LUÂN HỒI NGHIỆP BÁO
Luân
hồi là một hình thức biểu hiện hiện tượng sinh diệt của các pháp qua
định thức duyên khởi từ nhân qua quả. Qua đó nghiệp lực là sức mạnh chủ
động hình thành sự sinh diệt biến đổi lưu chuyển được thể hiện qua quá
khứ-hiện tại-tương lai theo thời gian, tuỳ thuộc vào từng thuộc tính của
mỗi cá nhân và Cộng đồng xứ sở (biệt nghiệp và cộng nghiệp) và
tùy thuộc vào sức nhanh chậm, mạnh yếu của tác nhân nghiệp đã được tạo
ra bỡi thân-khẩu-ý do ba độc tham-sân-si từ vô minh phát khởi của chúng
ta trong quá khứ, trong hiện tại, hay trong tương lai mà luân chuyển
theo chúng. Vậy luân hồi có được và hiện hữu tuỳ thuộc vào lực dụng của
nghiệp nhân đã được tạo ra từ hành vi của mỗi chúng ta và, theo đó mà
biến chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ cõi này sang cõi nọ, trong ba
cõi sáu đường để nhận lãnh báo thọ quả mà mình đã tạo ra trước đó.
- Bà-la-môn
giáo cho rằng bốn đại chủng tánh cùng những tiện dân đang hiện hữu ở
trong luân hồi, tự chúng đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn không bao giờ thay
đổi. Quan điểm này xuất hiện cuối thời đại Phạm thư, và cho mãi đến thời
đại Áo-nghĩa thư giáo nghĩa của chúng mới được hoàn chỉnh song song với
chủ trương của thuyết thường ngã vào thời đại này.
Nhưng Phật giáo thì chủ trương, trước nghiệp báo con người luôn luôn
bình đẳng: Giòng họ thấp, hạ tiện đời này, nhưng nếu tu tập thiện nghiệp
và phước đức thì chắc chắn đời sau có thể sinh vào giòng họ cao quí,
thậm chí có thể sinh về cõi trời; ngược lại hiện tại dù là giòng họ cao
quí, nếu tạo ra những ác hạnh thì, đời sau sẽ sinh vào giòng họ hạ lưu,
cho đến có thế đưa họ xuống địa ngục theo quan điểm chủ trương nhân quả
duyên sinh vô ngã của mình. Ở đây đức Phật chỉ chấp nhận có hình thức
luân hồi do sức mạnh của nghiệp chi phối trong sự tồn tục và lưu chuyển
của mọi sinh mệnh qua hệ thống nhân quả duyên khởi đủ để các pháp sinh
khởi và biến diệt, chứ không chấp nhận một cái thường ngã như Bà-la-môn
giáo chấp nhận vào lúc bấy giờ. Do đó đức Phật nói về nguyên nhân bất
bình đẳng của con người tại thế gian này có được là do hành vi thiện ác
đã tạo ra trước kia của con người, nên ngày nay phải nhận lãnh quả báo
không bình đẳng như vậy do sức mạnh của nghiệp mà cá thể đó đã tạo ra
mạnh hay yếu, tốt hay xấu trước kia mà thôi.
I – LUÂN
HỒI
- Luân hồi
tiếng Sanskrit gọi là Saṃsāra phiên âm là Tăng-sa-lạc, có nghĩa là chúng
sanh từ vô thỉ cho đến ngày hôm nay, do nhân ba độc tham-sân-si của hoặc
nghiệp, mà cảm quả báo lưu chuyển sinh tử trong ba cõi sáu đường, như sự
chuyển động bất tận của một bánh xe quay không bao giờ dừng nghỉ, cho
nên gọi là luân hồi. Luân hồi ở đây còn có nghĩa là sinh tử, hay sinh tử
luân hồi, sinh tử tương tục, luân hồi chuyển sinh, lưu chuyển hay luân
chuyển. Luân hồi còn là một trong những giáo nghĩa chủ yếu của Bà-la-môn
giáo Ấn Độ xưa kia. Phật giáo cũng nương vào nghĩa này, thêm vào những
gì không có và, bớt đi những gì không phù hợp với chân lý, để biến thành
giáo nghĩa của riêng mình.
- Luân hồi
như thế, không chỉ dành cho chúng sinh hữu tình hạn hẹp trong cõi Ta-bà
này, mà cho tất cả mọi chúng sinh hiện trôi lăn trong sáu cõi ba đường,
cũng đều bị lệ thuộc vào những tác nhân do hành vi thiện ác nhiều ít bỡi
tham ái chấp ngã, phát xuất từ tâm lệ thuộc vào đối tượng có khả năng
phát khởi ra hành động tạo tác (tư tâm sở) mà nhận lãnh những kết
quả lành dữ trong hiện tai hay trong tương lai, tuỳ theo nghiệp lực mà
chúng sinh ấy tạo ra trong quá khứ. Không những chúng chỉ dành cho biệt
nghiệp chúng sinh hữu tình, mà còn dành cho tất cả mọi sự vật đang hiện
hữu giữa thế gian này qua hiện tướng cộng nghiệp có sinh diệt biến dị
đều bị lệ thuộc vào định luật luân hồi này. Ở đây luân hồi được coi như
là một lực dụng của Nghiệp. Nó chính là công năng sinh khởi biến dịch từ
nghiệp nhân qua nghiệp quả để hoàn thành chức năng trọn vẹn luật tắc
NHÂN QUẢ DUYÊN KHỞI qua tác động vô thường của nhân sinh quan và, vũ trụ
quan vô ngã Phật giáo. Như trong phần thuốc men của Căn Bản thuyết Nhất
Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da đức Phật dạy: “Xem xét nơi đến của các hữu tình
trong sinh tử luân hồi, hiện biến khắp mọi nơi là do từ một tâm lệ thuộc
vào tư niệm (tư tâm sở).”
- Cũng đồng
với quan điểm này, trong kinh Đại biện tà chánh 1 đức Phật dạy: “Tất cả
chúng sinh từ vô thỉ cho đến ngày nay, luân hồi lục đạo, trôi nổi sinh
tử không gián đoạn, chịu các khổ não, cho đến ngày nay, đều phát xuất từ
bản tâm. Vì sao? Vì tâm từ lúc này sang lúc khác, từ ngày này qua ngày
nọ, từ năm này sang năm khác, tâm duyên vào các cảnh, nên tính tình
nhiễm dính bụi đời, tâm thường bị loạn động không định được, nên thân
cũng như vậy.”
Như vậy rõ ràng bản tâm lúc nào cũng dẫn đầu, làm chủ trong tất cả mọi
tác nhân cho chính nó và, tác động lên hành vi qua thân miệng tạo ra
nghiệp nhân thiện ác, trong quá khứ, trong hiện tại và, trong tương lai,
để từ đó nghiệp lực hiện hành và dẫn dắt chúng sinh hữu tình phiêu dạt
trong biển mê sinh tử luân hồi sáu cõi ba đường mà chịu quả báo hạnh
phúc hoặc khổ đau. Như truyện tích Pháp cú 1 phẩm song song đức Phật đã
kể lại sự tích về nguyên nhân bị mù mắt của một Tỳ-kheo A-la-hán
Cakkhupala. Tỳ kheo này vì mắt bị mù nên không thấy những sinh vật nhỏ ở
dưới chân trên đường đi kinh hành, nên đã vô tình dẫm chết rất nhiều mà
không hay biết, bị các Tỳ-kheo đồng bạn phát hiện và ghép Tỳ-kheo này
vào tội sát sinh và đem trình sự việc lên Phật. Nhân đây, đức Phật hỏi
về hiện tượng dẫm chết có cố ý hay không cố ý để rồi đưa đến kết luận là
Tỳ-kheo này không phạm vào tội sát sinh vì vô tình và, cũng nhân đây kể
lại đời trước Tỳ-kheo này đã từng làm một y sỹ giỏi, chữa bệnh đau mắt
cho một thiếu phụ nghèo. Nhưng vì do sự dối trá để thoát khỏi lời hứa
sau khi lành bệnh sẽ chính tự thân bà và đứa con gái làm tôi tớ cho y
sỹ, mà thiếu phụ này nói dối là mắt mình chưa được lành hẵn. Y sỹ này
biết là bà nói dối, nên nổi lên ác ý (tâm) thản nhiên đưa cho bà
một thứ thuốc và bảo hãy về uống hết thuốc này thì bệnh mắt của bà sẽ
khỏi hẳn. Nhưng thiếu phụ uống vào thì đôi mắt bị mù hẳn, đúng như ác
tâm mà y sỹ đã dành cho bà. Chỉ vì ác tâm này mà đời này dù thành
A-la-hán nhưng Tỳ-kheo vẫn phải đui mù. Và sau đó đức Phật dạy: “Các
pháp do ý dẫn đầu, làm chủ và tác động. Do vậy, nếu ai đem ý nghĩ vẫn
đục mà miệng nói, thân làm, thì sự khổ não đi theo người ấy như cái xe
lăn theo chân con vật kéo xe ấy.”
Đó là truyện tích về sức mạnh của một ác ý.
- Và trong
truyện tích Pháp cú 2 phẩm song song, đức Phật đã kể lại sự tích sức
mạnh một thiện ý (thiện niệm) của chàng trai Mattakundali con duy
nhất của một trưởng giả giàu có. Chàng trai này bị bệnh sắp chết mà
người cha vẫn xót của, không chịu bỏ tiền ra để mời thầy thuốc giỏi về
trị bệnh cho con. Khi biết con sắp chết, ông cắn răng bỏ ra một sốt tiền
thuê người khiêng con đặt ra ngoài mái hiên nhà, ông sợ chuyện ma chay
sẽ bị nhiều người dòm ngó của cải nhà ông. Đức Phật biết, lúc này là
đúng lúc, Ngài xuất hiện trước mắt chàng, với ánh hào quang rực rỡ.
Chàng ta mở mắt thấy Phật, chàng mừng lắm mà không thể ngồi dậy được,
nên cứ nhìn chăm chăm Ngài, và cũng vào lúc này trút hơi thở cuối cùng
trong niềm ngưỡng mộ hoan lạc. Do niệm thiện này mà chàng tái sinh về
Đao Lợi thiên làm một vị trời. Vị trưởng giả này cũng nhân đây mà bị
kích động, từ đó về sau đến với Phật và, biết bỏ của cải ra để làm việc
phước thiện. Và cũng nhân sự việc này đức Phật dạy: “Các pháp do ý dẫn
đầu, làm chủ và tác động. Do vậy, nếu ai đem ý nghĩ trong sáng mà miệng
nói, thân làm, thì sự an vui đi theo người ấy như bóng theo hình.
”
- Sự tác động
của tâm thức đối với ngoại cảnh sinh ra mọi động lực, theo đó mọi hệ luỵ
được kéo theo sau chúng, tuỳ thuộc vào thiệm tâm hay ác tâm, tuỳ theo
thiện ý hay ác ý, tuỳ theo chân tâm hay vọng tâm mà mọi cảnh giới sẽ
hiện tiền theo đó mà hiện hữu, như các nhà Hoa nghiêm và Duy thức thường
chủ trương: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Ở đây đức Phật đứng
trên phương diện tương đối nhị nguyên nhân quả mà thiết lập vọng chân,
thiện ác lệ thuộc vào những tác nhân chân vọng, thiện ác mà thiết lập
nhân quả duyên sinh theo chiều lưu chuyển quán, chứ chưa nói đến chiều
hoàn diệt quán. Theo luận Vô tâm 1 thì: “Chúng sinh vì mê vọng, nên đối
với không tâm, vọng sinh ra tâm, mà tạo ra các loại nghiệp, và vọng chấp
cho là có thật, nên khiến cho phải luân hồi trong sáu đường, sinh tử
không dứt.”
Từ mê vọng chấp tâm có thật nên ái ngã ái pháp xuất hiện cấu kết tạo ra
các loại nghiệp (tư nghiệp) và cũng từ đây mọi trói buộc hiện hữu
khiến cho chúng ta phải sinh tử luân hồi trong sáu sõi ba đường.
- Như kinh
Tạp A-hàm đức Phật đã dạy các Tỳ-kheo: “Do vì vô minh che khuất, ái kết
trói buộc, nên chúng sinh phải sinh tử luân hồi. Nếu ái kết không dứt,
thì khổ biên không hết.”
- Và cũng
đứng trên quan điểm này, Câu Xá luận sớ 29 giải thích: “Tất cả mọi thứ
phiền não đều phát xuất từ nhân chấp ngã, nghiệp sinh tử thì do phiền
não khởi; tam hữu (ba cõi) luân hồi có được từ nhân hoặc nghiệp,
bỡi vậy nếu chấp ngã thì không bao giờ giải thoát được.”
- Ở đây cho
chúng ta thấy một cách rõ ràng rằng tất cả mọi thứ phiền não có được đều
phát xuất từ nhân chấp ngã, nghiệp sinh tử luân hồi là do từ phiền não
khởi và, luân hồi sinh tử trong ba cõi có được là từ nhân hoặc nghiệp.
Như A-tỳ-đạt-ma tạng Hiển tông luận 13 trình bày:
“Các uẩn là vô ngã
Tạo ra nghiệp não phiền
Chính do nó nối kết
Vào thai như lửa đèn
Gặp nhau tiếp tục tăng
Liên tục do nghiệp hoặc
Hướng lại về đời khác
Luân lưu không mối manh.”
- Tuy đức
Phật đã nhìn thấy rõ được năm uẩn là vô ngã, nhưng chúng sinh sinh ra từ
vô minh nghiệp hoặc nên không thấy được năm uẩn là vô ngã nên đã tạo ra
không biết bao nhiêu là phiền não, để rồi ôm lấy nghiệp vào thân tạo
thành động cơ thúc đẩy chúng sanh đi tới, càng ngày càng nuôi lớn vô
minh hoặc nghiệp mà không biết và, cuối cùng trôi lăn trong sáu cõi ba
đường u u minh minh, không biết đâu là đầu, đâu là cuối chịu khổ đau
theo những tác nhân mà mình đã tạo ra trong quá khứ! Hình ảnh nuôi lớn
vô minh hoặc nghiệp của chúng sinh cũng giống như hình ảnh của một ngọn
đèn khi gặp lửa càng ngày sáng càng tăng lên. Hình ảnh chúng sinh hữu
tình vì vô minh mê hoặc mà không tự biết, tự mình nuôi lớn chính mình
qua vô minh nghiệp hoặc như theo A-tỳ-đạt-ma Câu Xá luận 9, đã đem mười
hai chi nhân duyên ra để so sánh và làm thí dụ điển hình cho sự sinh
khởi của một sinh mệnh chúng sinh hữu tình qua hoặc nghiệp:
“ Từ hoặc sinh hoặc nghiệp
Từ nghiệp sinh sự tướng
Từ sự, sinh sự hoặc
Lý chi hữu ở đây.
- Và luận
rằng: Từ hoặc sinh ra hoặc chính là từ ái sinh ra thủ. Từ hoặc sinh ra
nghiệp chính là từ thủ sinh ra hữu, hay từ vô minh sinh ra hành. Từ
nghiệp sinh ra sự tướng chính là từ hành sinh ra thức cùng từ hữu sinh
ra sinh. Từ sự tướng sinh ra sự tướng chính là từ chi thức sinh ra danh
sắc, cho đến từ xúc sinh ra chi thọ cùng từ chi sinh sinh ra lão tử. Từ
sự tướng sinh ra hoặc chính là từ thọ sinh ra ái và, nhờ sự thành lập
chi hữu ở đây nên lý nhân quả sự hoặc được hiển bày qua: sinh tử là sự
hoặc nhân, vô minh là sự hoặc quả. Vô minh, lão tử là tánh của sự hoặc…
Cho nên kinh nói thuần đại khổ tập là như vậy.”
Vấn đề nuôi lớn sinh mệnh theo hoặc nghiệp qua mười hai chi nhân duyên
như chúng tôi cũng đã đề cập một cách rõ ràng qua bài nghiên cứu về này
Thập nhị nhân duyên trong tập san Nghiên cứu số 5. Sự duyên khởi của
mười hai chi này chính là động cơ thúc đầy của hoặc nghiệp mang mầm mống
khổ dẫn đạo chúng sinh trôi lăn trong ba cõi sáu đường, mà hoặc nghiệp
khổ này theo Phiên dịch danh nghĩa tập 3 thì chúng được định danh một
cách rõ ràng qua định nghĩa: “Hoặc nghiệp khổ chính là con đường phiền
não của hoặc, con đường nghiệp của nghiệp và, con đường khổ của khổ. Ba
con đường này thông cả ba cõi. Cho nên Bổ hành nói rằng: ‘Chia ra làm ba
đường: Kiến tư hoặc là con đường phiền não, phiền não thuần nghiệp là
con đường nghiệp và, nội giới hoặc sinh là con đường khổ.”
Ba con đường này thông cho cả ba cõi dục giới, sắc giới và, vô sắc giới,
vì nghiệp tánh của ba cõi này cho dù là thiện đi nữa, nhưng chúng còn bị
lệ thuộc vào nhân quả duyên khởi vô thường sinh diệt thì vẫn mang bộ mặt
khổ. Khổ quả ở ba cõi này vì vẫn còn lệ thuộc vào sự sinh diệt đối với
với ba nghiệp thiện ác và, vô ký nên dù chúng có thuộc vào khía cạnh nào
đi nữa, thì sự lệ thuộc này vẫn còn mọi sự chi phối của nhân quả duyên
sinh vô thường sinh diệt, nên chúng luôn mang bộ mặt khổ đạo. Nhưng bộ
mặt khổ đạo ở đây chúng ta có thể thay đổi được chúng qua quả khổ không
tự tánh này, như kinh Nhơn vương sớ 1 viết: “Hoặc là nơi phát sinh ra
quả nghiệp phiền não, nó là chỗ phát sinh ra nghiệp. Vì hoặc nghiệp như
vậy nên chúng bị lệ thuộc sinh diệt, do đó chúng là không (nhân),
nên không quả… Nói tóm lại vì nhân hoặc nghiệp không nên quả cũng không.”
Vì sự hiện hữu của hoặc nghiệp có được là do nhân duyên đủ hoà hợp mà
hình thành, sự hiện hữu có được này là một hiện hữu giả tạm; nhưng vì
chúng sanh vô minh chấp ngã, chấp pháp cho là thật có nên chúng sanh hữu
tình tạo ra nghiệp hoặc sinh tử luân hồi trôi lăn trong ba cõi sáu
đường, nên phải chịu mọi sự khổ đau không dứt. Theo đức Phật tự thân
Ngài đã thật sự chứng ngộ thấy rõ rằng tất cả hoặc nghiệp có được cũng
do nhân duyên hoà hợp mà thành, nên chúng không có tự tánh; vì chúng
không có tự tánh nên chúng là không. Nếu tất cả mọi chúng sanh đều thấy
rõ các pháp vốn không có tự tánh, trong đó có cả hoặc nghiệp thì họ cũng
sẽ đạt được như những gì đức Phật đã làm trong quá khư và trong hiện tại
như trong Căn Bản Nhứt Thiết Hữu bộ, Tỳ-nại-da tạp sự 37 đức Phật đã
dạy: “Phật bảo A-nan, từ thành Câu-thi cho đến Ta-la song thọ bên bờ
sông Kim Hà nơi sinh địa của các tráng sĩ đội mũ chế để.
Nơi đây, chu vi mười hai du-thiện-na (do tuần), xưa kia Như lai
làm Chuyển luân vương. Trong thời gian ở đây sáu lần bỏ mạng, nay lại
nơi đây mà Bát-niết-bàn, đây là lần thứ bảy. Hơn nữa, Như lai Ứng cúng
Chánh đẳng Chánh giác, đối với mười phương cõi lại không có nơi nào lần
thứ tám xả thân mạng. Vì sao vậy? Vì các hoặc nghiệp đã đoạn trừ, sự
sinh của Ta đã chấm dứt, không còn tái sinh vào đời sau nữa.”
Ở đây, chính đức Phật đã nhận là Ngài không còn tái sinh trong vòng luân
hồi sinh tử trong ba cõi sáu đường nữa, sự sinh của Ngài đã chất dứt, vì
chính Ngài đã đoạn trừ hết hoặc nghiệp. Vậy trước khi chúng ta muốn đạt
đến địa vị bất sinh bất diệt như Ngài trong ba cõi sáu đường thì, chúng
ta những chúng sanh hữu tình như Ngài trước đây phải tìm hiểu và thực
hành những gì, như đức Phật đã từng thực hành trong quá khứ cũng như
trong hiện tại, để đạt Niết-bàn an vui giải thoát trong đời này như
chính Ngài đã đạt, qua việc đoạn trừ tận cùng gốc rễ của nghiệp hoặc, là
nguyên nhân chính đưa chúng sanh trôi lăn trong ba cõi sáu đường mà chịu
khổ đau, do vô minh chấp ngã, chấp pháp mà tạo ra hoặc nghiệp trói buộc
chúng ta trong sinh tử luân hồi.
II -
NGHIỆP
- Nghiệp
tiếng Sanskrit gọi là Karman, tiếng Pāli gọi là Kamma, Trung quốc phiên
âm là Yết-ma, có nghĩa là tạo tác, ý chỉ cho hành vi, những gì đã tạo
ra, hay chỉ cho hành động, tác dụng, ý chí v.v… nói chung chỉ cho hoạt
động của thân và tâm của chúng ta, hay hoạt động của thân tâm do ý chí
tác động phát sinh. Đây chính là những tác nhân trong hiện tại được chỉ
đạo bỡi ý chí phát sinh ra trong tâm thức, hay những tác động tâm ý
khiến cho thân và miệng làm theo ý chí sai khiến. Ở đây nếu nghiệp đem
liên hệ với nhân quả mà kết hợp thì, chỉ cho tác nhân của những hành vi
trong quá khứ, hình thành lực lượng liên tục cho đến ngày hôm nay qua
thọ quả, đó chính là sức mạnh của nghiệp, mà thường trong Phật giáo gọi
là nghiệp lực. Ngoài ra nghiệp cũng còn bao gồm những hành vi trên cả tư
tưởng thiện ác, khổ vui v.v… nhân quả báo ứng, cùng tư tưởng luân hồi
đời trước, đời này và, đời sau vốn là tư tưởng của Ấn độ từ xưa đến nay
hiện đang lưu hành vào lúc bấy giờ, Phật giáo vẫn chịu ảnh hưởng của
chúng qua việc chấp nhận những quan điểm, mà đức Phật cho là đúng theo
chỗ sở ngộ của Ngài, để dung hợp thành chủ trương về nghiệp theo nhân
sinh quan của đức Phật, đôi khi chống lại chủ trương thường ngã của
Bà-la-môn giáo, qua chủ trương vô ngã của đức Phật như phần mở đầu trên
chúng tôi đã đề cập. Nghiệp trên nền tảng căn bản thì được các bộ phái
thời kỳ phát triển chấp nhận, nó được chia ra làm ba phần gọi là ba
nghiệp.
1 - TƯỚNG
TRẠNG CỦA NGHIỆP
Theo các nhà
Nhất thiết hữu bộ Tiểu thừa giải thích thì, con người có ba thứ độc
(tham, sân, si), và dùng ba thứ độc này để nuôi lớn bản ngã vô minh
chính mình, mà tạo ra không biết bao nhiêu là tội phước. Vì để làm lợi
cho mình mà gây tổn hại cho kẻ khác nên phát sinh ra hành động. Người
thiện, trước hết tự làm việc bố thí trì giới không gây tổn hại cho chúng
sanh, tự diệt những điều ác. Cho nên nói “Hàng phục tâm mình làm lợi ích
người khác.” Làm lợi ích người khác là luôn luôn bố thí giúp đỡ người về
vật chất cũng như tinh thần. Đó là làm lợi ích cho người, cũng gọi là từ
thiện phúc đức, cũng gọi hạt giống của quả báo an lạc ở đời này và đời
sau. Nếu làm lợi mình mà hại người thì gọi là làm ác, và kết quả cũng sẽ
ngược lại với việc làm thiện. Việc làm thiện làm ác ở đây không ngoài
mục đích nuôi lớn vô minh ái ngã qua ba độc, được thể hiện ra thân khẩu
và ý mà tạo nghiệp. Nghiệp ở đây, chỉ cho hành vi của thân được thể hiện
qua sự tạo tác của thân thể về một việc nào đó, theo sự tác động của ý
chí được tác động bởi ba độc thì thuộc thân nghiệp; sự thể hiện của lời
nói phát xuất ra từ miệng về một việc nào đó, theo sự tác động của ý chí
cũng được tác động bởi ba độc thì, thuộc khẩu nghiệp và; ý chí trong nội
tâm muốn chúng ta làm một việc gì đó theo sự chỉ đạo của ba độc thì,
thuộc ý nghiệp.
- Ngoài ra,
nghiệp còn có thể phân ra là hai cách hoạt động: Một là hoạt động của
riêng ý chí, tức là chỉ cho hoạt động của ý chí, nó chính là tư nghiệp
(đồng với ý nghiệp). Tư ở đây chỉ cho tâm sở pháp, trong các tâm
sở pháp nó có khả năng phát khởi hành động, nên gọi nó là nghiệp. Hai là
nhân bởi tư (tư tâm sở) này mà phát xuất nghiệp bên ngoài là thân
và khẩu. Tuy tâm và tâm sở pháp khác vẫn có hành động, nhưng tư là gốc
của hành động. Do đó mới nói tư là nghiệp. Nghiệp này chúng tôi sẽ nói
rõ về tướng trạng và bản chất của nó như sau.
- Giữa Tiểu
thừa và Đại thừa Phật giáo qua những lời dạy của đức Phật, vì lệ thuộc
vào căn cơ trình độ đệ tử của Ngài, mà giáo nghĩa về nghiệp cũng theo
trình độ căn cơ có những quan điểm bất đồng, trong nhận thức về sinh
mệnh một chúng sinh hữu tình qua ba nghiệp thân, khẩu và ý. Sự chấp nhận
và phân chia giữa tâm pháp và sắc pháp theo quan niệm của các bộ phái
Tiểu thừa nhất là Nhất thiết Hữu bộ, họ cho rằng ba nghiệp thân khẩu và
ý phải được quan niệm rõ ràng về tác dụng của chúng thuộc về tâm hay
sắc. Theo các nhà Nhất thiết hữu bộ thì hai nghiệp thân và khẩu thuộc về
sắc pháp (thuộc vật chất), còn ý nghiệp thì thuộc về tâm pháp
(thuộc về ý chí), trong khi các nhà Kinh lượng bộ và Đại thừa thì
không chấp nhận sự phân chia này. Trên nguyên tắc căn bản chúng dù là
nghiệp bên trong của ý hay nghiệp bên ngoài của thân và khẩu, chúng vẫn
thuộc về tâm pháp (điều này chúng tôi sẽ trình bày phần sau).
- Trong hiện
tại, tuy thân khẩu ý là thủ phạm chính trong việc tạo ra dòng sinh mệnh
của một hữu tình qua nghiệp nhân; nhưng sinh mệnh của dòng chảy tương
tục này có tính cách cơ giới qua sự tích tụ của năm thủ uẩn là thọ quả
từ nghiệp nhân trước kia, nếu chúng ta loại bỏ chúng ra thì nghiệp sẽ
không hiện hữu được như Kinh Suttanipata đức Phật đã dạy: “Thế gian y
vào nghiệp mà chuyển, hữu tình y vào nghiệp mà chuyển, hữu tình bị
nghiệp trói buộc, cũng như bánh xe y vào cái trục mà quay.”
Qua lời dạy này cho chúng ta thấy rằng đứng về mặt nào đó thì chímh
nhiệp là sinh mệnh và ngược lại, sinh mệnh là nghiệp. Do đó, khi nghiệp
thức biểu hiện bên ngoài trong quá trình hình thành thọ quả trong hiện
tại, thì nó mang bộ mặt của thức (vijñāna) trong mười hai nhân
duyên, nhưng tiềm ẩn bên trong thì, chính thức là hành (saṅkhāra),
và nếu xét theo nghĩa hẹp thì nó là tư (catanā, ý chí). Theo đức
Phật qua quá trình ý chí thống nhất thì thức này chính là nhân cách của
một hữu tình, tức là một cái ngã giả (puggala/ pudgala), Nhưng vì
chúng sinh hữu tình mê lầm chấp nhân cách này là một thường ngã như
Bà-la-môn giáo đã chủ trương, nên kinh Trường A-hàm 5 đức Phật dạy: “Hữu
tình lấy nghiệp làm tự thể, là sự tương tục của nghiệp, lấy nghiệp làm
mẫu thai, lấy nghiệp làm quyến thuộc, lấy nghiệp là sở vi, phàm sự phân
biệt như thế đều do nghiệp phân phối.”
Đó là theo thường kiến nhân quả của thế gian đề nói về nghiệp, nhưng đây
cũng chỉ là phương tiện dùng độc trị độc để hướng dẫn hữu tình từ mê ra
ngộ. Cho nên những hành vi của thân khẩu ý đều dựa vào sinh mệnh mà tìm
cầu qua ba độc tham sân si. Ở đây, chủ thể của hành tức là ý chí, là vật
tạo ra tính cách cá nhân, và tính cách cá nhân này cũng chỉ là một quá
trình giả hợp giữa tâm và vật. Cái mà đức Phật gọi là nghiệp cũng chẳng
qua chúng chỉ là cái tập quán của ý chí huân tập in sâu vào tính cách.
Và điều này theo các nhà Hữu bộ Tiểu thừa sau này cho rằng nó luôn thực
hữu trong ba đời.
- Theo các
nhà Nhất thiết hữu bộ chủ trương thì khẩu có bốn nghiệp, thân có ba
nghiệp. Bảy loại nghiệp này thuộc về sắc pháp và có thể phân chúng ra
làm hai thứ khác nhau, đó là biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Khi hành
động được biểu hiện rõ ràng ra bên ngoài và được mọi người nhận thấy nó
thì được gọi là biểu nghiệp.
Sau khi chúng ta hành động xong, hành động đó không còn thể hiện ra bên
ngoài cho mọi người nhận thấy nữa, nhưng nó vẫn tiềm tàng lưu chuyển nên
gọi là vô biểu nghiệp.
Hai loại biểu nghiệp và vô biểu nghiệp này còn gọi là biểu sắc hay vô
biểu sắc, vì theo các nhà Hữu bộ thì thể của chúng vốn là một loại sắc
pháp. Hai thứ biểu nghiệp và vô biểu nghiệp này có thiện và bất thiện.
Biểu nghiệp thiện là chỉ cho những hành động thiện được thể hiện ra bên
ngoài lúc nào cũng có lợi cho mình và lợi cho người; biểu nghiệp bất
thiện là chỉ cho những hành động ác được thể hiện ra bên ngoài lúc nào
cũng không tránh xa việc ác. Và về thiện và bất thiện của vô biểu nghiệp
cũng như vậy. Lại có những phước đức hay tội báo được sinh ra từ sự thọ
dụng của tha nhơn, ví dụ khi người thí chủ, bố thí hay giúp đỡ cho người
nào đó, nếu người nhận sự bố thí hay giúp đỡ đó, chấp nhận thọ dụng
những gì người giúp đỡ hay bố thí đem đến cho mình thì, người thí chủ bố
thí hay giúp đỡ được hai phước, một là do chính sự bố thí giúp đỡ của
mình và, hai là sự nhận lãnh thọ dụng của người kia. Nếu bố thí giúp đỡ
mà người không nhận thì, chỉ có một thứ phước duy nhất là phát tâm làm
việc thiện. Còn tội báo cũng vậy, như người dùng mũi tên độc bắn một
người nào đó, nếu mũi tên độc kia giết chết người thì có hai thứ tội,
một là do từ chính sự bắn của mình phát sinh và, hai là do từ sự chết
của người kia mà phát sinh. Nếu bắn mà không chết, chỉ mắc tội bắn không
có tội giết. Bảy thứ nghiệp này (của thân và khẩu) cộng với ý
nghiệp (tư nghiệp) thuộc tâm pháp, chúng chính là tướng trạng sai
biệt của nghiệp. Nghiệp ấy có quả báo đời này, đời sau. Cho nên theo các
nhà Tiểu thừa hữu bộ quyết định có nghiệp, và có quả báo theo đó có luân
hồi sinh tử tùy theo nghiệp nhân đã tạo ra, nên phải chịu thọ quả ngay
trong đời này hay đời sau, theo luật tắc nhân quả qua nghiệp cảm duyên
khởi.
- Tất cả mọi
hiện tượng cùng sinh tử lưu chuyển các loài hữu tình, ở trên thế gian
này có được, theo các nhà Tiểu thừa thì, đều phát xuất từ nhân nghiệp
của chúng sanh mà sinh khởi. Tất cả các phái Tiểu thừa đều chấp nhận
thuyết này, và nhất là Nhất thiết hữu bộ cho rằng, quả báo của chúng
sanh hữu tình có hai loại, một là chánh báo, hai là y báo: Trong chánh
báo có kẻ tốt người xấu, có kẻ ngu dốt, người thông minh khác nhau. Đó
là kết quả có được từ nghiệp nhân quá khứ mà ngày nay cảm quả trong hiện
tại. Trong y báo có sơn hà đại địa, sông biển, cây cối, động thực vật
khác nhau. Những quả báo này nào khổ vui thương ghét thiên hình vạn
trạng, tất cả đều do nghiệp lực chiêu cảm. Tất cả mọi loài hữu tình
chúng sanh ngày đêm dùng thân, khẩu và ý tạo ra không biết là bao nhiêu
hành vi thiện ác, tuy trên mặt hiện tượng, chúng ta thấy có biến diệt
trong từng sát-na, nhưng chúng không mất, cái mất này gọi là huyễn diệt,
những cái nghiệp mà chúng hữu tình đã tạo ra chúng sẽ chiêu cảm kết quả
tương ứng trong hiện tại hay trong tương lai; tức là chúng nhân nơi các
loại nghiệp lực quan hệ phức tạp mà hình thành những hiện tượng thiên
sai vạn biệt. Đề giải thích những hiện tượng sai biệt này của thế giới,
đức Phật đã dùng thập nhị nhân duyên để thuyết minh về sự hình thành và
hủy diệt của chúng qua hai cách quán lưu chuyển và hòan diệt. Theo đó
các nhà Hữu bộ Tiểu thừa cũng dùng Thập nhị nhân duyên, để giải thích
hiện tượng tương tục biến dịch của sinh mệnh nhân sinh và, vũ trụ qua
nghiệp cảm duyên khởi như họ đã giải thích trong Câu Xá tông, và sau này
các nhà Pháp tướng tông thuộc Duy thức cũng đã chủ trương qua A-lại-da
duyên khởi và lấy A-lại-da thức làm căn bản cho nghiệp cảm duyên khởi để
giải thích mọi hiện tượng sinh khởi và biến dịch qua dòng tương tục sinh
mệnh luân hồi của hữu tình chúng sanh. (Tham khảo Đại-tỳ-bà-sa 23,
luận Câu Xá 13,)
- Theo các
nhà Hữu bộ thì sự quan hệ giữa nghiệp nhân và nghiệp quả qua luật tắc
nhân quả thì, nghiệp có thật trong ba đời. Nghiệp hiện tại có khả năng
thành là nhân quyết định dẫn dắt quả báo tương lai (thủ quả (giữ
quả), cũng có trường hợp nghiệp quá khứ nhờ vào sức tác dụng mạnh yếu mà
chiêu cảm quả báo hiện tại (dữ quả (cho kết quả)). Trong khi các nhà
Kinh lượng bộ thì chủ trương nghiệp sẽ biến mất trong khoảng thời gian
nháy mắt, nhưng nghiệp bị biến mất này đã được chiêu cảm chủng tử quả
báo gieo vào nơi tạng thức, vì chủng tử này sẽ dẫn sinh ra quả báo trở
lại trong luân hồi sinh tử ba cõi sáu đường. Và sau này các nhà Đại thừa
Pháp tướng tông Duy thức đã y cứ vào giáo nghĩa này mà chủ trương
A-lại-da (ālaya) duyên khởi. Theo các nhà Duy thức chỉ có thức
mới thực hữu, còn tất cả các pháp hiện hữa bên ngoài là hình ảnh được
phóng ra từ thức. Như vậy mọi tướng trạng bên ngòai như ba giới ở bên
ngoài cũng chỉ là những giả tướng. Thật ra giữa Hữu bộ và Kinh lượng bộ
có những quan điểm khác nhau về nghiệp như vậy, là do cách nhìn lệ thuộc
vào mỗi khía cạnh của nghiệp hiện hữu và, biến dịch theo thời gian ba
thời, trong khi Kinh lượng bộ chỉ chấp nhận thời gian hiện tại là thật
hữu, còn quá khứ và tương lai không thật hữu nên nghiệp cũng thuộc vào
quan điểm này, và cũng từ đây giáo nghĩa của những lời dạy của đức Phật
trở thành đa thù sai biệt trên mặt sự tướng. Hơn nữa, Nhất thiết hữu bộ
lại chủ trương con người được sinh ra có thể do nhiều nghiệp dẫn đến một
lần sinh, cũng có thể do một nghiệp dẫn đến nhiều lần sinh. Đồng thời,
nghiệp cũng có hai loại cộng nghiệp và bất cộng nghiệp. Tức chỉ cho quả
báo cộng thông với con người tại một trú xứ, một quốc độ nào đó như sơn
hà đại địa (khí thế gian); trong khi con người không cộng thông
với con người trên hình thể, vì đó chính là quả báo đặc hữu của mỗi cá
nhân trong một cộng đồng, đó thuộc về bất cộng nghiệp hay còn gọi là
biệt nghiệp.
- Ở đây từ
nghiệp nhân đến nghiệp quả trải qua một dòng tương tục, dòng tương tục
này chính là sức mạnh của nghiệp chúng ta thường gọi là nghiệp lực.
Giống như từ hạt lúa có mầm, từ mầm nhờ những nhân tố phụ thuộc đủ như
con người, đất, nước, gió, ánh nắng mặt trời, khoảng không gian, phân
bón v.v… để từ đó có dòng tương tục đưa đến sự hình thành của cành lá
v.v… và cũng từ dòng tương tục này phát sanh ra quả. Ở đây nếu chúng ta
không cần hạt giống và những nhân tố phụ khác thì sẽ không có dòng tương
tục phát sanh. Cho nên từ hạt lúa có dòng tương tục. Từ dòng tương tục
có quả. Trước hết có hạt giống sau đó có quả, cho nên ở đây không có sự
hiện hữu của thường và đoạn (không đoạn cũng chẳng thường). Cũng
như ví dụ về hạt giống ấy, nghiệp quả cũng như thế. Tâm sát-na tối sơ
phát khởi thiện ác, tội và phúc, từ đó chúng chiêu cảm quả báo thiện ác,
khổ vui tuỳ theo tác nhân nghiệp ban đầu đã tạo, cũng như hạt giống lúa.
Do bởi tâm ấy, mà dòng tương tục của tâm và tâm sở pháp này phát sanh,
và tương tục cho đến khi tạo quả báo. Quan điểm này, kinh Di-lan-đà
(Milanda Pañhā)
và luận Trí độ 2
đưa ra sự tương tục của nghiệp lực giống thắp lửa một ngọn đèn này lan
sang ngọn đèn khác để nói lên ý nghĩa liên tục bất tận. Cũng như con tằm
hoá thành nhộng, nhộng biến thành con ngài, biến thái như vậy mà vẫn
liên tục. Sự biến dịch liên tục như vậy qua hình ảnh của kinh Milanda
và, Đại trí độ luận đã cho chúng ta một cái nhìn dễ hiểu quan điểm luân
hồi của Phật giáo. Nghiệp có trước, quả có sau nên không đoạn cũng không
thường. Nếu lìa nghiệp có quả báo thì bị lỗi đoạn thường. Ở đây, nếu
chúng ta tạo nghiệp thiện ác thì, sau đó sẽ chiêu cảm quả báo vui khổ,
vì có nghiệp nhân nên phải chiêu quả hoặc nghiệp, nhưng riêng nghiệp vô
ký không thiện không ác không có lực để chiêu cảm quả.
- Trong hiện
tại, từ khi con người sinh ra và cho đến khi tử, bản thân sinh mệnh của
một hữu tình về tâm cũng như vật, luôn luôn hoạt động thay đổi liên tục,
đó chính là sự sống, hay còn được gọi là thọ mệnh. Những đặc trưng được
sinh mệnh biểu hiện ra bên ngoài nói về nhục thể thì, nó thể hiện qua
khí ấm (noãn khí), qua hơi thở. Và về sự thể hiện thuộc về tâm lý
thì có thức. Chính ba sự thể hiện thọ, noãn, thức này chính là sinh mệnh
của một hữu tình, và cho đến khi ba cái này không làm duyên cho nhau để
duy trì sự sống nữa thì sinh mệnh bắt đều dịch biến, lúc này có thể gọi
là thọ tận (ayusaṅkhaya) tứ đại chia lìa. Nhưng trong khi tứ đại
biến dịch thì nghiệp vẫn được bảo trì qua sức mạnh của chính nó cho nên
thọ được hiện hữu. Theo kinh Bản sự 5-6 đức Phật dạy: “Hai pháp thường
theo nhau, đó là nghiệp và thọ. Hễ có nghiệp thì có thọ, không nghiệp
thì cũng không có thọ. Nếu nghiệp và thọ không tiêu mất thì hữu tình sẽ
không chết, còn nếu nghiệp và thọ tận diệt thì hàm thức tất phải chết.”
Tóm lại có sinh ắt có tử, đó là qui luật tự nhiên của duyên khởi. Do đó
cái chết nếu nhận xét trên bề mắt thì tợ như là đã chấm dứt hoàn toàn,
nhưng nếu nhận xét về mặt đương thể của sinh mệnh thì, nó vẫn có khả
năng tính tương tục qua ngũ uẩn mới, vì trong quá trình này luôn luôn
tích tụ ngũ uẩn mới thay cho ngũ uẩn đã bị giải thể. Theo kinh Đại Duyên
trong Trường A-hàm đức Phật dạy, tuy là thức đi thác thai vào trong thân
thể người mẹ, nhưng thức này chính là ý chí (tư) vô ý thức, là
sinh mệnh được gọi khác đi, chứ không phải chỉ cho ý thức có thể nhớ
biết được, như kinh Trà-đế (Saṭi) đức Phật đã quở trách Tỳ-kheo
Trà-đế rất nặng khi Tỳ-kheo này cho rằng thức (vijn`āna) là chủ
thể của luân hồi[22]. Nếu thức là chủ thể luân hồi thì tất cả mọi chúng
ta khi sinh ra đời đều có thể nhớ lại tất cả những gì chúng ta đã từng
trải qua trong những cuộc sống trước đây, nhưng trên thực tế thì không!
chỉ trừ các bực Thánh chứng ngộ mới thấy thông suốt bản chất của sinh
mệnh, biết rõ được quá khứ, vị lai của mọi ấn tượng về nghiệp. Đây không
phải là ký ức thuộc quá khứ mà người thường như chúng ta có thể làm được
trong hiện tại.
- Đó là những
chủ trương của các nhà Tiểu thừa và các nhà Đại thừa về sự hình thành
của nghiệp, từ nghiệp nhân qua nghiệp quả trong dòng tương tục sinh mệnh
của các loài chúng sanh hữu tình. Qua đó nghiệp lực là một thứ sức mạnh
đã được hun đúc và chính nó thúc đẩy sinh mệnh chúng sinh qua lại trong
luân hồi sinh tử và, trôi lăn trong ba cõi sáu đường qua tướng trạng năm
thủ uẩn được thể hiện ra thân khẩu và, ý đề tạo ra nghiệp nhân, duyên
khởi cùng các pháp qua hiện tướng thập nhị nhân duyên để hình thành nhân
quả duyên sinh về nhân sinh và vũ trụ quan Phật giáo, qua hiện tượng
sinh tử luân hồi. Và sự phối hợp giữa tâm và vật được điều tiết qua luật
tắc nhân quả duyên khởi để hình thành nhân sinh và thế giới quan của
Phật giáo qua những cái chung và cái riêng của biệt nghiệp và cộng
nghiệp, của chánh báo và y báo được hình thành qua bản chất thiện ác của
nghiệp, tạo thành một thế giới thiên sai ngàn biệt.
2 - BẢN
CHẤT CỦA NGHIỆP
- Như phần
trên chúng tôi đã trình bày về tướng trạng của nghiệp, qua đó nghiệp có
được đều phát xuất trực tiếp từ những hành vi thân và miệng tạo ra theo
sự chỉ đạo của ý, như kinh Trung A-hàm 32, đức Phật dạy: “Trong ba
nghiệp thân, khẩu và, ý thì ý nghiệp là tối quan trọng.”
Ở đây nếu ý phát khởi lên những ý nghĩ thiện, ác mà không câu hữu cùng
với thân hay khẩu thì ý chỉ mang một nghiệp danh là ý nghiệp; ngược lại
nếu ý câu hữu với thân và thúc đẩy thân làm theo ý, khi thân hòan thành
công việc của ý sai khiến thì, ý tạo ra hai nghiệp: một của chính ý, và
một của sai khiến, còn thân thì chỉ chịu có một tội là thân đã tạo ra
hành vi do ý sai khiến. Và ở đây đối với khẩu cũng như của thân. Vậy
nghiệp thiện nghiệp ác ở đây chính là bản chất của nghiệp, có chỗ gọi là
tánh nghiệp. Đó là chúng ta nói về nghiệp nhân trong hiện tại, còn
nghiệp quả thì chúng ta sẽ chịu ngay trong hiện tại, hoặc trong tương
lai, hoặc gần hoặc xa tùy theo nghiệp lực của chúng ta đã tạo ra. Ở đây
nếu chúng ta tạo ra nghiệp nhân trong hiện tại và phải chịu quả ngay
trong hiện tại, thì chúng ta không nói. Thí dụ như chúng ta cướp của
giết người trong hiện tại bị bắt quả tang, thì sẽ bị quả báo tù tội,
nhưng có những việc chúng ta làm trong hiện tại không bị phát giác,
không bị tù tội thì, đương nhiên sẽ bị quả báo trong tương lai có thể là
kiếp sau, và sự thọ báo trong tương lai này về kiếp sau có thể là gần
hoặc xa tùy theo nhân nghiệp lực mạnh hay yếu, thiện hay ác thì theo đó
chúng ta sẽ nhận lãnh quả báo tương ứng.
- Nếu là
những nhân duyên phát xuất từ mười thiện nghiệp đạo hay cũng gọi là bạch
nghiệp đạo thì gọi là sự thành tựu của phúc đức. Còn nếu phát xuất từ
mười ác nghiệp đạo hay cũng gọi là hắc nghiệp đạo thì gọi là sự hình
thành của tai họa. Mười bạch nghiệp là, không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời ác, không
nói lời vô ích, không tật đố, không sân giận và không tà kiến. Đó gọi là
thiện, phát sanh từ thân, khẩu, ý. Quả báo của chúng là được danh lợi ở
đời này và đời sau sanh vào nơi tôn qúy trong cõi nhơn, thiên. Sự bố
thí, cung kính v.v… tuy có nhiều loại phúc đức khác nữa, nhưng tóm tắt
lại cũng được bao gồm trong mười thiện nghiệp đạo. Và mười hắc nghiệp là
những hành vi làm ngược lại mười bạch nghiệp, những hậu quả tất yếu cũng
ngược lại tất cả mọi thọ quả có được của bạch nghiệp. Như kinh Tăng nhất
A-hàm
đức Phật dạy: “Người ta gieo nhân nào thì hưởng quả ấy; làm lành thì
được quả tốt, làm ác thì chịu quả xấu, người trồng thì người hưởng.”
- Đó là những
nghiệp được tạo ra bỡi sự cố ý của ý và thúc đẩy thân khẩu làm theo mà
tạo ra ác nghiệp hay thiện nghiệp và, tùy thuộc vào tác nhân nghiệp này
mà thọ báo ứng tương xứng. Không thể không có bất cứ tác nhân nào đã
được chúng ta tạo ra mà không được thọ quả, còn vấn đề nhanh chậm tùy
thuộc vào sức mạnh của nó nhiều hay ít qua việc dẫn đường chịu báo ngay
trong hiện tại hay, trong tương lai gần hay xa là còn lệ thuộc vào tác
nhân. Điều này như đức Phật đã dạy trong kinh Trung A-hàm 3 rằng:
“Tỷ-kheo, Ta quyết không bao giờ nói rằng quả báo của tác nghiệp cố ý bị
tiêu diệt, không được lãnh chịu. Quả báo ấy hoặc đời này hay đời sau
nhất định phải hứng chịu.”
Đó là điều được đức Phật khẳng định một cách dứt khoát, khi chúng ta đã
cố ý tạo ra nghiệp bằng những hành vi thiện hay ác, cũng đều bị thọ lãnh
những thọ báo tương xứng, do nghiệp nhân cảm ra nghiệp quả, ngay trong
hiện tại hay trong tương lai. Những hậu quả này chúng ta không thể nào
tránh đi đâu cho khỏi. Điều này được đức Phật ghi nhận trong kinh
Dhammapada (Pháp cú): “Những kẻ tạo nghiệp ác, dù có lên không,
xuống biển hay vào hang núi cũng không nơi nào có thể trốn thoát.”
- Ngoài ra
chúng ta cũng có những hành động vượt ra ngòai sự kiểm soát của ý, mà
hành động đó do những sai lầm ngộ nhận chẳng phải do cố ý đã tạo thành,
thì gọi là tư nghiệp vô ý, hay tác nghiệp không cố ý. Ở đây vô ký nghiệp
và không cố ý tác nghiệp cả hai không dẫn sinh ra quả báo.
- Ở trong tư
nghiệp, đứng về mặt tích cực mà nói thì, nghiệp rất mạnh, nó được gọi là
nghiệp tăng trưởng, nhưng đứng về mặt tiêu cực mà nói thì, tư nghiệp cố
ý rất yếu, nó cùng với tư nghiệp không cố ý hợp lại với nhau gọi là
nghiệp không tăng trưởng, sau đó nghiệp dần dần tăng trưởng sức mạnh của
nó, nên gọi chúng là tăng thượng nghiệp, hay là tăng trưởng nghiệp.
Ngược lại với tăng trưởng thì gọi là nghiệp tạo tác. Hơn nữa chúng sanh
ở cõi dục đã tạo ra những nghiệp ác, có khả năng chiêu cảm nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, năm thức thọ khổ báo, cho nên những thứ nghiệp này gọi
là thân thọ nghiệp; cho đến như chúng sanh cõi sắc (ngoại trừ trời sơ
thiền), cõi vô sắc đã tạo ra những thiện nghiệp, nhờ ý thức thứ sáu
hay thọ báo vui, cho gọi là tâm thọ nghiệp, đó gọi là chúng sanh có hai
cách thọ nghiệp. Đây là hai cách thọ nghiệp của thân và tâm.
Ngoài hai
cách thân thọ và tâm thọ này ra còn có những quả báo khổ thọ, lạc thọ,
xả thọ (không lạc không khổ thọ), lệ thuộc vào ác nghiệp được tạo
ra do cõi dục, hay thiện nghiệp được tạo ra bởi cõi dục cho đến đệ tam
thiền thiên thuộc cõi sắc, và thiện nghiệp do từ đệ tứ thiền thiên thuộc
cõi sắc trở lên đã tác dụng nơi cư trú của chúng sanh. Cho nên các
nghiệp tăng lên theo thứ tự dù là khổ hay là vui hay, không khổ không
vui thì, theo đó mà chúng ta có ba thọ nghiệp: thuận khổ thọ nghiệp,
thuận vui thọ nghiệp, và thuận không khổ không vui tho nghiệp. Ở đây,
chúng sanh cõi dục tạo ra các nghiệp thiện thì có thể đem đến hạnh phúc,
đó gọi là phước nghiệp; nếu tạo ra nghiệp ác thì có thể dẫn đến bất
hạnh, nên gọi là phi phước nghiệp. Chúng sanh cõi sắc cõi vô sắc tạo ra
nghiệp thiện, y cứ vào các thiền định sẽ chiêu cảm đến quả báo quyết
định bất động, nên gọi là bất động nghiệp. Ba nghiệp này cũng gọi là tam
nghiệp, hay tam hành.
- Hơn nữa,
bất thiện nghiệp của cõi dục, tính chất của chúng là bất thiện, quả dị
thục
của nó không tốt, cho nên gọi là hắc hắc dị thục nghiệp; thiện nghiệp
của cõi sắc, cõi vô sắc, tính chất của chúng là thiện, quả dị thục của
nó là tốt, cho nên gọi là bạch bạch dị thục nghiệp. Riêng thiện nghiệp
của cõi dục thì, tính chất và quả dị thục của nó có cả hắc bạch lẫn lộn
nhau, cho nên gọi là hắc bạch hắc bạch dị thục nghiệp. Ở đây chúng ta
căn cứ vào nhân quả để nói đến tánh tội phước báo ứng của nghiệp, nên
nghiệp quả trong ba cõi luôn luôn lệ thuộc vào phiền não. Khi chúng ta
đọan trừ vĩnh viễn phiền não như quan điểm của các bộ phái tiểu thừa
Phật giáo nhất là Nhất thiết hữu bộ tức là chúng ta siêu việt được tính
chất hắc bạch tương đối của nghiệp phiền não, thì quả dị thục này không
còn hiệu quả trong việc chiêu cảm quả báo nữa, nên gọi là phi hắc phi
bạch dị thục nghiệp. Đó gọi là tứ nghiệp. Trong bốn nghiệp này, ba
nghiệp trước thuộc về hữu lậu nghiệp, cần phải đạt đến vô lậu nghiệp tối
hậu mới có thể đọan trừ hoàn toàn nghiệp.
- Bản tính
thiện, ác, vô ký của sinh mệnh hữu tình, chỉ được căn cứ vào hệ thống
luật tắc nhân quả duyên khởi để luận bàn từ việc tác nhân nghiệp đến
việc thọ quả nghiệp, và kết quả luôn luôn tùy thuộc vào năng lực của tác
nhân có tác ý hay không tác ý, tác nhân mạnh hay yếu, thiện hay ác và,
lệ thuộc ngay cả đến thời gian mà theo đó có thọ quả nhanh hay chậm, tốt
hay xấu, đơi này hay đời sau phải nhận lãnh quả báo tương ứng với tác
nhân đã tạo ra, không thể nào tránh khỏi được. Như Tạp A-hàm, Ngũ phần
luật, Trường A-hàm kinh, Pháp cú (Dhammapada),
đức Phật đã dạy:
- “Hết thảy
cái có sinh đều có tử, thọ mệnh cuối cùng rồi cũng phải hết.
- “Y vào
nghiệp mà chịu duyên báo, thiện, ác đều có quả của nó.
- “Tu phúc
được sinh lên cõi trời, tạo ác thì phải vào địa ngục.
- “Tu đạo thì
dứt được sống, chết, mà nhập niết-bàn vĩnh viễn.
- “Không ở
trên không, không dưới biền, không trong rừng núi, không một chỗ nào
trốn được cái chết.
- “Ngay đến
chư Phật Bồ-tát, Duyên giác, Thinh văn còn phải bỏ cái thân vô thường,
huống nữa là phàm phu.”
- Có lẽ các
nhà Tiểu thừa Nhất thế hữu bộ căn cứ vào những lời dạy này của đức Phật
cho nên trong chủ trương về nghiệp, họ cho rằng nghiệp không mất và,
luôn thực hữu trong ba đời. Chúng ta không tạo ra thì thôi nhưng đã lỡ
tạo ra rồi, không nhiều thì ít, những hành vi tạo tác ra đó chúng sẽ để
lại những hậu quả tương xứng với nghiệp cảm duyên khởi đủ để hòan thành
luật tắt nhân quả. Theo các nhà Tiểu thừa chúng ta chỉ có thể đọan trừ
được chúng, chúng sẽ mất đi khi chúng ta tu đạo.
Chủ trương này mới nghe qua như là có lý, nhưng nếu nhìn sâu một tí thì
chúng ta sẽ thấy có sự mâu thuẫn trong chủ trương này (điều này chúng
tôi sẽ đề cập sau). Vì các nhà Tiểu thừa Hữu bộ chỉ có chấp nhận
nhơn không còn pháp thì thực hữu (Pháp hữu ngã vô), cho nên họ có
công thức “Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu” vì theo họ ba giai đọan
này quá khứ, hiện tại và, tương lai của thời gian đều có thực và do đó
thể của các pháp đều liên tục hiện hữu trong đó có nghiệp.
- Tất cả
chúng sanh đều tùy nghiệp mà thọ sanh. Như kẻ làm những việc ác đọa vào
địa ngục; người tu phước sanh thiên đường, người hành đạo được Niết
Bàn.” Cho nên, tất cả pháp không thể không có. Nghiệp ấy chính là ba thứ
độc. Vì để gây tổn hại cho kẻ khác mà phát sanh hành động. Người thiện,
trước tự diệt những điều ác, và sau đó làm việc các việc thiện như bố
thí trì giới v.v.. không gây tổn hại cho chúng sanh. Đó là làm lợi ích
cho người, cũng gọi là từ thiện phúc đức, cũng gọi hạt giống của quả báo
an lạc ở đời này và đời sau.
- Chúng sanh
bị vô minh che lấp, do ái kiết ràng buộc, qua lại trong sanh tử từ vô
thỉ, thọ đủ những khổ vui trong ba cõi sáu đường được tóm thâu vào trong
các thứ phiền não. Chúng chính là ba độc, từ ba độc này chúng ta có thể
phân biệt thành vô lượng phiền não. Trong đó gồm có 98 sử, 9 kết, 10
triền, 6 cấu v.v.. Từ vô lượng vô biên phiền não này thúc đẩy thân khẩu
ý chúng ta tạo ra nghiệp. Nghiệp là nghiệp thân, khẩu, ý, đời nay, đời
sau; phân biệt có thiện, bất thiện, vô ký. Có những quả báo khổ, vui,
không khổ không vui; nghiệp hiện báo, nghiệp sanh báo và nghiệp hậu báo.
Như vậy v.v.., vô lượng vô biên sinh tử biến dịch qua sự tác động của vô
thường, tạo thành nhân quả duyên khởi hòan thành nhân sinh quan và vũ
trụ quan Phật giáo theo quan niệm tương đối nhị nguyên của tục đế.
Tóm lại, qua
sự trình bày luân hồi và nghiệp báo này cho chúng ta thấy rõ rằng tất
mọi sinh mệnh hữu tình sinh ra sống còn và chết đi, chúng bị lệ thuộc
vào nghiệp nhân và nghiệp quả để trở thành một sinh mệnh hữu tình trong
hiện tại. Nghiệp qủa trong hiện tại chính là chủng tử nghiệp nhân di
truyền từ kiếp trước, và hiện tại chúng ta thọ quả qua xác thân và tâm
thức. Về xác thân thì chúng thể hiện qua đẹp, xấu, mập ốm, cao thấp v.v…
về tâm thức thì chúng thể hiện qua thông minh, ngu dốt, chậm nhanh v.v…
Nghiệp nhân chủng tử hiện tại được hình thành và tạo ra từ những tác
nhân trong hiện tại qua thân khẩu ý, mà ý (tâm thức di truyền) là
tác nhân chính trong việc tác thành nghiệp nhân trong hiện tại khi tiếp
xúc và tác động lên đối với những hòan cảnh chung quanh chúng ta trong
hiện tại, để cho ra một thứ chủng tử nghiệp nhân mới. Như vậy một chúng
sinh hữu tình trong hiện tại, trong người mỗi chúng ta đều đang mang hai
loại chủng tử: một di truyền từ kiếp trước, hai được tạo ra trong khi
tâm tiếp xúc với mọi vật, mọi việc chung quanh ta đã tác động. Như vậy
đối với chủng tử nghiệp nhân trong hiện tại, chúng ta có thể làm chủ tạo
ra chúng, và cũng nhờ từ đây mà chúng ta có thể sửa đổi nghiệp qua những
ý nghĩ và hành vi tạo tác của chúng ta là làm sao để tránh khổ được vui
trong khi chúng ta đang sống, để khi chết đi không mang trong người mình
nghiệp nhân làm khổ sau này trong bước kế tiếp. Và nhờ đó chúng ta có
thể cải tạo lại xã hội lý tưởng theo ý muốn của chúng ta là, dân giàu
nước mạnh sống trong an vui hạnh phúc; lòng từ sẽ được thể hiện qua mọi
hành vi lợi mình lợi người. Mọi an ninh trật tự sẽ được vãng hồi, cuộc
sống sẽ được bảo đảm an tòan hơn khi, chúng ta dựa vào sự thưởng phạt
công minh của luật nhân quả qua luật pháp quốc gia và, chính lương tâm
mỗi hữu tình chúng sanh, cùng cộng đồng xã hội.
- Ở đây chúng
tôi trình bày Luân hồi nghiệp như trên đứng trên phương diện tương đối
nhị nguyên của tục đế hay thế đế theo luật tắc nhân quả duyên khởi; nên
luân hồi nghiệp báo được đánh giá như là phương pháp sửa đổi con người,
cải tạo xã hỗi một cách có hiệu nghiệm qua nhân quả báo ứng, trong khi
con người đang bị vô minh chi phối trong cuộc sống. và chính mỗi chúng
sanh được sinh ra bỡi những nghiệp hoặc mà họ đã từng tạo ra từ kiếp
trước, chỉ sự vô minh che phủ nên không biết đâu là thật, đâu là giả,
chấp nhận, chấp càng, ngã pháp thường còn, nên sinh ra thiện ác báo ứng.
Nếu chúng sanh hữu tình mà nhận ra được các pháp (trong đó có ngã,
pháp) là vô ngã, không thường, cũng không đọan thì việc nghiệp báo
luân hồi làm gì sanh ra được. Như Trung luận 3
phẩm quán nghiệp, do Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) tạo ra và Phạm
chí Thanh Mục giải thích: Chỉ vì nhơn duyên điên đảo mà chúng sanh qua
lại trong sanh tử, đó cũng không phải là thường… Hơn nữa, vì tham đắm
điên đảo, chẳng biết thật tướng của các pháp, cho nên nói “Nghiệp không
mất.” đó là lời Phật dạy.
- Cho nên
theo đệ nhất nghĩa, thì nghiệp không sanh. Vì sao? Vì không tánh, nên
không sanh. Vì nhân duyên, nên cũng không diệt. Không phải do thường mà
không diệt. Nếu không phải vậy, thì nghiệp tánh mới quyết định có. Nếu
nghiệp quyết định có, tức là thường. Thường thì không cần tạo nghiệp. Vì
sao? Vì pháp thường không có tạo tác.
- Hơn nữa,
Nếu do không tạo mà có nghiệp, thì người kia tạo tội, người này chịu quả
báo. Lại người khác đoạn phạm hạnh mà người này có tội, thì phá pháp thế
tục. Nếu nghiệp trước có thì, mùa đông không thể nghĩ đến việc mùa xuân;
mùa xuân không thể nghĩ đến việc mùa hạ; chúng có những lỗi như vậy.
- Lại nữa,
người làm phúc và kẻ tạo tội sẽ chẳng có khác biệt. Khởi nghiệp bố thí,
trì giới v.v… gọi là phúc; khởi nghiệp sát sanh, trộm cắp v.v.. gọi là
tạo tội. Nếu không tạo mà có nghiệp thì chẳng phân biệt!
- Lại nữa,
nghiệp nếu quyết định có tánh, thì một lúc thọ quả báo rồi lại nên thọ
nữa. Thế nên, ông nói do pháp không mất nên có nghiệp báo cố định, có
những lỗi như thế.
- Lại nữa, nếu nghiệp từ phiền não khởi; phiền não chẳng quyết định, chỉ
từ nhớ tưởng phân biệt mà có. Nếu các phiền não không thật, nghiệp làm
thế nào có thật? Tại sao? Vì nhơn không tự tánh, nghiệp cũng không tự
tánh. Quả báo là từ nghiệp thiện, ác phát sanh thân năm ấm vô ký. Các
nghiệp như thế đều không; không tự tánh, như huyển, như mộng, như âm
vang, như quáng nắng.