NIẾT BÀN
Căn
cứ trên tuyên bố Phật:
“Sarvam śūnyam”
(Mọi vật đều không), vấn đề Niết-bàn
(Nirvāna),
đã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại sau khi Ngài qua đời; theo
đó Niết-bàn được trình bày theo dạng sở đắc của họ, và cũng từ đó mọi
tranh luận về nó cũng như các giáo lý khác trở nên gay gắt hơn.
Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu, có
(bhāva)
hay không
(abhāva),
tại thế gian
(laukika)
này hay vượt ra khỏi thế gian
(lokottara);
một vấn đề làm nảy sanh ra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt
giữa Hữu bộ hay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ
(Sarvāsti-vādin)
và Kinh bộ còn gọi là Kinh lượng bộ
(Sautrāntika).
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức
Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngằn ấy cơ bệnh do
ba dộc phiền não sinh ra. Vì tính cách đa dạng và phức tạp của con bệnh,
nên thuốc đối trị cũng tuỳ thuộc vào tính phức tạp đa dạng của con bệnh
mà cho, giống như con bệnh thế gian (thế giới) chỉ cho năm thọ ấm
chẳng hạn, nội trong cách chấp thủ năm thọ ấm bệnh và cách cho thuốc
cũng đã là đa dạng rồi. Vì khi muốm chữa con bệnh chấp thủ vào năm thọ
ấm, không hẳn là chỉ có một cách chữa trị mà trước hết phải xem đến cách
chấp thủ đó liên hệ câu hữu đến độc nào nặng, đến độc nào nhẹ, trong ba
độc hay những câu hữu khác ngoài ba độc, mà tuỳ theo đó đức Đạo sư cho
thuốc chứ không phải chỉ có một phương thuốc duy nhất để trị chúng. Cho
nên việc chữa lành bệnh, giải thoát mọi đau khổ cho bệnh nhân, cho bệnh
nhân rất nhiều khía cạnh, sau khi ngài diệt độ, đã bị những người đi sau
ngộ nhận, chỉ vì những người đi sau không hiểu được thâm ý của ngài, cho
nên giáo nghĩa của những lời dạy đó bị xuyên tạc một cách triệt để và có
hệ thống. Họ đã biến giáo lý phương tiện mà đức Đạo sư đã dùng để đối
trị căn bệnh hữu lậu của chúng sanh, đáng lý sẽ bị vượt qua, thành giáo
lý cứu cánh, và họ chấp chặt vào chúng coi như là một thực hữu cần phải
đạt đến để thủ đắc. Từ đó Hữu-Vô được họ biến thành những thứ nhãn hiệu
tuyên truyền cho lập trường của họ. Qua đây, giáo lý của Ngài đã biến
thành một thứ luận lý nhân quả. Từ đó, họ tự đặt nền tảng cho một cứu
cánh ngoài ba cõi này, cần phải vươn tới, đó chính là một thứ Niết-bàn
thực hữu không tưởng. Trong khi chính đức Phật chủ trương một Niết-bàn
không ở ngoài ba cõi, như kinh
Rohitassa
đã dạy:
“Tại chỗ nào, bạch Thế tôn, không bị sanh, không bị già, không bị chết,
không có từ bỏ (bất diệt), không có sanh khởi (bất sanh), chúng con có
thể đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới không?”.
Đức Phật trả lời :
- “Này hiền giả, ta tuyên bố rằng :
tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ
đời này, không có khởi đời khác, thời không có thể đi đến để thấy, để
biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới. Nhưng này hiền giả, trong
cái thân dài độ mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta
tuyên bố về thế giới tập khởi, thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến
thế giới đoạn diệt.”
thuộc Pāli tạng.
- Và cũng
trên lập trường này, trong kinh 1307
Tạp A Hàm thuộc Hán tạng, mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây qua bản
dịch của người viết, cùng hiệu-chú của Thượng Toạ Thích Tuệ Sỹ, sẽ nói
lên con đường đi đích thật của đức Phật đã từng đi, đã từng sống, để chỉ
dạy lại cho chúng ta, những người đi sau noi theo.
“Tôi nghe như vầy:
- “Một thời đức Phật ở vườn Cấp Cô
Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Thiên tử Xích Mã, tướng mạo
tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi
lui qua một bên; từ thân toả ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp Cô Độc, rừng
cây Kỳ-đà. Lúc này Thiên tử Xích Mã
kia bạch Phật:
- “Thưa Thế tôn! Có thể vượt qua
biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết chăng?”
Phật đáp Xích Mã:
- “Không thể vượt qua biên tế thế
giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết được.”
Thiên tử Xích Mã bạch Phật:
- “Lạ thay! Thế tôn khéo nói nghĩa
này! Như những gì Thế tôn đã nói: ‘Không thể vượt qua biên tế thế giới,
đến chỗ không sinh, không già, không chết được.’ Vì sao thưa Thế tôn! Vì
con tự nhớ kiếp trước tên là Xích Mã, làm Tiên nhơn ngoại đạo,
đắc thần thông, lìa các ái dục.
Lúc đó, con tự nghĩ: ‘Ta có thần túc nhanh chóng như vậy, giống như kiện
sĩ, dùng mũi tên nhọn trong khoảnh khắc bắn xuyên qua cây đa-la, có thể
lên một núi Tu-di và đến một núi Tu-di, cất bước nhẹ nhàng từ biển Đông
đến biển Tây.’ Lúc ấy con tự nghĩ: ‘Nay ta đạt được thần lực nhanh chóng
như vậy, hôm nay có thể tìm đến biên tế của thế giới được chăng?’ Nghĩ
vậy rồi liền khởi hành, chỉ trừ khi ăn, nghỉ, đại tiểu tiện, và giảm bớt
ngủ nghỉ, đi mãi đến một trăm năm, cho tới khi mạng chung, rốt cuộc
không thể vượt qua biên tế thế giới, đến nơi không sinh, không già,
không chết.”
Phật bảo Xích Mã:
- “Nay Ta chỉ dùng cái thân một tầm
để nói về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới diệt tận, về con
đường đưa đến thế giới diệt tận.
- “Này Thiên tử Xích Mã! Thế nào là
Thế giới? Là chỉ năm thọ ấm.
Những gì là năm? Là sắc thọ ấm, thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm,
thức thọ ấm, đó gọi là thế giới.
- “Thế nào là sắc tập khởi ? Là tham
ái đối với hữu vị lai câu hữu với tham, hỷ, mê đắm nơi này hay nơi kia.
Đó gọi là sự tập khởi của thế giới.
- “Thế nào là thế giới diệt tận ? Là
tham ái đối với hữu vị lai câu hữu với tham, hỷ, mê đắm nơi này hay nơi
kia, đều đoạn tận, xả ly không còn sót, vô dục, vắng lặng, dứt bặt, đó
gọi là sự diệt tận thế giới.
- “Thế nào là con đường đưa đến thế
giới diệt tận ? Là tám Thánh đạo: Chánh kiến, chánh trí, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó
gọi là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới.
- “Này Xích Mã! Biết rõ thế giới,
đoạn tận thế giới; biết rõ thế giới tập khởi, đoạn tận thế giới tập
khởi; biết rõ thế giới diệt tận, chứng nhập thế giới diệt tận; biết rõ
con đường đưa đến thế giới diệt tận, tu con đường đưa đến sự diệt tận
thế giới. Này Xích Mã! Nếu Tỳ-kheo nào đối với khổ thế giới, hoặc biết
hoặc đoạn; sự tập khởi thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự diệt tận thế
giới, hoặc biết hoặc chứng; con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, hoặc
biết hoặc tu, thì này Xích Mã! Đó gọi là đạt đến biên tế thế giới, qua
khỏi ái thế giới.”
Bấy giờ Thế tôn nói kệ lập lại:
- Chưa từng dạo đi xa,
Mà đến biên thế giới;
Chưa đến biên thế giới,
Trọn không hết biên khổ.
Vì vậy nên Mâu-ni,
Biết biên tế thế giới;
Khéo rõ biên thế giới,
Các phạm hạnh đã lập.
Đối biên thế giới kia,
Người giác tri bình đẳng;
Đó gọi hạnh Hiền thánh,
Qua bờ kia thế giới.
Sau khi Thiên tử xích Mã nghe những
gì Phật nói, hoan hỷ, tuỳ hỷ, đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.”
- Qua bản
kinh này đã cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Niết-bàn, về thế giới
của không sinh, không già, không chết, mà mỗi người trong chúng không ai
là người không ước ao mong muốn đạt đến nơi đó. Nhưng nơi đó là nơi nào?
Phải chăng là nơi ở ngoài thế giới ba cõi này? Như Thiên tử Xích Mã đã
từng hỏi, và đã từng kinh nghiệm, đã từng kinh qua trong quá khứ khi hỏi
về: ‘Có thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già,
không chết chăng?’ Khi mà những thắc mắc về cuộc sống nhân sinh vũ trụ,
lúc nào cũng ám ảnh sợ hãi bởi cái khổ trước mắt muốn tìm cách thoát ra
nó; nhưng qua kinh nghiệm sống, qua kinh nghiệm đã từng trải, bế tắt vẫn
hoàn bế tắt như Thiên tử Xích Mã đã từng bỏ ra một trăm năm chạy đôn
chạy đáo cố vượt qua biên tế thế giới để tìm đến nơi không sinh, không
già, không chết, lúc còn làm Tiên nhơn, cuối cùng vẫn không thoát khỏi
biên tế thế giới này. Chúng ta ai lại không có những thắc mắc và những
ước mong như Thiên tử Xích Mã, nhưng những thắc mắc và mong ước kia
Thiên tử Xích Mã đã từng thực hiện nó bằng những hành động, nhưng những
hành động này vẫn không thành tựu được chỉ vì phương pháp thực hành trên
nền tảng cơ bản đã sai lầm như đức Phật đã dạy:
- “Không thể vượt qua biên tế thế
giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết được.”
Chỉ vì chính chúng ta đã quên ngay đến sự hiện hữu của chính chúng ta
trên thế giới này, mà vong thân hướng ngoại tìm cầu; nhưng theo đức Phật
thì:
- “Nay Ta chỉ dùng cái thân một tầm
để nói về thế giới, về sự tập khởi thế giới, về sự diệt tận thế giới, và
con đường đưa đến sự diệt tận thế giới.”
Ngay trong cuộc sống hiện tại này, ngay trong thế giới này, chứ không ở
đâu xa hết. Ở đây, đức Phật chỉ giới hạn cái thân này để nói về nhân quả
thế gian và xuất thế gian qua tứ Thánh đế, mà ở đó con người được đánh
giá như là một hiện tượng đủ để có thể hoàn thành một thế giới qua năm
thọ ấm; chúng được coi như là một kết quả, được hình thành bỡi những tập
khởi của sắc được câu hữu với ái, tham, hỷ để phát sinh ra những hệ lụy
nhiễm trước trói buộc trong quá khứ. Trong hiện tại, đối với vị lai nếu
những tập khởi của sắc được câu hữu với ái, tham, hỷ để phát sinh ra
những hệ luỵ nhiễm trước trói buộc và làm nhân tập khởi cho chúng trong
vị lai, mà hình thành nhân quả thế gian, thì đó là cách hình thành nhân
quả thế gian theo chiều lưu chuyển. Và ngược lại cũng trong cái thân
này, đối vị lai, nếu sắc hiện tại không câu hữu với ái, tham, hỷ để phát
sinh ra những hệ lụy nhiễm trước trói buộc, thì đã thoát khỏi mọi hệ luỵ
nhiễm trước, đã dứt sạch hết mọi thứ vô minh phiền não, không còn ham
muốn, dứt bặt mọi thứ, trở thành vắng lặng tịch tịnh, không còn có ái,
tham, hỷ hiện hữu ở đây nữa, đó là sự diệt tận thế giới; và để đạt được
trạng thái vắng lặng tịch tịnh của kết quả này, thì phương pháp để sắc
không câu hữu với ái, tham, hỷ nữa là cần phải tu tập tám Thánh đạo, con
đường đưa đến sự diệt tận của thế giới, chúng là nhân hiện tại để đưa
đến quả trong vị lai như đức Phật đã dạy. Đó chính là sự hình thành của
nhân quả xuất thế gian theo chiều hoàn diệt.
- Khi chúng
ta đã biết rõ thế nào là thế giới, thế nào là thế giới tập khởi của nhân
quả thế gian và, biết rõ thế nào là thế giới diệt tận, thế nào là con
đường đến thế giới diệt tận của nhân quả xuất thế gian. Tiếp đến, trên
nguyên tắc nhân quả nhằm loại bỏ đi những di hại của sắc khi câu hữu với
ái, tham, hỷ để rồi phát sinh ra những hệ lụy nhiễm trước trói buộc sau
đó. Trước hết phải đoạn tận thế giới và sự tập khởi của chúng, sau đó
muốn chứng đạt đến trạng thái vô dục vắng lặng dứt bặt, dứt sạch không
còn gì hết, thì phải tu tập theo con đường để đưa đến thế giới diệt tận.
Nhưng đến đây cũng chỉ là những định nghĩa một cách lý thuyết về thế
giới qua năm thọ ấm để nói lên cái nhân quả bất toàn có thể thay đổi
được bỡi những nổ lực theo lưu chuyển hay hoàn diệt của nhị đế mà thôi.
Đức Phật dạy tiếp:
- “Này Xích Mã! Biết rõ thế giới,
đoạn tận thế giới; biết rõ thế giới tập khởi, đoạn tận thế giới tập
khởi; biết rõ thế giới diệt tận, chứng nhập thế giới diệt tận; biết rõ
con đường đưa đến thế giới diệt tận, tu con đường đưa đến sự diệt tận
thế giới.”
- Biết rõ thế
giới ở đây chính là biết như thật về năm thọ uẩn, biết rõ về năm thọ uẩn
tập khởi, để đoạn tận chúng. Năm thọ uẩn hiện hữu của mỗi chúng ta trong
hiện tại, nó là một kết quả tất yếu vừa mang hình thức biểu hiện của
nhân quá khứ, vừa làm nhân tố tích cực cho một cái quả nào đó trong
tương lai. Như vậy khi chúng ta nói về hiện hữu của chúng là nói đến sự
liên hệ nhân quả ba đời của quá khứ - hiện tại - tương lai (chúng
thuộc dạng phân đoạn sinh tử). Trong sự hiện hữu sinh-tử này, chúng
nói lên được liên hệ nhân quả từ sinh đến tử, giai đoạn này chúng ta vừa
là người thọ quả của quá khứ, vừa là kẻ tạo nhân cho vị lai. Và cũng vì
lẽ đó cho nên khi chúng ta biết rõ cái quả hiện tại của nhân quá khứ
chúng là năm thọ uẩn, thì cũng trong hiện tại chúng ta tạo nhân cho vị
lai bằng cách đoạn tận năm thọ uẩn vọng này để không có cái nhân vọng
cho vị lai nữa, nghĩa là không sinh ra quả vọng cho vị lai; khi quả vọng
vị lai không sinh, thì nhân vị lai cũng không sinh, và cứ như vậy vòng
xích nhân quả vọng sẽ bị diệt. Đến đây năm thọ uẩn không sinh ra nữa,
khi năm thọ uẩn đã không sinh, thì có gì để diệt, nên không diệt.
- Vậy
Niết-bàn chúng sẽ hiện hữu ngay trong cõi này, ngay trong xác thân này,
nếu ai giải thóat được mọi trói buộc đau khổ của tập khởi, của đoạn
diệt, bằng cách không khởi tâm điên đảo, phân biệt chấp trước đối với
cuộc sống, thì người đó sẽ đạt được Niết bàn ngay trong cuộc sống này.
Từ những ngộ nhận sai lầm như vậy, cho nên những gì đức Phật đã phương
tiện dạy cho chúng ta con đường đi đến giải thoát, thì họ đã biến chúng
thành con đường nô lệ trói buộc.
Niết-bàn cùng thế gian
Không có tí phân biệt
Thế gian cùng Niết-bàn
Cũng không tí phân biệt.
- Về Năm uẩn
nhân duyên, tướng của chúng đứng về mặt dụng mà nói, thì chúng là tướng
sanh diệt biến đổi liên tục qua lại, và gọi chúng là thế gian. Nhưng
đứng về mặt tánh mà nói, thì cứu cánh của chúng là Không, Tịch diệt,
không chấp thủ, đó là Không tướng (nghĩa này đã nói ở trên). Ở
đây, vì tất cả các pháp chẳng sanh chẳng diệt cho nên thế gian cùng
Niết-bàn không có sự phân biệt và ngược lại Niết-bàn cùng thế gian cũng
không có sự phân biệt nào. Lại nữa,
Thật tế của Niết-bàn,
Cùng thật tế thế gian;
Cả hai thật tế đó,
Không mảy may sai biệt.
- Cả hai thật
tế Niết-bàn và thế gian, không có bất cứ mảy may sai biệt nào cả. Vì sao
? Vì khi chúng ta tìm kiếm thật tế cứu cánh của chúng, thì cứu cánh của
chúng là bình đẳng. Do đó, mọi tìm kiếm đều không thể đạt được, chỉ vì
chúng không có bất cứ mảy may sai biệt nào.
- Thật ra
trong giáo pháp của Ngài, đức Phật đã phương tiện dùng hai hình thức
Nhân quả và Duyên khởi, để một mặc đối trị về nhân quả tội phước, và mặc
khác giải phóng những phương tiện đó qua duyên khởi để hoàn thành Trung
đạo giả danh trở về Không tánh. Đó là con đường giải thoát thật sự như
chính trong kinh Xà dụ, hệ Bali đã dạy:
“Chánh pháp còn buông bỏ huống chi
là phi pháp”. Nhưng
đối với họ, điều này không quan trọng nên đã bị họ bỏ qua. Trong khi đó,
họ không biết rằng chính họ đã phản bội lại đức Phật qua lập trường chấp
thủ tà kiến thuộc nhân quả nhị nguyên. Họ quên đi pháp Trung đạo duyên
khởi, mà trong suốt cuộc đời, đức Phật đã nổ lực xiển dương chúng. Đức
Phật chưa bao giờ chủ trương lấy Hữu-Vô làm lập trường chính để đưa
chúng sanh đến giải thoát cả, mà ngài chủ trương:
“Mọi vật đều
không”
(Sarvam
sùnyam) nhằm phủ
định có và không của các pháp và xiển dương tự tánh Không, cũng là mở
bày cho một hướng đi vượt thoát, đó là Trung đạo qua tướng giả danh.
Chính vì Không này mà các nhà Tiểu thừa sau này, đã quan niệm sai lầm về
nó, để đẻ ra một cái tự tánh thực hữu nào đó của các pháp, mà phản lại
chính quan điểm của đức Phật. Cũng chính vì muốn khôi phục lại con đường
đi của đức Phật, ngài Long Thọ Bồ tát mới viết ra bộ luận Trung quán,
nhằm xiển dương con đường Trung đạo mà đức Phật đã từng đi, đã từng sống
với nó. Ngài Long Thọ bảo cái Không ở đây không phải là cái không của
không đối lập với cái có, mà là cái KHÔNG của :
Các nhân duyên sanh pháp
Ta nói tức là Không
Đó cũng là giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo.
- Ở đây, mọi
vật đều Không, được quan niệm như là một cứu cánh để phá hủy tất cả mọi
quan điểm sai lầm về các pháp. Qua đó Bát Bất được ngài sử dụng như là
một phủ định tuyệt đối cho phương pháp luận của ngài, nhằm triệt tiêu
mọi chấp thủ có-không (nhị nguyên), vừa xây dựng lý duyên khởi
hiện tướng qua Trung đạo giả danh để hiển Thể duyên khởi Tánh Không của
chúng như trong bài kệ trên đã nói.
Nguyên bản hán kinh 1307 Tạp A-hàm Quyển 49 Đại Chánh tân tu tập II.