Giảng tại Chùa Xá Lợi, ngày 05-04-2009
Đánh máy: Bích Ngọc
Đền đài tình ái Taj Mahal
Trong chuyến chiêm bái Phật tích Ấn Độ và Nepal năm 2009, ngày 8/3
Quốc tế Phụ nữ, đoàn chúng tôi có mặt tại Taj Mahal, một trong bảy kỳ
quan thế giới. Năm 2008, đền đài tình ái Taj Mahal này một lần nữa lại
được bầu chọn là kỳ quan thế giới trong khi một số công trình khác bị
loại. Chúng tôi cùng đoàn làm phim VTV chuẩn bị một loạt các ký sự về
Phật tích, dự kiến mười tập, mỗi tập ba mươi phút phát sóng vào cuối
tháng tư này trên chương trình Thế giới Nghệ thuật của đài VTV1 và tái
phát sóng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên đài VTV4 cho Việt kiều và
người ngoại quốc. Chúng tôi tin tưởng chương trình phát sóng về các Phật
tích sẽ giúp người xem hình dung như tự mình thực hiện chuyến du lịch
và chiêm bái dưới góc độ hành hương Qua các ngõ đường mà đức Phật đã đi
với tuệ giác, với thiền quán, với sự xúc địa và với chủ trương nhập thế
của Ngài, thời vàng son của đạo Phật trong quá khứ mạnh bao nhiêu thì từ
thế kỷ thứ XII, nó trở nên hoang tàn, đổ nát và thành các phế tích bấy
nhiêu. Đến bây giờ nó vẫn như thế. Bồ Đề đạo tràng được UNESCO công nhận
là di sản văn hóa thế giới vào năm 2000, nhưng đến năm 2004 mới chính
thức được chính phủ Ấn Độ ăn mừng.
Thử đặt câu hỏi, tại sao một di sản văn hóa cấp thế giới lại để đến
năm 2004 mới ăn mừng? Tổng thống của người Ấn Độ khi đó vốn là cha đẻ
của bom nguyên tử hạt nhân. Sau khi về hưu, ông tham gia chính trị và
được bầu làm tổng thống. Ông là người Hồi giáo nhưng lại xiển dương đạo
Phật, bởi vì có lẽ ông thấy rất rõ các công trình tâm linh Phật giáo mấy
nghìn năm tại đây bị Hồi giáo phá nát vào thế kỷ XII, cho nên cần phải
làm một việc gì đó để chuộc lại lỗi lầm quá khứ. Trong khi đó các triều
đại chính phủ thuộc Ấn Độ giáo sau thời kỳ Anh trị, tức năm 1949 tới bây
giờ, hầu như không mấy quan tâm đến các Phật tích. Là một nhà phát minh
và sản xuất bom nguyên tử lại ca ngợi các Phật tích là điều có ý nghĩa
rất sâu sắc.
Cũng như đại đế A-dục, sau cuộc chiến Kalinga, xương chất thành núi,
máu chảy thành sông. Đêm đó, ông đi tham quan chiến trường và nhận thấy “Tại sao ta phải tìm lấy đời sống đầy đủ về kinh tế thông qua cuộc tàn sát như thế này”. Nỗi tư duy đã đưa ông đến với đạo Phật. Ngày hôm sau, ông đọc kinh đức Phật, đặc biệt là kinh Từ Bi,
ông càng nhận ra hành động của mình hết sức tàn ác, mất nhân tâm. Cuối
cùng ông trở thành đại minh quân truyền bá đạo Phật khắp nơi trên thế
giới. Ông cũng là người biệt phái các phái đoàn truyền giáo của đạo Phật
đến các nước Đông Nam Á, nhờ đó các nước này biết đến đạo Phật. Cho
nên, khi đã hồi đầu thì quá khứ ác độc chừng nào cũng sẽ làm cho hiện
tại và tương lai đóng góp vào Phật pháp lớn chừng đó theo một cách rất
tương thích.
Công trình Taj Mahal rất vĩ đại trên không gian to lớn khoảng vài
chục mẫu. Đền được khởi công xây dựng vào đầu năm 1632 và kết thúc vào
cuối năm 1652, tức là gần hai mươi hai năm. Tòa chính giữa với ụ tháp
tròn cao 55 mét, phần đỉnh ụ tháp bằng vàng nguyên khối. Bốn trụ xung
quanh, hai phía trước và hai phía sau có chiều cao mỗi trụ là 40 mét.
Kiến trúc sư của công trình này rất tinh ý khi làm cho các trụ có độ ng-
hiêng khoảng ba độ hướng ra phía ngoài để khi động đất từ 7.5 trở lên,
bốn trụ này có thể bị ngã nhưng vẫn không ảnh hưởng đến tòa nhà chính.
Toàn bộ công trình được xây dựng không hề có một cây sắt bên trong. Đá
nguyên khối ráp nối với nhau, đó là những loại đá trắng quý mang từ bang
Rajasthan và nhiều nơi trên thế giới về, có khoảng 39 loại đá. Tất cả
những màu sắc trên đó đều tự nhiên, hoàn toàn không sơn phết gì cả.
Taj Mahal được làm theo hình hai chữ nhật, hình chữ nhật bên trong và
hình chữ nhật bên ngoài. Bên ngoài được đánh dấu bằng cổng thành làm
bằng đá đỏ, một loại đá quý thường sử dụng làm các thành trì kiên cố của
đế chế Hồi giáo. Mặt trước có mười một ụ tròn, mặt sau cũng có mười một
ụ tròn. Hai mươi hai ụ tròn này tượng trưng cho hai mươi hai năm xây
cất, nghĩa là trước khi khởi công công trình, các kiến trúc sư đã đoán
được thời điểm hoàn tất cho nên họ tính rất chuẩn xác. Nền là đá cẩm
thạch trắng và chữ thư pháp được khắc trên đó là loại đá cẩm thạch màu
xanh. Nếu đứng gần, chúng ta sẽ thấy toàn bộ chữ Ả Rập được trích từ
kinh Koran. Điều đặc biệt là dù đứng nhìn từ trên xuống, nhìn từ trái,
từ phải sang, hay nhìn từ dưới lên cũng đều đọc rõ ràng rành mạch không
mất chữ nào. Đó là sự khéo léo của kiến trúc sư đã phác họa ra loại thư
pháp dành cho người Ả Rập. Công trình này do vua Shah Jahan trị vì đất
nước Ấn Độ vào năm 1620, kết thúc đế chế vào năm 1658, xây dựng cho
hoàng hậu tuyệt đẹp của ông sau khi qua đời.
Mỗi năm, Taj Mahal thu hút khoảng 200.000 lượt khách quốc tế và
khoảng 10 triệu lượt khách Ấn Độ đến bái viếng. Ngay cả mùa hè nóng bức
từ tháng tư đến tháng bảy, người ta vẫn đến nườm nượp. An ninh tại đây
siết chặt chưa từng có. Việt Nam chúng ta có bài hát trong đó có hai câu
“Em ơi, lâu đài tình ái đó, chắc không có trên trần gian”.
Có lẽ vị tác giả này chưa đến Ấn Độ. Taj Mahal không phải là lâu đài
tình ái mà là cung điện tình ái, nó lớn gấp trăm lần so với lâu đài tình
ái, và nó có thật, thậm chí trở thành một trong bảy kỳ quan thế giới.
Điều gì đã khiến cho nhà vua phải làm một công trình lớn như vậy.
Trước khi người vợ được ông sủng ái qua đời, bà có hai lời nguyện ước.
Thứ nhất, yêu cầu nhà vua nếu thực sự thương bà thì phải chung thủy với
bà, tức là sau khi bà chết, nhà vua không tái giá. Nhà vua đã nhận lời
hứa. Thứ hai, phải xây dựng một công trình vĩ đại để tưởng niệm tình yêu
bất hủ giữa hai người. Nhà vua cũng đã đồng ý.
Thông thường, trong lúc còn sống thương yêu nhau, người ta dễ dàng
lấy lòng nhau bằng cách xây dựng một công trình nào đó, nhưng đằng này
sau khi bà chết, nhà vua mới bắt đầu khởi công xây vào năm sau. Công
trình được phác họa đúng một năm mới bắt đầu khởi công và kéo dài suốt
hai mươi năm liên tục. Lịch sử mô tả, không có buổi chiều nào nhà vua
không đến để giám sát, đốc thúc tiến độ công trình. Đó là chuyện chưa
từng có trong lịch sử, cho nên ta mới gọi là “tình thiên thu”, biểu tượng của tình yêu lý tưởng.
Công trình xây dựng trong hai mươi hai năm, số lượng công nhân được
mời về khoảng hai mươi ngàn người bao gồm những thợ điêu khắc giỏi nhất
không chỉ tại Ấn Độ mà khắp vùng Trung Đông và khắp thế giới. Phong cách
vườn làm theo Kashmir, đó là phương pháp đơn giản nhưng rất sang trọng.
Phong thuỷ của Kashmir luôn lấy nước làm chuẩn. Dù nhìn từ góc độ nào,
ban ngày hay ban đêm, chúng ta vẫn thấy nó là một tòa tháp đôi trên mặt
đất dưới mặt nước lung linh ảnh hiện. Mặt sau của tháp này là sông
Yamuna nên nó tương phản cả hai mặt, trước và sau. Bên cạnh tòa tháp,
Shah Jahan dự kiến xây dựng một tháp tương tự bằng loại đá đen để dành
cho ông sau khi qua đời. Kế hoạch chưa kịp thực hiện thì sau khi kết
thúc hai mươi hai năm xây dựng, con trai của ông đã soán ngôi ông và cầm
tù ông tại pháo đài Agra tám năm cho đến lúc chết.
Làm thế nào người ta vận chuyển những loại đá quý vào thời điểm chưa
có xe vận chuyển?. Ông đã phải vận động điều phối một ngàn con voi chiến
của triều đình và của đế chế khắp nơi trên Ấn Độ. Trên chặng đường dài
khoảng 360
cây số, từng phiến đá một về, mảnh đá nào mẻ một chút hoặc không đúng
với bản mẫu lập tức bị vứt bỏ và phải làm đi làm lại nhiều lần. Các
thợ, các nghệ nhân giỏi nhất, đặc sắc nhất đã được thỉnh mời về đây thực
hiện. Vườn theo phong cách Kashmir, kiến trúc thì của Ba Tư, phong cách
lại là Hồi giáo. Bên cạnh thác nước còn có cỏ và các hoa văn xen lẫn
nhiều loại đá quý, cả hai bên tạo thành thế tương xứng rất đẹp. Mấy trăm
năm trôi qua mà công trình không hề có một sự lún hay nứt nẻ gì. Ở góc
nhìn cận hơn, chúng ta sẽ thấy phía dưới là đế thành. Đế này được xây
dựng trước tiên. Phía sau trụ tháp là bầu trời, một khoảng không gian
như thiên giới. Hoa văn họa tiết trạm trổ ở đây cũng hết sức ấn tượng,
đa dạng và phong phú, các hoa văn này đều được làm từ nhiều loại đá quý.
Tất cả rất tự nhiên, được ráp nối tinh vi, không hề sơn phết. Do đó
dưới ánh đèn, ánh sáng ửng lên từng màu đá lấp lánh tuyệt đẹp.
Mối tình thiên thu
Shah Jahan khi còn là thái tử được đặt tên là Khurram sinh năm 1592
và hoàng hậu mà ông đã làm cung điện Taj Mahal tên là Mumtaz, nhỏ hơn
ông một tuổi. Bà sinh năm 1593. Họ gặp nhau từ khi hoàng tử được mười
lăm tuổi và cô công chúa Ba tư này mười bốn tuổi. Tình yêu chớm nở ở họ.
Cuộc tình kéo dài năm năm và họ đã chính thức trở thành vợ chồng. Công
chúa Banu rất đẹp, đẹp đến độ sau khi đã làm vợ của hoàng tử Khurram mà
các hoàng tử anh, hoàng tử em vẫn ghé mắt nhìn, vì sắc đẹp của nàng độc
nhất vô nhị.
Khurram là con trai thứ năm của vua Jahangir, vị vua thứ tư của đế
chế Hồi giáo, một đế chế vô cùng hùng mạnh, mở mang biên cương bờ cõi
của mình đến cả vùng Trung Đông. Đế chế lớn mạnh này gọi là đế chế
Mogul, gốc là Mông Cổ. Tức là người Mông Cổ đã chinh phục khắp thế giới
và xâm chiếm cả vùng Trung Đông. Đế chế Mông Cổ xâm lấn Ấn Độ và biến Ấn
Độ trở thành thuộc địa. Ảnh hưởng của đế chế này rất mạnh, với những
thành trì cao đến 20 mét. Toàn bộ các thành bằng đá đỏ ở tại Ấn Độ cũng
cao 20 mét, bao bọc bằng ba lớp: lớp cuối cùng 20 mét, lớp chính giữa 10
mét, lớp bên ngoài khoảng 5 mét. Bọc xung quanh lớp bên ngoài là rạo cá
sấu với đường kính của hào nước khoảng 10 mét. Như vậy để xâm nhập vào
thành, thì phải đi qua đến bốn lần xác chết. Đầu tiên là cá sấu, kế đến
là lính bộ, sau đó là lính ở 10 mét và cuối cùng là lính canh ở thành 20
mét thì mới vào được bên trong. Nhờ đó mà đế chế Hồi giáo rất vững.
Khurram là vị hoàng tử giỏi về binh lược cũng là người có khả năng
biện luận lý trí rất cao. Ông cũng là người yêu thích nghệ thuật cho nên
vua cha Jahangir đã viết trong bút ký của ông rằng, trong mấy chục
người con, Khurram là đứa con mà ông yêu quý nhất vì ba phương diện:
cung kiếm, lý luận và nghệ thuật. Không có một đứa con nào của ông có
thể hơn hoặc bằng được một trong ba phương diện đó. Chính vì thế, vua
cha đã ban tặng danh hiệu Shah Jahan cho hoàng tử Khurram sau những cuộc
viễn chinh thành công mang lại các thuộc địa mới cho vua cha. Shah
Jahan có nghĩa đen là “vua của thế giới”. Nó giống như từ “chuyển luân thánh vương”, nhưng “chuyển luân thánh vương”
có ý nghĩa chỉ đạo đức và tâm linh, ngoài việc thống trị toàn cầu còn
phải lấy đạo đức luật pháp và chân lý để quản trị quốc gia, tạo sự dân
chủ và công bình tuyệt đối. Còn “vua của thế giới” dưới ý nghĩa của đế chế Hồi giáo là người bách chiến bách thắng, mở rộng biên cương bờ cõi của sự xâm lăng khắp nơi.
Sau khi vua Jahangir qua đời, chưa kịp di chúc, tình cảnh tranh chấp
về quyền lực đã diễn ra. Shah Jahan là người giỏi nhất trong tất cả
những anh em và ông cũng là người đại nghi kỵ cho nên ông đã thủ tiêu và
triệt hạ tất cả anh em ruột thịt của mình và tự mình lên ngôi trở thành
hoàng đế vào năm 1628. Sau khi lên ngôi, ông tiếp tục mở mang bờ cõi,
rất nhiều người phải chết dưới thanh gươm và đoàn binh thiện chiến của
ông. Lúc đó ông mới phong hiệu cho Banu, người vợ xinh đẹp của mình là
Mumtaz. Vương cung ông làm cho vợ mang tên Taj Mahal, Taj nghĩa là vương
miện, còn Mahal là cung điện. Ráp hai chữ này lại thành vương miện của
cung điện, tức người được sủng ái nhất, chủ nhân của cung điện tình ái.
Đó là từ rất ấn tượng và cũng hết sức lãng mạn.
Mumtaz tài sắc vẹn toàn, bất cứ nơi nào nhà vua Shah Jahan có mặt thì
Mumtaz luôn luôn tùy hành. Bà nổi tiếng là một nhà quân sự giỏi cũng là
nhà cố vấn ngoại giao cho chồng. Trong các cuộc đối đáp, nếu Shah Jahan
trả lời không thông, ông chỉ cần liếc mắt nhìn Mumtaz, bà ra những mật
hiệu là ông sẽ có thể trả lời lưu loát. Phần lớn chiến lược ngoại giao
của vua Shah Jahan đều do hoàng hậu Mumtaz hoạch định. Vừa có sắc đẹp
bậc nhất tại Ấn Độ lúc bấy giờ, vừa có tài ba, cho nên nhà vua đã thương
yêu và sủng ái bà đặc biệt. Mười bảy năm kết hôn, Mumtaz hiến tặng cho
Shah Jahan mười bảy đứa con, tức là sinh năm một. Trong đó, ba đứa con
bị chết do sẩy thai, hư thai, còn lại mười bốn. Và chính người con thứ
mười bốn là đứa con kết thúc mạng sống của Mumtaz bởi vì bà phải mổ.
Chúng ta thử hình dung, một người phụ nữ sinh mười bảy đứa con trong
mười bảy năm thì hầu như lúc nào cũng trong tư thế mang thai, ấy thế mà
sắc đẹp vẫn sắc nước hương trời. Quan niệm Hồi giáo, đàn ông được quyền
có bốn vợ, nhà vua được quyền có vài chục vợ. Thế nhưng nhà vua Shah
Jahan không sủng ái ai ngoài Mumtaz. Cung tần mỹ nữ trẻ đẹp hơn cỡ nào
đi nữa, nhà vua cũng không màng đến.
Năm 1632 khi Shah Jahan cất quân đi dẹp loạn ở Burhan- pur, Mumtaz đã
đồng hành với vua suốt cả chín tháng mang thai và bà đã sanh ở chiến
trường. Phương tiện y khoa lúc đó không đầy đủ, việc mổ bất đắc dĩ gây
xuất huyết sản hậu dẫn đến cái chết của bà. Có lẽ vì tình tiết bà bất
chấp mạng sống của mình, tùy tùng với nhà vua để cố vấn quân sự chiến
lược và chiến thuật, chín tháng ở chiến trường không đủ ăn, lúc nào cũng
phải nơm nớp lo đánh giặc, cuối cùng cái sinh của bà lại là cái tử, nỗi
đau lòng đó cho nên suốt gần một năm sau, nhà vua không ra làm triều
chính, ông cứ ở trong cung điện của mình. Sách sử mô tả trên gương mặt
ông luôn chực chờ những giọt nước mắt.
Năm 1658, Aurangzeb soán ngôi vua cha và trở thành một vị vua bạo ác
cho đến lúc Anh xâm chiếm Ấn Độ. Đế chế Hồi giáo 300 năm đã được kết
thúc vào năm 1707. Trước khi Shah Jahan qua đời, ông có một lời nguyện
ước, ông đề nghị con ông hãy chấp nhận như một ân sủng và cũng là tình
thương của ông dành cho con từ nhỏ, Aurangzeb nhận lời. Đó là khi ông
chết, lễ hỏa thiêu phải được tổ chức theo truyền thống Ấn Độ. Phần lớn
người Hồi giáo chôn xác nhưng ông đề nghị thiêu và để tro cốt của ông
bên cạnh mộ Mumtaz, vị hoàng hậu mà ông sủng ái nhất và công trình này
xây dựng dành riêng cho bà. Sau khi ông chết, người ta làm theo di chúc.
Mộ của Shah Jahan nằm ở một góc bìa bên cạnh hoàng hậu Mumtaz, vì ngôi
đền này dành cho bà chứ không phải cho ông. Điều này khác với kiến trúc
của các đế chế Hồi giáo rằng mộ vua luôn nằm ngay chính giữa.
Một góc độ khác, sở dĩ gọi là tình thiên thu vì công trình này kể từ
lúc hoàn tất, nó đã đi vào lòng người như một biểu tượng của tình yêu lý
tưởng. Lý tưởng trong lúc Shah Jahan và Mumtaz còn sống, lý tưởng sau
khi bà qua đời mà ông vẫn tưởng niệm và thương nhớ ngày đêm. Cũng vì
công trình xây dựng này mà ông mất luôn cả ngôi vua, bởi vì dân chúng ta
thán đời sống khổ cực. Biết bao sức người đã đổ dồn vào đây trong khi
đó, cái nghèo, cái khổ, cái bất hạnh của người dân lại không được quan
tâm lo lắng. Và điều đó trở thành một cái cớ rất hữu lý để con trai ruột
của ông soán ngôi ông và thay thế quyền cai trị tại đất nước Ấn Độ này.
Như vậy cái gọi là tình thiên thu hay vương điện tình yêu đó được xây
dựng trên nỗi khổ niềm đau của triệu triệu người dân Ấn Độ lúc bấy giờ.
Tổng chi phí cho công trình trị giá 32 triệu Rupi vào thời điểm năm
1532, tương đương một ngàn tỷ USD hiện nay. Một ngàn tỷ USD đầu tư cho
một công trình chỉ để phục vụ cho tình thiên thu với người vợ của mình,
phải nói rằng quá uổng phí. Nếu sử dụng một ngàn tỷ USD đó cho việc phục
hồi nền kinh tế và tài chính bị khủng hoảng toàn cầu hiện nay thì có lẽ
nền kinh tế phục hồi chỉ trong vòng một năm.
Qua việc sử dụng tất cả của cải triều cống của những nước thuộc địa
và tận dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên vàng và kim cương của Ấn Độ để lấy
số tiền tương đương một nghìn tỷ USD đầu tư cho công trình này, chúng
ta có thể hình dung đời sống của người dân khổ cực đến nhường nào. Như
vậy, sau lưng công trình được xem là kỳ quan thế giới là cả một khối khổ
đau bất hạnh. Hậu quả mà đế chế này đã phải chấp nhận đó là bị soán
ngôi. Người con ruột thịt của Shah Jahan đã soán ngôi ông và ban cho ông
một ân sủng cuối đời bằng cách đặt mộ huyệt của ông bên cạnh hoàng hậu
mà ông sủng ái nhất. Ông chết khi chưa kịp khánh thành công trình vĩ đại
này. Nếu chúng ta bỏ qua ý nghĩa của cuộc tình si, mặc dù nó lý tưởng
trong cách quan niệm của người đời, thì nó cũng đúc kết những bài học
rất ấn tượng.
Đồng chí trong hôn nhân
Vua Shah Jahan và hoàng hậu Mumtaz rất tâm đầu ý hợp. Để có được cuộc
tình răng long tóc bạc, không phải ly dị, ly thân hay đổ vỡ giữa chừng
thì yếu tố tâm ấn tâm phải được xem là sợi dây xuyên suốt từ tư duy,
quan điểm, lý tưởng, con đường, hành động, lối sống và phong cách ứng
xử. Hầu như cặp vợ chồng này không có một điểm nào khiến họ mất lòng lẫn
nhau trong suốt mười bảy năm chung sống và trước đó là năm năm hẹn hò ở
tuổi trẻ thơ. Trong kinh điển Pali, đức Phật đưa ra yếu tố đồng chí là
yếu tố quan trọng nhất để đời sống hôn nhân được lâu dài. Đó là chí
hướng tâm đầu ý hợp giữa hai bên phải tương thích với nhau.
Khi giảng cho cô con dâu của Cấp Cô Độc, đức Phật đã đưa ra bảy loại hình vợ. Loại hình thứ tư được xem là lý tưởng nhất, “vợ là người đồng hành”.
Tương tự, chúng ta có thể suy luận, người chồng cũng phải đồng hành với
vợ. Chỉ khi vợ chồng trở thành đồng chí của nhau thì sự đồng hành đó
mới trọn cả cuộc đời. Bằng không, nói theo một bài ca của Trịnh Công
Sơn, “Tôi đi bằng nhịp điệu 1 2 3 4, em đi bằng nhịp điệu 5 6 7 8”, hai nhịp đó vĩnh viễn chẳng bao giờ gặp nhau, dẫu có đồng hành cũng chỉ mang lại nỗi khổ niềm đau cho nhau.
Rất nhiều cặp vợ chồng sống với nhau cho đến lúc qua đời, nhưng khi
sống, họ lại ly thân nhau chỉ vì lý do bảo hộ hạnh phúc cho con cái. Họ
không để dòng họ hai bên và làng xã bà con lối xóm biết rằng họ đang
sống trong khổ đau. Nhiều cặp vợ chồng sống ly thân cho đến lúc qua đời,
ấy thế mà họ vẫn được xem là gia đình văn hóa mẫu mực nhiều năm liền mà
không ai biết. Khi họ đến tâm sự với các nhà tư vấn, trong đó có chúng
tôi, họ mới nói thật lòng. Hai bên đã mật ước với nhau trước mặt con cái
phải giả vờ đóng kịch. Họ chăm sóc, lo lắng, thương yêu nhau đằm thắm
như cặp thiên nga, nhưng khi các con vừa ra khỏi nhà thì phòng ai nấy ở,
không ai nói với ai câu nào, và trở thành những người xa lạ khác hành
tinh. Chúng tôi cũng đã góp ý, hãy đóng kịch với nhau ngay cả khi không
có người xung quanh, hạnh phúc sẽ lại quay về. Tuy nhiên nhiều người
vượt qua không nổi. Điều gì làm cho người ta vượt qua không nổi. Cái gì
đã làm mất đi tính cách đồng hành đó? Cái tôi.
Người nữ có thói quen nghĩ rằng nếu chồng là đấng nam nhi quân tử
thực sự thì phải ứng xử cao thượng, xin lỗi vợ trước. Họ sợ sẽ bị chồng
lấn lướt nếu nhún nhường nói trước lời xin lỗi. Nhiều quý bà nghĩ như
thế, cho nên đôi lúc những mâu thuẫn nho nhỏ chẳng đáng vào đâu lại trở
thành một đại vấn nạn. Khi vợ chồng ly thân trên nền tảng của cái tôi tự
ái, mặc dù lỗi chưa biết về phía người nào nhưng hai người càng ngày
càng ly tâm, xa dần đến lúc nào đó có muốn nối kết hàn gắn với nhau cũng
đã quá muộn màng. Những người nam tự ái cũng có thể suy nghĩ tương tự: “Tôi
nào có lỗi gì mà phải xin lỗi. Nếu tôi xin lỗi, bà ấy sẽ làm eo làm
sách về sau. Cho nên thà dạy cho bà ấy một bài học ngay bây giờ, bằng
không, thà ở độc thân cũng được”. Tự ái đó là một sự tự sát.
Theo tinh thần Phật giáo, vợ chồng phải là người đồng hành, và ta
phải ứng xử với tư cách như một vị Bồ tát. Người Phật tử đang đi trên
con đường Bồ tát hạnh thì những gút mắc, oan trái trong đời sống vợ
chồng phải có trách nhiệm tháo mở trước và tạo cơ hội cho người kia đồng
tháo gỡ nếu hai bên thực sự còn tình đằm thắm với nhau. Đối với những
mâu thuẫn quá lớn, chẳng hạn một trong hai người có tính hoa bướm như
một thói quen, một sở thích cố hữu, không bao giờ có chút ý niệm quay
đầu trở về để xây dựng mái ấm gia đình, lúc đó ly dị là giải pháp cần
thiết.
Đạo Phật không cấm ly dị, đạo Phật cũng không hề bắt buộc người ta
phải sống chung với nhau trong sự khổ đau. Trong khi đó, Thiên Chúa giáo
cấm ly dị không phải vì muốn bảo hộ hạnh phúc của hai bên, mà vì một lý
do rất đơn giản. Họ cho rằng, nam nữ đến với nhau với tư cách một cặp
vợ chồng là bất khả phân ly vì sự phối ngẫu đó do Thượng đế sắp đặt. Cho
nên ly dị là tuyên chiến với quyền tối cao của Thượng đế. Hai người
sống không hạnh phúc cũng phải cắn răng chịu đựng suốt mấy chục năm. Và
ly dị là một sự phạm thượng không được chấp nhận. Ấn Độ giáo cũng có
quan niệm tương tự, hôn nhân là sự sắp xếp của Thượng đế như một số phận
đã được an bày. Cha mẹ hai bên chỉ thay thế Thượng đế thực hiện công
việc đó, hay nói cách khác cha mẹ là Thượng đế của con cái. Đến thế kỷ
thứ 21, 80% người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo vẫn còn chấp nhận hôn nhân sắp
xếp, không có hôn nhân tình yêu. Họ nghĩ rằng tình yêu sẽ từ từ phát
sinh sau khi chung sống với nhau.
Khi chúng tôi có mặt tại Ấn Độ vào ngày lễ “Holy festi- val”
được gọi là lễ thiêng liêng. Trong ngày lễ này, người ta tạt nước màu,
trét phấn màu, bụi màu lên nhau như một sự chúc phúc. Hai chiếc xe đoàn
hành hương do chúng tôi dẫn đi đều bị tạt màu đầy trên kính và thành xe.
Ngày hôm đó, nếu ai đi xuống đường cũng được tặng những bột màu quét
đầy trên người. Người ta xem đó như một niềm vui. Buổi tối, đài truyền
hình Ấn Độ trình chiếu bộ phim “Holy” đề cập đến cuộc tình của
một người con gái Ấn Độ với một chàng trai ngoại quốc. Anh chàng là quản
đốc của công ty nơi cô gái Ấn Độ đang làm việc. Cô có trách nhiệm phải
đưa người quản đốc của mình thăm viếng một số cảnh đẹp của Ấn Độ để biết
về văn hóa nước này trước khi làm việc lâu dài tại đây. Trên đường đi,
họ phát sinh tình yêu và sống với nhau như vợ chồng. Đến ngày trở về để
bắt đầu vào công việc, cô tình nhân Ấn Độ mới nói với người tình phương
Tây của mình: “Kể từ giờ phút này tôi với anh là hai người xa lạ”. Chàng trai giật mình hỏi: “Vậy thời gian vừa qua, tình yêu của chúng ta nằm ở chỗ nào?”. Cô gái Ấn Độ trả lời: “Tôi đã đính hôn được hai tháng, nửa tháng sau, tôi sẽ lên xe hoa”.
Theo phong tục tập quán Ấn Độ, sau khi diễn ra lễ đính hôn trao nhẫn
để hai bên chính thức chấp nhận dâu và rể của nhau thì khoảng ba tháng
họ sẽ làm lễ cưới. Cô gái Ấn Độ cho biết, không chỉ riêng cô mà rất
nhiều nam nữ Ấn Độ cần phải yêu ai đó trước khi lên xe hoa với người bạn
đời do gia đình sắp đặt, để biết giá trị tình yêu là gì. Họ rời gia
đình khoảng nửa tháng đến một tháng nhằm tìm kiếm tình yêu thực sự, sau
đó đường ai nấy đi. Mỗi bên có một hướng đi riêng, đó là kết hôn không
có tình yêu và thiết lập một tình yêu mới. Ấy thế mà thống kê xã hội học
về hôn nhân tại Ấn Độ cho biết Ấn Độ là một trong những quốc gia có mức
độ ly dị thấp nhất thế giới.
Vợ chồng ông Kabu là người thường xuyên tổ chức những chuyến hành
hương cho khách Việt Nam, cũng là người giúp cho đoàn làm phim HTV thực
hiện bộ phim nhiều tập “Huyền bí sông Hằng” đã có mặt với đoàn
hành hương của chúng tôi. Người vợ luôn tin tưởng chồng mình trong suốt
gần hai mươi năm ông có mặt tại Việt nam với tư cách một luật sư quốc
tế. Bà hiểu rõ tính cách chung thủy của chồng bà, thêm vào đó Ấn Độ giáo
lại quy định chỉ được phép một vợ một chồng. Cho nên họ sống với nhau
rất bền. Mỗi khi hai bên không hòa thuận thì phòng ai nấy ngủ.
Như vậy, không ly dị không có nghĩa là họ sống hạnh phúc thực sự theo
ý nghĩa tình thiên thu, tình lý tưởng. Ở một góc độ nào đó, hạnh phúc
trong hôn nhân của Ấn Độ lại không được bảo toàn. Bà Kabu giải thích: “Vì
chúng tôi đến với nhau thông qua sự sắp xếp, cho nên chúng tôi không hề
có bất kỳ nguyện vọng hay mong mỏi nào từ người chồng của mình”. Tương tự, người chồng cũng nói: “Tôi cũng không hề có mong mỏi, ước vọng gì ở người vợ của tôi”.
Họ dễ dàng chấp nhận và sống trên sự an bày đó. Cho nên đứng trước
những mâu thuẫn nhỏ, họ dễ dàng vượt qua. Đó cũng là một điều hay, vì kỳ
vọng càng nhiều, thất vọng càng cao như lời đức Phật dạy về tám phạm
trù khổ: “Cầu bất đắc khổ”.
Khi còn là người tình, hầu như con người đến với nhau không thông qua
yêu cầu của trách nhiệm. Họ đến với nhau bằng trái tim yêu thương và sự
dâng hiến. Mỗi nỗi buồn nho nhỏ của người này cũng đủ khiến người kia
đứng ngồi không yên. Nhưng khi chính thức trở thành vợ chồng của nhau
thì những hình ảnh đó không còn nữa, nó chết dần chết mòn, và tình yêu
bắt đầu khô héo. Đức Phật khuyên, vợ chồng phải xem nhau như người bạn
đồng hành. Đã là bạn, chúng ta không đòi hỏi trách nhiệm, nghĩa vụ mà để
sự tự nguyện chăm sóc lo lắng mang hạnh phúc đến cho nhau. Đó là phương
pháp giúp cuộc tình bền bỉ và nếu có sơ xuất nào đó, người ta cũng
không chấp nhất, ngược lại dễ dàng bỏ qua. Không ai nỡ lòng chấp nhặt
người có thiện chí làm cho mình được hạnh phúc nhưng làm không trọn vẹn.
Cho nên tình yêu đồng hành hết sức lý tưởng.
Dù là hôn nhân sắp xếp hay hôn nhân tình yêu, muốn bền bỉ và có giá
trị đích thực của nó thì bản thân người trong cuộc phải có sự quan tâm
chăm sóc không phát xuất từ tính trách nhiệm mà phải phát xuất từ sự
dâng hiến và phụng sự. Là người Phật tử, chúng ta phải nghĩ rằng, mình
đang làm việc khó làm với vai trò của một vị Bồ tát tháo gỡ những oan
trái với nhau nếu có. Đừng nghĩ rằng, làm như vậy là hạ thấp nhân phẩm
của mình. Nếu thực sự còn tình yêu thì hãy nên tìm mọi cách hàn gắn.
Chia sẻ và chăm sóc
Yếu tố này vô cùng quan trọng trong các cuộc tình thiên thu. Khi mới
bắt đầu yêu nhau, những đấng mày râu có thể tặng quà vào các dịp sinh
nhật, ngày nghỉ, lễ hội. Hầu như quý cô đều được tặng một đóa hoa hồng.
Nhưng khi trở thành vợ chồng, người ta dần phớt lờ những dịp thể hiện
tình cảm, thậm chí quên cả ngày sinh nhật của nhau. Như vậy là chúng ta
quá lơ là về sự chia sẻ. Cách chăm sóc và chia sẻ của người nữ đôi lúc
không cần quá lớn, nó chỉ có thể bằng một ngôn ngữ để truyền thông rằng
tình yêu giữa hai bên vẫn nồng thắm như hôm nào.
Sự chia sẻ theo Phật giáo bao gồm những cái rất tiểu tiết. Đó là sống
trọn vẹn với nhau ở các bữa cơm chung. Nhiều người phương Tây không có
được những buổi cơm chung trong đời sống vợ chồng. Chồng và vợ làm khác
công ty, mỗi ngày đêm phải đi về tổng cộng 400 cây số. Do đó, chồng chưa
kịp thức thì vợ đã đi làm và ngược lại. Về nhà chỉ có với nhau vài
tiếng đồng hồ. Họ phải quần quật như con trâu suốt khoảng hai mươi năm
như thế để có được căn nhà độc lập với mức lương trung bình. Cho nên họ
không hề có với nhau bữa cơm chung. Đến ngày thứ bảy, chủ nhật, nếu
không có tình yêu thì thế giới gia đình của họ trở thành một sự băng
giá. Nhà cao cửa rộng cả ngàn mét vuông, năm bảy phòng nhưng chỉ có hai
người ở, sự băng giá đó càng tăng trưởng theo mức tỷ lệ thuận với áp
suất cảm xúc.
Do đó chúng ta phải thể hiện sự chăm sóc, ăn cơm chung, tắt hết điện thoại để dành cho nhau thời gian ấm cúng nhất.
Rất nhiều người đã không làm được việc đó vì nghĩ nó không quan
trọng. Đừng nghĩ rằng cứ mang tiền bạc, tài sản về cho vợ con là đủ
trách nhiệm, là đủ ý nghĩa của hạnh phúc. Một số tình huống ngoại tình
xảy ra cũng chỉ vì ông chồng yêu công việc nhiều hơn yêu vợ, dù được ăn
sung, mặc sướng như bà hoàng nhưng vẫn cảm thấy cô đơn trống trải. Tương
tự quý ông không được quý bà chăm sóc cũng có cảm giác cô đơn và dễ
dàng bị cám dỗ đến với những bóng hồng khác.
Qua bài kinh đức Phật giảng cho cô con dâu của Cấp Cô Độc, vợ phải là
người đồng hành. Đồng hành ở đây được hiểu như là giai đoạn tiền hôn
nhân. Vợ phải luôn đóng vai trò là người tình thì mới giữ chồng một cách
lâu dài. Phần lớn đàn ông thường lẫn lộn hình ảnh giữa người tình và
người vợ cho nên khi người vợ không làm hài lòng thì ông thay thế hình
ảnh đó bằng người tình. Ngoài hình ảnh của người tình, còn có hình ảnh
người bạn khác giới phái. Có thể giữa họ không có bất cứ ý tưởng gì về
tình yêu nhưng thời gian dành cho người bạn tâm đầu ý hợp có thể nhiều
hơn vợ, đôi khi khiến các bà vợ hiểu lầm, ghen tuông và cảm thấy mất
hạnh phúc gia đình.
Như vậy người bạn khác giới phái, người tình, người vợ là ba hình ảnh
có thể có trong một người đàn ông. Trong khi đó, một người vợ lý tưởng
luôn chỉ có một người chồng duy nhất mà thôi. Thế giới hạnh phúc của
người vợ nằm ở người chồng và những đứa con ruột thịt, cho nên phần lớn
phụ nữ có khuynh hướng bớt giao du và quay về với đời sống gia đình
nhiều hơn đàn ông. Người đàn ông ngoài gia đình còn có rất nhiều mối
quan hệ xã hội khác, và thời gian dành cho sự chăm sóc chia sẻ với vợ
con ngày càng giảm. Chúng ta phải chú ý yếu tố này để tạo một cuộc tình
thiên thu mang lại hạnh phúc thực sự cho cả hai bên.
Một nụ hoa tặng vào ngày sinh nhật, ngày lễ, hoặc những quan tâm nho
nhỏ mà theo kinh Thiện Sinh đức Phật dạy, người chồng phải mua sắm nữ
trang cho vợ. Đó là sự thể hiện quan tâm, chắc chắn sẽ làm cho quý bà
cảm động nhiều hơn. Những người Phật tử nam cũng nên chia sẻ với vợ mình
trong các hoạt động Phật sự. Rất nhiều bà đến chùa làm Phật sự, khi đưa
bằng công đức, một số bà không dám nhận. Hỏi lý tại sao, quý bà trả
lời: “Thưa thầy, nhận rồi tôi để ở đâu và làm gì. Chồng tôi mà biết sẽ trách mắng, cho rằng tôi ngu ngốc đem tiền đút mấy ông thầy ăn”. Đưa cho các thầy làm Phật sự mà bảo rằng “đút mấy ông thầy ăn”. Mấy ông thầy có ba bộ y cũ mèm, phòng ốc hết sức đơn giản, hoàn toàn không mong cầu gì hơn trong đời sống vật chất.
Vấn đề ở chỗ giữa vợ và chồng chưa có được yếu tố đồng hành, nên
người vợ phải tạo dựng niềm tin để người chồng cảm thấy an tâm. Trong
tình huống như vậy, người vợ cần chịu khó thuyết phục chồng bằng một vài
nghệ thuật. Chẳng hạn để tên chồng hoặc con mình vào tấm bằng công đức
như một sự khích lệ tinh thần. Dần dà, chúng ta sẽ dẫn họ vào thế giới
của từ thiện. Tiền bạc làm ra một phần chu cấp cho hạnh phúc gia đình,
phần còn lại nên chia sẻ hạnh phúc cho người khác.
Tiền bạc chia sẻ cho các hoạt động từ thiện và nhân đạo không bao giờ
mất đi, nó có vẻ vuột khỏi tài khoản của ta nhưng nó sẽ được nạp vào
tài khoản ngân hàng công đức. Tài khoản này sẽ bền bỉ với ta, giúp ta có
thể sử dụng bất cứ lúc nào mà không cần có thẻ Master, Visa, ACB, v.v…
Nhiều quý bà lo sợ bị chồng biết được sẽ rầy mắng, cho nên giấu giếm
việc làm từ thiện của mình. Phần lớn người chồng mang tiền của về cho vợ
nhưng lại rất tiện tặn khi vợ chi dùng cho những người khác và cho các
hoạt động xã hội.
Người nữ mang thai hơn chín tháng cho sự sống qua cái nhau; ba năm
nhũ bộ cho sự sống đứa con qua bầu sữa ngọt ngào; mười mấy năm con ngồi
ghế học đường, mỗi khi đi chợ búa về, tiền dư bạc cắc, quý bà dành mua
bánh kẹo cho con. Cuộc đời người phụ nữ lúc nào cũng liên hệ đến sự cho.
Từ đó, cơ hội tiêu xài trên thị trường dành cho quý bà chiếm đến 80%.
Bất cứ siêu thị nào, hàng hóa dành cho gia đình, chủ yếu người nữ và trẻ
em gần như 80%, bởi vì quý bà quen với cách tiêu xài thông qua sự cho,
còn quý ông phải đi làm để trụ cột kinh tế.
Người làm ra tiền, khi ban tặng người khác đôi khi có cảm thấy tiếc
nuối. Kinh Dược Sư nói rõ, cảm giác đó giống như dùng con dao thật bén
cắt vào làn da thớ thịt của mình. Thực tập theo hạnh Bồ tát, chúng ta
phải thấy rằng ban tặng là không mất đi. Tuy làm từ thiện cho người khác
nhưng trên thực tế ta đang làm công đức cho bản thân mình, tuy ta giúp
cuộc đời nhưng trên thực tế ta đang hoàn thiện nhân cách Bồ tát cho bản
thân. Được như vậy là ta đang có ý thức vô ngã trong việc dấn thân xã
hội, giá trị phụng sự của nó sẽ cao hơn nhiều.
Tiền rừng biển bạc khi chết cũng không thể mang theo. Hiện nay người
càng giàu càng ăn kiêng ở cữ hơn người nghèo. Nghèo như Ấn Độ, mỗi ngày
cũng chỉ ba bữa ăn. Sức lao động tại đây rẻ mạt rệp. Đạp một chiếc xe
xích lô chở ba người trung bình 160 ký đi ba cây số mà chỉ có mười Rupi,
tức khoảng 3000 đồng Việt Nam. Thử hình dung làm sao sống, làm sao
giàu, và làm sao đổi đời được? Ấy thế mà họ phải giành giật nhau để được
lái chở ba người với mười đồng Rupi đó. Giá thị trường ở đây cũng rẻ,
mười đồng có thể mua được nửa ký bột, hoặc nửa lít sữa nguyên chất, hoặc
một kg khoai lang tây. Chỉ cần ba mươi đồng, cả gia đình có thể sống
thoải mái trong một ngày. Tức khoảng 9.000 đồng Việt Nam, những người
nghèo Ấn Độ có thể sống lây lất qua ngày.
Nhân công rẻ mạt, chính vì thế chủ nghĩa giai cấp Ấn Độ bóc lột sức
lao động nặng nề. Năm trăm triệu người Ấn Độ hiện nay thất học, họ đều
thuộc giai cấp nghèo. Đi chỗ nào cái nghèo cũng đè nặng như thế. Họ phấn
đấu có ba bữa ăn trong khi người giàu có chỉ ăn hai cữ vì sợ phát phì,
mất đi sắc đẹp. Người ta chuộng sắc đẹp ngoại hình hơn việc ăn uống. Sự
chu cấp cho ăn uống trên thực tế không bao nhiêu so với tiền chúng ta có
được. Do vậy hãy cố gắng làm từ thiện cho các hoạt động nhân đạo để có ý
nghĩa trong cuộc đời. Dù kiếp sau không được phước đi nữa, dù nhân quả
không có đi nữa thì việc làm từ thiện vẫn có ý nghĩa của nó. Mỗi khi
chúng ta nghĩ tưởng, nhớ về, lòng cảm thấy an vui hạnh phúc vô cùng,
huống hồ là nhân quả có, kiếp sau có.
Chia sẻ với tinh thần mang lại niềm vui hạnh phúc cho người bạn đời
đồng hành của mình thì chắc chắn chúng ta sẽ không phải chịu những trách
móc, hằn học. Hầu như con người luôn thay đổi tâm lý sau khi kết hôn
bởi vì nghĩ rằng đã là vợ chồng thì không còn những cái âu yếm, lo lắng,
chia sẻ, dâng hiến cho nhau nữa. Tình yêu trong cách nghĩ này cũng trở
nên chết dần chết mòn.
Mumtaz đồng hành với Shah Jahan trên mọi nẻo đường đời. Các vị vua
Hồi giáo được quyền có vài chục vợ, thế nhưng vua Shah Jahan vẫn không
màng đến việc tái giá trong suốt 20 năm sau khi người vợ mà ông sủng ái
nhất đã qua đời. Ngay cả khi cuộc tình đó dẫn đến cái chết, tám năm
trong tù không hề được nhìn thấy ánh sáng, nhưng ông vẫn cảm thấy hài
lòng. Nguyện ước cuối cùng được ở bên cạnh mộ huyệt của vợ mình được
thực hiện khiến ông cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Hôn nhân ở kiếp sau
Nếu chúng ta thử phân tích về vấn đề tái sinh, có lẽ những cuộc tình
lâm ly bi đát như thế sẽ rất khó siêu sinh. Họ không hiểu sau khi chết
lại tiếp tục có sự sống. Hồi giáo quan niệm giống như Thiên chúa giáo vì
Hồi giáo là một chi nhánh của Thiên chúa giáo. Thiên chúa giáo quan
niệm giống Do thái giáo vì Thiên chúa giáo là một chi nhánh của Do thái
giáo. Chánh thống giáo và Tin lành cũng là chi nhánh của Thiên chúa giáo
cho nên các tôn giáo này có quan niệm giống nhau rằng chỉ có hai cảnh
giới, hoặc là hỏa ngục đời đời kiếp kiếp hoặc là thiên đường vĩnh viễn,
chứ không có cảnh giới tái sinh chính giữa.
Để có cơ hội lên thiên đường vĩnh viễn, người ta phải chờ đợi đến
ngày phán quyết cuối cùng, đó là ngày tận thế. Các tôn giáo này cho rằng
năm 2000 là năm tận thế, nhưng năm 2000 đã trôi qua và theo đạo Phật
vẫn còn có thể vài nghìn đến vài chục nghìn năm khác tùy theo mức độ bảo
vệ trái đất và mức độ xúc địa của con người. Trong thời gian chưa đến
ngày tận thế, tất cả các hương hồn này phải tạm thời nằm dưới hỏa ngục.
Đến ngày phán quyết cuối cùng, Thượng đế sẽ xuất hiện, đong đo tính đếm
tội và phước của mỗi người, ai có phước được lên thiên đường; ai có tội
sẽ xuống hỏa ngục vĩnh viễn. Nếu chúng ta thử đặt câu hỏi trong thời
gian chưa diễn ra ngày tận thế, tổ tiên của chúng ta sinh vào năm 3000
trước Công nguyên, ngày tận thế lại vào năm 5000 sau Công nguyên thì
suốt 8.000 năm đó họ sẽ ở đâu, làm gì, và cảm xúc của họ như thế nào?
Không có câu trả lời.
Đó là những bế tắc về phương diện học thuyết của các tôn giáo này. Họ
nghĩ họ sẽ yên nghỉ vĩnh hằng dưới lòng đất. Cho nên các vị vua chúa và
những người giàu có thường đầu tư rất nhiều ngọc ngà châu báu cho mộ
huyệt của mình. Họ không biết rằng càng đầu tư vào mộ huyệt lại càng khó
siêu sinh. Thần thức của họ sẽ bám vào mộ huyệt, bám vào ngọc ngà châu
báu, và bám vào sự thương tưởng quan tâm của triệu triệu du khách hằng
năm. Cho đến lúc nào hiểu được thân xác này chỉ là công cụ tâm thức vay
mượn trong khoảng thời gian mấy chục năm tương ứng với sự có mặt trên
cuộc đời rồi sau đó phải vẫy tay chào với nó, họ mới dễ dàng giải phóng
được cảnh giới ngạ quỷ để tiếp tục đầu thai theo nghiệp.
Là người Phật tử, chúng ta đừng nên quan trọng về đền đài tưởng niệm.
Hiện nay tại Việt Nam đang có phong trào cạnh tranh vì tự ái họ tộc.
Người ta làm từ đường cho họ tộc của mình hết sức nguy nga tráng lệ. Ví
dụ họ tộc Trần làm từ đường 100 triệu, người giàu có kế bên muốn làm 120
triệu, bên khác muốn làm 300 triệu. Cứ như thế mà cạnh tranh leo thang,
nghĩ rằng làm như vậy là tốt cho họ tộc của mình.
Thực ra, nhà thờ họ tộc có ý nghĩa tưởng niệm văn hóa họ tộc, tưởng
niệm sự đóng góp của tất cả những người đi trước trên tinh thần Phật dạy
“Uống nước nhớ nguồn”. Tuy nhiên, đừng quá đặt nặng chủ nghĩa
hình thức mà phải quan trọng các khóa lễ cầu siêu. Thờ họ tộc và thường
xuyên tụng niệm cầu siêu vào những ngày giỗ để phòng hờ tình trạng chưa
siêu thoát thì nhờ đó mà ông bà tổ tiên được siêu sinh thoát hóa. Do đó,
tình yêu cũng đừng nên là thiên thu. Tình chỉ có giới hạn trong mấy
mươi năm làm vợ chồng ở kiếp này, sau khi chết nếu ai muốn tiếp tục làm
vợ chồng của nhau thì phải tiếp tục phát nguyện.
Trước khi nhắm mắt lìa đời đức Phật dạy trong kinh Tăng Chi ba yếu tố
để phát nguyện. Thứ nhất, trong mấy chục năm làm vợ chồng, hai người
phải chung thủy với nhau, không ngoại tình dù trong tâm tưởng. Yếu tố
này làm cho họ sinh ra dù chênh lệch tuổi tác, nhưng họ vẫn chờ đợi, đến
khi gặp nhau là yêu liền và sống với nhau hạnh phúc. Thứ hai, một trong
hai người đi trước phải nêu ra quyết tâm lớn, không đến với bất cứ
người nào khác ngoài người mình đang chờ. Thứ ba, người đi sau cũng phải
nêu quyết tâm tương tự, dù gặp người đẹp hơn, giàu hơn, sang trọng hơn,
phú quý hơn người bạn vừa qua đời của mình cũng không màng đến và vẫn
giữ sự chung thủy đó. Sau khi chết, đức Phật nói trong kinh Tăng Chi, họ
sẽ gặp nhau và tiếp tục trở thành vợ chồng của nhau.
Cách đây mấy năm, báo chí khắp thế giới đưa tin rầm rộ về một cuộc
tình dị hợm. Một bà cụ 80 tuổi gặp một chàng thanh niên 20 tuổi. Hai
người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Bà lão này không phải là tỷ
phú, ngược lại bà rất nghèo, ăn lương trợ cấp. Cậu thanh niên lại là
người giàu có. Cả hai người làm đám cưới và sống hạnh phúc bên nhau vài
tháng thì bà qua đời. Anh thanh niên sống độc thân đến tận bây giờ. Nếu
chúng ta lấy yếu tố tình thiên thu theo tinh thần kinh Tăng Chi nêu ra,
thì sự kiện trên có thể là một minh chứng.
Thông thường người nam ở tuổi 80 có thể vẫn còn nhu cầu tình yêu,
nhưng người nữ ở tuổi 80 hầu như không màng đến nữa, do cấu trúc đặc
biệt về sinh học của cơ thể người nữ. Đằng này, bà lão vẫn yêu nồng nàn.
Do đó trong tình huống muốn tiếp tục trở thành vợ chồng của nhau thì
chúng ta phải chung thủy ở ngay hiện tại này. Bên cạnh đó, cả hai bên
đều phải phát nguyện chờ đợi. Dĩ nhiên không phải ai cũng chung thủy ở
kiếp sau, tuy phát nguyện nhưng họ vẫn có thể quỵt lời hứa. Cho nên có
những trường hợp kén cá chọn canh dẫn đến tình trạng độc thân suốt đời.
Tức là người kén chọn luôn tạo dựng hình ảnh lý tưởng mà mình theo đuổi.
Họ cứ chờ đợi hình ảnh lý tưởng đó, trong khi người kia không giữ trọn
lời phát nguyện và đã kết hôn với kẻ khác. Họ sinh ra rồi quên lời hẹn
ước kiếp xưa, người này thì cứ đợi chờ, chờ hoài không thấy và cứ độc
thân. Tóm lại, phải có đồng nghiệp, tức là cộng nghiệp giống nhau giữa
hai bên thì cặp hôn nhân đó mới tiếp tục sum họp.
Đồng tâm và đồng hành
Bà vợ thích làm từ thiện, ông chồng thì keo kiệt, hay cằn nhằn, la
mắng. Hoặc bà vợ sùng kính Tam Bảo, mỗi ngày tụng bốn thời kinh, trong
khi ông chồng không thích cũng dẫn đến tình trạng mất hạnh phúc.
Nhân tiện đây chúng tôi xin nhắc thêm, người tại gia đừng nên tụng
kinh quá nhiều ở nhà. Mỗi ngày một thời kinh là đủ. Điều quan trọng là
hành trì kinh, sống với kinh, biến giáo pháp thành thực phẩm thì giá trị
lợi ích sẽ gấp trăm nghìn lần việc đọc kinh nhiều mà không hiểu gì cả.
Đừng hiểu đơn giản rằng tụng kinh có phước, dĩ nhiên chúng ta có phước
tôn kính. Còn tài sản, gia tài, sự nghiệp, hạnh phúc lại thuộc về những
hạt giống khác chứ không phải do tụng kinh. Rất nhiều người hiểu một
cách mù mờ và hết sức giản đơn rằng cứ tụng kinh thì cầu gì được nấy. Đó
là quan điểm phi nhân quả, trái với đạo Phật, đi ngược lại với Tứ Diệu
Đế. Mỗi loại phước có một hạt giống khác nhau. Tụng kinh có phước tôn
kính, chúng ta tôn kính Phật thì những người khác tôn kính mình. Hiểu
kinh có phước trí tuệ, giúp chúng ta sống đúng nhân quả, không sợ luật
pháp trừng phạt, tuy nghèo nhưng vẫn được quý. Mỗi thứ có phước, có nhân
quả khác nhau.
Nhiều quý bà khi chưa biết đạo Phật còn chăm sóc chồng mình. Đến khi
biết Phật thì mỗi ngày bốn thời, đồng nghĩa ông chồng cũng mất luôn bốn
giờ được quan tâm, đương nhiên sẽ phát sinh trạng thái ghen ghét với
Phật. Nói ra thì cảm thấy mình nhỏ mọn, nhưng quý bà đôi lúc không nghĩ
tới, cứ cho rằng mình đến với Phật là hạnh phúc, mặc chồng muốn đi đâu
thì đi. Người chồng cảm thấy bị mất dần vị trí, lo sợ mất vợ nên thường
phản đối vợ đi chùa.
Người Phật tử cần đều đều đi vào con đường trung đạo, một thời kinh ở
nhà là quá đủ. Tạo phước báu thật nhiều, giữ năm điều đạo đức, giữ vững
ba ngôi tâm linh, làm bố thí cúng dường là đã trở thành một người Phật
tử lý tưởng. Đừng mong được giải thoát, không nên và cũng không cần. Nếu
muốn giải thoát thì hãy trở thành người tu. Hai con đường đó rõ ràng.
Những người chồng cũng nên đồng tình hưởng ứng và giúp cho vợ của mình
thực hiện con đường tâm linh. Càng sợ sẽ càng mất, còn không sợ thì sẽ
không mất. Chúng ta cứ sống hết lòng bằng phương pháp. Dĩ nhiên cũng cần
để ý để tứ vợ hoặc chồng nhằm bảo hộ cần thiết nhưng cũng phải tôn
trọng để người bạn đời không có cảm giác gò bó, mất tự do. Tâm thức là
quan trọng nhất trong tình yêu, lồng vàng cũng chỉ là sự giam nhốt chứ
không là yếu tố duy trì cuộc tình bền vững. Đầu tư quá nhiều thời gian
cho Phật, thì ông chồng sẽ ghen. Như vậy người chồng sẽ mất đức Phật một
cách lâu dài.
Đưa quý ông đi chùa không phải là việc dễ dàng vì quý ông không thích
tụng kinh với âm điệu âu sầu buồn bã, đi sâu vào đời sống nội tại.
Chúng ta chỉ có thể thuyết phục quý ông đi chùa thông qua các giảng
đường. Giảng đường không có tín ngưỡng, giảng đường có tri thức và tuệ
giác. Khi đã hiểu giáo pháp, quý ông sẽ tự động ủng hộ quý bà và khích
lệ các thành viên còn lại trong gia đình trở thành Phật tử. Đừng bỏ mặc
chồng con khi họ chưa hiểu gì về đạo Phật. Làm như thế là ta chưa thực
hiện đầy đủ trách nhiệm với người chồng thương kính của mình, và những
đứa con mà mình cần phải chu cấp cho nó được hạnh phúc. Không phải chỉ
có cơm ăn áo mặc và việc làm là đủ, người vợ, người mẹ luôn đóng vai trò
khá quan trọng trong gia đình. Người chồng đôi lúc thờ ơ, vô tư, nông
cạn, không ý tứ về những chuyện nhỏ nhặt nhưng người phụ nữ với bán cầu
trái lớn, nặng về cảm tính nên dễ dàng thành công trong lĩnh vực này.
Chúng ta cần hướng dẫn cho chồng mình trở thành Phật tử.
Ví dụ, khi hai vợ chồng cùng đi chùa, ta cung kính quý thầy, quý sư
cô như đức Phật, nhưng về đến nhà lại không thèm ngó ngàng đến chồng
mình. Chồng đang đau bệnh, cần được chăm sóc, ta lại khước từ vì bận vào
chùa tu Bát Quan Trai. Thử hỏi làm sao ông chồng có thể quý các thầy,
các sư cô được. Phải để ý từ những cái nhỏ như thế thì người thân trong
gia đình mới không còn ghen tỵ với nhà chùa, với các thầy, các sư cô
nữa. Khi được người thân ủng hộ, lúc đó chúng ta tha hồ làm Phật sự. Nó
sẽ trở thành tình thiên thu, cả hai vợ chồng đều trở thành Phật tử. Đời
sống mới thực sự có ý nghĩa và hết sức sâu sắc.
Với cuộc tình thiên thu của vua Shah Jahan và hoàng hậu Mumtaz, họ đã
giữ sự chung thủy, giữ yếu tố tâm đầu ý hợp, giữ sự chia sẻ, tôn kính,
giữ lời hứa với nhau, đó là những ý tưởng rất hay cho các cuộc tình
thiên thu. Còn cách thể hiện một ngàn tỷ USD để bảo hộ cho cuộc tình
thiên thu như thế là không cần thiết. Quý bà cũng đừng nên đong đo tính
đếm tình yêu bằng sự chăm sóc tiền bạc vật chất từ những người chồng.
Tiền có thể mang lại các dịch vụ tình yêu nhưng không thể thay thế cho
tình yêu. Tiền có thể giúp ta đến được các bệnh viện lớn nhưng không thể
mang đến cho ta sức khỏe. Cho nên tiền có giới hạn và tình mới là quan
trọng. Cũng đừng trải dài tình yêu trên tình lý tưởng nghĩa là không cần
gì hết. Nếu không cần đời sống vật chất, không cần nghề nghiệp ổn định,
chúng ta không thể tồn tại một cách lâu dài.
Cái tình theo Phật giáo phải được ứng xử như trung tâm của con người,
và đừng thái quá nó, hay phụ bạc nó. Ta phải có sự trung đạo trong tình
yêu và đời sống vợ chồng để hai bên đừng quá đắm đuối lẫn nhau. Hiểu
nhau, tôn trọng nhau, thương kính nhau, dìu dắt nhau, và hy sinh cho
nhau để xây dựng hạnh phúc ở kiếp này lẫn kiếp sau nếu còn duyên. Giả sử
một trong hai người có qua đời sớm, tốt nhất ta không nên tái giá, hoặc
không nên tái giá quá sớm. Người ra đi sẽ cảm thấy uất hận, nghĩ rằng
mình không được người còn lại tôn trọng và thương yêu. Trạng thái tâm lý
đó khiến họ phải tồn tại trong cảnh giới ngạ quỷ khổ đau buồn tủi.
Trường hợp sống với nhau không hạnh phúc, nỗ lực hàn gắn mà không thành
công vì một trong hai người kiên quyết không từ bỏ tính hoa nguyệt, lúc
đó chúng ta được quyền ly dị. Ngoài ra thì những mâu thuẫn nhỏ không
đáng, chúng ta đừng để chủ nghĩa cái tôi can thiệp sâu vào hạnh phúc. Có
như vậy, đời sống của người tại gia mới thực sự hạnh phúc và là nền
tảng để ta vững tin trên con đường lý tưởng tâm linh mà mình đang đi với
tư cách một người Phật tử.