CHƯƠNG
HAI
NỘI DUNG
NHỮNG PHÁP DỤ KHẮC TRÊN ĐÁ
CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA MAURYA.
Hiện
nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn
được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2
bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới
hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon
thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam")
và 2). Giới tăng già, của Hoà thượng S. Dhammika thuộc Buddhist
Publication Society, Sri Lanka, ấn hành năm 1993 (Viết tắt "Bản
Dhammika"). Quí độc giả có thể vào trang
http://www.accesstoinsight.org
để xem bản Dhammika. Tuy vậy, trong khi đối chiếu để làm rõ nghĩa hơn giữa
2 bản này chúng tôi nhận thấy rằng ngoài những khác biệt về văn phong, ở
vài đoạn các dịch giả nói trên đã có lối diễn dịch khác hẳn nhau. Vì thế
chúng tôi đã cân nhắc chọn lối dịch nào gần với tinh thần nội dung của
Pháp dụ để chuyển ra Việt ngữ, và dùng những từ ngữ hợp với đương thời
hơn. Ngoài ra ngay dưới mỗi Pháp dụ, chúng tôi thêm phần ghi chú và nhận
xét riêng (NXR) để giải thích những khác biệt, thay vì để ở cuối bài không
được tiện dụng. Dù vậy vẫn không thể tránh được những sơ sót. Mong được
quí vị cao minh chỉ giáo. Mong bài viết này đóng góp phần nào vào tài liệu
Sử Phật Giáo. Đa tạ.
A. Mười Bốn Đại Thạch Pháp
Dụ.
A.1: ĐTPD I.
Thiên tử, Vua Piyadasi, ban
lệnh cho ghi pháp dụ này [1]. Trong lãnh thổ do trẫm cai trị không sinh
linh nào được sát hại hoặc tế sống và không tịệc tùng liên hoan nào được
tổ chức, bởi Thiên tử, Vua Piyadasi thấy nhiều điều xấu ác trong những
cuộc tụ họp liên hoan ấy. Nhưng Thiên tử, Vua Piyadasi vẫn chuẩn y cho một
vài cuộc liên hoan khác.
Trước đây, trong ngự trù (nhà
bếp) hậu cung của trẫm đã có hằng trăm ngàn sinh thú bị giết hằng ngày để
làm thức ăn. Nhưng với Pháp dụ này kể từ nay chỉ có ba loại sinh thú được
phép hạ thịt mà thôi, là hai con công và một con nai, nhưng thỉnh thoảng
mới làm thịt nai. Và rồi nay mai cả ba thú này cũng sẽ khỏi bị giết.
Chữ Prakrit được chép
lại từ ĐTPD 1.
Ghi chú:
1. Bia ký Girnar,
ban vào năm 257 TTL. Bản Nikam còn viết là vua Priyadarsi. Trong các Pháp
dụ, Đại đế Asoka luôn tự xưng là Thiên tử, Vua Piyadasi.
A.2: ĐTPD II.
Khắp nơi [2] thuộc lãnh thổ
do Thiên tử, Vua Piyadasi cai trị, và dân cư ngoài biên ải như dân Cholas,
dân Pandyas, dân Satiyaputras, dân Keralaputras, và xa hơn nữa dân
Tamraparni, và ở xứ Yona (Hy-lạp) do vua Antiyoka cai trị, và vua các xứ
lân cận với vua Antiyoka [3]. Thiên tử, Vua Piyadasi ban cho hai loại săn
sóc y tế: cho người và cho thú. Nơi nào không có thảo dược để trị liệu,
trẫm cho du nhập và trồng. Nơi nào không có cũ rể hoặc trái cây làm thuốc,
trẫm cho du nhập và trồng. Dọc các đường trẫm cho đào giếng và trồng cây
để người và thú được hưởng lợi [4].
Ghi chú:
2. Bia ký Girnar,
ban vào năm 257 TTL.
3. Dân Cholas và
Pandyas ở phía nam ngoài đế quốc do vua Asoka cai trị. Dân Satiyaputras và
Keralaputras sống cận duyên vùng tây nam. Tamraparni là tên cổ của Tích
Lan (Sri Lanka). Antiyoka tức là Antiochos II Theos của xứ Syria (261-246
TTL).
4. Asoka thực hành
lời dạy của Đức Phật trong Samyutta Nikaya (Tương Ứng Bộ Kinh), I:33.
A.3: ĐTPD III.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng [5]: Pháp dụ này được ban ra sau mười hai năm trẫm đăng quang - Trẫm
lệnh cho các quan Yuktas, Rajjukas và Pradesikas phải tuần du thanh tra
khắp nơi thuộc lãnh thổ do trẫm cai trị mỗi 5 năm để huấn dụ Chánh pháp
như dưới đây, đồng thời lo các chính sự khác [6].
Biết kính trọng vâng lời cha
mẹ là việc tốt, hào phóng với bạn bè, thân hữu, bà con, các bậc tu hành
[7] là việc tốt, không sát sanh là việc tốt, biết chừng mực trong tiêu pha
và tiết kiệm là việc tốt, tất cả toàn là những điều phước đức.
Triều đình nên báo cho các
quan địa phương phải tuân thủ nghiêm chỉnh những điều huấn dụ này đúng ý
của trẫm.
Ghi chú:
5. Bia ký Girnar,
ban vào năm 257 TTL.
6. Bản Dhammika:
Không có tài liệu nào tồn tại cho biết rõ chức năng của các vị quan này.
Bản Nikam: đó là các quan cai trị huyện (Yuktas), tỉnh (Rajjukas) và kinh
đô (Pradesikas).
7. Bản Nikam:
"priests and ascetics"; Bản Dhammika: "Brahmans and ascetics": "tu-sỉ
(Bà-la-môn) và đạo sĩ khổ hạnh", chỉ cho giới tu hành thời bấy giờ. Đạo-sĩ
khổ hạnh gồm cả các khất sĩ Phật giáo, Ajivika và Kỳ na giáo.
A.4: ĐTPD IV.
Nhiều trăm năm trong quá khứ,
việc sát hại sinh vật, đối xử tệ bạc với bà con, và thiếu tôn kính với các
bậc tu hành đã gia tăng [8]. Nhưng nay do việc thực hành Chánh Pháp của
Thiên tử, Vua Piyadasi, nên diệu âm của Chánh Pháp thay dần cho tiếng
trống [9]. Đã nhiều trăm năm hiện tượïng về những thiên xa, voi lành, sao
băng và những cảnh tượng thần linh đã không xảy ra. Nhưng nay do Thiên tử,
Vua Piyadasi cổ xúy việc khồng chế sát hại sinh thú, đối xử ân cần với bà
con, tôn kính các bậc tu hành, và kính trọng cha mẹ và bậc trưởng thượng,
những cảnh tượng điềm lành ấy lại gia tăng [10].
Những điều này cùng với nhiều
lối khác thực hành Chánh Pháp đã được Thiên tử, Vua Piyadasi khuyến khích,
và ngài sẽ tiếp tục thăng tiến việc thực hành Chánh Pháp. Rồi cũng thế,
các con, cháu và chắc của Thiên tử, Vua Piyadasi sẽ tiếp tục thăng tiến
việc thực hành Chánh Pháp cho đến hết đời; an trú trong Chánh Pháp thì họ
mới giáo huấn dân theo Chánh Pháp được. Thực vậy, giáo huấn theo Chánh
Pháp là công tác cao cả. Tuy vậy kẻ thiếu đạo đức thì không thể thực hành
Chánh Pháp được, bởi việc thực hành và thăng tiến Chánh Pháp là việc đáng
ca tụng.
Pháp dụ này được ghi để những
kẻ kế thừa của trẫm hoan hỉ tận lực mình thăng tiến Chánh Pháp và không để
suy thoái. Thiên tử, Vua Piyadasi đã lệnh cho Pháp dụ này ghi lại mười hai
năm sau khi ngài đăng quang.
Ghi chú:
8. Bia ký Girnar,
ban vào năm 257 TTL.
9. Bản Dhammika:
muốn nói đến tiếng trống đánh lên khi triều đình trừng phạt những kẽ phạm
pháp. Bản Nikam: là tiếng trống trận. [NXR: Ý kiến của Nikam và McKeon có
vẻ đúng hơn.]
10. Bản Dhammika:
Giống như mọi người trong thời cổ đại, Asoka tin rằng dưới sự cai trị của
một minh quân thì nhiều điềm lành xuất hiện. [NXR: Bản dịch của Nikam và
McKeon về đoạn này không sát bằng bản của HT. S. Dhammika.]
A.5: ĐTPD V.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng [11]: Làm điều thịện thực khó. Kẻ nào làm điều thiện là làm được nan
sự. Trẩm đã làm nhiều điều thiện, và nếu các con, các cháu và hậu duệ của
trẩm, cho đến hết đời noi gương trẩm thì sẽ làm được những điều thật tốt.
Nhưng ai trong bọn chúng bỏ bê dù một phần huấn dụ này thì chúng sẽ làm
điều ác. Thưc vậy, làm điều ác thì rất dễ [12].
Trong quá khứ không hề có
Pháp Đại thần (Dhamma Mahamatras), nhưng mười ba năm sau khi trẫm đăng
quang chức vụ này được bổ nhiệm. Từ nay họ được ủy nhiệm làm việc với tất
cả các tôn giáo cho việc cũng cố Chánh Pháp, cho sự thăng tiến Chánh Pháp,
và cho an sinh và hạnh phúc của tất cả những ai ngưỡng mộ Chánh Pháp. Họ
được ủy nhiệm làm việc với dân Yonas (Hy-lạp), dân Kambojas, dân
Gandharas, dân Rastrikas, dân Pitinikas, và các dân khác ở biên cương phía
tây của lãnh thổ. [13] Họ được ủy nhiệm làm việc với quân sĩ, các cấp chỉ
huy, các bậc tu hành, các cư sĩ, [14] kẻ nghèo khó, người già cả, và những
ai ngưỡng mộ Chánh Pháp để lo cho sự an sinh và hạnh phúc của họ và để họ
khỏi bị nhũng nhiễu.
Các Pháp Đại thần được ủy
nhiệm làm việc để cải thiện cách đối xử với tù nhân, đưa đến việc phóng
thích chúng, và nếu các Pháp Đại thần nghĩ rằng "Kẻ này có một gánh nặng
gia đình", "Kẻ kia bị vu cáo", "kẻ nọ đã già", thì họ tiến hành việc phóng
thích các kẻ đó. Họ được ủy nhiệm làm việc khắp nơi, ở đây (nơi bia ký
được khắc, dựng), ở những thị trấn xa xôi, trong những hậu cung thuộc các
bào huynh hay bào tĩ của trẫm, và hoàng tộc. Các Pháp Đại thần chuyên lo
truyền bá Chánh Pháp được cử đi khắp nơi thuộâc lãnh thổ, giữa ngừơi dân
ngưỡng mộ Chánh Pháp để xem ai ngưỡng mộ Chánh Pháp, hay an trú trong
Chánh Pháp, hay thựïc hành bố thí.
Pháp dụ này được khắc lên đá
để nó có thể trường tồn và hậu duệ của trẫm có thể theo đấy mà thực hành.
Ghi chú:
11. Bia ký Kalsi,
ban năm 256 TTL.
12. Theo lới Phật
dạy trong "Pháp Cú" (Dhammapada), câu 163.
13. Dân Hy-lạp
(Yonas), định cư đông đảo ở vùng mà nay là Afghanistan và Pakistan sau
cuộc xâm lăng của Alexander the Great.
14. Trong hai bản
đều dịch là "householders: gia trưởng". [NXR: Có lẽ Asoka muốn nói đến
giới cư sĩ. Theo chúng tôi, dịch là "cư sĩ" thì đúng với tinh thần Pháp dụ
hơn.]
A.6: ĐTPD VI.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: [15] Trong quá khứ, quốc sự hoặc các biểu tấu không hề được đệ trình
hoàng thượng thường xuyên. Nhưng nay trẫm ra lệnh này, khi các quan có
chuyện bẩm báo về dân tình trong nước thì có thể đến gặp trẫm bất cứ lúc
nào và bất cứ ở đâu, dù trẫm đang ngự thiện, đang ở trong hậu cung, trong
cấm cung, trên long xa, trong ngự giá, trong thượng uyển hay đang cầu
nguyện. Và khi một ban bố hay tuyên dương bằng khẩu lệnh, hoặc vì quốc vụ
khẩn cấp trẫm ủy quyền cho các Pháp Đại thần, mà gây nên sự bất đồng hay
bàn cải trong triều thì phải cấp báo cho trẫm biết ngay bất cứ lúc nào và
bất cứ ở đâu. Đó là mệnh lệnh của trẫm.
Trẫm không hề bao giờ bằng
lòng với việc làm và canh cánh cho quốc vụ của trẫm. Trẫm cho rằng viêc
thăng tiến an sinh của thần dân là nhiệm vụ cao cả nhất của trẫm, và cốt
lõi của việc này là phải chính mình tận lực. Đối với trẫm, không có điều
gì quan trọng hơn là viêc thăng tiến an sinh của thần dân, và tất cả những
nổ lực của trẫm chỉ là trả cái nợ trẫm mắc chúng sinh để mưu cầu hạnh phúc
cho họ trong đời này và đạt đến thiên giới trong kiếp sau.
Vì vậy trẫm lệnh cho Pháp Dụ
này được khắc ra để trường tồn và các con, các cháu và chắt của trẫm noi
theo vì sự an sinh cho mọi người. Tuy nhiên đây là một việc khó nếu không
nhiệt tâm và tận sức.
Ghi chú:
15. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
A.7: ĐTPD VII.
Thiên tử, Vua Piyadasi muốn
rằng tất cả môn đồ của các tín ngưỡng đều chung sống trên đất nước của
trẩm, vì tất cả bọn họ đều mong cầu tự chế và thiện tâm. [16] Nhưng con
người thường có nhiều xu hướng và khát vọng khác nhau, nên họ có thể thực
hành được một phần hay tất cả những điều ấy.
Nhưng kẻ thiếu tự chế, lòng
không trong sạch, thiếu ân tình và tín tâm mà lại nhận lắm phẩm vật cúng
dường, thì kẻ ấy là gian ác. [17]
Ghi chú:
16. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
17. Bản Nikam lại
dịch là: “Ngay cả kẽ không cúng dường được phẩm vật xa xỉ, không biết tự
chế và lòng không trong sạch, không có ân tình, và tín tâm vững chắc vẫn
đáng khen và cần thiết.”
A.8: ĐTPD VIII.
Trong quá khứ, các thiên tử
hay tuần du để săn bắn hoặc vui chơi. [18] Nhưng mười năm sau khi lên
ngôi, Thiên tử, Vua Piyadasi đã đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng [19] và như thế
thiết chế những cuộc Pháp du hành (Dharma-yatras). [20] Trong những lần
như thế, các việc sau đã được làm: viếng thăm và quà tặng cho các bậc tu
hành, viếng thăm và tặng (tiền) vàng cho người già, viếng thăm dân ở thôn
quê, huấn dụ họ về Chánh Pháp và thảo luận với họ về Chánh Pháp khi thích
hợp. Những điều này đã làm Thiên tử, Vua Piyadasi đẹp mặt và lại được xem
như là một mối thu hoạch khác. [21]
Ghi chú:
18. Vihar-yatras.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL Ở đây vua Asoka dùng "Thiên tử" để chỉ
cho các tiên vương.
19. Bản Dhammika:
Thời bấy giờ có tên là Sambodhi hay Vijirasana chứ không gọi là Bodh Gaya
như ngày nay.
20. Bản Nikam lại
dịch đoạn này như sau: "Tuy nhiên, vua Priyadarsiđã giác ngộ (sambuddha)
mười năm sau ngày đăng quang, nên từ đó những chuyến tuần du của ngài được
gọi là Pháp du hành."
21. Bản Nikam dịch:
"Những chuyến Pháp du hành này làm vua Priyadarsi rất vui lòng hơn những
chuyến khác."
A.9: ĐTPD IX.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: [22] Người ta hay cúng nhiều lễ, nhất là những dịp đau ốm, khi cưới
hỏi, lúc sinh nở, trước một chuyến đi xa. Đặc biệt là phụ nữ lại còn bày
ra lắm lễ lặt vặt, vô nghĩa khác.
Không có gì quấy với những lễ
cúng bái này nhưng thường thì chẳng đem lại kết quả nào. Chỉ có Lễ Chánh
Pháp (Dharma-mangala) là mang lại rất nhiều kết quả. Nó bao gồm việc đối
xử tử tế với nô tì và gia nhân [23], tôn kính thầy dạỵ, đừng độc ác với
sinh linh, và cúng dường cho các bậc tu hành. Những việc như thế được gọi
là Lễ Chánh Pháp. Vì thế một người cha, một ngườ con, một người anh em,
một người chủ, một người bạn, một người phối ngẫu, hay cả người hàng xóm
thấy thế nên bảo: "Những việc này tốt, nên làm cho đạt đến mục đích, tôi
nên tham dự."
Những buổi cúng lễ khác, dù
đạt mục đích hay không vẫn chẳng có mấy giá trị. Nhưng những mục đích này,
nếu có, chỉ hạn chế trong đời này. Còn Lễ Chánh Pháp thì vô cùng. Cho dù
nó không đạt được mục đích trong đời này, nó tạo ra vô lượng phước đức cho
đời sau. Nếu Lễ Chánh Pháp đạt được mục dích trong đời này thì lại có cả
phước đức trong đời này và đời sau. [24]
Lòng hào phóng thực đáng ca
ngợi. Nhưng không có quà nào lớn bằng quà Chánh Pháp, hoặc bằng lợi lộc
Chánh Pháp. Vì thế, một người bạn, người khách, bà con, hoặc người phối
ngẫu nên cổ xúy người khác khi cơ hội đến và bảo rằng: "Điều này tốt, nên
làm, rất đáng khen. Làm việc này ta có thể đạt thiên giới." Và có việc gì
còn giá trị hơn là đạt thiên giới?" [25]
Ghi chú:
22. Bia ký Kalsi,
ban năm 256 TTL. Asoka nghĩ đến Mangala Sutta (Sutta Nipata 258-269) khi
ban Pháp dụ này.
23. Bản Dhammika:
"công nhân và gia nhân".
24. Nhiều bản chấm
dứt ngang đây.
25. Bia ký ở
Girnar, Dhauli và Jaugada lại thêm đoạn này.
A.10: ĐTPD X.
Thiên tử, Vua Piyadasi không
xem vinh quang và danh vọng có giá trị gì trừ phi thần dân của trẫm đều
nghe đến Chánh Pháp và thực hành Chánh Pháp trong hiện tại và tương lai.
[26] Chỉ có điều này Thiên tử, Vua Piyadasi mới muốn được vinh quang và
vang danh.
Tất cả mọi nỗ lực của trẫm
chỉ nhắm đến giải thoát cho con người khỏi vòng nô lệ trong đời từ nay về
sau. Bởi ác nghiệp là vòng nô lệ. Thật là nan sự cho kẽ giàu và người
nghèo trừ phi họ tận lực và từ bõ tham vọng. Lại càng khó bội phần cho kẽ
giàu hơn là người nghèo. [27]
Ghi chú:
26. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
27. Bản Dhammika
dịch đoạn này như sau: "Tất cả mọi nỗ lực của trẫm chỉ nhắm đến an sinh
trong đời sau cho thần dân, và để họ không vướng ác nghiệp. Vô phước đức
là ác nghiệp. Thật là việc khó làm cho kẽ hèn hạ và người cao sang trừ phi
họ tận lực và từ bõ tham vọng. Lại càng khó bội phần với người cao sang
(hơn là với kẽ hèn hạ)."
A. 11: ĐTPD XI.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: [28] Không quà nào bằng quà Chánh Pháp (Dharma-dana), [29] không sự
quen biết nào bằng sự quen biết Chánh Pháp (Dharma-samstava), không sự san
xẻ nào bằng sự san xẻ Chánh Pháp (Dharma-samvibhaga), và không sự thân
thuộc nào bằng sự thân thuộc Chánh Pháp (Dharma-sambandha). Và nó bao gồm
những điều này: đối xử tử tế với nô tì và gia nhân, kính trọng cha mẹ, hào
phóng với bạn bè, phối ngẫu, bà con, các bậc tu hành, và đừng sát sinh. Vì
thế một người cha, một người con, một người anh em, một người chủ, một
người phối ngẫu, hay một người hàng xóm nên bảo rằng: "Điều này có phước
đức, nên làm." Bằng cách biếu quà Chánh Pháp, người ta được lợi lộc ngay
trong đời này và vô lượng phước đức trong đờùi sau".
Ghi chú:
28. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
29. Dharma-dana:
Đàn thí Chánh Pháp. Tương tự "Pháp Cú" (Dhammapada) câu 354.
A.12: ĐTPD XII.
Thiên tử, Vua Piyadasi tôn
kính tất cả các bậc tu hành và các cư sĩ của các tôn giáo qua quà cáp ngài
ban và nhiều sự vinh dự. [30] Nhưng Thiên tử, Vua Piyadasi không coi trọng
quà cáp hay vinh dự bằng sự tăng trưởng về đạo hạnh của người có tín
ngưỡng. [31] Sự tăng trưởng về đạo hạnh có thể đạt được bằng nhiều lối,
nhưng cái gốc rễ vẫn là phải kềm chế lời nói, không được đề cao tôn giáo
mình và lại phỉ báng tôn giáo khác một cách vô cớ, hoặc là khi đúng cớ thì
lại quá đà.
Dù bất kỳ lý do nào, tín
ngưỡng của kẽ khác cần phải được tôn vinh. Có như vậy thì tôn giáo của
mình cũng được lợi lộc, và tôn giáo của kẽ khác nữa. Ngược lại thì tôn
giáo của mình bị tổn hại, và tôn giáo của kẽ khác nữa. Kẽ nào huyênh hoang
về tôn giáo của mình vì cuồng tín và phỉ báng tôn giáo kẽ khác với ác ý
"Để ta làm vinh quang đạo của ta", thì chỉ làm tổn hại đến tôn giáo của
mình. Vì thế, sự hòa đồng tôn giáo là điều tốt. [32] Ai cũng phải lắng
nghe và tôn kính giáo lý của đạo khác.
Thiên tử, Vua Piyadasi muốn
rằng mọi người nên tìm hiểu thêm giáo lý chân chính của tôn giáo khác.
Kẽ nào chỉ biết cố chấp với
tôn giáo của mình thì phải được dạy rằng: Thiên tử, Vua Piyadasi không coi
trọng quà cáp và vinh dự bằng sự tăng trưởng về đạo hạnh của mọi tôn giáo.
Để đạt đến điều này, các Pháp Đại thần, các Đại thần chuyên lo về hậu
cung, những quan lại trông nom những vùng xa xôi và những quan lại khác
phải tận tâm. Và kết quả là tôn giáo của mỗi người đều thăng tiến và Chánh
Pháp cũng được rạng rỡ.
Ghi chú:
30. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
31. Nguyên bản:
"saravadi" dịch là "tinh túy tôn giáo" có nghĩa là "phẩm chất đạo hạnh".
32. Theo Bản
Dhammika, vốn dựa vào bản bằng tiếng Pali, dịch theo câu "Ta samavayo eva
sadhu"; mà "Samavayo" chiết tự ra thí có "sam + ava + i", có nghĩa là "đến
với nhau".
A.13: ĐTPD XIII.
Thiên tử, Vua Piyadasi xâm
chiếm Kalinga tám năm sau khi ngài đăng quang. [33] Một trăm năm chục ngàn
người bị bắt và bị đầy, một trăm ngàn người bị giết và rất nhiều người nữa
chết vì những lý do khác. Ngay sau khi Kalinga được chinh phục, Thiên tử,
Vua Piyadasi mạnh mẽ nghiêng về học hỏi Chánh Pháp, yêu thích Chánh Pháp
và muốn phát triển Chánh Pháp.
Nay Thiên tử, Vua Piyadasi
rất xúc động và lấy làm hối hận đã chinh phục Kalinga. Thực vậy Ngài rất
buồn và hối tiếc việc chinh phục một dân tộc bất khuất qua tàn sát, chết
chóc và đầy ải. Điều quan trọng hơn đã làm Thiên Tử hối hận là các bậc tu
hành cũng như giới cư sĩ, tín đồ của các tôn giáo của nước này - tất cả
đều thực hành kính trọng bậc trưỡng thượng, cha mẹ và thầy dạy, đối xử tử
tế và trung thành với bạn bè, người quen, kẽ phối ngẫu, bà con, nô tì, gia
nhân - đã bị thương, bị giết hay bị chia lìa với người thân. Ngay cả những
kẽ không bi hề hấn cũng đau khổ khi thấy bạn bè, người quen, người phối
ngẫu và bà con bị liên lụy. Những việc này làm Thiên tử, vua Piyadasi đau
buồn.
Không có nước nào, trừ xứ của
người Yonas (Hy Lạp) ở đó không có các bậc tu hành (giống như tu-sĩ
Bà-la-môn và đạo sĩ khổ hạnh), và không ở nơi nào mà cư dân lại không
phụng thờ tôn giáo này hay tôn giáo nọ. [33] Bởi thế, dù số tử vong hay số
bị đày ải qua trận Kalinga chỉ bằng một phần trăm hay một phần ngàn của
thực sự, điều này cũng làm Thiên tử, Vua Piyadasi đau buồn. Ngài nghĩ rằng
những ai phạm lỗi nên được tha thứ nếu có thể. [34]
Ngay đối với dân mọi rợ nay
sống dưới quyền cai trị của Thiên tử, Vua Piyadasi, cũng nên theo lối sống
mới mà cư xử đàng hoàng. Chúng nên được khuyến cáo rằng dù Ngài hối hận
nhưng Ngài vẫn còn đũ quyền lực để trừng trị bọn chúng nếu chúng phạm tội
đáng chết. Thực vậy, Thiên tử muốn ai cũng được vô hại, tự chế, và công
bằng, ngay cả những kẽ phạm lỗi.
Nay Thiên tử, Vua Piyadasi
xem Chinh Phục bằng Chánh Pháp (Dharma-vijaya) mới là cuộc chinh phục quan
trọng nhất. [35] Cuộc chinh phục này đã chiến thắng liên tục không những
trong xứ mà còn cả với những dân sống ngoài biên cương xa đến sáu trăm
do-tuần, (yojanas) [36] ở đó vua Yona (Hy-Lạp) là Antiyoka cai trị, và xa
hơn nữa nơi của bốn vua khác cai trị, đó là vua Turanmaya, Antikini, Maka,
và Alikasudara,[37] xuống phía nam với dân Cholas, dân Pandyas, và còn xa
hơn nữa là dân Tamraparni. [38]
Ở đây trong lãnh thổ của
Thiên tử, giữa dân Yonas, [39] dân Kambojas, dân Nabhakas, dân
Nabhapamkits, dân Bhojas, dân Pitinikas, dân Andhras và dân Palidas, khắp
nơi dân đều theo lời giáo huấn về Chánh Pháp của Thiên tử, Vua Piyadasi.
Cả đến những xứ mà sứ giả của
Thiên tử, Vua Piyadasi chưa đến, dân ở đấy cũng đã nghe đến Chánh Pháp và
những chiếu chỉ của Thiên tử về Chánh Pháp nên họ đã tuân thủ và tiếp tục
tuân thủ. Cuộc chinh phục bằng Chánh Pháp này diễn ra khắp nơi và đem lại
niềm hân hoan - niềm hân hoan chỉ do chinh phục bằng Chánh Pháp đem lại mà
thôi. Nhưng niềm hân hoan cũng chỉ là kết quả nhỏ. Thiên tử xem quả gặt
được trong đời sau mới thực quan trọng.
Trẫm cho ghi Pháp dụ này để
các con và cháu của trẫm khi kế vị đừng lấy xâm lăng làm thành tích. Nếu
chinh phục thì nên khoan hòa và nhẹ trừng phạt. Nên xem chinh phục bằng
Chánh Pháp là cuộc chinh phục thật sự, bởi nó có kết quả trong đời này và
đời sau. Hãy vui lấy niềm vui trong Chánh Pháp (Dharma-rati), bởi nó mang
lại kết quả tốt rong đời này và đời sau.
Ghi chú:
32. Bia ký Kalsi,
ban năm 256 TTL. Kalinga, bây giờ là bang Orissa.
33. Thời bấy giờ
Asoka nghĩ rằng Hy-Lạp là xứ vô tôn giáo.
34. Bản Nikam dịch:
"Bây giờ, vua Priyarsi nghĩ rằng kẽ phạm lỗi với Ngài nên được tha thứ nếu
lỗi ấy có thể tha thứ được."
35. Có thể Asoka
nghĩ đến "Pháp Cú" câu 103-104.
36. Khoảng ba ngàn
dặm.
37. Theo thứ tự, là
các vua Antiochos II Theos của Syria (261-246 TTL), Ptolemy II
Philadelphos của Egypt (285-247 TTL), Antigonos Gonatos của Macedonia
(278-239 TTL), Magas của Cyrene (300-258 TTL) và Alexander của Epirus
(272-258 TTL).
38. Xem ghi chú 3.
39. Xem ghi chú
13.
A. 14: ĐTPD XIV.
Thiên tử, Vua Piyadasi ra
lệnh cho những Pháp dụ này được ghi. Vài bản được ghi ngắn gọn, vài bản
được ghi vừa đủ hay vài bản được ghi dài hơn. [40] Không phải tất cả đều
được trưng bày khắp nơi bởi lãnh thổ của trẫm rất rộng. Nhiều bản đã được
khắc và trẫm sẽ còn sai làm thêm.
Vài Pháp dụ đã được lập đi
lập lại vì lời hay ý đẹp của lời dạy để thần dân thực hành noi theo. Vài
Pháp dụ không hoàn tất vì không thích hợp với địa phương, hoặc vì cần loại
bõ, hoặc vì lỗi của người ghi khắc.
Ghi chú:
40. Bia ký Girnar,
ban vào năm 256 TTL.
B. Những Thạch Pháp Dụ
Kalinga
B.1: TPDKa I.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
lệnh này cho các Đại thần ở Tosali cũng là các Phán quan thuộc thành ấy:
[41] Trẫm muốn thấy những gì trẫm xem là chính đáng phải được thi hành
nghiêm chỉnh. Trẫm phải chỉ thị cho các ngươi lối thực hiện điều này vì
trẫm đã đặt các ngươi ở vị trí phải thu phục được nhân tâm của hàng vạn
người.
Mọi người đều là con cái của
trẫm. Những gì trẫm ước muốn cho con cái của trẫm, như phúc lợi và hạnh
phúc cho đời này và đời sau, trẫm đều ước muốn như thế cho thần dân. Các
ngươi không hiểu lòng trẫm muốn như thế nào về những điều này, và dù một
vài người trong các ngươi hiễu đi nữa cũng không thấu đáo hết lòng của
trẫm.
Các ngươi phải quan tâm đến
điều này. Trong khi thi hành luật pháp nhiều người phải bị giam cầm, tra
khảo và ngay cả bị giết vô cớ nên lòng dân ta thán. Vì thế các ngươi phải
hành sự thật vô tư. Phải tránh tị hiềm, tức giận, tàn bạo, thù ghét, nhẫn
tâm, trây lười hoặc mệt nhọc. Luôn phải tự hỏi "Những thói ấy có ở trong
lòng ta không?" Cốt lõi vẫn là không tức giận và nên nhẫn nại. Quan chức
nào chán mệt khi thi hành công lý không nên được thăng chức, kẽ khác thì
càng thăng tiến và nên được đề bạt. Ai trong các ngươi hiểu được điều này
nên nói với đồng sự "Có gắng thi hành nhiệm vụ mà Thiên tử giao phó. Như
vậy, như thế này đúng là lời dạy của Thiên tử, Vua Piyadasi."
Thực hiện nghiêm chỉnh huấn
dụ này thì gặt được nhiều kết quả, còn nếu làm khác đi thì chẳng đạt đến
thiên giới và cũng chẳng làm Thiên tử hài lòng. Nếu các ngươi thất bại
trong nhiệm vụ sẽ làm trẫm kém vui. Nếu thực hiện nghiêm chỉnh thì các
ngươi sẽ đạt thiên giới và đẹp lòng trẫm.
Pháp dụ này phải được tuyên
cáo cho mọi người vào mỗi ngày Tisya. [42] Nó cũng có thể được đọc cho
những cá nhân vào những dịp đặc biệt ở những ngày khác. Nếu làm được như
thế là các ngươi thi hành nhiệm vụ.
Pháp dụ này đã được ghi ở đây
để nhắc nhở các Phán quan trong thành này lúc nào cũng nên cố gắng tránh
giam cầm và tra tấn không chánh đáng. Để đạt được điều này trẫm sẽ phái
các Đại quan nhân ái đi thanh tra mỗi 5 năm xem các Phán quan có theo đúng
lời dạy của trẫm. Hơn nữa, vị hoàng tử cai trị thành Ujjayini sẽ phái
những vị quan thanh tra như thế mỗi 3 năm. Cũng làm như thế từ thành
Taksasila. Những đại quan thanh tra này không được chểnh mảng công tác, và
họ phải bảo đảm là những phán quan theo đúng huấn dụ của Thiên tử.
Ghi Chú:
41. Bia ký Dhauli,
ban năm 256 TTL. Hai Pháp dụ Kalinga chỉ tìm thấy được ở Dhauli và
Jaugada.
42. Bản Dhammika:
còn viết là Tisa; là ngày rằm, trăng tròn.
B.2: TPDKa II.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
lệnh này cho các Đaị thần ở Samapa: [43] Trẫm muốn thấy những gì trẫm xem
là chính đáng phải được thi hành nghiêm chỉnh. Trẫm phải chỉ thị cho các
ngươi lối thực hiện điều này.
Mọi người đều là con cái của
trẫm. Những gì trẫm ước muốn cho con cái của trẫm, như phúc lợi và hạnh
phúc cho đời này và đời sau, trẫm đều ước muốn như thế cho thần dân.
Những dân tộc chưa bị chinh
phục ở ngoài biên cương của lãnh thổ trẫm có thể đang thắc mắc: "Hoàng
thượng đang tính toán gì về chúng ta?" Ý định duy nhất của trẫm là chúng
sống mà không phải sợ hãi gì đến trẫm, và tin tưởng trẫm; là trẫm sẽ ban
cho chúng hạnh phúc chứ không phải khổ đau. Hơn nữa, chúng nên ghi nhớ
rằng trẫm tha thứ cho chúng những lỗi lầm có thể tha thứ được; và rằng
chúng nên noi gương trẫm mà thực hành Chánh Pháp để hưởng phước trong đời
này và đời sau.
Trẫm dạy điều này là để trả
cái nợ mà trẫm đã chịu, và để các ngươi hiểu rõ lòng quyết tâm và lời cam
kết không lay chuyển được của trẫm. Vì thế, để thực hiện được điều này các
ngươi phải thi hành nhiệm vụ và làm bọn chúng an tâm tin tưởng rằng "Hoàng
thượng cũng như là người cha vậy. Ngài thương chúng ta như thương chính
Ngài. Chúng ta đối với Ngài cũng như là con cái của Ngài vậy."
Trẫm dạy các ngươi và cho các
ngươi biết về lòng quyết tâm và lời cam kết không lay chuyển được của
trẫm. Trẫm sẽ bổ nhiệm các quan chức thi hành điều này ở khắp các tỉnh.
[44] Hẳn nhiên, các ngươi còn có thể khích lệ bọn chúng tin tưởng trẫm và
bảo đảm an sinh và hạnh phúc cho chúng trong đời này và đời sau. Làm được
như thế, các ngươi sẽ đạt thiên giới và giúp trẫm trả cái nợ cho chúng
sinh.
Pháp dụ này đã được ghi khắc
ở đây để các Đại thần có thể tận tụy khích lệ các dân ngoài biên cương
luôn tin tưởng vào trẫm và khuyến khích chúng thực hành Chánh Pháp.
Pháp dụ này phải được tuyên
cáo cho mọi người mỗi bốn tháng lúc đầu mùa, [45] vào mỗi ngày Tisya. Nó
cũng có thể được tuyên cáo vào những kỳ giữa những ngày kể trên; và có thể
được đọc cho những cá nhân vào những dịp đặc biệt. Làm được như thế là các
ngươi thi hành nhiệm vụ.
Ghi Chú:
43. Bia ký Jaugada,
ban năm 256 TTL.
44. Bản Dhammika
dịch đoạn này như sau: "Bằng vào việc chỉ dạy và cho các ngươi biết về
lòng quyết tâm và lời cam kết của trẫm, trẫm sẽ tự mình quan tâm để đạt
đến mục tiêu này."
45. Ấn có 3 mùa:
nóng, mưa và lạnh. Ngày Tisya: xem ghi chú 42.
C. Tiểu Thạch Pháp Dụ
C.1: TTPD I. (Còn gọi là Pháp
Dụ Maski)
Thiên tử, Vua Asoka phán
rằng: [46] Trẫm đã trở thành một cư sĩ Phật tử (Upasaka) hơn hai năm rưỡi,
nhưng không mấy thuần thành. Mãi đến nay sau khi khi thường đến viếng Tăng
già (Shanga hay Shamga) hơn một năm trẫm trở nên rất thuần thành. [47]
Thần dân của trẫm nếu chưa có
tín ngưỡng thì nên noi theo. [48] Đây là kết quả của lòng nhiệt thành chứ
không phải vì người cao cả mới làm được. Cho ngay đến cả người hèn ha,[49]
nếu có lòng nhiệt thành vẫn có thể đạt thiên giới. Và tuyên ngôn này được
ghi lại cho mục đích ấy. Hãy nhiệt thành lên hỡi người cao cả và kẽ hèn
hạ, hãy để cho các dân ở ngoài biên cương biết và hãy để cho lòng nhiệt
thành trường tồn. Và rồi lòng nhiệt thành sẽ tăng trưởng, nó sẽ tăng
trưởng to lớn hơn, nó sẽ tăng trưởng gấp một lần rưỡi. [50]
Thông điệp này đã được Thiên
tử tuyên cáo hai trăm năm chục lần trong chuyến du hành. [51]
Ghi Chú:
46. Bia ký
Gavimath, ban năm 257 TTL. Pháp dụ này đã tìm thấy ở 12 nơi khác nhau, với
nội dung không đồng nhất. Đặc biệt là chỉ trong Pháp Dụ Maski nói với Tăng
Già này Đại Đế mới xưng thực danh là Asoka (Asokaraja).
47. Nhiều học giả
khi dịch đoạn Pali "yam me samghe upeti" (đã vào Tăng già), đã hiểu nhầm,
cho là Đai đế Asoka đã trở nên một tỷ-khưu (tăng sĩ).
48. Nhiều bản khác
dịch sát nguyên ngữ là "men unmingled with Gods: người không hòa lẫn với
Trời". Hai bản Nikam và Dhammika dịch “the people who have not associated
with the gods."
49. Bản Nikam dịch
là "kẻ giàu và người nghèo". Nói chung là đều bình đẳng trong Chánh Pháp.
50. Bản Nikam dịch
đoạn này như sau: “Ở cõi Diêm-Phù-Đề (Jambudvipa), trời vốn không hòa lẫn
với người, nay đã hòa lẫn với họ. Nhưng những kết quả trẫm thu đạt chỉ
bằng của (ngay cả) người nghèo nếu họ ngưỡng mộ Chánh Pháp. Thực không
đúng nếu nói rằng điều này chỉ dành cho kẻ giàu. Kẻ giàu và người nghèo
đều phải được bảo rằng: ‘Nếu các ngươi làm như thế thì những thành tựu
đáng ca tụng này sẽ trường tồn và sẽ gia tăng một lần rưỡi.’”]
51. Bản Nikam không
dịch đoạn này.
C.2: TTPD II. (Còn gọi là
Pháp Dụ Brahmagiri)
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: [51] Phải kính trọng, vâng lời cha mẹ và các bậc trưởng thượng. Phải
tôn trọng sinh mạng. Đừng nói dối. Phải thực hành những giới này của Chánh
Pháp.
Cũng như thế, học trò phải
tôn kính thầy dạy, và trong gia đình phải lịch thiệp với thân nhân. Đây là
lệ luật truyền thống của Chánh Pháp dẫn đến trường sinh. Ai cũng phải hành
động như thế.
Ghi bởi người khắc (tên là)
Chapala.
Ghi Chú:
51. Bia ký
Brahmagiri.
C.3: TTPD III. (Còn gọi là
Pháp Dụ Bairat hay Bhabra)
Thiên tử, Vua Piyadasi gởi
lời chào Tăng già, và cầu chúc khỏe mạnh và an lạc, đồng thời thưa
rằng:[52] Bạch chư tôn đức, chư vị đã rõ đức tin cao cả của trẫm vào Phật,
Pháp và Tăng như thế nào rồi. Bạch chư tôn đức, những gì Đức Phật thuyết
giảng đều là diệu ngôn. [53] Phải phép mà nói, thưa chư vị, diệu Chánh
Pháp phải trường tồn. [54]
Bạch chư tôn đức, những bài
pháp - trích từ Giới Luật, Lối Sống Cao Thượng, Âu Lo đến, Bài Ca Đạo Sĩ,
Bài Giảng về Cuộc Sống Tinh Khiết, Những câu hỏi của Ưu-Bà-Đề-Xà, và Bài
giảng về vọng ngữ do Đức Phật dạy cho La-Hầu-La – những bài pháp này, kính
thưa chư vị trẫm muốn tất cả Tỷ-Khưu và Tỷ-Khưu-Ni (tăng và ni) nên thường
tụng niệm. [55] Những Ưu Bà Tắt và Ưu Bà Di (cư sĩ nam và nữ) cũng nên làm
như thế. Trẫm cho ghi Pháp dụ này để chư tôn đức hiểu được ý trẫm.
Ghi Chú:
52. Pháp dụ này
được tìm thấy trên một tảng đá nhỏ gần thành phố Bairat, và nay được bảo
tồn trong Hiệp Hội Á Châu ở Calcutta.
53. Câu này đã dựa
vào một đoạn trong Kinh Tăng Nhất A-Hàm (Anguttara Nikaya, IV:164.) " ...
thật là diệu ngôn, những lời do Đức Thế Tôn thuyết."
54. Bản Nikam dịch:
"Cho phép trẫm liệt kê những bản kinh phản ánh Diệu Chánh Pháp, và làm
Chánh pháp trường tồn."
55. Đã có nhiều
thảo luận về những bản kinh Pali nào tương ứng với trích dẫn của vua
Asoka: 1) Vinaya samukose (Skt.: Vinaya samukasa: Xưng Tụng về Trì Giới):
có thể là Atthavasa Vagga, Anguttara Nikaya, 1:98-100. 2) Aliya vasani
(Skt.: Aliya vasani: Mẫu Mực về Đời Đạo Hạnh): có thể là Ariyavasa Sutta,
Anguttara Nikaya, V:29, hoặc Ariyavamsa Sutta, Anguttara Nikaya, II:
27-28. 3) Anagata bhayani (Skt.: Anagatabhayani: Âu Lo về Tương Lai) : có
thể là Anagata Sutta, Anguttara Nikaya, III:100. 4) Muni gatha (Skt.:
Muni-gatha: Bài Ca Đạo Sĩ): là Muni Sutta, Sutta Nipata 207-221. 5)
Upatisa pasine (Skt.: Upatisya-pasine: Bài Giảng về Cuộc Sống Thánh
Thiện): là Sariputta Sutta, Sutta Nipata 955-975. Và 6) Laghulavade (Skt.:
Rahulavada: Bài giảng về vọng ngữ cho La-Hầu-La): là Rahulavada Sutta,
Majjhima Nikaya, I:421.
D. Bảy Thạch Trụ Pháp Dụ
D.1: TTrPD I
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: [56] Pháp dụ này được ghi hai mươi sáu năm khi trẫm đăng quang. Hạnh
phúc đời này và đời sau thực khó mà đạt được nếu không hết lòng yêu thích
Chánh Pháp, hết lòng tự xét, hết lòng kính trọng, vâng lời, hết lòng kinh
sợ (ác nghiệp), và hết lòng hăng hái.
Nếu theo đúng lời dạy của
trẫm về tôn kính Chánh Pháp thì lòng yêu thích Chánh Pháp gia tăng mỗi
ngày, và sẽ tiếp tục gia tăng. Mọi quan lại các cấp của triều đình từ
thượng, trung và hạ cấp đều thực hành theo Chánh Pháp đúng như lời dạy của
trẫm, và có khả năng cảm kích người khác làm như thế. Các đại thần ở biên
cương cũng làm như thế. Và đây là những lời dạy của trẫm: cai trị theo
Chánh Pháp, nâng cao sự an lạc của dân theo Chánh Pháp, và che chở họ theo
Chánh Pháp.
Ghi Chú:
54. Bảy Pháp dụ này
dịch từ bia ký Dehli Topra, sáu bản đầu được ban ra năm 243 TTL và còn
thấy trên năm thạch trụ khác. Bản thứ bảy được ban ra năm 242 TTL.
D.2: TTrPD II
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Chánh Pháp thì diệu hảo, nhưng cái gì tạo nên Chánh Pháp? Nó gồm làm
lành tránh dữ, nhân ái, hào phóng, chân thật và trong sạch. Trẫm đã ban
cho sự sáng bằng nhiều cách. [55] Trẫm đã ban nhiều sắc chỉ nhân từ bao
gồm quà của sự sống cho những sinh vật hai và bốn chân (người và thú),
trên không và dưới nước, [56]. Và còn nhiều việc thiện khác do trẫm làm
nên.
Pháp dụ này được ghi để thần
dân noi theo, và để nó trường tồn. Và ai noi theo đúng sẽ làm nhiều thiện
nghiệp.
Ghi Chú:
55. Theo tiếng
Pali: "Cakhu dane" có nghĩa là "Trẫm ban cho sự thấy". Có thể là vua Asoka
ban cho "con mắt trí tuệ"; nhưng đặt nó vào toàn bộ Pháp dụ thì có vẽ như
là Asoka đã ra lệnh ngưng lối hình phạt làm mù mắt.
56. Có nghĩa là
ngưng sát sinh.
D.3: TTrPD III
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Người ta chỉ thấy việc tốt của mình, bảo rằng: "Ta đã làm việc thiện
này." Nhưng họ lại không nhìn thấy việc xấu họ làm mà bảo rằng "Ta đã làm
ra việc ác này, điều này gọi là ác nghiệp". Nhưng sự tự giác rất khó thấy.
[57] Người ta nên tự bảo thế này:" Những việc này đưa đến điều ác, đến bạo
hành, đến hung hản, đến giận dữ, đến kiêu căng và ganh tị. Ta đừng mắc
vào". Và hơn nữa, người ta nên nghĩ rằng: "Điều này đưa đến an lạc trong
đời này và đời sau."
Ghi Chú:
57. Tương tự như
lời Phật dạy trong "Pháp Cú" (Dhammapada) câu 50 và 252.
D.4: TTrPD IV
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Pháp dụ này đã được ghi hai mươi sáu năm sau khi trẫm đăng quang.
Các quan đầu tỉnh (Rajjukas) đang cai trị dân, hằng trăm ngàn dân. Họ được
giao cho trông coi việc thỉnh cầu của dân và thi hành công lý một cách vô
tư và hiền hậụ, và nhờ thế họ mới chăm lo cho an sinh và phúc lợi của dân.
Nhưng họ nên nhận rõ điều gì gây ra hạnh phúc và khổ đau cho dân, và bởi
họ hằng ngưỡng mộ Chánh Pháp, họ nên khuyến khích dân làm như thế để có
thể được an lạc trong đời này và đời sau. Những quan đầu tỉnh (Rajjukas)
này hết lòng phụng sự trẫm. Họ cũng tuân lệnh những thượng quan (Purusas)
đã hiểu ý trẫm và chỉ thị họ để làm trẫm vui lòng. Cũng như một người an
tâm giao con mình cho vú nuôi ngĩ rằng: "Bà vú này sẽ săn sóc tốt con
mình," nên trẫm đã bổ nhiệm các quan để lo cho an sinh và phúc lợi của
thần dân.
Các quan đầu tỉnh được giao
cho trông coi việc thỉnh cầu của dân và thi hành công lý nên họ đã thi
hành nhiệm vụ một cách quả quyết, hiền hậu và vui vẻ, và nhờ thế họ mới
chăm lo cho an sinh và phúc lợi của dân. Trẫm muốn rằng phải có một sự
công bằng trong luật pháp và trong việc kết tội. Trẫm còn đi xa hơn, trẫm
muốn gia ân triển hạn thêm ba ngày cho những tử tội trước khi hành hình.
Trong thời gian ấy, thân nhân của chúng có thể khiếu nại để khỏi tội chết.
Nếu không còn ai khiếu nại cho chúng, tử tội có thể bố thí hay chay tịnh
để được phước trong đời sau. Trẫm thực lòng muốn rằng, theo lối này, nếu
thời gian của tử tội không còn bao lâu hắn cũng có thể chuẩn bị cho đời
sau, và rằng việc thực hành Chánh Pháp của dân qua tự chế và bố thí sẽ
được gia tăng trong thần dân.
D.5: TTrPD V
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Hai mươi sáu năm sau khi đăng quang, trẫm ra lệnh những thú vật sau
đây được triều đình bảo vệ: két, chim sáo sậu, ngỗng, vịt trời, dơi, kiến
chúa, ba-ba, cá không xương, [58] rùa, nhím, sóc, hươu có gạc già, bò đực,
thú nuôi trong nhà, tê-giác, lừa hoang, aruna, nandimukhas, gelatas,
vedareyaka, gangapuputaka, sankiya, okapinda, bồ câu nuôi hoặc hoang và
tất cả những thú bốn chân có ích hoặc không ăn được. [59]
Những dê cái, trừu cái, hoặc
heo rừng cái đang nuôi con hoặc cho con bú cũng được bảo vệ. Cũng thế,
những thú con dưới sáu tháng. Gà trống không định thiến, võ cây đang che
chở sinh vật không được đốt, và rừng cây không được đốt nếu không có lý do
hoặc chỉ để giết thú. Không được dùng một con thú để nuôi con thú khác.
Vào ba ngày Caturmasis,[60]
ba ngày trăng tròn Tisya [61] và vào những ngày 14 và 15 của tháng
Uposatha, [62] cá không được giết và bán. Vào những ngày này thú không
được giết trong những khu bảo tồn voi và khu bảo tồn cá. Vào ngày thứ 8 và
vào ngày 14 và 15 của tháng , vào ngày Tisya, ngày Punarvasu [63], ba ngày
Caturmasis và những ngày thánh khác, bò đực, dê đực, hươu đực, heo rừng và
những thú khác không được thiến. Vào ngày Tisya, Punarvasu, Caturmasis và
mỗi nữa tháng của tháng Caturmasis, ngựa và bò con không được đóng dấu
nóng trên da.
Hai mươi sáu năm sau khi trẫm
đăng quang, tù nhân được ân xá trong hai mươi lăm dịp.
Ghi Chú:
58. Có thể là tôm,
cua.
59. Hai bản
Dhammika và Nikam vẫn để những tên thú theo nguyên ngữ, không dịch được.
60. Ngày đầu mùa.
Xem 45.
61. Ngày Tisya: xem
42. NXR: Ở đây chỉ qui định ngày trăng tròn của tháng đầu mổi mùa.
62. Tháng an cư
kiết hạ
63. ngày lễ hội
D.6: TTrPD VI
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Mười hai năm sau khi đăng quang trẫm đã cho ghi nhửng Pháp dụ về an
sinh và hạnh phúc của thần dân, để họ sửa đổi mà phát triển theo Chánh
Pháp.
Trẫm tin rằng chỉ với cách
này an sinh và hạnh phúc của thần dân mới đạt được. Trẫm luôn quan tâm đến
làm cách nào dể bảo đảm an sinh và hạnh phúc cho mọi người, không phải chỉ
riêng bà con của trẫm hoặc dân sống ở kinh đô mà còn cả dân sống ở những
vùng xa xôi hẽo lánh. Trẫm đối xử bình đẳng như thế với tất cả mọi người,
mọi giới.
Hơn nữa, trẫm đã tôn kính mọi
tôn giáo bằng mọi cách cúng dường nhưng cách tốt hơn hết là trực tiếp thăm
viếng họ.
Pháp dụ này được ghi hai mươi
sáu năm sau khi trẫm đăng quang.
D.7: TTrPD VII
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Trong quá khứ các vua đã nghĩ đến nhiều cách để tăng sự ngưỡng mộ
Chánh Pháp của dân. Nhưng dù vậy, sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân vẫn
không tăng trưởng.
Về việc này, Thiên tử, Vua
Piyadasi phán rằng: "Việc này cũng đã xảy ra với trẫm. Trong quá khứ các
vua đã nghĩ đến nhiều cách để tăng sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân. Nhưng
dù vậy, sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân vẫn không tăng trưởng. Nay phải
làm sao để khuyến khích thần dân tuân theo? Làm thế nào để sự ngưỡng mộ
của thần dân gia tăng qua sự truyền bá Chánh Pháp? Làm sao trẫm có thể
nâng cao họ qua sự truyền bá Chánh Pháp?
Về việc này, Thiên tử, Vua
Piyadasi còn phán thêm rằng: "Việc này đã từng xảy ra với trẫm. Trẫm phải
công bố Chánh Pháp và chỉ dạy Chánh Pháp. Khi thần dân nghe đến lời tuyên
cáo và sự chỉ dạy, họ sẽ sống theo Chánh Pháp, tự nâng cao họ và tiến bộ
qua sự truyền bá Chánh Pháp." Vì mục đích này mà trẫm phải công bố Chánh
Pháp và trẫm phải chỉ dạy Chánh Pháp bằng nhiều cách, và những quan lại
được lệnh phải gắng truyền bá và giải thích Chánh Pháp thực rõ ràng. Các
quan đầu tỉnh cai trị hàng trăm ngàn người được lệnh như thế để hướng dẫn
dân ngưỡng mộ Chánh Pháp.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: “Với mục đích này, trẫm đã cho dựng những Pháp thạch trụ để công bố
Chánh Pháp, và bổ nhiệm các Pháp Đại thần để truyền bá Chánh Pháp."
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Dọc đường, trẫm đã cho trồng nhiều cây đa để lấy bóng mát cho thú và
người, và trẫm cũng đã cho trồng vườn xoài. Cứ cách khoảng tám krosas,
[64] trẫm cho đào giếng nước, xây nhà nghỉ chân, và ở nhiều nơi trẫm cho
xây bồn nước cho thú và người dùng. Nhưng đây chỉ là những thành tựu nhỏ
mà thôi. Những việc như thế làm cho dân vui đã được nhiều tiên vương thực
hiện. Trẫm làm những điều này chỉ với mục đích là mọi người có thể hăng
say thực hành Chánh Pháp.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Những Pháp Đại thần của trẫm bận rộn với những công tác giúp đở các
bậc tu hành và cư sĩ các tôn giáo. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời
sống Tăng già. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của các tu-sĩ
Bà-la-môn và đạo-sĩ Ajivika. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống
của Niganthas. [65] Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của các
tông phái khác.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Những đại thần này và những quan lại quan trọng khác bận rộn phân
phát quà tặng của trẫm cũng như của các hoàng hậu. Trong hậu cung của
trẫm, họ cũng tổ chức những sinh hoạt cứu tế khác, ngay ở đây (kinh đô) và
ở các châu quận. Trẫm cũng ra lệnh cho các thái tử và hoàng tử nên ban
phát quà để những việc thiện cao cả của Chánh Pháp và việc thực hành Chánh
Pháp được thăng tiến. Những việc thiện cao cả của Chánh Pháp và việc thực
hành Chánh Pháp bao gồm gia tăng lòng nhân từ, hào phóng quảng đại, chân
thật, trong sạch, tử tế và thiện tâm giữa mọi người.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Những việc thiện gì trẫm đã làm, đều được thần dân noi theo và thực
hiện. Nhờ vậy mà họ tiến bộ và còn tiếp tục tiến bộ qua sự tôn kính cha
mẹ, tôn kính các bậc trưởng thượng, lễ phép với người già và tử tế với các
bậc tu hành, với người nghèo, kẻ khổ và ngay cả với nô tì và gia nhân.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Những tiến bộ này của thần dân qua Chánh Pháp được thực hiện bằng
hai cách, bởi những qui định Chánh Pháp và bởi thuyết phục. Những qui định
Chánh Pháp thì không có hiệu quả mấy, trong khi thuyết phục thì hiệu quả
hơn nhiều. Những qui định Chánh Pháp trẫm ban chaüng hạn như phải bảo vệ
một số thú, và nhiều qui định Chánh Pháp khác. Nhưng chỉ bằng thuyết phục
thì tiến bộ của thần dân qua Chánh Pháp có nhiều hiệu quả hơn liên quan
đến không hành hạ sinh vật và không sát sinh.
Về việc này, Thiên tử, Vua
Piyadasi phán rằng: Ở đâu có thạch trụ hay mặt đá thì ở đấy Pháp dụ được
khắc ghi để nó trường tồn đến đời con cháu trẫm, và còn dài lâu như mặt
trời và mặt trăng còn soi sáng để thần dân thực hành theo lời dạy Chánh
Pháp. Bởi qua thực hành Chánh Pháp thì an lạc mới có trong đời này và đời
sau.
Pháp dụ này được ghi hai mươi
bảy năm sau khi trẫm đăng quang.
Ghi Chú:
64. Khoảng 1 mile.
65. Tu sĩ Kỳ-na
giáo (Jaina hay Jains). Giáo chủ là Makkhali Gosala, cùng thời với Đức
Phật Thích Ca.
E. Tiểu Thạch Trụ Pháp Dụ
E.1: TTTrPD I (Còn gọi là
Thạch Trụ Pháp Dụ Rummindei)
Hai mươi năm sau khi đăng
quang, Thiên tử, Vua Piyadasi đã viếng thăm và lễ bái nơi này bởi vì đây
là nơi Đức Phật Thích Ca, Bậc Giác Ngộ đã ra đời. [66] Thiên tử đã cho xây
một tường đá bao bọc xung quanh và dựng một thạch trụ. [67] Và vì Đức Thế
Tôn đãn sinh ở đây, làng Lumbini [68] được miễn thuế và chỉ đóng một phần
tám nông sản.
Ghi Chú:
66. Lời ghi này
được khắc trên một thạch trụ tại Lumbini vào năm 249 TTL.
67. Bản Dhammika:
"Thiên tử đã cho tạc tượng và dựng một thạch trụ."
68. Nay được gọi là
Rummindei.
E.2: TTTrPD II (Còn gọi là
Pháp dụ Sanchi, hay Allahabad)
Thiên tử, Vua Piyadasi lệnh
cho Đại thần cai trị ở Kosambi rằng: [69] Kẽ nào đã chia rẽ tăng-già không
được thâu nhận vào tăng-già nữa.
Tăng-già của tỷ-khưu hay
tăng-già của tỷ-khưu-ni nay đã được hòa hợp, tiếp tục hòa hợp cho đến đời
con và cháu của trẫm, và còn dài lâu như mặt trời và mặt trăng còn soi
sáng.
Kẽ nào, dù là tỷ-khưu hay
tỷ-khưu-ni, quấy rối trong tăng già bị buộc phải mặc bạch y [70] và không
được sống trong tịnh xá. [71] Ước muốn của trẫm là tăng-già hòa hợp và
trường tồn mãi mãi.
Ghi Chú:
69. Phần đầu của
Pháp dụ này đã bị hư hỏng; chỉ có câu "chia rẽ" còn đọc được mà thôi.
Người ta phải dựa vào những Pháp dụ nơi khác để đọc được toàn bộ nội dung
của Pháp dụ này.
70. Chỉ tăng và ni
mới được mặc y vàng.
71. Anabasasi.
E.3: TTTrPD III (Còn gọi là
Pháp dụ Sarnath)
[..] [72] không ai được gây
xáo trộn tăng-già.
Nếu một tỷ-khưu hay một
tỷ-khưu-ni quấy rối trong tăng già, tăng hay ni ấy phải bị buộc phải mặc
bạch y và không được sống trong tịnh xá.
Pháp dụ này phải được công bố
trong tăng-già của tỷ-khưu và trong tăng già của tỷ-khưu-ni.
Thiên tử, Vua Piyadasi phán
rằng: Treo một bản của Pháp dụ này trong hành lang của tịnh xá; trao một
bản cho tất cả tín đồ. Tín đồ phải tụ họp mỗi ngày chay để học tập về Pháp
dụ này. Mỗi quan lại phải thường xuyên đến dự mỗi ngày chay để làm quen và
hiểu rành rẽ Pháp dụ này.
Lại nữa, ngươi (chỉ vị quan
đầu tỉnh) phải ra lệnh xuống khắp nơi thi hành nghiêm chỉnh Pháp dụ này.
Các phó quan thuộc quyền của ngươi cũng phải làm như thế ở khắp các châu
huyện.
Ghi Chú:
72. Ba dòng đầu của
Pháp dụ đã bị hư hỏng. Những mảnh còn sót đọc được cho người ta gợi ý rằng
Vua Piyadasi (Asoka) lệnh cho các quan phải ngăn ngừa những kẻ quấy rối
trong tăng già. Bản Dhammika không có Pháp Dụ này.
F. Pháp Dụ Hang Động Karna
Chaupar
Mười chín năm sau khi đăng
quang, Thiên tử, Vua Piyadasi [73] tặng hang động này, trong dãy đồi thơ
mộng Khalatika, không hề bị ngập nước vào mùa mưa.
Ghi
Chú:
73. Bản Dhammika
không có Pháp dụ này. Dãy đồi Barabar (thời Asoka gọi là Khalatika) có 7
động: 4 ở đồi Barabar, 3 ở đồi Nagarjuni. 5 động được tặng cho các đạo sĩ
Ajivika làm nơi cư trú.
Trần
Trúc-Lâm
Seattle, trọng thu
2001
Tài
Liệu Tham Khảo:
1. Ven.
S. Dhammika, "The Edicts of King Asoka" Buddhist Publication Society,
Kandy, Sri Lanka, 1993.
2. Nayarayanrao
Appurao Nikam and Richard McKeon, "The Edicts of Asoka", The University of
Chicago Press, 1959.
3. Kenoyer, J.M.,
"Ancient Cities of the Indus Valley Civilization", Oxford University
Press, Oxford, New York, Delhi, 1998.
4. Possehl, G.L.,
"Indus Age; The Beginnings", Oxford and IBH Publishing, New Delhi, 1999.
5. Possehl, G.L.,
"Harappan Civilization: a Recent Perspective", Oxford and IBH
Publications, New Delhi, 1993.
6. Possehl, G.L,
"Indus Age - The Writing" Oxford and IBH Publications, New Delhi, 1999.
7. Shaffer, J.G.,
"The Indo-Aryan Invasions: Cultural myth and Archaeological Reality" in
"The People of South Asia" edited by J.R. Lukas, Plenum Press, New York,
1984.
8. Chris J.D.
Kostman, M.A., "The Demise of Utopia: Contexts of Civilizational Collapse
in the Bronze Age Indus Valley", JAGNES, the Journal of the Association of
Graduates in Near Eastern Studies, 2001.
9. Romila Thapar,
"Languages and Scripts of Asoka's Inscriptions". Microsoft Encarta DVD,
2001.
10. John Snelling,
"The Buddhist Handbook", B&N, NY. 1991.