Khoảng giữa năm 515 và 500 trước CN, tại vùng
"Trung Nguyên", xuất hiện bảy vị Ðạo Sư trong số
các Sa-môn có ảnh hưởng lớn đặc biệt. Ngoài đức Phật,
các nguồn Kinh Ðiển Phật Giáo nêu lên danh sách các vị
này (DN 2.2)
1. Pùrana kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp)
2. Makkahi Gosala (Mạt-già-lê Cù-xá-lợi).
3. Ajita Kesakambilin (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la).
4. Pakkuda Kaccàyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên).
5. Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất).
6. Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).
Các vị này đều là bậc trưởng thượng, đáng
tôn trọng (DN 2.2) - nhưng chúng ta phải luôn nhớ rằng thọ
mạng trung bình của người ấn Ðộ vào thế kỷ thứ sáu
- thứ năm trước CN được dự trù vào khoảng hai mươi hai
tuổi, vì vậy một người trên năm mươi tuổi được xem là
già lắm rồi.
1) Pùrana Kassapa:
Pùrana kassapa tự xưng là Toàn tri kiến (AN
9.39) vì thế tên vị này có lẽ phải được giải thích
là Purananõàna: có toàn tri kiến, nhất tri kiến.
Chúng ta chỉ được biết về nguồn gốc vị
này là người thuộc gia tộc thấp hèn, và theo hạnh du sĩ
lõa thể - "mặc bộ y đức hạnh", tình trạng lõa
thể này được gọi như thế. Các Kinh điễn Kỳ-na giáo nhắc
đến một "kẻ khổ hạnh ngu si" tên là Pùrana có gốc
từ Bebhela, chắc hẳn là vị Purana này. Một giả thuyết
cho rằng vị ấy đã nhịn đói đến chết sau mười hai
năm khổ hạnh và đã chết ở Sàvittha. Nhưng theo một bài
Kinh Phật về sau của tạng Sanskrit (Divyàvadàna), vị ấy buộc
một bình đầy đất vào cổ rồi trầm mình.
Một số lời thuyết giảng của Pùrana còn
được lưu lại vừa đủ để ta có thể thấy sơ lược nội
dung triết lý này. Vua Ajàtasattu, người đã làm đạo với
du sĩ Pùrana, tường thuật chuyện này với đức Phật như
sau:
"Ðạo sĩ Pùrana Kassapa nói: "Thưa Ðại
Vương, không có ác nghiệp do người làm hay người xúi gục
kẻ khác làm, như chém giết, đốt cháy, gây phiền muộn,
khổ não, kích động, sát sanh hay cướp bốc. Thậm chí người
nào dùng một bánh xe sắc như dao giết chết hết mọi chúng
sanh trên quả đất này thành một đống thịt cũng không
có tội ác do kết quả việc làm kia, và tội ác cũng không
tăng trưởng. Hoặc nếu kẻ nào bố thí, tế lễ, cũng không
có phước đức do kết quả việc làm ấy, và làm phước
cũng không tăng trưởng. Bố thí, tu tập thân tâm, nói lời
chân thật ... cũng không có phước báo gì". (DN 2.17, giản
lược)
Phù hợp với điều trên, một đệ tử của Pùrana
tóm tắt Giáo lý của thầy mình bằng những lời này:
"Ðạo sư Kassapa không thấy tội ác gì trong việc chém
giết, lừa đảo, dối gian cả. Vị ấy cũng không tin có phước
báo gì cho mỗi người" (SN 2.3.10), và Mahàli người
Licchavì, tường thuật với đức Phật lời tuyên bố của
Pùrana: "không có nhân duyên (điều kiện) đối với sự
ô nhiễm của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị
nhiễm ô. Không có nhân duyên, chúng sanh trở thành thanh tịnh".
(SN 22.60)
Như vậy Pùrana chủ trương rằng thiện hành
hay ác hành đều không có hậu quả gì đối với người tạo
nghiệp, tức là vị ấy phủ nhận qui luật nghiệp báo. Vì
giải thoát không cần điều kiện tiên quyết nên nó không
thể được thực hiện nhờ hành động của chính mình.
Nói cách khác, chúng sanh không thể góp phần gì vào sự giải
thoát của mình cả, mà phải chấp nhận số phận và chờ
đợi được giải thoát một cách thụ động. Thuyết định
mệnh của Pùrana tương tự với thuyết của người giữ vững
lập trường Aụjivika, là Makkhali Gosala.
2) Makkhali Gosala:
Bản Kinh Bhagavatìsùtra của Kỳ-na giáo nêu
tên của Makkhali theo lối chữ Ardha-Màgadhì là Makhaliputta
Gosalà. Do vậy, vị này là con trai của người hát dạo
(mankha), cái nghề mà có lẽ chính vị này đã nối tiếp
cha ông. Ðứa bé thuở ấy được sinh ra trong một chuồng bò
(gosàla) ở Saravana, vì thế có tên này.
Makkhali gặp Nigantha Nataputta (tức Mahàvìra), vị
kế thừa tổ sư sáng lập Kỳ-na giáo, khi vị này đang tu tập
khổ hạnh vào năm thứ ba (524 trước CN). Bị lôi cuốn theo
cách này, Makkhali cầu xin Mahàvìra nhận mình làm đệ tử,
nhưng Mahàvìra im lặng bước đi. Một thời gian sau, Makkhali
quyết định vứt bỏ hết y phục giống như Mahàvìra và từ
đó sống suốt đời làm một Sa-môn lõa thể. Tại
Paniyabhùmi, một nơi không xa Nàlandà, vị ấy gặp lại
Mahàvìra, và thỉnh cầu lần nữa được nhận làm đệ tử.
Lần này Mahàvìra nhận lời, và suốt sáu năm ròng, hai người
sống cùng nhau chia xẻ mọi nỗi khó khăn của đời du sĩ vô
gia đình.
Chính trong thời gian này, Makkhali phát triển niềm
tin vào tính chất tiền định của mọi việc diễn tiến. Vị
này hết sức thán phục vị thầy thông thái của mình tiên
đóan nhiều sự kiện không thể nào ngăn cản được. Ví dụ,
có lần Mahàvìra tiên đoán rằng vào một ngày nhất định
nào đó, Makkhali sẽ được cho một đồng tiền giả lúc
đi khất thực, và mặc dù Makkhali tìm hết mọi cách ngăn cản
việc này, nó vẫn xảy ra chính xác như Mahàvìra đã tiên
đoán. Vì thế Makkhali kết luận "Việc gì phải xảy ra
thì sẽ phải xảy ra như vậy, chứ không thể khác được".
Chính một phần do triết lý này và một phần
do tính khoe khoang khoác lác mà Makkhali liên tục đặt mình
và vị thầy minh trí của mình vào các cảnh khốn đốn ngặt
nghèo. Hơn một lần vị ấy bị đám đông đánh đập tả
tơi. Thỉnh thoảng hình như vị ấy ngầm trả thù những kẻ
từ chối bố thí cho vị ấy thì nhà của họ và cả làng
họ có thể bị hỏa hoạn, và chuyện ấy cũng xảy ra thực!
Vì có lần Mahàvìra không giúp sức chống lại
những kẻ tấn công nên Makkhali rời bỏ vị thầy dạn dày
kinh nghiệm ấy ra đi, để rồi chẳng mấy chốc liền nhận
ra rằng không có thầy bảo vệ, vị ấy càng gặp nhiều
gian lao vất vả mới sống mà chẳng hề hấn gì. Sáu tháng
sau, vị ấy tìm lại thầy, nhưng chẳng học hỏi được gì
về kinh nghiệm sống của thầy và vẫn tiếp tục lối cư
xử đầy khiêu khích và tinh quái. Vào một dịp có một đám
cưới đi qua, vị ấy bình luận là cả cô dâu lẫn chú rễ
đều xấu xí lạ lùng. Sau khi bị đám cưới cho một trận
đòn chí tử, vị ấy nhận ra rằng lời nói của mình chẳng
khôn khéo gì cả.
Sự đỗ vỡ sau cùng với đạo sư Mahàvìra
là do một trong các trò lừa gạt khác của vị đệ tử này.
Trên con đường đi qua Magadha, Makkhali chỉ một cây mè và hỏi
thầy xem thử riêng cây mè này sẽ có quả nào không.
Mahàvìra bảo có nhiều lắm. Khi họ tiếp tục du hành,
Makkhali đi lùi ra sau một chút và đợi lúc Mahàvìra không
để ý, bèn nhổ cây mè lên. Một thời gian sau, cả hai
cùng đến lại chỗ ấy và thấy cây mè kia, dù bị nhổ
lên, vẫn không chết. Một trận mưa đã làm cho cây bén rể
lại và nó còn sinh ra trái mè nữa! Do vậy, mặc dù
Mahàvìra được chứng tỏ là đã tiên đoán đúng, trò đùa
tinh quái của Makkhali để thử tài thầy cũng là lý do đủ
làm cho vị đạo sư tống cổ vị đệ tử kỳ quặc này.
Bị bỏ lại theo đường lối riêng của mình,
Makkhali nỗ lực rèn luyện mong đạt thần thông và tri kiến,
những mục đích mà theo lời đồn vị ấy chứng đắc
trong vòng sáu tháng. Việc này có lẽ được ghi lại vào năm
517 trước CN. Từ đó đến lúc mạng chung, Makkhali sống đời
Sa-môn du sĩ, nhưng bao giờ cũng an cư mùa mưa trong nhà một
người đàn bà làm đồ gốm. Theo thời gian, vị ấy dần tạo
được một số đệ tử xuất gia lẫn tại gia. Chắc hẳn
vị ấy cũng có vài đặc điểm kỳ diệu nào đó nên đã
gây được sự cảm phục ngay cả Ðại Vương Pasensdi nước
kosala, vị thân hữu của đức Phật.
Các Kinh điển Kỳ-na giáo ghi đầy đủ chi tiết
về cuộc đời của Makkhali một lần nữa vào năm du hành
thứ hai mươi bốn của vị ấy, tức là năm vị ấy từ trần
(501 trước CN). Năm ấy Makkhali họp sáu đệ tử quanh mình
để kết tập giáo lý theo hệ thống. Khi Mahàvìra, đạo
sư thông thái cũ của vị ấy, nghe tin về cuộc hợp này,
liền nhớ lại các trò điên khùng của Makkhali từ thời
hai vị còn sống chung với nhau, và nói toang mọi việc cho
đám đồ chúng nghe. Chuyện này lan truyền nhanh như cháy rừng,
gây biết bao phiền muộn cho Makkhali.
Phẫn nộ vì bị làm trò cười như vậy, vị
ấy liền đến trước mặt Mahàvìra, tuyên bố rằng mình
không còn là chàng Makkhali Gosala cũ kỹ trong thời quá khứ
xa xưa: nhiều lần tâm trí được tái sanh đã biến cải vị
ấy thành một người mới hoàn toàn. Khi Mahàvìra khinh bỉ
phủ nhận luận điệu này, Makkhali mất hết bình tĩnh và
thét lên vào mặt Mahàvìra: "Người sẽ bị thần thông
của ta đục thủng! Trong sáu tháng ngươi sẽ chết vì sốt!".
Tuy nhiên Mahàvìra chẳng hề dao động: phép mầu không có
tác động gì đối với vị này cả mà sẽ trở về với kẻ
sử dụng nó: "Trong bảy đêm kể từ nay, chính ngươi sẽ
chết vì sốt".
Và quả thực, các Kinh điển Kỳ-na giáo nói
tiếp, Makkhali trở về lò gốm ở Sàvittha, và bắt đầu lâm
bệnh. Vị ấy lên cơn sốt mê sảng, nhảy múa, ca hát và
trét đất sét nguội của lò gốm lên khắp mình mẩy. Ðối
với những người hâm mộ đến thăm vị ấy trong tình trạng
này, vị ấy cũng nói toàn những lời lú lẫn do loạn trí.
Ít lâu sau vị ấy ra huấn thị cho đám đệ tử về việc
hỏa táng của mình, và lễ hỏa táng ấy phải được cử
hành linh đình trọng thể.
Nếu ngày nay ta có thể tin tưởng được các
Kinh điển Kỳ-na giáo (chắc chắn có nhiều thành kiến),
thì Makkhali, vào đêm thứ bảy sau cuộc so tài nguyền rủa
kia, đã thú nhận việc phạm giới khổ hạnh của mình với
các đệ tử rằng vị ấy không phải là một A-la-hán chứng
đắc thắng trí mà chỉ là một kẻ lừa đảo, do vậy đã
chết vì lời nguyền của chính mình. Vội rút lui lời huấn
thị về việc tổ chức hỏa táng trước kia của mình, vị
ấy truyền lệnh rằng cần phải làm ô nhục thân xác
mình, các Sa-môn phải phỉ nhổ ba lần vào mặt thầy, rồi
buộc một dây thừng vào chân trái thi thể và kéo đi khắp
thành Sàvitthi rồi quẳng thây đâu đó.
Các môn đồ chỉ làm chuyện xúc phạm thánh
thể ấy một cách tượng trưng mà thôi. Họ vẽ bản đồ
thành Sàvatthi trên sàn túp lều của lò gốm rồi kéo di
hài lên, sau đó làm lễ hỏa táng vô cùng long trọng!
Trong đám ngoại đạo sư đồng thời, đức Phật
khinh bỉ Makkhali. Ngài tuyên bố: "Ta không thấy ai đem lại
nhiều tai họa và bất hạnh cho nhiều người bằng Makkhali
Gosala, kẻ điên khùng ấy". (AN 1.17)
Trong tất cả giáo lý của Sa-môn Bà-la-môn ngoại
đạo, chủ thuyết của Makkhali là hạ liệt nhất. Vì
Makkhali ngu si này tuyên bố chủ trương không có (qui luật)
nghiệp nhân, không có nghiệp quả, không có tinh tấn (năng
lực để đạt giải thoát)." (AN 3.135)
Và trong một cuộc đối thoại với du sĩ Bà-la-môn
Vacchagotta, ngài tuyên bố không một người nào thuộc phái
Ajìvika từng đạt giải thoát khổ đau, chỉ trừ được một
người tái sanh Thiên giới, nhưng vị này không hẳn là một
vị Ajìvika đích thực và vị ấy đã không tin vào nghiệp
(do vậy đã tạo được một số công đức cho mình).
Kinh Tạng Pàli ghi lại sơ lược lý thuyết của
Makkhali Gosala từ miệng vị này thốt ra. Vua Ajìtasattu tường
thuật với đức Phật những lời của vị ấy, được xem
là y nguyên văn:
"Không có nhân duyên đối với sự ô nhiễm
của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị ô nhiễm.
Không có nhân duyên đối với sự ô nhiễm của chúng sanh.
Không có nhân duyên, chúng sanh được thanh tịnh. Sự thành
đạt hình thái hiện hữu nào cũng không tùy thuộc vào tự
lực, tha lực hay tinh tấn... .Tất cả mọi hữu tình, mọi
sinh vật, mọi sinh loại, mọi sinh mạng (Jìva) đạt đến hình
thái hiện hữu của chúng đều không do tinh tấn hay tự lực,
nhưng đã thành thục như là kết quả của định mệnh
(niyati), cha mẹ sinh sản (sangati) và hiện hữu (bhàva) ở đời
trong sáu loại tái sanh, nơi mà giờ đây chúng hưởng thọ
khổ hay lạc. Sau 8.400.000 kiếp (trong vòng luân hồi sanh tử),
người hiền trí cũng như kẻ ngu si nhiều đoạn tận khổ
ưu. Ta không nên suy nghĩ: "nhờ kỷ luật này, giới hạnh
này, khổ hạnh này hay Phạm hạnh này ta sẽ làm thành thục
các nghiệp chưa chín muồi, và sẽ đoạn trừ các nghiệp
đã thành thục". Những việc ấy không thể xảy ra, khổ
hay lạc đều được định phần và không thể tăng hay giảm
vòng luân hồi sanh tử. Giống như một cuộn dây được
tung ra sẽ kéo dài mãi cho đến khi tháo hết, cũng vậy, cả
kẻ ngu lẫn người trí đều chấm dứt khổ đau khi nào họ
đã lưu chuyển trọn vòng luân hồi sanh tử." (DN 2.20,
giản lược).
Quan điểm chính của triết lý này là số mệnh
(niyati) quyết định con đường của mọi chúng sanh qua vòng
luân hồi . Nó không chịu tác động của bất cứ điều gì,
do vậy thiện nghiệp hay ác nghiệp đều không gây hậu quả
đối với tính chất các cuộc tái sanh.
Cũng vậy, Giới Luật tu tập cũng không có
giá trị gì, và thâm chí một vị Aụjìvika cũng không thể
thúc đẩy tiến trình giải thoát. Các Sa-môn Ajìvika làm đạo
sĩ vì số phận đã định phần cho họ như vậy, chứ không
phải vì họ có hy vọng cải thiện số phận tương lai. Tuy
nhiên, một động lực chung của họ là học nghệ thuật
tiên đoán. Nếu số phận mọi người đã được tiền định,
theo họ suy nghĩ, ít ra họ có thể tìm cách biết việc tương
lai gần xảy ra.
Vì con đường của mọi người qua vòng luân hồi
đã được hoạch định sẵn, nên phải phân lượng hạnh
phúc hay khổ ưu mà họ thọ hưởng đều được số phận
ban bố trước. Do vậy, thái độ hợp lý duy nhất là chấp
nhận mọi sự xảy ra và chịu đựng mà không than phiền.
Giải thoát sẽ tự động diễn tiến ngay khi mỗi người trải
qua 8.400.000 kiếp. Có một tục ngữ của phái Ajìvika như
sau:
Không đường lên thiên giới,
Cứ sống hết phận mình,
Mọi buồn vui xảy tới
Ðều do số phận dành.
Vòng luân hồi chung cuộc
Khiến mọi người tịnh thanh.
Ðừng nóng lòng muốn biết
Những việc sắp thành hình.
(Jàkata VI 544)
Giới chiến sĩ đặc biệt bị thuyết định mệnh
này lôi cuốn nhưng rất nhiều người khác nữa thường thích
nhớ lại một tục ngữ nào đó của phái Ajivika mỗi khi
có chuyện không may xảy ra.
Cùng với sự biến mất của phái Ajìvika vào
thế kỷ thứ hai trước CN ở bắc Ấn và thế kỷ thứ mười
bốn sau CN ở Nam Ấn, tất cả kinh sách của họ cũng thất
lạc luôn; cho nên mọi điều chúng ta hiểu biết về triết
lý của phái này đều phát xuất từ các trích đoạn trong
thi văn của các phái đối lập. Một số vấn đề cốt yếu
như bản chất của linh hồn hay sinh mạng (Jìva) tạo nên mối
liên lạc giữa các đời sống với nhau, và bản chất của
giải thoát ở chặng cuối cùng của sinh tử lộ dài dằng
dặt ấy đều được số phận phát họa sẵn, do vậy,
không có câu giải đáp chính xác nào cả.
3) Ajita Kesakambalin:
Không có các chi tiết nào được lưu truyền về
tiểu sử của Ajita Kesakambalin (ngoại trừ sự kiện là vị
này già hơn đức Phật nhiều. Biệt hiệu trên chứng tỏ
là vị ấy mang áo khoác (kambala) bằng tóc (kase) một loại
y mà như đức Phật nhận xét (AN 1.135), hết sức bất tiện:
lạnh lẽo về mùa lạnh, và nóng nực về mùa nóng, lại
hôi hám và ngứa ngáy. Không ai hiểu được tại sao vị ấy
mặc y này quanh năm, bởi vì vị ấy phủ nhận giá trị của
khổ hạnh , nên vị ấy cũng không hy vọng cái ý này làm
gì được cho việc giải thoát.
Lý thuyết duy vật- hư vô của Ajita tương tự
với lý thuyết của các phái Lokàyatas, Càrvàkas hoặc
Nàstikas và theo lời vua Ajìtasattu, được tóm tắt như sau:
" Không có bố thí, hy sinh hay tế lễ, (những
việc có thể đem giá trị cho giải thoát). Không có kết quả
của các nghiệp thiện ác (kamma), không có đời này hay đời
sau (mà chỉ có sự gặp gỡ các giác quan). Không có mẹ,
không có cha, và cũng không có các loài hóa sanh. Ở trên đời
này không có các Sa-môn hay Bà-la-môn thành tựu cứu cánh tối
thượng, những vị đạt giác ngộ viên mãn, tuyên thuyết
thế giới này và thế giới khác, sau khi đã chứng tri
chúng bằng thắng trí của mình. Ðúng ra, con người này do
tứ đại hợp thành. Khi mạng chung, địa đại trở về với
đất, thủy đại trở về với nước, hỏa đại trở về
với lửa, phong đại trở về với không khí và các căn tan
biến vào cõi hư vô. Cả năm, nghĩa là bốn kẻ gánh quan
tài và thi thể trong quan tài là năm, cùng đi đến nơi hỏa
táng. Bọn người kiêng xác cứ ca ngợi tán dương cho đến
tận nơi kia, nơi đống xương hóa ra màu trắng xóa và lễ
vật trở thành tro bụi. Chỉ có người ngu si truyền bá
các sự bố thí tế lễ. Khi chúng bảo có ích lợi cho việc
kia, đó chỉ là lời dối trá trống rỗng. Kẻ ngu cũng như
người trí, khi thân hoại mạng chung đều hủy diệt, tiêu
vong, không còn tồn tại sau khi chết". (DN 2.23)
Thật khó tưởng tượng rằng Ajita, người không
đưa ra một tia hy vọng nào về đời sau hay con đường giải
thoát, lại có thể được Sa-môn nào theo làm đồ đệ. Hình
như vị ấy xuất hiện như một diễn giả đơn độc và chỉ
có đám đệ tử tại gia mà thôi.
4) Pakudha Kaccàyana:
Một lý thuyết về nguyên tử của vật chất
được Pakudha Kaccàyana đề xướng, từ đó vị này rút ra
những kết luận thô thiển hạ liệt. Ta chỉ đây là một
người thuộc giai cấp Bà-la-môn qua danh tánh ấy. Vị này
công nhận có bảy yếu tố căn bản hay thân
(kàya) thuộc về bảy loại hoàn toàn khác biệt
do đó mọi vật được cấu thành. Chúng không được sáng
tạo, thường hiện hữu và bất biến. Bảy yếu tố căn bản
ấy là: đất, nước, lửa, gió, lạc, khổ và linh hồn hay
mạng căn (Jìva).
"Không có người bị giết hay người chết,
không có người nghe hay người nói, cũng không có người biết
hay người cho biết. Bất kỳ ai chặt đầu người khác với
kiếm sắc bén cũng không đoạt mạng sống của ai cả. Kẻ
ấy chỉ xuyên lưỡi kiếm vào khoảng hư không nằm giữa bảy
yếu tố kia (chứ không làm hại vật gì cả). (DN 2.26)
Sự thật là bảy yếu tố căn bản kia, nếu
được phối hợp thành một tổng thể có sức sống, khả
dĩ bao hàm một hiện tượng cao quí hơn, vĩ đại hơn con số
cọng đơn giản tất cả yếu tố lại, rõ ràng điều này
không soi sáng vào lý luận của Pakudha. Tuy nhiên ,về phương
diện lịch sử, đạo sư này cũng có địa vị quan trọng
như một người chủ trương thuyết nguyên tử vật chất đầu
tiên của Ấn Ðộ. Bảy yếu tố căn bản của vị này về
sau được phái Ajivika phương nam tiếp nhận, vì vậy đôi
khi vị ấy cũng được gọi là một vị Ajivita.
5) Sanojaya Belatthipputta:
Kinh điển Phật giáo đưa ra một hình ảnh
khá mờ nhạt về vị này, có lẽ đây chính là vị Sanojaya
ở Ràjagaha đã có thời là đạo sư của hai tôn giả
Sàriputta và Moggallàna. Trong cuộc đàm luận với vua
Ajàtasattu, vị này tự xem mình là một người theo thuyết
hoài nghi và bất khả tri, bài bác mọi lý thuyết không được
thiết lập trên quan sát và kinh nghiệm. Có lẽ triết lý
này cũng có một ý nghĩa nội dung tích cực nào đó, song nếu
vậy thì nội dung ấy đã không tồn tại qua hai ngàn năm
trăm năm kể từ thời sơ khai.
6) Nigantha Nàtaputta (nam tử của gia tộc
Nàtha theo phái Ly Hệ Phược), có tên riêng là Vardhamàna,
và là con trai của vị võ tướng quý tộc nhiều quyền lực
Siddhattha cùng phu nhân Trisalà. Vị ấy sinh năm 557 trước CN
tại Kundagràma (nay là Basukund) gần Vesàli, về sau nỗi tiếng
hơn với các danh hiệu tôn quý như Mahàvìra (Ðại Hùng) và
Jina (Thắng Giả). Tên gọi tôn giáo của đạo sư này, Kỳ-na
giáo, phát xuất từ biệt hiệu thứ hai.
Vardhamàna lớn lên trong hoàn cảnh gia đình hưng
thịnh, tiếp nhận một nền giáo dục thông thường của một
vị Sát-đế-lỵ. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy kết
hôn và có một con gái. Cha mẹ vị này theo giáo lý của
Pàrsva (Nàtha), có lẽ đó là một đạo sư có thật trong lịch
sử, tương truyền xuất thân từ Benares, sống vào thế kỷ
thứ tám trước CN và đám môn đồ được gọi là Nigantha
(Ni-kiền-tử: Ly hệ phược). Họ theo giáo phái khổ hạnh
thật nghiệm khắc đến độ, muốn đạt thanh tịnh bản thân
để tiêu trừ nghiệp quá khứ (kamma), họ nhịn đói cho đến
chết. Theo bước chân cha mẹ, ngoài Vardhamàna, vị huynh trưởng
Nandivardhana cũng là một Ni-kiền-tử. Sau khi cha mất,
Nandivardhana lãnh nhiệm vụ chính trị của cha và dùng thế
lực ở Vesàli để truyền bá đạo Ni-kiền-tử.
Hai năm sau khi cha mẹ nhịn đói đến chết, vào
dịp đầu mùa đông, Vardhamàna từ giã gia đình để theo đời
Sa-môn. Thời ấy, (527 trước CN) vị này được ba mươi tuổi.
Vì tuân thủ lời dạy của sơ tổ Pàrsva, vị ấy không cần
tìm một đạo sư mới mà chỉ sống theo Giới Luật của sơ
tổ. Trước tiên, vị ấy làm du sĩ khổ hạnh, chỉ đắp một
y, nhưng sau mười ba tháng vị ấy bỏ y này và từ đó
"mặc y không khí:, tức là lõa thể, một tập tục mà
đồ đệ một thời của vì này là Makkhali Gosala, một du sĩ
Ajivika, đã chấp nhận.
Vardhamàna tự buộc mình theo những điều luật
khắc nghiệt, tương truyền là đã dựng một bức tường
cao quanh mình để hành thiền bên trong. Suốt hai năm hai tháng
vị ấy vẫn ở chỗ cũ theo cách này, và sau đó bắt đầu
du hành, dần dần tiến về hướng đông từ vùng "Trung
Nguyên" vào phía Tây vịnh Bengal ngày nay, và có lẽ ra tận
biển. Việc tiếp xúc của vị ấy với quần chúng miền đông
Ấn không được hoàn toàn tốt đẹp, vì dân chúng ở đó
xem hình thức lõa thể là vô liêm sĩ và không hiểu được
lối sống khất sĩ. Ðôi khi họ còn thả chó ra vồ cả
Sa-môn lõa thể kia nữa!
Vardhamàna sống đời khổ hạnh cùng cực, dù
vị ấy chưa theo đuổi một kiểu hành hạ xác thân nào. Sự
kiện Giác Ngộ của vị này được xem là đã khiến vị
này thành bậc Toàn Tri Kiến xuất hiện sau mười hai năm sống
đời du sĩ không nhà, nghĩa là năm 515 trước CN. Khung cảnh
giác ngộ là một cây Sàla gần Jrimbhikagràma. Do giác ngộ,
đạo sư Vardhamàna trở thành Thắng Giả (jina) cùng với
danh hiệu này, thời kỳ bị quần chúng bài xích cũng qua
đi: vị Thắng Giả đã được thiên hạ đối xử tôn
kính.
Sau ba mươi năm hành đạo và tạo nên sự nghiệp
thành công với địa vị giáo chủ, Mahàvìra từ trần tại
Pàvà (nay là Pàvapurì) gần Patna vào năm 485 trước CN ở tuổi
bảy mươi hai. Cũng giống như cha mẹ đạo sư này nhịn đói
cho đến chết. Vị ấy để cho hậu thế một hội chúng
Sa-môn và đệ tử tại gia, cả nam lẫn nữ, ít hơn số
tăng chúng Phật giáo hay phái Ajivika, nhưng cũng khéo tổ chức
theo đoàn thể. Giáo lý Nigantha được vị này phục hưng, dần
dần theo thời gian được gọi là Kỳ-na giáo, tồn tại ở
Ấn Ðộ cho đến nay và có khoảng hai triệu môn đồ, phần
lớn ở Bombay.
Ðại cương giáo lý Kỳ-na mà chúng ta thấy
được trong Kinh Tạng Pàli (DN 2.29) thiếu mất điểm trọng
yếu của hệ thống này. May mắn là chúng ta không cần phải
theo nguồn Kinh điển ấy, vì chính môn đồ Kỳ-na giáo có
nguồn thánh điển bao quát đầy đủ được chép thành văn
vào thế kỷ thứ năm sau CN và lưu truyền theo ngôn ngữ
Ardhamagàdhì (ngôn ngữ của sư tổ Mahàvìra), Apadhramsa và
Sanskirt.
Ngoài ra, văn học của dân chúng Ấn Ðộ chịu
nhiều ảnh hưởng của đạo Kỳ-na. Giáo phái này xem việc
bảo tồn các kinh sách cổ điển quan trọng là công đức tạo
phước nghiệp bằng cách chép tay hay in lại các sách này hư
nát sau khoảng chừng một trăm rưỡi năm.
Cũng như Phật giáo, đạo Kỳ-na không tin vào
sự tăng hay giảm theo định kỳ của thế giới. Thế giới
xưa nay vẫn tồn tại như vậy và không hoại diệt, mặc
dù mọi hình thức thay đổi cứ tiếp diễn trong đó và mọi
hoàn cảnh luôn biến dịch. Vạn pháp diễn ra theo qui luật
nhân quả tự nhiên và không có một vị thần linh nào kiểm
tra cơ chế của thế giới cả. Mọi sự can thiệp từ bên
ngoài vào qui luật tự nhiên là điều không thể có được.
Toàn thể thế giới gồm các yếu tố phi sinh
mạng và sinh mạng, điều này được phái Kỳ-na phân biệt
rất rõ ràng. Lãnh vực phi sinh mạng (ajìva) bao gồm năm thể
loại, hình thái, và thực tại, đó là: không gian, chuyển
động, đình chỉ, thời gian và vật chất (pudgala). Vật chất
(tức là đất, nước, lửa, không khí) do các nguyên tử
(anu) tạo thành, các nguyên tử này không thể phân chia nhỏ
hơn nữa. Các nguyên tử kết hợp cùng với nhiều nguyên tử
khác, và từ sự hòa đồng này phát sinh nhiều biểu hiện
vật chất đa dạng mà ta có thể thấy được. Bóng tối,
ánh sáng, âm thanh và tiếng động cũng đều được xem là
vật chất.
Trái với lãnh vực phi sinh mạng ấy là lãnh vực
sinh mạng (jìva). Vô số linh hồn hay tự ngã riêng biệt
(àtman) thuộc về lãnh vực này, chúng trường tồn, có ý
thức, toàn tri kiến, vô ưu và hoàn hảo, bao lâu chúng chưa
bị suy thoái thành các "sinh mạng" (jìva) hay
"linh hồn nhập thể" do sự ô nhiễm từ bên ngoài.
Cả hai từ àtman và jìva đều chỉ chung linh hồn, theo cách
nó hiện hữu trong trạng thái thanh tịnh hay trạng thái nhập
thể. Tất cả mọi atmans đều giống nhau, trong khi các
jìvas lại khác nhau do quá trình hiện thân nhập thể ấy.
Sự suy thoái của àtman thành một jìva do sự
lắng động một chất bất tịnh tinh tế tạo nên, mắt thường
không thấy được, nó dính vào àtman như thể các hạt bụi
dính vào một bề mặt trơn láng. Theo cách này, àtman trước
hết tạo ra một thực thể tâm linh, sau đó là một thực
thể vật chất. Thực thể này ban đầu che dấu và cuối
cùng bao phủ lên mọi tính chất căn bản àtman. Như thế
àtman trở thành một jìva, là một hữu tình sống thực bị
trói buộc vào vòng luân hồi sanh tử (samsàra), vì vậy phải
chịu đựng khổ đau triền miên tái diễn.
Mọi khổ đau phát xuất từ sự trói buộc
linh hồn vào thể chất. Các jìvas không chỉ là loài người,
sinh vật, mà còn là cỏ, cây, đất, nước, lửa, gió, cho
đến đá, sỏi nữa. Các loài vật này có một linh hồn tập
thể. Theo quan điểm Kỳ-na giáo như thế, phần lớn các phạm
vi hiện hữu đều sống động, trong khi các trường phái tư
duy khác thường xem chúng là vô tri, bất động. Niềm tin này
giải thích sự quan tâm đặc biệt của người theo đạo Kỳ-na
tránh làm hại môi trường xung quanh.
Sự trói buộc (yoga) các linh hồn vào thế giới
vật chất và vòng luân hồi sanh tử đã xuất hiện từ thời
vô thủy. Nó được tạo ra bởi các nghiệp (karman) từ ý,
khẩu, thân của mỗi vị hữu tình. Mọi hành động dù thiện
hay ác, đều cuộn lên những hạt bụi của nghiệp lực -được
gọi là những karman trong thuật ngữ Kỳ-na giáo - chúng làm
cấu uế sinh mạng tức là người hành động: những karman
này được xem là các "chất tội lỗi" tinh tế.
Các hành động độc ác và ích kỷ tạo nhiều bụi bặm ô
nhiễm nghiệp lực hơn các hành động khác, và càng trói chặt
loài hữu tình vào vòng luân hồi hơn nữa.
Cứu cánh của Kỳ-na giáo là giải thoát linh hồn
khỏi vòng tái sanh. Giải thoát, nghĩa là biến đổi sinh mạng
(jìva) trở về trạng thái linh hồn (àtman) thanh tịnh, được
thực hiện bằng cách sống cho hết mọi nghiệp quá khứ
(karman), như vậy chúng được tận diệt, đồng thời bằng
cách không tạo thêm các nghiệp mới. Phương pháp đi đến
cứu cánh này qua nhiều kiếp tái sanh thật trường kỳ và
khổ đau. Phái Kỳ-na do vậy nhận định rằng chỉ có một
số ít hữu tình đi con đường ấy cho đến đích, còn đa
số phải chịu tái sanh vĩnh viễn.
Ðể hủy diệt các nghiệp cũ càng nhanh càng tốt,
nhiều người theo đạo Kỳ-na thực hành nhiều giới khổ hạnh
khắc nghiệt gồm cả nhịn ăn đến chết. Chết do khổ hạnh
thì được chấp nhận, mặc dù tự sát thông thường được
xem là dấu hiệu của hèn nhát. Nhằm mục đích đề phòng
các nghiệp mới sanh khởi, họ thường theo nếp sống vô
cùng nghiêm ngặt.
Tất cả mọi đệ tử Kỳ-na giáo, tu sĩ cũng
như tại gia, có năm điều luật căn bản (vrata), được suy
diễn là khá nới lỏng đối với cư sĩ, nhưng cực kỳ
nghiêm khắc đối với tu sĩ, đó là: không hại bất cứ
jìva nào (ahimsà), không trộm cắp hoặc nói dối, sống tiết
chế nhục dục và không tạo quá nhiều tài sản.
Con đường đi đến giải thoát dành cho cư sĩ
được chia làm mười một giai đoạn (pratimà). Vì không thể
nào tránh làm hại các sinh vật bé nhỏ ở trong đất, nên
giữa các nghề, người thế tục bị cấm làm nghề nông.
Thế là cộng đồng cư sĩ đạo Kỳ-na đa số gồm thương
gia, nhiều người đã trở thành giàu có nhờ buôn bán vàng
ngọc. Vàng ngọc là vật vô tri, do vậy sử dụng chúng
không làm hại jìva nào cả.
Chứng đắc viên mãn (siddhi) và giải thoát
(moksa) chỉ có thể do giới tu sĩ thành tựu. Ðiều này cốt
yếu là giải thoát linh hồn, phục hồi sự thanh tịnh của
àtman. Những ai được giải thoát (kevalin) sau khi chết sẽ
cư trú trên cõi trời cao hơn vũ trụ này. Tại đó họ tồn
tại như những linh hồn phi thể chất trong một trạng thái
cực lạc toàn tri kiến, bất động, ly hỷ, vô ưu.
Trên đây là sơ lược giáo lý Kỳ-na, mặc dù
một vài điểm có thể đã được phân loại về sau, tuy
nhiên, điều chắc chắn là các tư tưởng tinh túy đều đã
có từ thời tổ sư Mahàvìra, thậm chí cả tổ Pàrsva nữa.
Kinh điển Pàli không có dấu hiệu nào cho thấy
đức Phật đã từng đích thân hội kiến bất kỳ ai trong
số lục sư ngoại đạo danh tiếng ở thời ngài cả. Theo
nguyên tắc ngài tránh các cuộc gặp mặt như vậy (Snip 828,
912) mặc dù rất có thể là ngài sẽ thắng trong bất kỳ
cuộc tranh luận nào với chư vị ấy. Ngài được xem là một
đối thủ đáng kính nể, khó thắng được.
"Sa-môn Gotama đầy mưu lược, vị ấy biết
nhiều xảo thuật mê hoặc lôi cuốn (tức là cảm hóa) các
đệ tử ngoại đạo". Vị đệ tử Kỳ-na giáo
Dìhatapassin (Trường Khổ Hạnh Giả) tường trình với đạo
sư Mahàvìra của mình như vậy, sau khi đã tranh luận với
đức Phật (MN 56). Tổ Mahàvìra có lễ cúng để dễ dàng tạo
được một số ý kiến cá nhân đánh giá "Sa-môn
Gotama", vì cả hai vị đều ở gần nhau tại Nàlandà
(MN 56). Về phương diện khác, đức Phật cũng không quan
tâm đến việc kết giao với tổ Mahàvìra.
Trong hai thập niên hoằng pháp đầu tiên, việc
hóa đạo của đức Phật thành công tương đối dễ dàng.
Nhiệt tình của ngài còn tinh nguyên và truyền cảm, trong
khi các giáo lý đối lập lại yếu hơn. Ðám người cạnh
tranh gay gắt để chiếm ưu thế giữa quần chúng và các đạo
sư đối lập điêu luyện chỉ xuất hiện dần theo thời
gian, trước tiên từ phái jìvikas, về sau từ phái Kỳ-na.
Trong thập niên cuối cùng của đời ngài, hầu như chỉ còn
phái Kỳ-na là nhóm triết gia đối lập với ngài.
Mặc dù đức Phật chưa bao giờ đích thân gặp
mặt bất cứ vị lãnh đạo nào của các giáo phái khác,
thông thường đệ tử của các đạo sư ấy, nhất là của
tổ Mahàvìna, vẫn đến yết kiến ngài. Kinh điển Pàli tường
thuật nhiều cuộc viếng thăm kia, ví dụ như sau:
"Một thời, Thế Tôn trú tại Nàlandà, ở
tinh xá trong Vườn Xoài Pàvàrika. Rồi thôn trưởng
Asibandhakaputta, đệ tử của đạo sư Lõa thể Mahàvìra đến
yết kiến Thế Tôn. Khi vị ấy ngồi xuống bên tả Thế
Tôn, Thế Tôn hỏi:
-Này thôn trưởng, giáo pháp của Nigantha
Nàtaputta dạy đệ tử thế nào?
-Bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta dạy như vầy:
" Bất cứ ai sát hại sinh mạng, tất cả
chúng đều phải vào đọa xứ, địa ngục. Bất cứ ai lấy
của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, tất
cả chúng đều phải vào đọa xứ, địa ngục. Theo cách một
người có thói thường sống như thế nào, kẻ ấy đi về
hướng sanh thú ấy". Bạch Thế Tôn, như vậy là giáo
pháp mà Nigantha Nàtaputta dạy đệ tử".
-Này thôn trưởng, ông nói: "Theo cách một
người có thói thường sống thế nào thì kẻ ấy đi
về hướng sanh thú ấy". Song nếu sự tình là như vậy,
thì không ai vào đọa xứ, địa ngục cả. Vì ông nghĩ thế
nào, này thôn trưởng? Nếu một người thỉnh thoảng có
sát sanh, thì thời nào là thông thường hơn (= nhiều hơn)
đối với kẻ ấy: thời gian kẻ ấy sát sanh hay thời gian
kẻ ấy không sát sanh?
-Bạch Thế Tôn, dĩ nhiên thời gian kẻ ấy
không sát sanh là thường hơn.
-Nhưng ông nói: "Theo cách một người có
thói thường sống như thế nào, thì kẻ ấy đi về hướng
sanh thú ấy". Do vậy, theo giáo pháp của Nàtaputta, không
ai được đọa xứ, địa ngục cả.
(Ðiều này cũng phù hợp với các ác nghiệp
được tổ Mahàvìra bác bỏ).
Này thôn trưởng, một đạo sư khác thuyết giảng
(điều trái ngược hẳn với những gì Mahàvìra tuyên bố)
và đệ tử đặt lòng tin vào thầy mình. Kẻ ấy nghĩ:
"Thầy tuyên bố rằng bất cứ ai sát sanh - tất cả
chúng đều vào đọa xứ, địa ngục. Nay ta cũng đã sát
sanh, vậy ta sẽ phải vào đạo xứ, địa ngục". Và bởi
vì kẻ ấy chấp chặt tà kiến kia, không buông bỏ tà kiến
kia, chắc chắn kẻ ấy phải vào địa ngục, đọa xứ.
* Nhưng ở đây, này thôn trưởng, Như Lai xuất
hiện ở đời, bậc A-la-hán Cánh Ðẳng Giác. Như Lai kịch
liệt chỉ trích sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong
các dục, và nói láo. Vị đệ tử đặt lòng tin vào đạo
sư, bèn suy nghĩ: "Nay ta đã sát sanh. Việc ấy là không
đúng, như vậy là không tốt. Phải luôn ghi nhớ rằng hành
động ác kia ta đã lỡ làm, nay ta hãy ăn năn hối cải".
Và do suy nghĩ như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh và bằng
cách này vị ấy vuợt qua ác nghiệp (kamma)... và đồng thời
tu tập chánh kiến, hộ trì các căn, phát triển thiền định,
quán từ âm...
Cũng giống như chiếc tù và bằng vỏ ốc vang
dội bốn phương, vị ấy biến mãn khắp bốn phương với
tâm từ, bi, hỷ, xả, vô lượng, vô biênẨ, này thôn trưởng,
nhờ từ tâm giải thoát và xả tâm giải thoát được tu tập
như vậy, phàm việc gì có hạn lượng sẽ không có dư tàn,
sẽ không còn tồn tại".
Khi nghe những lời này, thôn trưởng
Asibandhakaputta thưa với Thế Tôn:
" Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn, thật
hy hữu thay, bạch Thế Tôn, ước mong Thế Tôn nhận con làm
cư sĩ tại gia quy ngưỡng Thế Tôn từ nay cho đến trọn đời".
(SN 42.2,8 giản lược)
Bài kinh này thật thú vị, không chỉ vì miêu
tả một cuộc thảo luận giữa các giáo phái, mà còn vì kỹ
thuật biện luận được đức Phật dùng ở đây, kỹ thuật
này có thể được gọi là "phương pháp hạn chế".
Sau khi nêu rõ lý thuyết về nghiệp (kamma) của Mahàvìra là
cực đoan A (các hành động ác thỉnh thoảng xảy ra không
đưa đến nghiệp quả), và của một đạo sư khác là cực
đoan Z (tất cả các hành động ác đều đưa đến nghiệp
quả), ngài trình bày lý thuyết về nghiệp của ngài
là Trung Ðạo M hợp lẽ phải: " Nghiệp quả của một
hành động ác có thể được khắc phục nhờ ăn năn hối
cải và tu tập phát triển công đức giới hạnh". Cả
trong thực chất của vấn đề cũng như phương pháp lý luận,
ở đây đức Phật đều chứng minh Trung Ðạo của ngài.
Ðức Phật không đánh giá cao khả năng thuyết
giảng cùng giáo lý của tổ Mahàvìra. Ngài bảo chư Tỳ-kheo,
các giáo lý Kỳ-na không thỏa đáng từ bất cứ quan điểm
nào. Bởi vì nếu khổ lạc của chúng sanh đều do nghiệp
quá khứ quyết định thì mọi đệ tử phái Kỳ-na, những
kẻ sống theo Giới Luật khắc nghiệt, phải chịu đựng quá
nhiều khổ đau như vậy, chắc hẳn phải là những kẻ tạo
nhiều ác nghiệp trong kiếp quá khứ. Hoặc nếu ta giả thiết
khổ lạc đều do một đấng sáng tạo nào đó, hoặc do ngẫu
nhiên, thì hẳn mọi đệ tử Kỳ-na phải do một đấng Sáng
Tạo ác độc tác thành, hoặc là kết quả của tai họa ngẫu
nhiên đầy bất hạnh. (MN 107)
Trí tuệ linh hoạt mẫn tiệp của đức Phật
khiến ngài dễ dàng phản bác các triết lý đối lập bằng
cách nêu ra các điểm mâu thuẫn nội tại của họ. Một
ví dụ là cuộc đối thoại với vị thôn trưởng phái Kỳ-na
vừa nêu trên, một ví dụ khác là cuộc đàm luận của
ngài đối với du sĩ ngoại đạo Dìghanakha Aggivessana, con
trai của bà chị tôn giả Sàriputta (MN 74). Dìghanakha (Trường
Trảo) đến yết kiến đức Phật trên núi Linh Thứu
(Gijjhakuta) gần Ràjagaha, và nêu quan điểm: "Tất cả đều
không làm tôi thích thú". Ðức Phật đáp rằng nếu tất
cả (sabbam) đều không làm vị ấy thích thú, thì điều này
phải bao gồm luôn cả triết lý với vị ấy nữa. Túng thế,
Dìghanakha buộc phải thừa nhận điều này chính là vậy.
Sau đó đức Phật thuyết giảng rằng những quan niệm đầy
mâu thuẫn nội tại như vậy làm chướng ngại sự an tịnh
của tâm. Cứu cánh giải thoát chỉ có thể đạt được bằng
cách từ bỏ mọi hý luận triết lý, nhờ tuệ giác thấu
triệt bản chất như thật của hiện hữu, sắc thân là vô
thường, khổ, vô ngã (tức là không có bản ngã tồn tại
sau khi chết). Nhận thức này sẽ đưa đến yếm ly mọi cảm
thọ (khổ, lạc, bất khổ bất lạc), ly tham, giải thoát
và đoạn tận tái sanh. Dìghanakha cảm phục khi nghe lời
thuyết giảng này, liền xin gia nhập hội chúng cư sĩ tại
gia của đức Phật.