3.1. Thọ Tam quy, trì Ngũ giới
3.1.1.Ý nghĩa quy y Tam bảo
Cuộc nói
chuyện giữa đức Phật và vua A-xà-thế (Ajàtasattu) trong kinh Sa Môn Quả, Trường
bộ kinh. Đức Phật dạy cho vua A-xà-thế về công hạnh của bốn quả vị Sa-môn, vua
A-xà-thế đã thốt lên rằng: “Thật vi diệu
thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người
dựng đứng lại những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã
được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay con xin quy y
Phật, quy y Pháp và quy y Tỳ-kheo-tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay
trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng” [1, tr. 156-157].
Quy y Phật,
quy y Pháp và quy y Tỳ-kheo-tăng là nương tựa ba ngôi quý báu hay còn gọi là
Tam bảo trong đạo Phật. Vậy, ba ngôi quý báu ấy là gì? Tại sao mỗi người cần
phải quy y ba ngôi quý báu ấy? Đó là những câu hỏi mà mọi người thường hay đặt
ra. Chúng ta biết rằng, đã là một con người thì không thể sống một cách đơn
độc, trơ trọi trên trần thế này. Con người thì có ông bà, cha mẹ, có tình làng
nghĩa xóm, quê hương đất nước để thương yêu, để nương tựa. Trong cuộc sống thì
mỗi người phải có niềm tin vào bản thân, tin vào nhân quả nghiệp báo, vào những
luân lý đạo đức trong đời sống bình thường. Mỗi người phải tự chọn lấy cho mình
nơi nương tựa hay một con đường đáng tin cậy để hướng đến tương lai. Nhưng con
đường ấy có vững chắc, có đủ khả năng dẫn đến an lạc hạnh phúc hay bất hạnh khổ
đau còn tuỳ thuộc vào nhận thức và sự lựa chọn của mỗi người. Người hiểu biết
không nên phó mặc cuộc đời mình cho số phận và cũng đừng bao giờ phó thác cuộc
đời cho thượng đế hay thần linh. Tam bảo là nơi nương tựa vững chắc, là con
đường duy nhất có khả năng đưa mọi người đến an lạc hạnh phúc một cách viên
mãn.
Quy y là tiếng Trung Hoa, Pàli ngữ là Sarana, dịch ra tiếng
Việt là trở về, nương tựa. Quy y Tam bảo là trở về nương tựa vào ba ngôi quý
báu: Quy y Phật bảo (Buddhasarana), quy y Pháp bảo (Dhammasarana). Quy y Tăng
bảo (Sanghasarana).
Phật bảo là gì?
Phật gọi
đủ là Phật-đà, được phiên âm từ chữ Buddha, có nghĩa là người giác ngộ, người
tỉnh thức. Phật-đà là chỉ cho những bậc giác ngộ viên mãn trên ba phương diện:
Tự giác, giác tha và giác hạnh. Tự giác viên mãn là tự mình giác ngộ đến chỗ
cứu cánh. Giác tha viên mãn là khéo dùng các phương tiện thiện xảo để giáo hoá
chúng sanh giải thoát sanh tử khổ đau. Giác hạnh viên mãn là tròn đầy những
công hạnh Tự lợi và Lợi tha, Phước và Tuệ.
Tại sao
chúng ta phải quy y Phật bảo?
Đức Phật
là người duy nhất, không có hai, không có so sánh, không có ngang hàng trong
thế gian này. Sự xuất hiện của Ngài như hoa Ưu đàm ngát hương ngàn năm mới nở,
ít có khó gặp như rùa mù ngàn năm mới nhô lên mặt biển mà gặp được bộng cây.
Bởi vậy mới gọi là Phật bảo. Kinh
Tăng chi I, Phẩm một người. Đức Phật dạy: “Một
người, này các Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho
đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Chính một người này, này các Tỳ-kheo, khi
xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và
loài người” [3, tr. 46].
Đức Phật
được gọi là quý báu, đáng được tôn kính và quy ngưỡng vì Ngài có 5 điều sau:
Thứ nhất: Đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Thứ hai: Ngài có đầy đủ 10 đức
tính cao thượng, không một thứ gì sánh bằng trong cuộc đời, “Đây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn” [11, tr. 502]. Thứ ba: Ngài có năm đặc tính mà không còn có
một người thứ hai: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Thứ tư:
Chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, thật không dễ gì nghe được
danh hiệu của một vị Phật, huống hồ được gặp, được chiêm ngưỡng và nghe lời Phật
dạy. Thứ năm: Ngài là nơi nương tựa vững chắc cho chúng sanh, người đủ phước
duyên, tích luỹ công đức từ nhiều đời, nhiều kiếp mới đủ duyên lành gặp và
nương tựa Ngài.
Chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử, tử sanh từ vô lượng
kiếp; phiền não khổ đau vì tham lam, sân hận và si mê là một thực trạng của
cuộc sống hiện tại. Nó đã kéo dài từ vô lượng kiếp cho đến tương lai vô cùng,
vô tận. Chỉ có chư Phật là những vị đã hoàn toàn đoạn trừ sanh tử, xả ly tâm
tham lam, tâm sân hận và tâm si mê. Các Ngài đã thật sự đoạn tận sức mạnh của
nghiệp và những u mê trong dòng chảy tâm thức để phát triển tâm linh đến những
phẩm tính tốt đẹp và thù thắng nhất. Chư Phật là những bậc Đạo sư có đầy đủ tư
cách nhất về phương diện Trí tuệ giải thoát và lòng Từ vô lượng đối với chúng
sanh. Chúng ta muốn đoạn trừ phiền não khổ đau của sanh tử luân hồi, không gì
bằng quy y Phật bảo. Khi đức Phật còn tại thế, tất cả chúng sanh từ vua, quan,
dân chúng cho Phạm thiên đều quy ngưỡng Ngài, không những về phương diện chứng
đạt Trí tuệ giải thoát mà còn cảm mến từ tướng tốt và vẻ đẹp của Ngài. Trong
thế gian, không có một trân châu, bảo bối nào, ngoại trừ đức Phật đã khiến
chúng sanh được an lành, hạnh phúc và phát khởi đức tin trong sạch. Trưởng giả
Cấp-cô-độc mua khu vườn Thái tử Kỳ-đà, để xây dựng tịnh xá cúng dường đức Phật
với điều kiện mà Thái tử Kỳ-đà đặt ra, là phải lót vàng hết vườn. Phú hộ Jatila
vàng bạc không thiếu, mọi điều kiện sống không thiếu nhưng khi gặp đức Phật
liền xin xuất gia thành một Tỳ-kheo, sống cuộc đời thanh bần giải thoát. Vua A-xà-thế,
một người giết cha để chiếm ngôi vua, đã từng hãm hại Phật nhưng cũng được đức
Phật hoá độ trở thành một Phật tử thuần thành.
Kinh Tự
Hoan Hỷ, Trường bộ kinh. Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta) thưa với đức Phật
rằng: “Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế
Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể
có một vị Sa-môn, một vị Bà-la-môn nào khác có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng
suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ” [2, tr 415]. Vì sao? “Bạch Thế Tôn, tất
cả những vị A-la-hán, Chánh đẳng giác trong tương lai, tất cả những vị Thế Tôn
ấy đã diệt trừ năm triền cái (tham, sân, hôn trầm thuỵ miên, trạo hối, nghi).
Đã khéo an trú tâm vào bốn niệm xứ, đã tu tập bảy giác chi, đã chứng ngộ Vô
thượng Chánh đẳng giác. Và nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác đã diệt
trừ năm triền cái, đã khéo an trú tâm vào bốn niệm xứ, đã tu tập bảy giác chi,
đã chứng Vô thượng Chánh đẳng giác” [2, tr. 418].
Pháp bảo là gì?
Pháp được
dịch từ Pàli ngữ là Dhamma. Chữ Dhamma có rất nhiều nghĩa như là bản thể, là
nguyên lý, là hiện tượng và những lời dạy của đức Phật cũng gọi là Dhamma. Ở
đây, chúng ta chỉ đề cập đến Dhamma như là những lời dạy của đức Phật mà thôi.
Đức Phật hoá độ chúng sanh bằng nhiều phương tiện thiện xảo khác nhau, tuỳ theo
căn cơ của mỗi người mà Ngài dạy Pháp phù hợp giống như vị lương y tuỳ theo
người bệnh mà cho thuốc. Tuy nhiên, lời dạy của Ngài thì nhiều nhưng không
ngoài mục đích giải thoát phiền não, khổ đau: “Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ.” Nói cách khác, chữ Pháp là
nội dung chứng ngộ, con đường dẫn đến sự đoạn tận nguồn gốc, ngọn ngành của khổ
đau. Vì nó có công năng diệt trừ phiền não, khổ đau, chứng đạt quả vị giải
thoát nên gọi là bảo. Nội dung chứng ngộ là pháp Duyên khởi, Tứ đế, Nhân quả,
Nghiệp báo…. Và con đường chứng ngộ là 37 phẩm trợ đạo, nói gọn là Bát thánh
đạo hay Giới-Định-Tuệ.
Tại sao chúng ta phải quy y Pháp bảo?
Kinh Ví Dụ Tấm Vải [7, tr. 87], Trung
bộ I; Thanh Tịnh Đạo Luận của Buddhaghosa phần Niệm Pháp [15, tr 362-364]; Tương
ưng V, Phẩm Veludvàra đều nêu lên 6 đặc tính của giáo lý Phật giáo như sau: “Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực
hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu.”[11, tr 502]
1.
Pháp
được Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng: Tất cả những lời dạy của đức Phật đúng với
sự thật, khế lý, khế cơ, và dẫn đến giải thoát. Giáo pháp của Ngài đều đem đến
an lạc, hạnh phúc ở chặng đầu, chặng giữa cho đến chặng cuối.
2.
Thiết
thực hiện tại: Pháp là mỗi người tự tu tập và thể nghiệm nơi bản thân. Pháp có
công năng đoạn tận nguyên nhân của sanh tử luân hồi là tham dục, sân hận và si
mê.
3.
Vượt
thời gian: Pháp là vượt thời gian, đúng từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai.
4.
Đến
để mà thấy: Pháp là đến để mà thấy rồi thực hành, chứng hiểu diệu dụng của nó
chứ không phải tin một cách mù mờ.
5.
Có
khả năng hướng thượng: Pháp là con đường phát triển tâm linh, có khả năng dẫn
dắt chúng sanh hướng đến quả vị tốt đẹp.
6.
Được
người trí chứng hiểu: Người có trí tuệ, có thực hành thì mới có thể giải thoát.
Giáo pháp
của Phật luôn luôn có đầy đủ 6 đặc tính trên. Điều đó thể hiện nét khác biệt
giữa giáo lý Phật giáo với giáo lý các tôn giáo khác. Giáo lý Duyên khởi, Nhân
quả, Nghiệp báo là nguyên lý, là sự thật của cuộc đời nên chúng sanh phải tin
tưởng, nương tựa “Pháp Duyên khởi ấy, dù
Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp quyết định
tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt định lý ấy.
Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, phân biệt, minh hiển,
minh thị” [47, tr. 167]. Quy y
Pháp bảo là chúng sanh nương tựa, thực hành những lời dạy của Phật, có nghĩa là
mỗi người phải tự thực hành Bát thánh đạo, Tứ nhiếp pháp…. Có thể nói rằng,
Pháp mới là chỗ quy y thật sự đối với tứ chúng đệ tử Phật. Điều này có nghĩa là
mỗi chúng sanh hiểu biết đúng như thật về sự bất toàn, sự khổ đau của cuộc đời.
Tham ái là nguyên nhân gây ra khổ đau và Bát thánh đạo là con đường thực hành
duy nhất đoạn trừ Tham ái, sanh tử luân hồi. Chính vì thế, đức Phật dạy cho A-nan-da
rằng: “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương
tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh
pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác” [1, tr. 584].
Tăng bảo là gì?
Tăng gọi đủ là Tăng-già, được phiên âm từ Pàli ngữ là
Sangha. Tăng-già là cộng đồng các vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, những người đã dành
hết cuộc đời cho việc tu tập, thực hành Chánh pháp và giáo hoá chúng sanh. Tăng-già
là phải đủ bốn vị tu sĩ trở lên, sống thanh tịnh và hoà hợp với nhau mới đúng
nghĩa là Tăng-già. Những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không được gọi là Tăng-già mà
chỉ được gọi là thành viên của Tăng-già mà thôi.
Tại sao chúng ta phải quy y Tăng bảo? Tăng có đầy đủ các hạnh
sau: “Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế
Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế
Tôn. Chơn lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng
đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được
chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.” [11, tr502-503]. Kế đến, người Phật tử quy y Tăng bảo vì những lý do sau: Thứ nhất: Phật và Pháp có quý
báu chừng nào đi nữa mà không có Tăng-già hay các vị tu sĩ hành trì Phật pháp,
giáo hoá chúng sanh thì Phật và Pháp cũng không tồn tại lâu dài; và chúng sanh
cũng không có cơ hội tiếp xúc học hỏi và tu tập theo Phật pháp. Thứ hai: Tăng-già
là cộng đồng các vị tu sĩ sống thanh tịnh và hoà hợp như nước với sữa. Có thể
nói rằng: Thanh tịnh và hoà hợp là bản thể của Tăng-già. Thứ ba: Các vị tu sĩ
sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày trên tinh thần lục hoà:
1.
Thân
hoà đồng trú: Có sự hoà hợp, hợp lý về chỗ ăn, chỗ ở, khéo an trú thân nghiệp.
2.
Khẩu
hoà vô tránh: Lời nói hoà hợp, không tranh cãi, khéo an trú khẩu nghiệp.
3.
Giới
hoà đồng tu: Cùng nhau giữ gìn một giới luật chung, an trú giới, giữ giới thanh
tịnh.
4.
Ý
hoà đồng duyệt: An trú ý nghiệp, hoà hợp thống nhất.
5.
Kiến
hoà đồng giải: Cùng với các vị đồng tu nuôi dưỡng những tri kiến thánh thiện
đưa đến xuất ly khổ.
6.
Lợi
hoà đồng quân: Cùng san sẻ các lợi dưỡng [47, tr. 102-103].
Tăng-già
là cộng đồng duy nhất có bản thể là thanh tịnh và hoà hợp, luôn luôn sống với
tinh thần lục hoà. Vì thế, Tăng-già xứng đáng là nơi nương tựa cho chúng sanh
trong ba cõi. Tuy nhiên, Tăng-già gồm những vị đạo cao đức trọng và cũng có
những người mới tu tập, cho nên không thể không có pháp hữu lậu phát sinh nhưng
điều đó chỉ mang tính cách cá nhân, còn bản chất của Tăng-già là phải thanh
tịnh và hoà hợp. Giá trị cao quý của Tăng-già là truyền dạy Chánh pháp cho
chúng sanh, nhờ Tăng mà Chánh pháp tồn tại và chúng sanh được tu học. Chính vì
Tăng-già là nơi nương tựa, học hỏi gần gũi nhất và là tấm gương sáng về đạo
hạnh, làm tròn sứ mạng người con Phật, cho nên Tăng-già là quý báu, là nơi đáng
tin cậy cho hàng cư sĩ Phật tử tại gia nương tựa.
3.1.2. Ý nghĩa thọ trì Ngũ giới
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 37.
Phật dạy: “Người Phật tử dù cách Ta ngàn
dặm, nhưng luôn luôn hành trì Giới-luật, tất nhiên sẽ chứng đạo quả. Trái lại,
người Phật tử ở cạnh Ta, thường thấy Ta, nhưng không giữ giới, kết quả rốt cuộc
cũng không đắc được đạo quả.” Người Phật tử tại gia phát tâm quy y Tam bảo,
là đã đặt niềm tin vững chắc vào con đường giải thoát, giác ngộ nhưng nếu người
Phật tử không giữ gìn năm giới thì chỉ dừng chân tại chỗ, không thể tiến đến
chân trời giải thoát thật sự. Năm giới không những là nền tảng cho con đường
dẫn đến an lạc hạnh phúc cá nhân mà nó còn là giềng mối chắc thật đem lại trật
tự, an vui và hoà bình cho gia đình, quốc gia, xã hội. Có thể nói rằng năm giới
là đạo lý luân thường, là nguyên tắc đạo đức căn bản mà ai ai cũng cần phải giữ
gìn.
Năm giới là năm điều ngăn cấm mà đức Phật chế ra để ngăn
chặn những tư tưởng, những hành động, những lời nói có hại cho chính bản thân
và những người xung quanh. Năm giới gồm: Không được giết hại; không được trộm
cướp; không được tà dâm; không được vọng ngữ và không được uống rượu. Năm điều
này được căn cứ trên tinh thần từ bi và bình đẳng của nhà Phật. Giữ giới là sự
tự nguyện của mỗi người, đức Phật không bắt buộc một ai phải triệt để tuân theo
và cũng không hăm doạ sẽ trừng phạt nếu không giữ gìn năm giới. Tuy nhiên, luật
Nhân quả là cán cân công lý công bằng nhất đối với người giữ giới hay không giữ
giới. Người làm ác thì nhận lãnh quả xấu, người làm thiện chắc chắn được quả
lành.
1. Không
được giết hại: Pháp cú số 129, Phật dạy: “Tất
cả mọi người đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quí mạng sống; hãy lấy
mình làm ví dụ để không giết hại hay khiến người khác giết hại.” Đức Phật
khuyên người Phật tử không được giết hại, không những loài người mà những loài
hữu tình khác cũng nên tôn trọng sanh mạng của chúng. Đạo Phật khuyên người
Phật tử không được giết hại vì những lý do sau: (1). Tôn trọng Phật tánh bình
đẳng: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu
Phật tánh.” Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng như nhau nhưng vì
vô minh mà trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, có muôn hình, vạn dạng khác
nhau. Và, những chúng sanh ấy cũng có khi đã từng là thân bằng quyết thuộc của
chúng ta. (2). Tôn trọng sự công bằng: Mọi loài đều ham sống sợ chết, người thì
có kẻ cao người thấp, kẻ đen người trắng; con vật thì con mạnh, con yếu nhưng
tất cả đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống của mình. (3).
Nuôi dưỡng lòng Từ bi: Đạo Phật là đạo Từ bi và Trí tuệ. Người Phật tử muốn đi
trên con đường thánh thiện, con đường giác ngộ giải thoát và thực hành hạnh lợi
tha thì không thể không nuôi dưỡng lòng Từ bi. (4). Tránh nhân quả xấu ác: “Gieo
nhân nào thì gặt quả nấy.” Khi người ta giết hại một sanh mạng, vì trong
lúc thế cô sức yếu, nó không chống cự lại được nhưng lòng căm thù, oán hận
không bao giờ mất. Kẻ bị giết hại ôm lòng hận thù từ đời này sang đời khác,
luôn luôn rình rập chờ cơ hội để báo thù lúc người giết hại lâm vào cảnh khốn
cùng. Cứ như thế mà chúng sanh vay trả xoay vần trong sáu nẻo luân hồi, không
biết ngày nào ra khỏi.
Trái lại,
người Phật tử không những giữ giới không giết hại loài người và loài vật mà còn
giúp đỡ người nghèo khổ, phóng sanh, thì sẽ được quả lành như: Sức khoẻ dồi
dào, ít hay đau bệnh, thân tâm an lạc, mọi người yêu kính, mạng sống lâu dài,
thường hưởng phước đức ở cõi trời, cõi người. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo nói: “Tất cả chúng sanh đều kính mến; lòng từ bi
mở rộng đối với tất cả chúng sanh; trừ sạch thói quen giận hờn; thân thể thường
được khoẻ mạnh; tuổi thọ được lâu dài; thường được thiên thần hộ trợ; ngủ ngon
giấc và không chiêm bao dữ; trừ hết các mối oán thù; khỏi bị đoạ vào ba đường
ác và sau khi chết được sanh lên cõi trời” [32, tr. 278-279].
2. Không được trộm cướp: Đức Phật dạy người Phật tử không
được lấy tài sản của người khác khi chưa có sự đồng ý của họ. Hành động “lấy tài sản” ở đây rất nhiều khía cạnh
như: Lén lấy, cướp giật, gian lận, lường gạt, ép buộc hay cậy quyền thế làm
tiền kẻ yếu, cho vay nặng lãi đều là trộm cướp cả. Chúng ta có sở hữu tài sản
riêng, luôn giữ gìn một cách cẩn thận mà lại muốn chiếm đoạt tài sản của người
khác là một việc làm trái lẽ công bằng. Thử nghĩ, khi chúng ta vô ý đánh mất
tiền bạc hoặc một vật gì đáng giá thì chúng ta hối tiếc đến nỗi ăn không ngon,
ngủ không yên. Vậy, tại sao chúng ta nhẫn tâm lấy tài sản của người khác, để họ
than khóc, khổ đau và có khi những bi kịch xảy đến với họ. Chỉ có những người
thiếu đạo đức, kém văn hoá mới hành động như vậy. Giới không được trộm cướp
giúp người Phật tử có cuộc sống trong sạch, chơn chánh và không gây khổ đau cho
người khác.
“Khoét vách đào tường chí những đâu,
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu.
Của người dù có đời này được,
Đời khác luôn mang kiếp ngựa trâu.”
(Trần Thái Tông)
Người Phật tử vì lẽ công bằng, vì lòng từ bi và giữ gìn
nhân cách của mình mà không được trộm cướp. Người Phật tử giữ gìn giới không
trộm cướp tài sản của người khác mà còn thương xót, giúp đỡ, bố thí cho kẻ
nghèo, người đói, thì sẽ được mọi người kính yêu, đạo hạnh tăng trưởng và có
cuộc sống sung túc. Kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo dạy: “Tiền của có dư, không bị
nạn giặc giã cướp mất, chính quyền không tịch thu, không bị nạn lụt trôi, không
bị lửa cháy và con cái phung phí; được nhiều người tin cậy, không bị lừa dối
gạt gẫm; xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình, lòng được an ổn, không
lo sợ về sự tổn hại gì cả; khi chết rồi được sanh lên cõi trời” [32, tr
280-281].
3. Giới không tà dâm: Giới không tà dâm hay còn gọi là
không tà hạnh, có nghĩa là không được ngoại tình. Ngoại trừ vợ chồng đã được
cưới hỏi, còn lại những hành động chung chạ với người khác hay làm những việc
tư tình phá hoại hạnh phúc gia đình người khác đều là tà dâm. Tuy nhiên, vợ
chồng mà ăn nằm không phải chỗ, sống không biết chừng mực, không biết liêm sỉ cũng
được xem như tà dâm. Đức Phật sở dĩ chế giới không được tà dâm là muốn cho
người Phật tử có cuộc sống an lành, hạnh phúc của gia đình mình và gia đình
người khác.
“Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng,
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa.
Ai sống trong đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu rơi khỏi người ấy,
Như giọt nước lá sen.”
(PC-335-336)
Kinh Thập Thiệp Nghiệp Đạo nói: “Người không tà dục và giữ gìn tịnh hạnh sẽ được bốn điều lợi: Sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) được vẹn toàn; đoạn trừ hết những sự phiền não,
quấy nhiễu; không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái; được tiếng tốt và người đời
khen ngợi” [32, tr. 281-282].
4. Không được vọng ngữ: Vọng ngữ có bốn cách khác nhau: Nói
dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Nói dối là chuyện
không nói có, chuyện có nói không; chuyện nghe nói không nghe, chuyện không
nghe, nói nghe hoặc khen trước mặt, chê sau lưng. Tóm lại, những lời nói không đúng
sự thật đều thuộc về nói dối cả. Nói lời thêu dệt là việc ít xít ra nhiều, trau
chuốt lời nói, nói lời ngọt ngào êm tai để dụ dỗ người khác làm lợi cho mình,
đôi khi nói lời châm biếm khiến người khác sân hận. Nói lưỡi hai chiều là trước
mặt khen sau lưng chê, cùng một sự kiện nhưng tới người này khen, tới người kia
lại chê, khiến đôi bên bất hoà, giận hờn thù oán nhau. Nói lời thô ác là lời
nói độc ác, chửi mắng, thề nguyền làm người khác sợ hãi, buồn rầu khổ đau. Đạo
Phật là đạo như thật, người Phật tử thì phải tôn trọng sự thật, y theo lời Phật
dạy không được nói dối. Vì động lực của mọi sự dối trá đều bắt nguồn từ lòng
tham lam, ích kỷ và ganh tỵ muốn hại người để thoả mãn dục vọng của mình. Bên cạnh
đó, người nói dối còn đánh mất niềm tin với mọi người xung quanh.
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo nói: Người Phật tử không nên nói
vọng ngữ mà phải nói lời chơn thật thì được những lợi ích như sau: “Miệng thường thơm sạch; thế gian và nhân,
thiên đều kính mến; lời nói không nhầm lẫn và vui vẻ; trí tuệ thù thắng; được
hưởng phước lạc như ý nguyện và ba nghiệp đều trong sạch” [32, tr. 283].
5. Không
được uống rượu hoặc tất cả các loại men làm say nghiện: Đạo Phật là con đường
sáng, con đường của trí tuệ. Cho nên,
đức Phật khuyên hàng Phật tử không được uống rượu hoặc ép người khác uống. Vì
rượu khiến cho thân thể bệnh hoạn, yếu ớt; tâm thần hôn muội, làm cho hạt giống
trí tuệ ngày càng mai một. Hơn nữa, nếu người uống rượu tâm thần bất định,
không làm chủ được bản thân, sẽ dẫn đến những hành động vô cùng nguy hiểm cho
mình và mọi người như: Giết người, trộm cướp, tà dâm .v.v. Như vậy, người uống
rượu không những tự mình chuốc lấy bệnh tật, tai ương mà còn gây cho người khác
phiền não khổ đau, ảnh hưởng đến cuộc sống của những người thân trong gia đình
và dòng họ.
Tóm lại, bất cứ người nào không tôn trọng,
không giữ gìn năm nguyên tắc đạo đức căn bản này thì họ tự làm hại chính mình,
tự đánh mất nhân cách chính mình và cũng tự đào mồ chôn chính mình.
“Ai ở đời sát sanh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người.
Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình.”
(PC-246-247)
3.2. Phương pháp tu tập trong đời sống gia đình
3.2.1. Tu tập Tứ Nhiếp Pháp
Người Phật tử thực hành theo lời Phật
dạy, thứ nhất là đạt được an lạc hạnh phúc cho bản thân (Tự lợi), thứ hai là
làm lợi ích cho gia đình và xã hội (Lợi tha). Pháp môn tu tập cụ thể, thiết
thực và vô cùng lợi ích trong khi thực hành công hạnh lợi tha, không gì bằng Tứ
nhiếp pháp. Đặc biệt Tứ nhiếp pháp là nguyên tắc ứng dụng thành công nhất trong
việc lãnh đạo, cho dù là ở trong gia đình hay quần chúng tập thể ngoài xã hội.
Có một lần đức Phật hỏi gia chủ Hatthaka rằng: “Này Hatthaka, hội chúng này thật lớn. Làm sao, này Hatthaka, Ông
thâu nhiếp được hội chúng này?”
Cư sĩ Hatthaka trả lời rằng: “Bạch Thế Tôn, có bốn nhiếp pháp này được Thế Tôn thuyết giảng. Con
thâu nhiếp hội chúng này với những nhiếp pháp ấy. Bạch Thế Tôn, khi con biết
rằng: Người này cần phải thâu nhiếp nhờ bố thí, thì con thâu nhiếp người ấy với
bố thí. Khi con biết rằng: Người này cần phải thâu nhiếp nhờ ái ngữ, thì con
thâu nhiếp người ấy với ái ngữ. Khi con biết rằng: Người này cần phải thâu
nhiếp nhờ lợi hành, thì con thâu nhiếp người ấy với lợi hành. Khi con biết
rằng: Người này cần thâu nhiếp nhờ đồng sự, thì con thâu nhiếp người ấy với
đồng sự. Vả lại, bạch Thế Tôn, trong gia đình con có tài sản, họ nghĩ rằng như
vậy không thể được nghe là một người bần cùng” [5, tr 582-583].
Vậy Tứ Nhiếp Pháp là gì? Đó là bốn phương pháp làm lợi lạc
chúng sanh, nhiếp hoá chúng sanh quay về nương tựa Tam bảo, tu tập theo Giáo
pháp của Phật-đà.
1. Bố thí nhiếp: Nỗi khổ lớn nhất của loài người hiện nay
là gì? Không ngoài hai lý do: Thứ nhất là thiếu thốn về mặt vật chất, điều kiện
sống cần thiết nhất của con người. Thứ hai là sự ngu muội về tinh thần, luôn
luôn sợ hãi, lo lắng và ích kỷ với đồng loại; đặc biệt là tà kiến về các pháp.
Đạo Phật là đạo Từ bi, luôn mong muốn cứu giúp chúng sanh thoát ra khỏi cảnh
khổ đau thì Bố thí là phương tiện tối ưu nhất.
Bố thí về
vật chất (Tài thí), là người Phật tử nếu có điều kiện thì nên cung cấp lương
thực, thuốc thang, áo quần, nhà cửa cho người nghèo khổ, người thiếu thốn. Như
vậy, người Phật tử không những nuôi dưỡng lòng Từ bi mà còn tu tập công hạnh xả
ly, làm lợi ích cho mọi người. Người Phật tử không thể làm ngơ, an nhiên hưởng
thọ vui sướng của riêng mình trước sự khó khăn, thiếu thốn của những người xung
quanh. “Một nắm khi đói bằng một gói khi
no”, người Phật tử nên chia sẻ với đồng loại của mình, dù là một chén cơm, một
mảnh áo cũng đã thể hiện tấm lòng thương người của người con Phật.
Bố thí
Pháp (Pháp thí), là người Phật tử phải có bổn phận tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho những người chưa hiểu biết về Phật pháp, tiếp xúc được với những lời Phật
dạy, nếu có khả năng thì tự mình hướng dẫn họ tu tập, còn không thì giới thiệu
họ đến chùa chiền, thiền viện gặp chư Tăng để được hướng dẫn.
Bố thí sự
vô uý (Vô uý thí), là người Phật tử tu tập theo Chánh pháp thì phải thể hiện
tinh thần Bi-Trí-Dũng của đạo Phật. Người Phật tử luôn luôn bình tĩnh, can đảm,
bảo vệ mọi người; giúp họ không sợ hãi, lo lắng khi đối diện với những tà pháp,
ác pháp và những thế lực hung tàn.
2. Ái ngữ nhiếp: Tục ngữ có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Người
Phật tử, dù ở địa vị nào cũng phải nói lời tao nhã, dịu dàng, dễ nghe không nên
nói lời cộc cằn, thô tục. Người Phật tử sống có gia đình thì phải luôn luôn tạo
hoà khí giữa các mối quan hệ trong gia đình cũng như ngoài xã hội, để tạo niềm
hạnh phúc an vui cho mình và mọi người. Điều đó khiến mọi người cảm phục, yêu
mến phẩm hạnh, nhân cách của một người Phật tử chân chánh.
“Nói lên lời ôn hoà,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi là Bà-la-môn.”
(PC- 408)
3. Lợi hành nhiếp: Người Phật tử nên làm những việc đem đến
lợi ích thiết thực cho mọi người bằng ý nghĩ, lời nói và hành động. Vì vậy,
người Phật tử phải siêng năng làm những công việc có ích lợi cho mọi người tuỳ
theo khả năng của mình, không đòi hỏi người Phật tử phải có nhiều vật chất và
tiền tài mới làm được. Điều đó sẽ khiến cho mọi người sanh lòng kính phục, tin
tưởng và yêu mến người Phật tử hơn. Từ đó, người Phật tử dần dần hướng dẫn họ
học đạo, tu tập theo con đường giải thoát, giác ngộ của đạo Phật.
4. Đồng sự nhiếp: Đồng sự có nghĩa là cùng làm việc, cùng
chí hướng và cùng mục đích với mọi người. Nói đúng hơn, đồng sự nhiếp là tuỳ
theo căn cơ, hoài bão, địa vị, nghề nghiệp của chúng sanh mà người Phật tử nên
dấn thân vào, cộng tác với họ, để giúp đỡ họ trong cuộc sống cũng như trong
nghề nghiệp. Một mặt là người Phật tử nêu tấm gương sáng về đạo hạnh trong cuộc
đời, mặt khác thuyết phục họ rời xa những tà kiến, tà đạo mà tu hành theo con
đường Chánh pháp của đức Phật.
3.2.2. Tu tập Bát Thánh Đạo
Đức Đạt-lai-lạt-ma nói rằng: “Trong thế gian, đôi khi người ta nhân danh tôn giáo để tiến hành một
cuộc chiến tranh. Điều này xảy ra khi ta dùng tôn giáo như là một nhãn hiệu chứ
thật sự không sử dụng ý nghĩa của nó cho sự tu tập.” Là một người Phật tử
thì phải hiểu biết về lời Phật dạy và tu tập theo đúng tinh thần đạo Phật dù
trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Như chúng ta đã biết, sự phát triển như vũ
bão của khoa học kỹ thuật ngày nay như là một sự kết tinh trí tuệ của con
người, chúng đang phô diễn, biểu lộ tất cả những gì đẹp đẽ nhất, văn minh nhất
trong lịch sử nhân loại. Nhưng trong nền văn minh hiện đại mà chúng ta đang
thừa hưởng thì cũng không ít cảnh đau thương tang tóc xảy ra hằng ngày. Chúng
ta có thể nói rằng, cuộc sống ngày càng văn minh bao nhiêu thì tình trạng suy
đồi đạo đức, gia tăng bạo động, chiến tranh khủng bố, thiên tai lũ lụt xảy ra
càng nặng nề bấy nhiêu. Trước thảm cảnh đau thương trên khắp hành tinh, người
có lương tri, có trái tim nhân hậu không thể không bùi ngùi xúc động và trầm tư
về thân phận con người.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện cách đây hơn 2550 năm, Ngài
tuyên bố rất nhiều trong các Kinh tạng Nikàya và A-hàm rằng: “Này các Tỳ-kheo, xưa cũng như nay Ta chỉ
nói lên sự khổ và con đường diệt khổ” [7, tr. 140] hay “Một người, này các Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại
hạnh phúc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho chư thiên và loài người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác” [3, tr. 46].
Chính vì vậy, cuộc đời còn phiền não khổ đau thì đạo Phật còn có giá trị, những
lời Phật dạy còn giúp ích cho đời. Kim ngôn của Ngài là kim chỉ nam, là thuyền
Bát Nhã đưa chúng sanh vượt thoát sanh tử luân hồi và đạt được an lạc hạnh phúc
chân thật.
Khổ là chân lý phổ biến và bao quát trong đời ở bất cứ thời
gian và không gian nào. Cuộc sống của chúng ta là hiện thân của khổ đau mà ai
ai cũng hơn một lần là nạn nhân hoặc là cảm nhận từ cuộc đời. Điều cốt yếu là
con người có chấp nhận sự thật này hay là chạy trốn thân phận như kẻ tội phạm
đang bị bao vây, truy lùng của pháp luật. Pháp luật ấy không đâu khác chính là
luật Nhân quả, Nghiệp báo, sanh, già, bệnh, chết...
Con đường mà đức Thích Ca để lại cho nhân loại là linh dược
cho người bệnh, là ngọn đèn sáng cho kẻ đi đêm, là khuôn vàng thước ngọc cho
mọi luân lý đạo đức, giúp con người đạt được một lẽ sống cao đẹp Chân-Thiện-Mỹ.
Phương pháp ấy là con đường Trung đạo, là phương thức thực hành để đạt được an
lạc hạnh phúc thiết thực trong đời sống hiện tại và cao hơn là hạnh phúc tuyệt
đối Niết-bàn. Con đường này được gọi là Trung đạo bởi vì nó tránh xa hai cực
đoan: Cực đoan thứ nhất là chạy theo hạnh phúc qua khoái lạc giác quan, vốn
thấp kém tầm thường và không lợi ích. Cực đoan thứ hai là sự tìm cầu hạnh phúc
qua sự ép xác khổ hạnh, vốn đau khổ, không giải thoát sanh tử. Đức Phật quan sát
kỹ cuộc đời, Ngài thấy rõ khổ đau đang hiện hữu trong mỗi chúng sanh, đang
thống trị trên tâm tư tình cảm con người. Và chỉ có con đường Trung đạo mới có
khả năng giúp con người dập tắt khổ đau, giải thoát khỏi ách thống trị của ngã chấp.
Con đường Trung đạo, Bát thánh đạo còn được gọi là con đường Thánh gồm tám chi:
chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định.
Chánh kiến: Thấy và hiểu đúng đắn, sáng suốt hợp với đạo
đức xã hội và nguyên lý cuộc đời. Nhận thức đúng về thiện ác, về bản chất của
sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Phật dạy: “Khi vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và căn bản của bất thiện,
tuệ tri được thiện và căn bản của thiện, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có
chánh kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Chánh pháp tuyệt đối và thành
tựu diệu pháp này” [7, tr. 112]; “
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ, tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri
Đoạn diệt khổ, tuệ tri được Con đường đưa đến đoạn diệt khổ, khi ấy Thánh đệ tử
có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực,
có lòng tin Chánh pháp tuyệt đối và thành tựu Diệu pháp” [7, tr. 116].
Chánh kiến
có hai loại: “Chánh kiến hữu lậu có sanh
y là thấy có bố thí, có cúng dường, có lễ hy sinh, có quả báo các nghiệp thiện
ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hoá sanh, ở đời có các
bậc Sa-môn, như vậy là chánh kiến hữu lậu. Ngược lại là tà kiến. Chánh kiến vô
lậu, siêu thế, không sanh y là phàm cái gì thuộc tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp
giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị thành thục Thánh đạo A-la-hán, có vô
lậu tâm, chánh kiến như vậy là chánh kiến vô lậu, siêu thế” [9, tr. 207].
Chánh tư duy: Là suy nghĩ chân chánh, đầu óc không suy nghĩ
điều bất thiện như: Tham dục, sân hận, si mê hay hại tâm... chánh tư duy là
hướng tâm về Chánh pháp, tư duy về Tứ đế, Bát Thánh đạo, Duyên khởi, Vô ngã...Pháp
cú 21& 22, Phật dạy:
“Không phóng dật đường sống
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật không chết,
Phóng dật như chết rồi.”
“Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ không phóng dật,
An vui hạnh bậc thánh.”
Tư duy có
hai loại: “Tư duy hữu lậu thì rơi vào
phước báo, đưa đến quả sanh y (có nhân để tái sanh), gồm có tư duy xuất ly
(xuất ly tư duy), tư duy để vô sân (vô sân tư duy), tư duy để vô hại (vô hại tư
duy). Tư duy để rơi vào tham ái, sân hận và tác hại là tà tư duy. Tư duy vô lậu
là phàm cái gì thuộc tư duy, tầm cầu tư duy, một ngữ hạnh nào đó hoàn toàn chú
tâm, có Thánh tâm, chánh tư duy như vậy gọi là chánh tư duy vô lậu, siêu thế” [9,
tr. 208].
Chánh ngữ: Là lời nói chân chánh, đúng sự thật, không nói
những lời đưa đến khổ đau, chia rẽ tình người; phải nói những lời yêu thương,
đưa đến tin tưởng, đoàn kết và lợi ích. Phật dạy: “Chánh ngữ hữu lậu thì thuộc về phước báo sanh y gồm những lời viễn ly
vọng ngữ, viễn ly ác khẩu, viễn ly nói hai lưỡi, viễn ly lời phù phiến. Chánh
ngữ vô lậu thuộc về từ bỏ, từ khước bốn ngữ hạnh ác hành trên thuộc bậc thánh,
thuần thục trong chánh đạo có vô lậu tâm” [9, tr. 208].
Chánh nghiệp: Là hành vi, việc làm chân chánh,
nghĩa là nghề nghiệp chơn chánh, không có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm
phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không có ham muốn thú vui bất
thiện. Phật dạy: “Chánh nghiệp hữu lậu thuộc phước báo sanh y gồm từ bỏ sát sanh, từ bỏ
lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục; chánh kiến vô lậu là cái gì
thuộc từ bỏ, đoạn trừ, khước từ ba thân ác hạnh của một vị Thánh thuần thục
trong thánh đạo” [9, tr. 210].
Chánh mạng: Là sự sống chân chánh, nghĩa là sinh sống lương
thiện, không vì mạng sống mà sống bằng những phương tiện thiếu lương tâm, thiếu
đạo lý như xem bói, đoán số, buôn người, bán thánh... gây tổn hại cho mình và
người. Đức Phật dạy: “Chánh mạng hữu lậu thuộc phước báo sanh
y, gồm từ bỏ tà mạng, từ bỏ nuôi sống với tà mạng, sống với chánh mạng. Ngược
lại là tà mạng; cái gì thuộc từ bỏ,
từ đoạn, từ khước tà mạng của bậc thánh thuần thục trong Thánh đạo có vô lậu
tâm gọi là chánh mạng vô lậu” [9, tr. 210].
Chánh tinh tấn:
Là sự cố gắng chân chánh, sự chuyên cần không thối chuyển để thực hành những
thiện pháp. Tinh tấn nỗ lực đoạn trừ tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà
mạng, tà niệm, tà định để thực hành chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh niệm và chánh định; gọi là chánh tinh tấn. Chánh tinh
tấn cũng có hữu lậu và vô lậu.
“Trên đường đạo không gì bằng tinh
tấn
Không gì bằng trí tuệ của đời ta
Sống điêu linh trong kiếp sống Ta
Bà
Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.”
Chánh niệm: Là
nhớ tưởng chân chánh, không nhớ nghĩ điều bất thiện, không để cho các pháp bất
thiện dẫn dắt, nghĩa là dùng các niệm tưởng đoạn trừ tà kiến, tà ngữ, tà mạng,
tà nghiệp, đạt được sự an trú vào chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp. Chánh niệm cũng có hai loại: Hữu lậu và vô lậu.
“Nỗ lực, giữ chánh niệm
Tịnh hạnh hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp
Ai sống không phóng dật
Tiếng lành ngày tăng trưởng.”
(PC-24)
Chánh định: Là sự tập trung chân chánh, tâm thức không bị
rối loạn, dao động mà luôn luôn tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất để
quán sát đối tượng ấy, làm cho tâm thức an tịnh và phát triển trí tuệ.
“Người hằng tu thiền định
Thường kiên trì tinh tấn
Bậc trí hưởng Niết-bàn
Tức an tịnh vô thượng.”
(PC-23)
Chánh định
là phải có cận duyên và tư trợ. “Thế nào
là Thánh chánh định với các cận duyên và tư trợ? Chính là chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các
Tỳ-kheo, phàm có nhất tâm nào được tư trợ với bảy chi phần này, như vậy, gọi là
Thánh chánh định cùng với các cận duyên và tư trợ” [9, tr. 205].
Tam tạng Thánh điển của đạo Phật là một lộ trình giải thoát
khổ đau. Lộ trình ấy được khái quát thành 37 phẩm trợ đạo. Kinh Đại Bát Niết
Bàn, đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, đây
là những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực
chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để Chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc
cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ
như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần và Bát thánh đạo”. Trong 37
phẩm trợ đạo thì Bát thánh đạo được xem là căn bản nhất của con đường giải
thoát khổ đau. Trong Bát thánh đạo, chánh kiến được xem là khởi đầu cho lộ
trình giải thoát sanh tử luân hồi và đạt được an vui hạnh phúc. Phật dạy: “Do có chánh kiến, chánh tư duy
khởi lên; do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi lên; do có chánh ngữ, chánh nghiệp
khởi lên; do có chánh nghiệp, chánh mạng khởi lên; do có chánh mạng, chánh tinh
tấn khởi lên; do có chánh tinh tấn, chánh niệm khởi lên; do có chánh niệm,
chánh định khởi lên; do có chánh định, chánh trí khởi lên. Như vậy, này các Tỳ-kheo,
đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có
mười chi phần” [9, tr. 211].
Bát thánh đạo cũng có thể trình bày dưới hình thức Tam vô
lậu học, giáo lý cốt tuỷ của đạo Phật, nói đến đạo Phật là nói đến
Giới-Đinh-Tuệ. Chỉ có Giới-Định-Tuệ mới có khả năng đoạn trừ phiền não khổ đau,
giải thoát sinh tử, chứng đạt Niết-bàn. Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về Tuệ;
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới; chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định thuộc về Định. Đó là sự thống nhất xuyên suốt của Chánh pháp. Giáo
lý Phật-đà trước sau như một, không có trái nghịch nhau. Đức Phật dạy: “Này Pahàràda, biển lớn chỉ có một vị là vị
mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này cũng chỉ có một vị là vị giải
thoát” [5, tr. 563] hoặc Luật tạng, Đại Phẩm (Mahavagga) có viết rằng: “Này các Tỳ-kheo, Chánh pháp toàn thiện ở
phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, trong cả ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố
về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh”.
Chúng ta thực hành Bát thánh đạo là chúng ta đang đi trên
con đường Trung đạo, thực hành Trung đạo nghĩa là đang thể hiện lối sống lành
mạnh an vui, tránh xa hai cực đoan: Tham đắm dục lạc thấp kém và tu hành khổ
hạnh. Lối sống ấy không dành riêng cho một tầng lớp nào hay một thành phần nào;
dù là Phật tử hay không là Phật tử nếu thực hành Pháp này, đi trên lộ trình này
đều có an lạc giải thoát. Giáo sư sử học Dhys Davids phát biểu: “Là Phật tử hay không Phật tử, tôi đã quan
sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra rằng không
một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt
của Bát thánh đạo và Tứ Diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng
cuộc đời tôi theo con đường đó” [26, tr. 51]. Và Giám Mục Milman nói rằng: “Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca
Mâu Ni gần gũi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài; Ngài là đường lối,
là chân lý, là lẽ sống” [26, tr. 43].
Một câu hỏi được đặt ra: Thực trạng cuộc sống ngày nay như
thế nào? Chúng ta có thể cảm nhận sự khổ đau, sự bế tắc của con người hiện hữu
trong bài thơ của Ôn Như Hầu:
“Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán
Chết đuối người trên cạn mà chơi
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang
thương”.
Cuộc sống
nội tại của con người thì khổ đau, lo lắng, bất an luôn luôn hiện hữu trong ý
thức của mình. Khổ vì sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, ưu não, oán gặp nhau, ái
biệt ly, cầu không được và khổ đau vì loài người đang tự huỷ diệt chính mình “Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán, chết đuối
người trên cạn mà chơi”. Nhà thơ ngán ngẫm sự đời, ngán với sự tinh nghịch
của“Trẻ tạo hoá”; con người không
những chết đuối ở biển khơi mà còn chết đuối ngay trên cạn, là môi trường sống
của con người. Phải chăng sự đời bị nung nấu bởi lò lửa tham lam, sân hận đến nỗi
hình ảnh đám mây “vân cẩu” cũng vẽ
lên một bức tranh tang thương của con người. Đó là chân lý về khổ trong Tứ diệu
đế, “Đây là Thánh đế về khổ, này các Tỳ-kheo,
sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi ưu não là khổ, oán
gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn
là khổ” [20, tr. 184].
Những vấn
đề này, nguyên nhân do đâu? Do vì không hiểu rõ bản chất duyên sinh, vô ngã của
vạn vật nên tham ái, chấp thủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Ta và của Ta.
Chính vì chấp thủ như vậy mà con người tự gây khổ đau cho chính mình, chứ không
có thượng đế hay thần linh nào ở thế giới bên ngoài gây cho con người đau khổ.
Đây là chân lý về Tập đế trong Tứ diệu đế, “Đây
là Thánh đế về khổ tập, này các Tỳ-kheo, chính là ái này, đưa đến tái sanh, câu
hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, vô
hữu ái” [20, tr. 184].
Sự an lạc,
giải thoát khổ đau ở đâu? Ở nơi mà nguyên nhân gây ra khổ đau được đoạn diệt (Ái diệt tức Niết bàn). Nguyên nhân khổ
đau là do tham ái, chấp thủ thì đoạn tận tham ái chấp thủ tức có an lạc, giải thoát
ngay trong cuộc đời, trong chính bản thân mình, chứ không ở một phương trời nào
khác. Đây là chơn lý về Khổ diệt trong Tứ diệu đế, “Đây là Thánh đế về khổ diệt, này các Tỳ-kheo, chính là sự đoạn diệt,
ly tham không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có
chấp trước” [20, tr. 184].
Đạo đế là
con đường Trung đạo, giúp con người chuyển hoá căn nguyên cội nguồn gây ra khổ
đau cho chính mình là tham ái và chấp thủ; chuyển hoá tâm tham lam, sân hận và
si mê, khởi nguyên của sự hiện hữu một chúng sanh, là nguyên nhân gây ra không
biết bao cuộc đẫm máu trên trần thế này thành sự hiểu biết chân chánh về cuộc
đời, về Giới-Đinh-Tuệ. Con người bị vô minh hay nói rõ hơn là tham ái, chấp thủ
về “Ta” và “cái của Ta” thống trị trong từng tâm niệm nên không hiểu được việc
làm nào là thiện, việc làm nào là bất thiện; không hiểu được giáo lý Nhân quả, Nghiệp
báo, Duyên khởi, Tứ đế… nên có những hành động điên rồ tự làm khổ cho mình và
người. Đây là con đường đoạn diệt khổ đau,
“Đây là Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt, này các Tỳ-kheo, chính là con
đường Thánh đạo tám ngành. Tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định” [20,
tr. 185].
Từ xưa cho đến nay, con người vẫn đã và đang
giết đồng loại của mình chỉ vì bất đồng tư tưởng, bất đồng chính kiến, bất đồng
tôn giáo…Điều này được thể hiện rõ qua sự căng thẳng giữa các nước khác tôn
giáo với nhau; giữa những nhà cầm quyền độc tài với những người khát khao tự do
hạnh phúc. Có những người tự cho rằng tư tưởng, chính kiến, tôn giáo của mình
đang theo là chân lý, còn của người khác là tà kiến, điều đó cần phải được xem
xét lại. Vì tôn giáo hiện nay cần phải thuyết minh bằng khoa học và không thành
kiến. Đức Phật dạy hàng Phật tử nhìn nhận giáo lý của Ngài như sau: “Này chư Tỳ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc
bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư
Tỳ-kheo, các Ông cần phải hiểu ví dụ cái bè…Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống hồ
nữa là phi pháp” [7, tr. 307]. Vua Asoka là một Phật tử thuần thành của
Phật giáo, đã thấm nhuần tư tưởng từ bi, khoan dung đối với mọi tôn giáo và có
nhiều lời phát biểu bất hủ mà cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị: “Ta không nên chỉ tôn vinh tôn giáo riêng
của mình và chỉ trích các tôn giáo khác. Ta nên kính trọng tôn giáo của người
khác vì lý do này hay lý do nọ. Làm như vậy, ta đã giúp đỡ tôn giáo của chính
mình phát triển và cũng là giúp ích tôn giáo khác. Hành động ngược lại, ta đã
đào huyệt cho tôn giáo của chính mình và cũng làm hại cho tôn giáo khác” [26,
tr. 87]. Với những căn bệnh Vô minh của chúng sanh mới nhầm lẫn giữa chiếc bè
với bờ, phương tiện với cứu cánh. Nguyệt San số 5 báo Liên Hoa, trong bài Bệnh
Cuồng Tín của Tịnh Như viết rằng: “Chân
lý là chân lý không phải của riêng ai. Tại sao muốn qua sông, ta phải ép buộc
người khác dùng thuyền, trong lúc đó, còn có bao nhiêu phương tiện khác. Ta
nhân danh gì, thượng đế, giáo hội hay đức Phật mà phá hoại mọi phương tiện
chuyên chở của đồng loại cùng hướng đến chân lý để chỉ độc quyền có mỗi một
phương tiện của riêng ta. Xã hội tự do và văn minh đâu phải là một thị trường
để tiêu thụ tín ngưỡng như tiêu thụ một món hàng”. Chính vì loài người không
có chánh kiến về thế giới, về con người là vô thường, vô ngã, duyên sinh nên
chấp thủ dẫn đến khổ đau, “Này các Tỳ
kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn pháp mà ta và các ngươi lâu
đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỳ kheo, chính vì
không giác ngộ, không chứng đạt thánh giới...không chứng đạt thánh định...không
chứng đạt thánh tuệ...không chứng đạt thánh giải thoát mà ta và các ngươi phải
trôi lăn trong biển sanh tử” [1, tr. 615].
Chánh kiến, chánh tư duy....chánh định hay
Giới-Định-Tuệ là suối nguồn của an lạc giải thoát, là bến bờ của đời sống cao
đẹp Chân-Thiện-Mỹ. Chúng ta hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh và hành
động chân chánh thì thế giới này sẽ được thanh bình biết bao! Nói đúng hơn, Bát
thánh đạo là con đường thực hành giới hạnh, luân lý đạo đức tự thân của mỗi
người. Một người có chánh kiến, chánh tư duy thì sẽ hành trì giới luật: Không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối (chánh ngữ, chánh nghiệp và
chánh mạng) đưa đến đời sống có giới hạnh, “Này
Bà-la-môn, Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh. Giới hạnh được trí tuệ làm
cho thanh tịnh. Ở đâu có giới luật ở đó có trí tuệ. Ở đâu có trí tuệ ở đó có
giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ. Người có trí tuệ nhất định
có giới hạnh. Trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời” [1, tr. 222].
Người Phật tử thực hành Bát thánh đạo tức là đang đi trên
lộ trình Giới-Định-Tuệ. Người có Giới (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng),
tức có Định và Tuệ. Người có Định (chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định), tức
có Giới và Tuệ. Người có Tuệ (chánh kiến, chánh tư duy), tức có Giới và Định.
Chính vì vậy, người tu tập Giới-Định-Tuệ chắc chắn sẽ giải thoát sanh tử, chứng
đạt Niết-bàn,“Đây là Giới, đây là Định,
đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng
tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến
giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu” [1,
tr. 570].
Như vậy, Bát thánh đạo là lộ trình
đưa đến Thánh hạnh gồm tám chi phần, con người muốn có đời sống thánh thiện,
giải thoát phiền não thì phải đi trên con đường chân chánh này, chứ Bát thánh
đạo không phải là một học thuyết mang tính giáo điều, ân sủng cần phải được tôn
thờ. Người nào có thực hành Bát thánh đạo tức người đó có lợi ích, xã hội nào
thực hành Bát thánh đạo tức xã hội đó được bình an. Hiện nay, Bát thánh đạo là
phương pháp hữu hiệu nhất để giải quyết những vấn đề khó khăn mà con người đang
đối diện. Một xã hội thấy được thiện, ác; thấy được nhân quả nghiệp báo, con
người trong xã hội ấy cùng nhau chỉ giữ năm giới của Phật giáo được trọn vẹn
thì đã trở thành thiên đường hiện thực trên trần gian này. Chúng ta có thể
khẳng định rằng: Bát thánh đạo không phá vỡ bất cứ một phong tục tập quán, văn
hoá, tôn giáo nào của nhân loại mà Bát thánh đạo chỉ là phương pháp thực hành
giúp con người gần gũi, hiểu biết và tôn trọng nhau mà thôi. Mọi người hãy cùng
nhau tháo bỏ những nhãn hiệu vô ích đã gắn vào thân thể, ăn sâu vào tâm thức
của mỗi người, để cùng thực hành những lời Thánh nhân, không chỉ đức Phật mà
tất cả những lời dạy hữu ích cho an sinh xã hội. Từ đó, con người cảm thông và
thương yêu nhau hơn trong đời sống gia đình; giữa các quốc gia, tôn giáo, đảng
phái có tiếng nói chung cho nền hoà bình của thế giới.