Chương
I
563
- 528 trước CN
Thời Niên Thiếu - Cuộc Tầm Cầu - Giác Ngộ
-oOo-
BỐI
CẢNH VÀ NỀN CHÍNH TRỊ Ở BẮC ẤN THẾ KỶ THỨ SÁU TRƯỚC
CN
Trên sân ga thành phố Ðại
Học Bắc Ấn ở Gorakhpur, ta có thể thấy ngoài số du khách
Ấn Ðộ, còn có du khách từ Nhật Bản, Srilanka, Thái Lan,
Miến Ðiện cũng như đám người Tây Tạng tha hương và du khách
Tây phương nữa. Họ là những người chiêm bái, trên đường
đi viếng nơi đức Phật đản sanh tại Lumbini (Lâm-tì-ni) và
nơi Ngài diệt độ tại Kusinàrà (Câu-thi-na). Vì bình nguyên
Bắc Ấn này nằm giữa vùng đồi núi Himalayas (Tuyết Sơn) và
lưu vực sông Gangà (Hằng Hà) là thánh địa Phật giáo, chính
tại đây đức Phật tuyên bố các Thắng Trí của Ngài,
khoảng giữa năm 528 và năm 483 trước Công Nguyên, và cũng là
nơi khai sinh Giáo hội Tăng già đầu tiên. Từ đây, lời
dạy của bậc Ðạo Sư bắt đầu bước đường chinh phục
nhiều vùng châu Á một cách hòa bình êm đẹp.
Phong cảnh này vào thời
đức Phật là vùng rừng rậm, trải dài từ cao nguyên Tarai
trên triền dãy Tuyết Sơn khoảng 300km xuống dần về phía
nam thành một bình nguyên mang đủ hình dáng ruộng đồng và
lác đác vài ngôi làng ẩn nấp dưới những đám cây mọc
rải rác trong ánh mặt trời gay gắt, một vài chỗ bị gián
đoạn bởi các sông ngòi chảy chầm chậm đưa những chiếc
thuyền gỗ buồm xám dong ruỗi nhàn nhã. Các khu thành thị chính
ở đây là Allàhabàd, Vàranasì (Benares) và Patna.
Ðó là cách sinh hoạt thông
thường giữa tháng năm và tháng sáu, lúc khí hậu lên cao 400C,
nhưng phong cảnh và các thị trấn lại hoàn toàn đổi khác
khi gió mùa chợt bùng ra giữa tháng sáu, trước đó đã ùa
đến từ vùng đông nam theo những khối mây khổng lồ đùn lên
dày đặc. Rồi những trận mưa ào ào như thác dữ dội đổ
xuống đất hằng giờ khiến mặt đất trở thành một cánh
đầm lầy, những dòng sông trước đây hiền hòa nay tràn
bờ cuồn cuộn chảy xiết.
Chẳng bao lâu sức nóng
trở nên oi bức lạ thường, da con người phát nóng khô nứt
nẻ và ngứa ngáy rất khó chịu. Nhưng dần dần nhiệt độ
hạ xuống làm không khí từ tháng mười đến tháng ba
(khoảng 150C) thật ôn hòa dễ chịu. Tháng giêng
trời có thể trở rất lạnh khoảng 30C ban đêm và
những thương nhân tạp hóa có dịp đem mền bông ra bán.
Dần dần cột thủy ngân lại
lên cao và từ tháng tư một thời kỳ nóng bức lại bắt đầu.
Ánh sáng chói lọi của đám cây rừng bừng ra từ những chùm
hoa đỏ như khối hồng ngọc rực rỡ. Trời càng nóng dần,
các loài chim cu gáy lại càng cất tiếng hót lanh lảnh, do đó
làm cho làn không khí oi bức thêm khiến con người mỏi mệt
không sao ngủ được.
Môi trường và khí hậu
chi phối cách sống của dân chúng như vậy, hoàn cảnh xã
hội chính trị cũng không kém. Trong khi lịch sử Ấn Ðộ trước
thời đức Phật bị một màn sương mù của dĩ vãng xa xưa
bao phủ, thì vào thế kỷ thứ sáu, bức màn ấy được vén
lên để lộ cho ta nhận ra bối cảnh chính trị trong vùng
tiểu lục địa này. Các sự kiện quan trọng và các nhân
vật trở nên rõ nét với những khả năng, đặc tính, ước
vọng chẳng khác gì các nhân vật thời đại chúng ta xuất
hiện. Và chính Kinh Ðiển Phật giáo đã truyền đạt tất
cả những điều ấy cho chúng ta.
Tuy nhiên việc đó không
phải nhằm mục đích ghi chép lịch sử, vì người Ấn Ðộ
thời ấy không xem các biến cố chính trị là chuyện xứng
đáng cho ta gìn giữ trong tâm trí. Ðối tượng của các nhà
biên niên sử đạo Phật là truyền bá Chánh Pháp (Dhamma)
do đức Thế Tôn tuyên thuyết trong các bài kinh của Ngài và
công bố đây là con đường độc nhất dành cho những người
đi tìm sự cứu độ trong tương lai.
Sau khi được truyền
khẩu qua hàng thế kỷ, Kinh Ðiển ấy được ghi chép không
bao lâu trước Công nguyên. Từ những lời phát biểu về nơi
chốn, cơ hội, hoàn cảnh của các bài kinh Phật, và từ các
Bộ Luận giải chúng, thời đại của đức Phật trở nên
thật sống động đối với chúng ta.
Nếu Vệ-đà, các tác
phẩm văn học tối cổ của Ấn Ðộ phản ảnh nếp sống thôn
quê, thì trong Kinh Ðiển Phật giáo ta thấy cả bức tranh văn
hóa thành thị. Ta cũng nghe nói đến làng mạc nông dân, nhưng
đặc biệt là các thành phố tạo nên bối cảnh cho đức
Phật hoằng Pháp, chúng là các tụ điểm của đời sống chính
trị và thương mại phồn vinh. Nhân vật trung tâm của xã
hội ấy là một vua cai trị địa phương (ràja) mà các
quyết định của vị này còn tuỳ thuộc vào hội đồng và
thường cũng cần phải tuỳ theo lòng trung thành đối với
vị đại vương (mahàràja).
Theo Kinh Ðiển Phật giáo,
toàn cảnh chính trị của vùng đồng bằng trung tâm sông
Hằng trong thế kỷ thứ 6 trước CN do bốn vương quốc, một
số nước cộng hòa theo chế độ tập quyền và các nhóm
bộ tộc quyết định.
Phía bắc sông Hằng là
vương quốc Kosala (Kiều-tát-la) hùng cường với thủ đô Sàvatthi
(Xá-vệ) vào thời đức Phật, nước này được các Ðại vương
liên tục trị vì, đó là Mahàkosala, Pasenadi và Vidùdabha. Ngoài
Sàvatthi, các thành phố quan trọng khác của Kosala là Sàketa
(hay Ayojjha), cố đô, và Varanasi (Benares, Ba-la-nại), thánh địa
để chiêm bái. Ðại vương Kosala, ngoài lãnh thổ trung ương,
còn ngự trị thêm hai nước cộng hòa và ba bộ tộc khác
nữa.
Phía Tây nam Kosala, nằm
trong góc giữa sông Hằng và sông Yamunà (Diệm-mâu-na) là
tiểu quốc Vamsà (hay Vaccha) với thủ đô Kosambì (Kiều-thưởng-di)
và trung tâm chiêm bái Payàga (nay là Allàhabàd). Quốc vương
Vamsà là Udena, con vua Parantapa.
Tiểu quốc Avanti (sát
Magadha) trải dài dưới quốc độ Vamsà và Kosala đến phía
nam sông Hằng. Quốc vương Pajjota ngự trị tại thành Ujjenì,
nhưng ở miền nam nước này lại có một thủ đô thứ hai là
Màhissati. Xứ Avanti nằm phía ngoài khu vực được đức
Phật du hành nhưng lại được đệ tử ngài là tôn giả Mahàkaccàna
(Ðại-Ca-chiên-diên) giáo hóa theo đạo Phật.
Cuối cùng là vương
quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) trải dài, giáp Avanti về phía đông
và sông Hằng về phía bắc. Sự phồn thịnh của xứ này
phần lớn dựa vào các quặng sắt do việc khai thác mỏ không
xa kinh đô Ràjagàha (Vương Xá), vừa phục vụ thương mại
xuất khẩu vừa sản xuất vũ khí trong nước. Các Ðại vương
Bhàti (hay Bhàtiya) và Bimbisàra (Tần-bà-sa-la kết hôn với
chị của vua Pasenadi nước Kosala) liên tục ngự trị tại thành
Vương Xá, còn vua Ajàtasattu (A-xà-thế) dời kinh đô từ Vương
Xá đến Pàlaliputta (nay là Patna). Vương tử kế vị vua Ajàtasattu
là Udàyibhadda, cũng như phụ vương mình, đã giết cha để
chiếm ngai vàng và sau đó cũng cùng chung số phận ấy dưới
tay con trai là Anuruddhaka.
Ngoài bốn quốc độ này,
vùng Trung Nguyên còn có nhiều xứ cộng hòa, tất cả đều
ở về phía đông Kosala và bắc Magadha. Các xứ này có tính cách
quý tộc tập quyền, mỗi xứ đều do một vua thống trị (ràja)
vừa chủ tọa hội đồng quốc gia vừa tự cầm quyền
nhiếp chính những lúc hội đồng không có kỳ họp. Chỉ các
thành phần giai cấp Khattiya (Sát-đế-lỵ _ quý
tộc) được bầu làm quốc vương, nghĩa là các vương tước
hay các chức vị trong hội đồng lãnh đạo đều dành cho người
ở giai cấp này. Tuy nhiên, các giai cấp khác cũng được nghe
các buổi hội nghị vì phòng hội đồng chỉ gồm một mái
che trên các cột trụ mà thôi.
Các xứ cộng hòa được
gọi tên theo nhóm quý
tộc lãnh đạo, nhóm này chỉ là một thiểu số trong toàn dân,
mà cho đến nay không lưu lại các con số rõ ràng nào cả.
Xứ cộng hòa của bộ
tộc Sakiyas (hay Sakya, Sakka, Thích-ca) thủ đô là Kapilavatthu
(Ca-tỳ-la-vệ) và vùng lãnh thổ cổ sơ hiện nay bị ranh
giới Ấn Ðộ _ Nepal chia cắt, thời ấy tiếp giáp
quốc độ Kosala về đông bắc và là một nước chư hầu
của đế quốc này. Ðức Phật là một người trong giới quý
tộc Thích-ca.
Cộng hòa Malla rất
rộng có đến hai vua thống trị ở Pàvà và Kusinàrà. Kusinàrà
được mô tả như một nơi chốn không quan trọng, nhưng chính
nơi đây bậc Ðạo Sư đã viên tịch trong Niết-bàn Tối
hậu (Parinibbàna).
Cộng hòa Licchavrì với
thủ đô Vesàli (Tỳ-xá-ly) và Cộng hòa Videha (Vi-đề-ha)
với thủ đô Mitthilà (Mi-thi-la) đã gia nhập vào liên bang
Vajji (Bạt-kỳ), có một thời lại liên kết thêm vài bộ
tộc khác nữa.
Ngoài các nước quân
chủ và cộng hòa còn có các bộ tộc. Chúng ta biết rất ít
về chế độ chính trị của họ, nhưng sự khác biệt giữa
các cộng hòa và bộ tộc hình như là ở điểm vị cai trị
bộ tộc không do dân bầu lên mà do các vị bô lão trong bộ
tộc chỉ định, và vị cai trị bộ tộc ấy cũng như các bô
lão đều không cần phải ở giới quý tộc Sát-đế-lỵ. Các
bộ tộc quan trọng là Koliyas (Câu-ly) ở phía đông nam cộng
hòa Sakiya, ranh giới của hai nước là con sông nhỏ bé Rohinì
(nay là Rowai). Xưa có nhiều liên hệ hôn nhân giữa hai dòng
họ Sakiyas và Koliyas này. Thủ đô của Koliyas là Ràmagàma
(hay Koliyanagara).
Xa hơn nữa lại có bộ
tộc Moriyas, thủ đô là Pipphalivana, vùng đất này tiếp giáp
vùng đất của bộ tộc Koliya, đến mãi tận phía đông.
Cuối cùng phải nói đến dòng họ Kàlamas, thủ đô là
Kesaputta. Xứ sở này nằm trong góc hướng về phía tây giữa
sông Ghàgra và sông Hằng.
Ðôi khi có ý kiến khác
nhau giữa các vương quốc, cộng hòa, bộ tộc ấy phần lớn
về quyền dẫn thủy nhập điền và đồng cỏ, nhưng thái độ
chung là cùng sống hòa bình. Bất cứ ai cũng có thể tự do vượt
qua biên giới chung giữa các chính thể khác nhau ấy. Ðây là
toàn cảnh địa lý, khí hậu và chính trị thời đức Phật
Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm) giáng sinh năm 563 trước
CN.
NGUỒN
GỐC THÁI TỬ SIDDHATTHA VÀ SỰ ÐẢN SANH CỦA NGÀI
Kapilavatthu, quê hương đức
Phật, nơi ngài sống hai mươi chín năm đầu tiên trong đời,
ở sát biên giới ngày nay ngăn chia nước Nepal và cộng hòa
Ấn Ðộ. Phụ vương đức Phật mệnh danh Suddhodana (Tịnh
Phạn)
thuộc bộ tộc Sakiya. Bộ tộc Sakiya gồm toàn các vị
Sát-đế-lỵ quý tộc vào thời ấy là thành phần giai cấp
cao sang, giai cấp võ tướng hay hơn nữa là đại thần lãnh
trách nhiệm cai trị và xử án tại cộng hòa Sakiya. Từ các
chức vụ này, vị tân vương thống trị nước cộng hòa và
đại diện toàn dân được bầu lên khi có nhu cầu. Vào
khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước CN, vua Tịnh Phạn giữ
ngôi vị Quốc trưởng.
Vua Tịnh Phạn kết hôn
với hai chị em ruột từ xứ Devadaha, bà chánh hậu Màyà
(Ma-gia) sau này thành mẫu thân Thái tử Siddhattha. Thứ phi ngài
là Pajàpati (hay Mahàpajàpati: Ma-ha ba-xà-ba-đề) sinh hai con: hoàng
nam là vương tử Nanda, chỉ sinh sau thái tử Siddhattha, anh khác
mẹ vài ngày, và công chúa Nandà hay Sundarìnandà. Cả hai bà Màyà
và Pajàpati đều thuộc về bộ tộc Sakiya. Kết hôn trong cùng
một bộ tộc phù hợp với quy luật hôn nhân nội tộc
thịnh hành thời ấy, mặc dù việc này cũng có thể bị coi
thường trong trường hợp có chuyện ái tình hay món hồi môn
đủ sức lôi cuốn.
Ðáng chú ý hơn, đặc
biệt ở giai cấp Bà-la-môn là nguyên tắc kết hôn ngoại
tộc chống việc kết hôn nội tộc, theo đó những người cùng
một họ (tộc tánh) không được phép kết hôn. Tộc tánh
của vua Tịnh Phạn là Gotama vì thế ngài không được phép
kết hôn với một phụ nữ cùng họ. Hẳn ngài đã tuân theo
tục lệ ấy và đã kết hôn với nhiều người ngoại tộc
nhưng việc này không có gì chắc chắn vì tộc tánh
Devadahasakka hoặc Anjana đều không được ghi trong sử. Tuy nhiên
ta chỉ nhìn vào bản gia phả là thấy rõ mối liên hệ
huyết thống mật thiết giữa vua Tịnh Phạn và hai bà hoàng
hậu chị em này: Mẫu thân của Ngài và phụ thân của hai bà
là anh em ruột, và phụ thân ngài cùng mẫu thân hai bà cũng
vậy. Nói cách khác, hai hoàng hậu là hai em họ ngài.
Kapilavatthu là kinh thành
quê hương của Thái tử Siddhattha, nhưng không phải nơi ngài
ra đời.
Như trong Nidànakatthà
(Duyên Khởi Luận), phần giới thiệu truyện Tiền Thân hay
Bổn Sanh (Jàtakas) kể câu chuyện thần thoại về hoàng hậu
Màyà đã bốn mươi tuổi, ngay trước thời kỳ lâm sản đã
lên đường trở về quê song thân ở
Devadaha để sinh con và nhờ mẫu thân Yasodharà bảo dưỡng.
Cuộc hành trình bằng xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc lư trên
những con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm
sản xảy ra sớm trước khi về đến Devadaha. Gần làng
Lumbini (Lâm-tỳ-ni, nay là Rumindai) giữa trời không có nhà
cửa che chở, chỉ có được tàng cây sàla (tên khoa học Shorea
Robusta) và cũng không có thầy thuốc nào lo việc hộ
sản, hoàng tử ấu nhi Siddhattha sinh ra đời khoảng tháng năm,
năm 563 trước CN.
Lumbini được các nhà
khảo cổ khai quật năm 1896. Di chỉ quan trọng nhất được tìm
thấy nơi ấy là một thạch trụ cao 6m5 do hoàng đế Asoka
(A-dục) dựng năm 245 trước CN với lời ghi:
“Hai mươi lăm năm
sau khi lên ngôi, quốc vương Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái
Thiện Kiến, tức A-dục) ngự đến đây chiêm bái, vì đức
Phật Thích-ca Mâu Ni, bậc Hiền Nhân của bộ tộc Thích-Ca,
đã đản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng
bằng đá và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở
làng Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ 1/4 theo lệ thường
xuống 1/8”.
Hơn nữa, một phiến đá
có lẽ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ hai sau CN được
tìm ra ở Lumbini và được lưu trữ tại một ngôi chùa nhỏ
địa .1pt"> phương. Phiến đá cho thấy hoàng hậu Màyà
sinh hoàng tử trong lúc đang đứng vịn cành cây sàla. Hình như
sinh con lúc đứng là một phong tục thời ấy.
Sau những cơn đau đớn
của sản phụ, hoàng hậu Màyà không thể tiếp tục cuộc hành
trình đến Devadaha nên đoàn tuỳ tùng ít ỏi của bà đưa bà
trở về Kapilavatthu, cả người mệt lã. Niềm hân hoan vì hoàng
tử ấu nhi của hoàng gia Gotama ra đời chẳng bao lâu lại
bị lu mờ vì nỗi lo âu trước sức khỏe suy nhược dần
của mẫu hậu. Bà trở nên yếu đuối vì cảm sốt đành
phải nằm trên giường nhìn mọi việc chuẩn bị cho ngày
lễ đặt tên thái tử.
Một
vị hiền triết được triệu vào cung để tiên đoán vận
mệnh của thái tử, đó là lão trượng Asita (A-tư-đà) một
thân hữu rất được hoàng tộc Gotama quý trọng, tên vị này
có nghĩa là “Bất Bạch” vừa chỉ làn da của vị ấy
vừa nói lên nguồn gốc sinh trưởng từ đám dân cư ngụ ở
Ấn Ðộ trước thời kỳ có dân chúng gốc Aryan. Vị hiền
nhân Asita vốn là tế sư của hoàng tộc Gotama suốt bao năm
qua. Trước tiên là dưới thời tiên vương Sìhahanu, phụ thân
của vua Suddhodana, sau đó đến chính thời vua Suddhodana trước
khi ngài lui về ẩn dật. Ngài xem xét vị hài nhi mới ra đời
ba ngày và tiên đoán căn cứ vào một số thân tướng rằng
đây quả là một vương tử phi thường sẽ trở thành một
vị Phật và sẽ chuyển Pháp Luân (S. Nip 693). Ngài ứa nước
mắt vì chính ngài sẽ không sống lâu nữa để nhìn thấy thái
tử Siddhattha thành Phật, và ngài căn dặn cháu trai mình là Nàlaka
nhớ rằng về sau phải làm đệ tử của đức Phật tương
lai này.
Hai hôm sau, tám vị Bà-la-môn
cử hành lễ đặt tên thái tử Siddhattha
. Các vị này cũng tiên đoán nhiều việc trọng đại trong đời
thái tử, hoặc sẽ thành bậc Giác Ngộ trên đường đạo giáo,
hoặc làm một đại vương trong đời thế tục đầy vinh
quang danh vọng. Vị trẻ nhất trong các vị Bà-la-môn này là
Kondañña(
Kiều-trần-như), người mà chúng ta sẽ gặp lại ba mươi năm
sau.
Còn đối với hoàng
hậu Màyà, lễ đặt tên hoàng tử hài nhi là phần kết thúc
của đời bà. Bảy ngày sau khi sinh con, cũng như nhiều sản
phụ khác trong các xứ nhiệt đới, bà lặng lẽ qua đời không
than vãn.
Tuy nhiên, hoàng tử ấu
nhi Siddhattha không lớn lên trong cảnh thiếu mẹ. Bà di mẫu
Pajàpati của thái tử, thứ phi của vua Suddhodana, là kế mẫu
thương yêu chăm sóc thái tử trong lúc chính bà cũng vừa sinh
hoàng tử Nanda, em khác mẹ của thái tử Siddhattha. Chuyện còn
kể rằng bà giao con mình cho một nhũ mẫu và chính bà dành
hết thì giờ tận tụy săn sóc hài nhi của cố hoàng hậu,
chị ruột bà.
VẤN ÐỀ
XÁC ÐỊNH NIÊN ÐẠI
Ða số sử gia Âu châu
nghiên cứu Ấn Ðộ cho rằng năm 563 trước CN là năm sinh
của đức Phật và cũng là niên đại sớm nhất được xác
nhận. Niên đại ấy được tính toán cách nào và khả năng
sai lạc lớn đến mức nào?
a) Vì sử sách cổ Ấn
Ðộ chỉ ghi các khoảng cách giữa các sự kiện mà không ghi
niên đại của các sự kiện ấy như các sử sách về sau,
cho nên muốn xác định niên đại trong sử Ấn Ðộ cần
phải thỉnh cầu đến các sử gia Hy lạp. Các quan hệ Ấn -
Hy phát triển là do kết quả chiến dịch Ấn Ðộ của Ðại
Ðế Alexander (327 trước CN). Vào khoảng năm 303 trước CN, Hoàng
đế Ấn Ðộ Candragupta Maurya (hay Candagutta Moriya, triều
Khổng Tước) đạt được một thỏa hiệp về lãnh thổ và
mở màn quan hệ ngoại giao với vị cựu đại tướng của
vua Alexander là Seleukos Nikator hiện thời cai trị thành
Babylonia. Qua các báo cáo của sứ thần Hy lạp là Megasthenes
được bổ nhiệm đến thủ đô Pàtaliputta (Patna ngày nay),
vua Candragupta dần dần được các sử gia Hy Lạp biết rõ qua
danh hiệu Sandrokottos trong tiếng Hy lạp, và nhờ các sử gia này,
chúng ta có thể tính niên đại ngài lên ngôi vào năm 321 trước
CN.
-Niên đại này còn cho
chúng ta xác định các niên đại của chuỗi sự kiện liên
tục được liệt kê trong sách sử ký tiếng Singhala là Dìpavamsa
(Ðảo Sử) và Mahavamsa (Ðại Sử) khoảng thế kỷ thứ
tư đến thứ sáu CN. Theo các sách này, (Dv5.100; Mhv 5.18), vua
Candragupta trị vì hai mươi bốn năm (đến 297), hoàng nam kế
vị ngài là Bindusàra (Tần-đầu-sa-la) trị vì hai mươi tám năm
(đến 269), tiếp đó là khoảng bốn năm trước khi Asoka, con
vua Bindusàra, lên ngôi bằng cách tiêu diệt tất cả hoàng gia
huynh đệ và tự làm lễ quán đảnh phong vương (Dv 6.21; Mhv.
5.22). Như vậy biến cố này có lẽ đã xảy ra vào năm 265 trước
CN.
Ta có thể nhìn lui về
ngày đức Phật đản sanh dựa vào lời xác nhận trong cả
hai sách sử ký này (Dv 6.1; Mhv 5.21) rằng vua Asoka lên ngôi hai
trăm mười tám (218) năm sau khi đức Phật diệt độ (Bát
Niết-bàn). Sự kiện này do vậy được ghi vào năm 483 trước
CN. Và vì Bậc Ðạo Sư sống đến tám mươi tuổi, năm đản
sinh của ngài nhằm vào năm 563 trước CN.
Mặc dù con số hai trăm
mười tám năm giữa thời đức Phật diệt độ và vua Asoka
tức vị được xem là đáng tin cậy, cách tính toán này cũng
có nhiều nhược điểm. Về một phương diện, các năm trị
vì của vua chúa thường được làm tròn cho chẵn số, và
một phương diện khác, ta không nên bỏ qua sự kiện là trong
sách Purànas (Chuyện Cổ Nhân) cho rằng vua Bindusàra
chỉ trị vì khoảng hai mươi lăm năm. Như vậy cách tính toán
dựa trên các sử ký cần được kiểm tra lại từ nhiều
nguồn khác nữa.
b) -Một nguồn thông tin
khác do các sắc dụ của hoàng đế Asoka cung cấp, các sắc
dụ này được hoàng đế Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái Thiện
Kiến, tức A-dục) truyền khắc lên đá và đặc biệt
truyền dựng thạch trụ khắp đế quốc vĩ đại của ngài.
Sắc dụ trên thạch trụ số XIII, ghi ngày chinh phục đẫm máu
nước Kalinga (Orissa) của vua Asoka tám năm sau khi ngài đăng
quang, và trụ này có lẽ được xây dựng mười hai năm sau
biến cố ấy, nêu danh tánh năm vị vua không phải người
Ấn Ðộ mà hoàng đế Asoka đã tiếp kiến, đó là: Antiochus
II của nước Syria, Ptolemy II của Ai Cập, Antigonus của
Macedonia, Magas của Cyrene và Alexander của Epirus. Niên đại
của các vua này đều được biết rõ, và năm gần nhất các
vua này vẫn còn sống là 258, như vậy đó cũng có thể là năm
gần nhất của sắc dụ này. Tính lùi lại mười hai năm sau
ngày vua Asoka lên ngôi, cọng thêm 218 năm được nêu trong các
sử ký, ta đạt con số 488 trước CN dành cho năm đức Phật
tịch diệt và năm 568 dành cho năm đản sanh của đức Phật.
Một điểm sai lạc có
thể thấy ở đây nằm trong khoảng thời gian giữa năm đăng
quang của hoàng đế Asoka và năm ban hành sắc dụ, khoảng
ấy có thể hơi ít hơn mười hai năm.
c) Các sử gia Trung Hoa cũng
hỗ trợ một phần qua sách “Ðiểm Sử Ký” của Quảng Châu,
sách này trình bày rõ mỗi điểm tượng trưng một năm sau
thời đức Phật diệt độ. Xuống đến năm 489 CN, sách này
nêu ra 975 điểm, tức là đặt thời đức Phật diệt độ vào
năm 486, và đản sanh vào năm 566 trước CN. Dầu tính cách chính
xác trong sử sách của người Trung Hoa đáng tin cậy đến đâu
chăng nữa, thì cũng không phải là không có sai lầm, nhất là
vì đạo Phật đến Trung Quốc khá trễ và các sử gia Trung
Hoa đã không khởi công viết sử ký ngay khi bậc Ðạo Sư
Ấn Ðộ tịch diệt.
d) Ta cũng có thể xem xét
truyền thống Kỳ-na giáo. Vị tổ sáng lập đạo này là Jina
(Thắng giả) hay Mahàvira (Ðại Hùng), người đồng
thời với đức Phật, sống đến bảy mươi hai tuổi và được
Kinh Ðiển Phật giáo nhắc đến qua danh hiệu Nigantha Nàtaputta(
Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).
Các
học giả AÂu Châu thường ghi đạo sư Mahàvira mất năm 476
trước CN theo lời tuyên bố của Hema Candra, một tu sĩ Kỳ-na
(thế kỷ 12 sau CN) rằng sự kiện vua Candragupta Maurya lên ngôi
(năm 321 trước CN) xảy ra cách 155 năm sau khi tổ sư Mahàvira
tịch diệt (Nirvàna). Nhưng các học giả đạo Kỳ-na
lại tranh luận sự chính xác của con số này và nêu ra điểm
sai lầm đã được thừa nhận của Hema Candra và nhiều đoạn
trong kinh điển Kỳ-na đã đặt con số 215 năm giữa cuộc
chinh phục vương quốc Avanti của vua Candragupta (312 trước CN)
và sự từ trần của tổ sư Mahàvira. Cách tính này sẽ đặt
sự kiện tổ Mahàvira tịch vào năm 527 trước CN. Năm này
được xem là khởi điểm của biên niên sử đạo Kỳ-na
(sử này chỉ mới được khai sinh sau CN) .
-Việc cố tìm cách suy
diễn năm tịch diệt của đức Phật từ năm tạ thế của
tổ Mahàvira càng gặp khó khăn hơn vì ta không có những lời
minh xác nào về biên niên sử nêu mối liên hệ giữa hai sự
kiện này cả. Mặc dù có một câu kinh Kỳ-na tuyên bố rằng
tổ Mahàvìra sống lâu hơn đức Phật bảy năm, (như vậy
nếu ta ghi tổ Mahàvìra tịch năm 476 thì phải xác nhận đức
Phật diệt độ năm 483 trước CN), nhiều đệ tử đạo
Kỳ-na đồng ý với các môn đồ Phật giáo rằng tổ Mahàvìra
từ trần trước đức Phật. Ba lần trong kinh tạng Pàli (DN
29.2,
DN 33.1*
-, MN 104.1-) miêu tả quang cảnh đức Phật nghe nói tổ Mahàvìra
đã tịch, và các kinh điển ấy thường chứng tỏ rằng đức
Phật Gotama là vị đạo sư trẻ tuổi nhất trong các đạo sư
thời ấy.
Những người Tây phương
viết lịch sử đức Phật giả thiết rằng bậc Ðạo Sư
tịch diệt hai năm sau Tổ Mahàvìra, song chứng cớ việc này
rất ít. Nếu chúng ta phải chấp nhận hai năm là một giả
thiết có giá trị, ta phải đi đến chấp nhận hoặc năm 474
(theo các học giả Tây phương), hoặc năm 525 trước CN (theo
truyền thống Kỳ-na giáo) là năm đức Phật tịch diệt, và
năm ngài đản sinh là trước đó tám mươi năm trong cả hai
trường hợp trên.
-e) Biên niên sử thường
được chấp nhận hiện nay ở khắp Á châu lại càng ít được
tín nhiệm hơn nữa, theo đó đức Phật diệt độ năm 544 và
đản sinh năm 624 trước CN. Nhưng Phật lịch (B.E) chỉ mới
xuất hiện vào thế kỷ 11 CN. Do đó về sau hoặc là niên đại
ghi thời bậc Ðạo Sư tịch diệt đã bị nhầm lẫn với niên
đại đản sanh, hoặc có lẽ các Tăng sĩ đã dùng chu kỳ 60
năm trong cách tính toán, nên đã tính lầm cả một chu kỳ. Cách
này đặt các niên đại của đức Phật vào 564 - 484 trước
CN. Song giả thiết về sự nhầm lẫn như thế dĩ nhiên không
có bằng cớ.
Vậy con số nào trong các
niên đại tính theo các phương pháp trên được xem là có
lẽ đúng nhất về mặt lịch sử? Ta có thể loại bỏ các
niên đại dựa trên truyền thống đạo Kỳ-na hoặc đạo
Phật _ chúng chỉ mới được tính toán rất lâu về sau, nên
không đủ sức chống đỡ sự phê bình theo quan điểm lịch
sử.
Về phương diện khác, các
niên đại suy diễn từ sử ký Trung Hoa hay Singhala, và các
sắc dụ Asoka đều có căn bản vững chắc và chỉ khác
nhau ở mức tối thiểu, vì thế theo chúng, năm đản
sinh đức Phật chỉ xê xích từ 568 đến 544 trước CN. Niên
đại 563 được sử ký Tích Lan yểm trợ, cũng có giá trị
không chỉ vì nó đứng giữa mà còn được hai cách tính toán
khá phức tạp hơn nữa yểm trợ, dựa trên các
bản liệt kê danh sách quốc vương Nam Ấn Ðộ và Singhala, cùng
niên đại nước Tích Lan được cải hóa theo đạo Phật, mà
còn dựa vào các bảng tham khảo lẻ tẻ về một hệ thống
niên đại tối cổ đã bị thất lạc chỉ còn lưu lại vài
phần, hệ thống này căn cứ vào năm 483 là năm đức Phật
diệt độ.
Như vậy ta được biện
minh về cách đặt niên đại đức Phật đản sanh vào năm
563 theo sử ký, tuy thế, lại chấp nhận trên căn bản các
chứng cứ lịch sử khác, có thể nhầm lẫn từ cọng năm đến
trừ chín năm. Xác suất về một niên đại sớm hơn lại cao
hơn một chút vì có được cả hai phương pháp (b) và (c) hỗ
trợ, trong khi một niên đại muộn hơn chỉ được một phương
pháp (d) hỗ trợ mà thôi.