Cảm nhận được một chút cái
ngẳng đời của anh, tôi vặn tréo lại để thấy anh như còn sống mãi, dẫu
cho hình hài đã trở về với cát bụi.
Ngày xửa ngày xưa,
Khuất Nguyên gõ mạn thuyền mà hát nói chuyện đục-trong; lại nay, còn mới
toanh, Trịnh Công Sơn đã dùng chiếc đũa tre Việt Nam mà gõ thành thơ:
“Em đi bỏ lại con đường
Bỏ xa cỏ dại vô thường nhớ em”
Nhà báo đã từng hỏi Trịnh Công Sơn rằng: “Quê hương xứ Huế và Đạo Phật
ảnh hưởng thế nào đối với sáng tác của nhạc sĩ?...” Và anh đã trả lời
chắc nịch như đinh đóng cột đình, thật là: Huế và Đạo Phật ảnh hưởng sâu
đậm trên tình cảm thơ ấu của tôi...”.
Chỉ ngần ấy thôi mà
khiến tôi phải mất công đi tìm, đi hỏi loanh quanh mặc dầu không khỏi
bị người ta vặn vẹo. Được rồi! Thì ra, tuyệt quá: trọn gói cả gia đình
anh, gồm cha mẹ và 8 anh chị em, tổng cộng 10 người, đều đã Qui y Tam
Bảo từ năm Ất Mùi (1955) tại chùa Phổ Quang, Huế, nơi mà năm 1925, Ông
Già Bến Ngự đã từng ở trọ, người Huế quen gọi là “ở đậu”...
Xưa, cụ Phan Bội Châu ở đậu 3 tháng tại chùa này, còn năm 1955 cho đến
năm 1958, Trịnh Công Sơn thường đi chùa Huế, lên chùa Phổ Quang với mẹ
cùng các em trai và gái thân thương của mình.
Tôi vốn
không có năng khiếu về nhạc và thơ, nhưng lại thích văn. Gần đây, đọc
bài Văn Tự của Trịnh Công Sơn, tôi khoái nhất câu mà anh đã viết:
“Những con đường ấy làm nên một thứ văn tự hay nói nôm na hơn là một thứ chữ viết báo hiệu sự có mặt của đời sống con người”.
Vâng, anh và gia đình anh đã lắm lần có mặt ở các chùa Huế như Vạn
Phước, Từ Đàm, Linh Mụ, Thuyền Tôn... nhất là chùa Phổ Quang. Và đặc
biệt như ký thác, gia đình anh đã để lại ấn tích sâu lắng, linh thiêng
trên tập “Phổ Hệ” (ghi lại những tên họ và quê quán của các phật tử đã
Qui y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) ở chùa ruột này. Gốc gác của thuật ngữ
“Qui y” được lấy từ tiếng Phạn là “Na mô”, nghĩa là quay về mà nương
dựa.
Nay thì đích thực hương linh anh mới trọ ở chùa Phổ
Quang (không phải chùa Hiếu Quang đâu!). Anh Sơn ơi! Sau lễ truy điệu
anh do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức vào đầu
tháng 4 năm 2001 thì bát nhang của anh đã được đưa về thờ (ký tự) tại
bàn thờ linh (thờ các tín đồ Phật giáo, đệ tử của nhà chùa). Ơ đây, anh
đã thực sự “hội ngộ”, được thờ chung tại bàn linh đã tôn trí thờ hương
linh thân phụ và cố mẫu của anh và các phật tử khác.
Bản
thân tôi rất lấy làm vinh dự và may mắn được Thượng toạ Thích Huệ Ấn,
Trú trì chùa đọc và dịch ra Việt ngữ Phổ Hệ bằng chữ Hán của nhà chùa đã
ghi lại từ năm Ất Mùi (1955).
Văn tự này thật là thật, tôi vừa bùi ngùi vừa hồi hộp lắng nghe và biên chép.
- Cha: ông Trịnh Xuân Thanh, pháp danh: Nguyên Bình.
- Mẹ: bà Lê Thị Quỳnh, pháp danh: Nguyên Hoa.
Quê nội: làng Minh Hương, tổng Vĩnh Trị, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Anh là con trưởng của gia đình nên được ghi tên trước, rồi lần lượt đến 7 người còn lại:
Trịnh Công Sơn, Pháp danh: Nguyên Thọ.
Các em:
Trịnh Quang Hà, Pháp danh : Nguyên Sa
Trịnh Xuân Tịnh, Pháp danh : Nguyên Đạm
Trịnh Thị Hoàng Diệu, Pháp danh : Nguyên Cát
Trịnh Thị Vĩnh Thuý, Pháp danh : Nguyên Thâm
Trịnh Thị Vĩnh Tâm, Pháp danh : Nguyên Ngộ
Trịnh Thị Vĩnh Ngân, Pháp danh: : Nguyên Thuy
Trịnh Thị Vĩnh Trinh, Pháp danh: : Nguyên Đàm
Chùa Phổ Quang nằm ở đâu? Đi theo lối chỉ đường mà anh đã viết trong
bài “Văn Tự”. Trung thành với văn tự, tôi chỉ rõ đường lên chùa theo ý
bài “CHIỀU TRÊN QUÊ HƯƠNG TÔI” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Đến chợ Bến
Ngự, qua cầu cùng tên, đi lên đường rầy xe lửa, cạnh cổng chắn có cắm
bảng ghi rõ tên chùa, rẽ vào hẻm số 29 đường Phan Bội Châu (trước kia là
đường Nguyễn Hoàng) chừng gần 70 - 80 mét là thấu cổng chùa.
Thời anh mới nổi danh, tôi biết khá rõ về anh và luôn luôn tỏ lòng quý
mến, cảm phục. Anh học trường Sư phạm Quy Nhơn khoá I (1962 - 1964) để
theo nghiệp gõ đầu trẻ. Điều kiện để nạp đơn dự thi vào trường là ít
nhất phải có bằng Tú tài phần thứ nhất. Cùng khoá với anh có Nguyễn
Thanh Hải chơi đàn guy-ta điện vào hạng cừ phách và rồi cũng trở thành
nhạc sĩ. Sau năm 1965, dân học Sư phạm Quy Nhơn rất tự hào về hai nhạc
sĩ tài hoa này.
Vào một buổi tối mùa hè năm 1967, vì lòng
ngưỡng mộ anh, sau khi xem triển lãm tranh vẽ của họa sĩ Lê Văn Tài (nay
ở Úc), Người làng Tri Bưu, xã Hải Trí, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Vì tình cảm đồng hương mặn mà, họa sĩ Tài rủ tôi đi nghe công diễn nhạc
Trịnh Công Sơn, có ca sĩ Khánh Ly hát. Tôi đi bộ cùng với Tài và một
người bạn nữa từ phòng tranh (nguyên là Nha Thông tin Trung Việt) lên
Giảng đường Viện Đại học Huế, số 3 Lê Lợi để xem và nghe trình diễn âm
nhạc (récital).
Tôi kể đúng, nhớ đúng, chớ không phải thấy anh sang lại bắt quàng làm họ đâu.
Ấn tượng mà tôi còn nhớ mãi về anh là nét trầm tư thể hiện trên vầng
trán của anh hiện lộ tính cách philo (xin hiểu theo nghĩa thật và dễ
thương, dễ cảm)
Nay, các Thượng toạ đã một thời có điều
kiện gần gũi anh như các thầy Thích Huệ Ấn (tuổi Quý Mùi, thua anh 5
tuổi), thầy Thích Phước Toàn ở chùa Vạn Phước, quận 11 thành phố Hồ Chí
Minh, thầy Thích Chơn Nguyên, phụ trách phát hành kinh sách ở Viện
Nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh đều khẳng định anh là con người có đời sống
tâm linh phong phú, ăn nói có duyên và đượm đà tình cảm.
Thuở ấy, trong những năm 1955 - 1958, anh hay lên chùa Phổ Quang thăm
Hoà thượng bổn sư, quý thầy và chúng điệu. Bổn sư là Hoà thượng Thích
Chánh Pháp, Trưởng tử của Hoà thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng
thống tịch năm 1973 tại Huế.
Do thích tìm hiểu nghĩa lý
kinh sách chữ Hán, lúc có nhiều thì giờ rảnh rỗi, anh đã xin quý Thầy
dịch ra Việt ngữ và phân tích ý nghĩa các bài kệ, bài sám, các phẩm kinh
như kinh Phổ Môn của bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Anh thích văn của nhà
văn Phật tử Võ Đình Cường qua tác phẩm Ánh đạo vàng, thích nghe và hát
bài Sen trắng, dùng khẩu cầm để dạo thử bài Phật giáo Việt Nam của nhạc
sĩ Phật tử Lê Cao Phan. Khoái nhất đối với anh là thổi khúc dạo đầu Trầm
Hương Đốt của nhạc sĩ Bửu Bác làm cho các chúng điệu cười khúc khích.
Anh đã để lại trong ký ức của quý Thầy những hình ảnh hồn nhiên và mến
đạo của một thư sinh (tuổi 16,17,18). Mẹ anh, một Phật tử thuần thành,
đã phát tâm đi cúng dường các chùa Huế trong dịp các lễ hội quanh năm.
Bà đã cúng dường cho Thầy Bổn sư một chiếc xe đạp đầm mà khung xe bằng
dura (hợp kim nhôm) hiệu MERCIER của Pháp. Thời ấy xe này có giá, vừa
quý lại vừa sang.
Người nào phát nguyện tín ngưỡng đạo Phật xin
thọ phép Tam quy trước Tam Bảo mới được gọi là tín đồ đạo Phật. Bác sĩ
Lê Đình Thám (1897 - 1969), nhà nghiên cứu Phật học, nguyên Hội trưởng
Hội An Nam Phật học, đã nói và viết giống nhau về ý nghĩa của việc qui y
một cách bình dị và dễ hiểu.
Pháp danh là “tên” của người
đã qui y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Pháp danh của các người trong gia
đình anh đều bắt đầu bằng chữ “Nguyên”, lấy từ chữ Nguyên trong bài kệ
của Tổ Liễu Quán, khai sơn chùa Thiên Thai, nay là chùa Thuyền Tôn Huế,
nơi đây bà con bên ngoại anh đã qui y.
Bốn câu đầu bài kệ bằng chữ Hán như sau:
Thiệt Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Chữ thứ hai của Pháp danh có thể lấy nghĩa lý từ tên của người xin qui
y. Anh tên Sơn cho nên Thầy cho Pháp danh: Nguyên Thọ. Người phương Đông
đặt tên cho con cháu thường hay chọn lựa bằng cách dùng tích, dùng
điển. Người trí tuệ thì thích cảnh núi non hùng vĩ và những cầu mong:
Phúc Như Đông Hải
Thọ Tỷ Nam Sơn
Bổn sư của anh đã cầu nguyện cho anh sau này sớm thoát áo thư sinh nên
danh nên phận. Cũng theo phép đặt pháp danh khác, tên cụ thân sinh của
anh là Thanh thì được bổn sư cho pháp danh: Nguyên Bình, bà thân mẫu tên
Quỳnh thì có pháp danh là Nguyên Hoa.
Anh Sơn ơi, còn
những gì tôi được biết về anh tôi sẽ ghi lại sau, mặc dầu anh với tôi
chưa hề quen nhau và trong đời tôi chưa hề một lần được vinh dự bắt tay
anh.
Một nén hương lòng, xin gởi lạy hương linh anh, nhớ lời anh đã viết:
Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi.
Nôm na ghi lại chuyện người, còn thiên khảo luận xin chờ nay mai.
Huế, ngày 10 tháng 6 năm 2001
LÊ QUANG THÁI
Nguồn: TCSH số 149 - 07 – 2001
LỜI THẦM ƯỚC TRƯỚC LĂNG NGUYỄN HOÀNG
Lê Quang Thái
Học sinh Nguyễn Hoàng 1954 - 1959
Dân
gian quen gọi lăng Trường Cơ là lăng tẩm chúa Tiên hoặc lăng Thái tổ
Nguyễn Hoàng, tọa lạc trên khoảnh đất rộng mênh mông ở sơn phần thôn La
Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà ngày nay, về phía Tây Nam Cố đô Huế
khoảng non 15km. Nếu tham quan lăng Ngài bằng đường thuỷ thì dùng thuyền
đi ngược giòng sông Hương đến cầu Tuần rồi tiến thẳng lên phía thượng
nguồn hơn 3km thì 4 trụ biểu cao của ngôi chùa Từ Hàn tĩnh mặc hiện rõ,
quay mặt về bờ nam sông Cái còn gọi là sông Thơm. Từ đó đi bộ lên bờ Bắc
khoảng 200m là đến khu vực lăng Trường Cơ, chênh chếch hướng phía cửa
lăng là trường Trung học cơ sở Hương Thọ. Tiền thân của lăng này là miếu
Nguyên Lập mà Nguyễn Khoa Chiêm (1659 - 1736) đã viết trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.
Lúc sinh tiền, tướng mạo của chúa Tiên oai phong như trong sách Nguyễn Phúc Tộc thế phả, xuất bản năm 1995 đã ghi lại: “Ngài
có tướng vai lân, lưng hổ, mắt phượng, trán rộng, thần thái khôi ngô,
thông minh tài trí, người thức giả biết là bậc phi thường”.
Nguyễn
Hoàng sinh ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu (28-8-1525) tại Gia Miêu ngoại
trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoá. Ngài ở ngôi vị chúa
Tiên đến 56 năm, kể từ năm Mậu Ngọ, 1558 cho đến lúc băng hà ngày 3
tháng 6 năm Quý Sửu (20-7-1613) tại Vương phủ Dinh Cát cạnh làng Ái Tử,
tổng An Đôn, huyện Võ Xương*, phủ Triệu Phong, thời bấy giờ chưa có địa danh Quảng Trị.
Trước khi vĩnh biệt cõi trần, trí tuệ Ngài còn rất minh mẫn, Ngài ân cần căn dặn:
“Đất Thuận - Quảng, Bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, Nam có núi
Hải Vân và núi Thạch Bi bền vững. Núi sẵn vàng, sắt; biển sẵn có cá,
muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng...”.
Dặn
dò xong thì Ngài băng hà, thọ 89 tuổi. Lễ ninh lăng vào thời quốc sơ ở
tại núi Thạch Hãn, thuộc sơn phần của làng cùng tên gọi, huyện Võ Xương.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên truy tôn Ngài lên tước Vương.
Theo Đại Nam nhất thống chí,
tập Kinh Sư thì quần thể các lăng vua chúa đều được gọi chung bằng
thuật ngữ Sơn Lăng. Vào ngày Giáp Thân, tháng 6 năm Bính Dần (1806),
Ngài được truy tôn lần thứ ba từ tước Thái Vương lên Hoàng đế: Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ Hoàng Đế; miếu hiệu Thái Tổ. Vì vậy, người đời đã kết hợp miếu hiệu và tôn hiệu để gọi tên Ngài bằng 6 từ: Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế.
Sách Việt Sử diễn nghĩa tứ tự ca
bằng chữ Nôm của các tác giả Hồng Thiết, Hồng Nhung soạn, về sau được
khắc bản in năm 1921, đã diễn xướng cho mọi người hiểu rõ cốt lõi của
Việt sử, có đoạn nói đến “Con người phi thường” - danh nhân Nguyễn Hoàng
như sau:
“Thái Tổ thấy chỉ
Lãnh thuyền kéo vô
Đến nơi Quảng Trị
Gây dựng cơ đồ”.
Đất Ái Tử là làng cổ thuộc huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong (tên gọi Quảng Trị có từ năm Tân Dậu, 1801)
là bệ phóng cho quân dân nước Đại Việt mở đường Nam tiến từ núi Thạch
Bi cho đến đất Mũi Cà Mâu - Hà Tiên trong vòng 200 năm trở lại như lời
vang vọng của nguồn sử thi:
“Sực nhớ câu “Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân” chừng cũng phải
Tiên Vương khai thác vào miền Nam
Đánh đông, dẹp bắc nhiều thế đại”
(Hương Giang hành, 1941)
Thái
Tổ Gia Dụ Hoàng Đế còn được dân gian truyền tụng và ca ngợi công đức
lớn lao như vị đại khai canh, đại khai khẩn cho các làng xã hai trấn
Thuận - Quảng và xứ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn kế tục trị vì.
Từ trước đến nay, những sử sách chính thống hoặc Luận văn Tiến sĩ viết
về xứ Đàng Trong ở nước ngoài, thậm chí cho đến các địa phương chí viết
về từng vùng đất thuộc Nam Trung bộ và Nam bộ đều tỏ rõ quan điểm đánh
giá cao công nghiệp của các chúa Nguyễn và các vua đầu đời nhà Nguyễn,
thời nước ta có quốc hiệu Đại Nam. Tiêu biểu như tác phẩm Xứ Đàng Trong của bà Li Tana, nguyên là Luận văn Tiến sĩ về Lịch sử xứ Đàng Trong tại Đại học Quốc gia Úc ở Canberra năm 1992:
“...
Đưa ra một giải thích hoàn toàn mới về vương quốc phía Nam lấy Huế làm
trung tâm, công trình của Li Tana đã cung cấp cho chúng ta một bức họa
về một nước Việt Nam mang tính cách Đông Nam Á hơn, thương mại hơn không
như chúng ta thường hiểu khi nhìn vào hình ảnh phía Bắc”.
(Giáo sư Anthony Reid, Đông Nam Á Thời Mãi Dịch)
Theo
điển lễ, trong tế lễ Nam Giao, Long vị của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế được
phối thờ là rất phải lẽ, đúng với nội dung các nhóm từ đúc
“Chính Đại Quang Minh” hoặc “Cư Nhân Do Nghĩa”. Lễ Hội Nam Giao qua các
lần tổ chức Festival Huế đã làm sống lại một cách sinh động phần nào
tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc.
Năm
nay, năm Mậu Tý khai mở một kỷ nguyên tốt lành, đọc các báo Tết năm
2008, mọi người đều cảm thấy vui mừng. Không mừng sao được khi thấy văn
hóa dân tộc, văn hóa tâm linh được bật sáng theo cùng với hương hoa,
khói trầm nghi ngút đón lễ giao thừa, nghinh xuân tiếp phúc. Nền phúc ấm
đã được tổ tiên từ bao đời ban tặng cho con cháu luôn được un đúc và
hiển vinh.
Bản
thân tôi và khá nhiều thân hữu đã rất đồng tình với nhận định chân thực
và giàu tâm huyết của nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Duy trong bài Quê nhà yêu dấu, đăng trên báo Văn Nghệ số 5-6-7 (2008) của Hội Nhà văn Việt Nam, tr.24-25:
“...Phục
hồi nhân tâm là việc quan trọng nhất. Những gì thất nhân tâm thì thành
tâm sửa lại. Có công tâm với lịch sử mới thực thi được công bằng xã hội.
Thu
phục nhân tâm ư? Đoàn kết dân tộc ư? Thì hãy chọn những gì tốt đẹp của
cha ông mà tôn vinh, mà truyền bá. Đối xử tử tế với tổ tiên là phẩm chất
tối thiểu của đạo lý”...
Hôm
nay, trước ngày giỗ thứ 395 của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế, một trong
những vị đại khai canh, đại khai khẩn của xứ Đàng Trong thuộc nước Đại
Việt ngày xưa, chúng tôi là những con dân đời sau, những học trò của
trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường được vinh dự mang tên và hồn
thiêng của một Danh nhân lịch sử phi thường kể từ năm học 1954 - 1955
(trước có tên Trung học Quảng Trị) thành kính đốt nén hương lòng, dâng
bó hoa sen quỳ lạy 9 lạy trước lăng Trường Cơ với cảnh trí thiên nhiên
hùng vĩ, thoáng đạt, tươi đẹp như sách Ô Châu cận lục đã từng ghi:
“Núi Mông Lĩnh uốn gập lưng ong; suối La Khê chẽ ngang đuôi yến”.
Chúng
tôi còn nhớ mãi bài thơ tứ tuyệt của người xưa mà thầy giáo khả kính Lê
Đình Ngân đã dẫn sử liệu và phân tích cho chúng tôi hiểu khi thầy nói
về những ngày đầu tiên chúa Nguyễn Hoàng đóng đại bản doanh trên đất Ái
Tử, huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa:
TIÊN KẾT NHÂN TÂM THUẬN,
HẬU THI ĐỨC HÓA CHIÊU.
CHI DIỆP KHAM TỒI LẠC,
CĂN BẢN DÃ NAN DAO.
Tạm dịch:
“Trước tiên lòng người thuận,
Lấy đức hóa cõi đời.
Cành nhánh dẫu rơi rụng,
Cội gốc khó chuyển lay”.
Thời ấy, học
trò Nguyễn Hoàng là dân tứ xứ; Bắc có, Nam có, Huế có, chứ không phải
chỉ cục bộ địa phương dành cho người Ô Châu - Quảng Trị. Học trò có ngôn
ngữ của học trò, chúng tôi thường gọi những ai học trường Trung học công lập Nguyễn Hoàng là “dân Nguyễn Hoàng” trong ý nghĩa ngây thơ, trong trắng, hồn nhiên, không có gì mang sắc màu phân biệt. Ôi đẹp sao thời cắp sách làm “dân Nguyễn Hoàng”!.
Trước
khi rời lăng Trường Cơ, chúng tôi kính cẩn lạy 3 lạy, rồi thầm đọc bài
thơ chữ Hán trên đây trước anh linh của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế mà lòng
không khỏi bùi ngùi về cái tên trường cũ vô vàn thân thương nay không
còn nữa.
La Khê, ngày 30-6-2008
L.Q.T.