cho vị
khách ấy vào. Khi kết thúc đàm đạo với đức Phật, du sĩ
Subhaddha thỉnh cầu bậc Ðạo Sư nhận vị ấy vào Tăng đoàn,
và tôn giả Ànanda làm lễ xuất gia (pabbajjà) cho vị
ấy. Du sĩ Subhaddha là người cuối cùng được nhận làm
Sa-di trong Giáo hội lúc đức Phật vẫn còn tại thế. Về
sau, khi mãn hạn kỳ thử thách dành cho các Sa-môn ngoại đạo,
vị ấy cũng được thọ đại giới Tỳ-kheo (upasampadà)
(DN 16. 5. 19).
Việc đề phòng bất cứ Tỳ-kheo nào đòi quyền
lãnh đạo Giáo hội là chuyện quan trọng đối với đức Phật
đến độ ngay trước khi viên tịch, ngài còn nhấn mạnh lần
nữa chức năng hướng dẫn của Giáo Pháp đối với Tăng chúng:
"Này Ànanda, có thể một số trong chư vị
suy nghĩ: lời dạy của bậc Ðạo Sư đã mất, nay chúng ta
không còn bậc Ðạo Sư! Này Ànanda, không nên nghĩ như vậy.
Pháp và Luật mà ta đã thuyết giảng cho chư vị, sau khi ta diệt
độ, sẽ là Ðạo Sư của chư vị". (DN 16. 6. 1)
Ðiều này giả định trước là không có điểm
nào chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau
về sau. Vì vậy, đức Phật cho các Tỳ-kheo cơ hội cuối cùng
để chất vấn ngài:
"Này các Tỳ-kheo, có thể là một vài Tỳ-kheo
nghi ngờ hay phân vân gì về Phật, Pháp, Tăng, hay (Bát Chánh)
Ðạo, hay phương pháp thực hành (để giải thoát). Vậy các
Tỳ-kheo, hãy hỏi đi, kẻo ngày sau chư vị cảm thấy hối tiếc
vì nghĩ: "Chúng ta đã diện kiến bậc Ðạo Sư, tuy thế
chúng ta đã không tự mình hỏi Ngài". (DN 16. 6. 5)
Song chư Tỳ-kheo giữ im lặng. Sau đó đức Phật
lại cho chư vị một dịp may cuối cùng: nếu chư vị không
dám hỏi vì kính trọng ngài, thì chư vị hãy hỏi qua một bạn
đồng tu. Một lần nữa chư vị Tỳ-kheo lại giữ im lặng.
Không có điểm gì không sáng tỏ ở bất cứ nơi nào cả.
Ðêm đã khuya lắm rồi. Cảnh vật hoàn toàn tĩnh
mịch trong rừng Sàla khi bậc Ðạo Sư sắp mệnh chung nhắn
nhủ chư Tỳ-kheo một lần nữa:
"Này các Tỳ-kheo, ta khuyên bảo
chư vị: Các pháp hữu vi (các hành: sankhàra) đều vô thường,
chịu biến hoại. Hãy nỗ lực tinh tấn (để đạt giải thoát)!".
(DN 16. 6. 7)
Ðây là những lời cuối cùng của đức Phật.
Sau đó ngài lịm dần vào trạng thái bất động mà tôn giả
Anuruddha tuyên bố với các Tỳ-kheo là thiền định, và rồi
không còn hồi tỉnh nữa, bậc Ðạo Sư tám mươi tuổi đã
đắc Niết-bàn vô dư y, một trạng thái giải thoát khổ đau
sau khi xả báo thân (DN 16. 6. 8). Ða số sử gia ở Ấn Ðộ
ghi sự kiện này vào năm 483 trước CN.
LỄ
TRÀ-TỲ (HỎA TÁNG)
Giữa mọi người, bình tĩnh nhất là tôn giả
Anuruddha, em họ của đức Phật và là anh khác mẹ với tôn
giả Ànanda, vị ấy vừa an ủi chư Tỳ-kheo, trong đó có một
số vị khóc than, vừa nhắc lại những lời dạy của bậc
Ðạo Sư đã diệt độ về tính chất vô thường của vạn
pháp. Ðến gần sáng, vị ấy bảo tôn giả Ànanda đi vào
thành Kusinàrà báo tin đức Như Lai diệt độ cho thị dân. Trưởng
lão Ànanda bao giờ cũng sẵn sàng thi hành sứ mạng này. Tôn
giả tường thuật sự kiện bậc Ðạo Sư diệt độ trong hội
trường, nơi bộ tộc Malla đang tập họp. Lập tức hội chúng
ra lệnh cử hành lễ hỏa táng. (DN 16. 6. 11)
Ðoạn văn miêu tả trong Kinh Ðiển về lễ hỏa
táng mang đầy ấn tượng một quang cảnh hoàn toàn hỗn độn.
Trong khi nhóm Tăng chúng ít ỏi chỉ gồm có các Tỳ-kheo
Ànanda, Cundaka, Anuruddha, Upavàna, và có thể thêm một vài người
nữa, đã nhận được huấn thị của đức Phật để mọi
việc tổ chức tang lễ cho các đệ tử tại gia, tuy nhiên, đám
cư sĩ này rõ ràng không đông lắm tại Kusinàrà, và không ai
cảm thấy thực sự có trách nhiệm cả. Các dấu hiệu thương
tiếc theo hình thức vòng hoa và hương liệu quả thực rất dồi
dào, nhưng hình như không người nào sẵn sàng chịu phí tổn
về số củi dùng cho giàn hỏa táng. Lễ hỏa táng phải được
đình hoãn lại từ một ngày đến ngày hôm sau, chuyện kể
nó còn kéo dài suốt cả tuần.
Hơn nữa, lại có sự bất đồng về hình thức
tang lễ phải cử hành ra sao. Bậc vĩ nhân vừa mệnh chung là
một người của bộ tộc Sakiya, một vị Hoàng tử Sát-đế-lỵ,
nhưng còn là một Sa-môn đối lập với nghi lễ Bà-la-môn
giáo. Vậy hình thức tang lễ nào mới thích hợp với ngài?
Ngài phải được hỏa táng về hướng nam hay hướng đông của
kinh thành? Cuối cùng họ quyết định về hướng đông, và
khiêng di hài đức Phật được quấn vải kín đi vào thành bằng
Bắc Môn, rồi đi ra bằng Ðông Môn đến đền Makuta
-bandhana, có lẽ nơi đó được xem là hội trường để làm
tang lễ, mở thông ra mọi phía, tại địa điểm hỏa táng.
(DN 16. 6. 13)
Trong lúc ấy Trưởng lão Mahàkassapa (Ðại-Ca-diếp)
đang trên đường đi đến Kusinàrà với một hội chúng Tỳ-kheo,
chắc hẳn với ý định an cư mùa mưa sắp tới ở Sàvatthi.
Sau khi hai tôn giả Sàriputta và Moggallàna tịch diệt, tôn giả
Mahàkassapa là vị Tỳ-kheo xuất sắc nhất trong Giáo hội, và
nếu trước kia đức Phật chỉ định người thừa kế, có lẽ
ngài đã lựa chọn vị này. Ðó là một vị Bà-la-môn gốc
ở làng Mahàtittha trong quốc độ Magadha. Nhiều năm trước
kia, đức Phật đã đích thân mời vị ấy gia nhập Tăng đoàn
khi hai vị hội ngộ ở khoảng đường giữa Ràjagaha và
Nàlanđà. Trong vòng một tuần sau đó, Tỳ-kheo Kassapa đã đắc
tối thắng trí (SN 16. 11) và như vậy trở thành một vị
A-la-hán.
Tôn giả Mahàkassapa tự hào được mang ngoại y
(Tăng-già-lê) bằng gai thô đã rách nát của bậc Ðạo Sư.
Thật ra vinh dự này của vị ấy chỉ do tình cờ. Một hôm bậc
Giác Ngộ muốn ngồi nghỉ dưới gốc cây sau chuyến du hành,
tôn giả Kassapa đã xếp tấm ngoại y của mình và mời bậc
Ðạo Sư ngồi lên. Ðức Phật chấp thuận, và đang lúc ngài
cảm thấy đau lưng nên nhận ra rằng chiếc y này đặc biệt
êm dịu. Vì thế tôn giả Kassapa dâng ngài tấm y ấy và đổi
lại, đã nhận chiếc phấn tảo y rách nát không còn mặc
được của bậc Ðạo Sư. Căn cứ vào việc này, vị ấy tự
xưng mình là "con đích thực của đức Thế Tôn, được
sinh ra từ miệng ngài", tức là người xứng đáng với
những nhiệm vụ đặc biệt (SN 16. 11).
Ðức Phật lúc nào cũng hết sức tín nhiệm
tôn giả Kassapa, ngài đã đến thăm khi vị ấy mắc bệnh nặng
(SN 46. 2. 4), và trước các Tỳ-kheo trẻ hơn, ngài vẫn ca ngợi
tôn giả là một Tỳ-kheo sống đời gương mẫu và thiểu dục
tri túc (SN 16. 1). Tuy nhiên đồng thời, không phải ngài không
hiểu rõ tính tình khó khăn của tôn giả Kassapa, và cách tôn
giả này yêu cầu sự rèn luyện bản thân tối đa từ phía
các Tỳ-kheo trẻ mà không phải bao giờ cũng tỏ ra thông cảm
đầy đủ hoặc chiếu cố khoan dung.
Có một Sa-di, bị dồn vào chỗ tuyệt vọng đâm
liều lĩnh đến độ đốt thảo am của tôn giả vừa mới dựng
để an cư mùa mưa (Jàt 321), việc ấy chẳng làm được gì
để tăng thêm các mối thiện cảm của Trưởng lão Kassapa đối
với thế hệ Tỳ-kheo trẻ! Hơn một lần tôn giả đã từ chối
thẳng ngay lời đức Phật yêu cầu tôn giả giáo giới đám
Tỳ-kheo trẻ (SN 16. 6, 7, 8).
Giờ đây, chính tôn giả Mahàkassapa này cùng với
một số Tỳ-kheo đang đi trên đường từ Pàvà đến Kusinàrà
và đang ngồi nghỉ dưới một gốc cây thì một du sĩ phái
Àjìvika vừa đi tới. Cuộc đàm thoại sau đây diễn ra:
Tỳ-kheo Mahàkassapa: Này hiền giả, hiền giả
có biết bậc Ðạo Sư của chúng tôi không?
Du sĩ Àjìvika: Dĩ nhiên tôi biết. Sa-môn Gotama
đã đắc Niết-bàn tối hậu cách đây một tuần. (DN 16.
6. 19)
Ðây là một tin buồn mà chỉ những Tỳ-kheo đạt
trí tuệ cao thâm mới có thể chấp nhận một cách bình thản,
còn lại tất cả đều khóc than. Ngoại trừ Tỳ-kheo Subhadda
- ta không nên lẫn lộn với Sa-di Subhadda trùng tên, người vừa
được đức Phật cho phép xuất gia ngay đêm ngài sắp tịch
diệt - Tỳ-kheo Subhadda này, trước kia là thợ hớt tóc ở
làng Àtumà, chỉ vừa mới xuất gia lúc tuổi đã cao, liền
tuyên bố: "Thôi đủ rồi, các hiền giả, đừng than
khóc bi ai. Chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi vị Ðại
Sa-môn. Trước kia chúng ta luôn bị phiền nhiễu vì lời nói
của ngài: "Chư vị được phép làm việc này. Chư vị không
được phép làm việc kia!". Nay chúng ta có thể làm gì
chúng ta thích và không làm những gì chúng ta không
thích!" (DN 16. 6. 20).
Tôn giả Mahàkassapa không đáp lại những lời
này, song chẳng bao lâu đã có lý do để nhớ lại chúng. Lập
tức tôn giả vội vàng đi ngay cùng chư Tăng đến Kusinàrà tận
địa điểm hỏa táng vừa kịp nhận thấy giàn hỏa thiêu di
hài đức Phật chưa được châm lửa. Số lượng củi gỗ
được thâu góp về đây rõ ràng quá ít ỏi vì sự thật cho
thấy là đôi chân di hài đã được quấn vải kín vẫn còn
lộ ra.
Sau khi tôn giả Mahàkassapa cùng các Tỳ-kheo kia
đã đi nhiễu quanh di hài ba lần về phía hữu (theo hướng
kim đồng hồ) và đã chắp tay cúi đầu đảnh lễ xong, giàn
hỏa bắt đầu được châm lửa. Khi giàn hỏa đã cháy hết
hoàn toàn, đám tro được dập tắt với nước lạnh. Di hài
của đức Phật chỉ còn lại một ít xương xá-lợi, xương
được đặt vào một bình đất tại địa điểm hỏa táng
và các người Malla đánh dấu chỗ này bằng cách cắm các
cây thương (dáo) xuống mặt đất chung quanh. (DN 16. 6. 22)
Hình như bộ tộc Malla ở Kusinàrà không hề nghĩ
rằng các bộ tộc khác có thể đòi quyền hưởng xá-lợi của
đức Phật. Vì thế họ rất kinh ngạc khi sứ giả từ khắp
mọi phương dồn dập đến Kusinàrà yêu cầu được chia một
phần xá-lợi Phật.
Ban đầu họ không muốn nhượng bớt đi bất cứ
phần nào xá-lợi, nhưng cuối cùng phải nghe theo lời khuyên
nhủ của vị Bà-la-môn Dona đảm trách lễ hỏa táng, vị
này nêu rõ một thái độ ích kỷ hẹp hòi đối với xá-lợi
sẽ dẫn đến tranh chấp bất ổn, ngoài việc trái với lời
dạy của bậc Ðạo Sư vừa quá cố, người trước kia bao giờ
cũng ủng hộ hòa bình (DN 16. 6. 25). Vì vậy, Bà-la-môn Dona
chia xá-lợi thành tám phần đều nhau, mỗi phần đó đưa về:
- Ðại Vương Ajàtasattu nước Magadha ở Ràjagaha.
- Bộ tộc Licchavì ở Vesàli.
- Bộ tộc Sakiya ở (Tân) Kapilavatthu.
- Bộ tộc Bulì ở Allakappa.
- Bộ tộc Koliya ở Ràmagàma.
- Một Bà-la-môn ở Vethadìpa.
- Bộ tộc Malla ở Pava.
- Bộ tộc Malla ở Kusinàrà giữ phần thứ tám.
Khi xá-lợi đã được chia như vậy xong thì một
sứ giả từ bộ tộc Moriya ở Pipphalivana đến đòi chia phần.
Vị ấy đành phải chịu nhận một ít tro ở giàn hỏa. Còn
Bà-la-môn Dona giữ lấy cho mình cái bình đất đã đựng xá-lợi
sau khi hỏa thiêu và được dùng để chia phần (DN 16. 6. 24).
Tất cả mười bình xá-lợi hay kỷ vật ấy đều được tôn
thờ trong mười ngôi tháp (DN 16. 6. 27).
Cho đến nay, hai bình trong số ấy đã được khám
phá và được các nhà khảo cổ quan sát. Chiếc bình nhỏ
hình cầu với lời ghi chú của người mộ đạo trên nắp
mà ngày xưa bộ tộc Sakiya làm lễ nhập tháp ở địa điểm
nay là vùng Pipràvà (Kapilavatthu II) được đặt trong Bảo tàng
Quốc gia Ấn Ðộ ở Calcutta, nhưng không có tro, vì tro này đã
được đem tặng nhà vua Xiêm (Thái Lan) nhiều thập niên trước.
Còn chiếc bình đậy kín mà người Licchavì đã
bảo tồn phần xá-lợi dành cho họ được đào lên tại
Vesàli năm 1958. Bình này chứa phần di cốt tro cùng nhiều vật
khác và ngày nay thuộc quyền giám hộ của Ban Khảo cổ và Bảo
tàng Chính phủ Quốc gia Bihàr ở Patna.
KUSINÀRÀ
- ÐỊA ÐIỂM KHẢO CỔ
Theo Tôn giả Ànanda, thành Kusinàrà của người
Malla là một "thị trấn nhỏ nghèo khổ toàn nhà tranh
vách đất nằm lùi sâu vào phía trong rừng rậm" (DN
16. 517). Ngày nay không còn tìm thấy dấu vết nào của thành
này nữa. Danh từ Kusinàrà chỉ xác định các đền đài kỷ
niệm địa điểm Ðại Diệt Ðộ, nơi ngày nay ta có thể đến
rất thuận tiện từ Gorakhpur bằng xe hàng. Khoảng cách ấy
độ chừng 55km đi về hướng đông.
Trước khi đến làng Kasia chừng 2km, ta rẽ về
Nam và đến tận địa điểm đức Phật viên tịch, rừng
Sàla song thọ sau 500 m nữa. Nỗ lực của chính phủ Ấn Ðộ
cố trồng lại rừng cây Sàla ở vùng này hiện còn đang thời
sơ khai, song hứa hẹn nhiều thành công tốt đẹp.
Nổi bật nhất ở địa điểm này là Tháp Niết-bàn
(Nibbàna Stupa), cao chừng 20m, phần cốt nguyên thủy của
tháp này được bọc trong nhiều lớp đất sét nung, có lẽ
đã hiện diện từ thế kỷ thứ 3 sau CN. Tháp được phục
chế lại hình bán cầu thẳng đứng vào năm 1927. Chiều cao
ngày xưa của tháp được phỏng tính vào khoảng 45 m. Ngay trước
tháp và trong cùng một khuôn viên hình chữ nhật là đền Niết-bàn,
được trùng tu 1956, đó là một hội trường có mái hình lăng
trụ theo kiểu các tinh xá (vihàra) có sườn tre vòng
cung thời nguyên thủy. Ðền thờ một bức tượng đức Phật
Nhập Niết-bàn, nằm nghiêng về phía hữu, tượng điêu khắc
bằng sa thạch dài 6,2m, xuất hiện từ thế kỷ thứ năm.
Về phía tây, bắc và đông bắc hai đền thờ này
còn nhiều di tích các tinh xá, ngôi cổ nhất khoảng thế kỷ
thứ ba sau CN và ngôi mới nhất vào thế kỷ mười hai. Các tường
nhà còn được bảo tồn lại một phần cao đến bờ vai, đủ
cho ta nhận ra khoảng sân đình bên trong và các am thất của
chư Tăng xung quanh sân ấy. Sự kiên cố của phần công trình
bằng gạch trong các tinh xá này đem lại cảm tưởng hình như
ngày xưa chúng có nhiều tầng.
Ngành nghiên cứu khảo cổ học đã chứng minh rằng
quần thể này bị hỏa hoạn thiêu hủy vào khoảng thế kỷ
thứ tư hoặc thứ năm sau CN. Nhà chiêm bái Pháp Hiển của
Trung Quốc vẫn còn thấy có vài Tỳ-kheo cư trú tại đây
vào thế kỷ thứ năm, nhưng Huyền Trang, một nhà du hành
khác của Trung Quốc qua đây vào thế kỷ thứ bảy lại miêu
tả vùng này bị phá hoại điêu tàn. Về sau nó hồi sinh,
vào khoảng giữa thứ kỷ thứ chín và mười hai có vài tinh
xá mới được dựng lên. Nhưng vào thế kỷ thứ mười ba, mọi
hoạt động tôn giáo hình như đã chấm dứt.
Ngôi tháp đánh dấu địa điểm hành lễ trà-tỳ
và phân chia xá-lợi Phật ở vào khoảng 1,5km phía đông Tháp
Niết-bàn và ngày nay được dân địa phương gọi bằng tên
Sanskrit là Angarastupa (Tháp Di Cốt) hoặc trong tiếng
Hindì gọi là Ràmabhàr-tila (Ðỉnh Ràmabhàr) theo tên Hồ
Ràmabhàr ở phía đông. Tháp dựng trên một đế phẳng và
có đường kính 34 m. Nay không thể đoán được chiều cao ngày
xưa, bởi vì đám người săn lùng bảo vật và ăn trộm gạch
đã lấy đi dần dần phần trên tháp qua bao thế kỷ nay. Về
phương diện khảo cổ học, tháp không còn giá trị quan trọng
nữa, song đối với bất kỳ một du khách hành hương chiêm
bái nào quen thuộc với lịch sử cuộc đời đức Phật thì
đây quả là một thánh tích đầy kỷ niệm thiêng liêng gây
bao cảm xúc bồi hồi.
-ooOoo-