CHƯƠNG MỘT
ĐẠI ĐẾ ASOKA
MAURYA (A-DỤC VƯƠNG)
VÀ NHỮNG PHÁP DỤ
KHẮC TRÊN ĐÁ
Dẫn Nhập:
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch
sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka (còn được ghi là Ashoka, Hán âm là A Dục
Vương, hay A-du-Ca: có nghĩa là Vô Ưu) không những đối với dân-tộc Ấn, mà
còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo (viết tắt PG) đến các
nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử Ấn độ đương thời.
Các Nền Văn
Minh Ban Sơ ở Ấn Độ:
Lịch sử Ấn Độ tồn tại rất lâu
đời. Một cách khái quát thì sau thời kỳ đồ đá (Stone Age) kéo dài từ 70
ngàn đến 7 ngàn năm TTL, nền văn minh Mehrgarh xuất hiện đến khoảng 3 ngàn
năm TTL Tiếp đến là thời văn minh thung lũng sông Indus cổ đại ở vùng tây
bắc tiểu lục địa Ấn, dựa vào những phát hiện khảo cổ ở Harappa và
Mohenjo-Daro vào khoảng 1920, thì nó đã xuất hiện khoảng 2 ngàn 500 năm
TTL Nền văn minh này kéo dài hơn một ngàn năm, đã được xem như là một
trong những nền văn minh cổ nhất của nhân loại, cùng với nền văn minh
Ai-cập và Lưỡng Hà (Mesopotamia, ở Iraq ngày nay). Nhiều sử gia cho là
giống dân Dravidian bản địa, vóc thấp, da sậm, mũi rộng, tóc xoắn, đã dựng
lên nền văn minh đó với lễ nghi tôn giáo phát triển, thiết kế và kiến trúc
đô thị ban sơ có kế hoạch, xây nhà bằng gạch hai ba tầng, dựng kho chứa
ngủ cốc, biết cân đo đong đếm. Đại đa số là nông dân chuyên canh tác và
biết dùng đồ đồng và thau, biết thuần hoá gia súc, dùng trâu để kéo xe,
biết dệt vải bông và lông cừu và làm dấu mộc. tạc tượng vv...
Nền văn minh sông Indus đang
hồi phát triển vào khoảng 2,300-1,900 năm TTL bổng bị tàn lụi nhanh chóng
cho đến nay các sử gia chỉ phỏng đoán là do khí hậu bổng thay đổi khắc
nghịệt làm đất đai khô cằn; hoặc do các dòng sông đổi giòng.
Đến khoảng 1,500 năm TTL, có
giống Aryan, vóc lớn, da trắng, mũi cao, nhiều râu, từ vùng Trung Á (ở mạn
nam nước Nga ngày nay) theo ngã Iran tràn xuống nhiều đợt xâm chiếm vùng
tây bắc (Punjab ngày nay). Họ chuyển đổi từ lối sống du mục sang định cư
nông nghiệp, biết quí trọng súc vật, nhất là ngựa và bò cái, biết chế tạo
xe trận do súc vật kéo, biết làm lịch theo mặt trăng, tôn sùng các đạo sĩ
và thầy tế lễ vv, Đến khoảng năm 1000 TTL thì họ biết dùng đồ bằng sắt nên
bành trướng rất nhanh trong vùng. Khoảng 800 TTL họ đã chia thành nhiều
tiểu vương cai trị hết vùng đông bắc và nam Ấn. Họ đã đưa văn học, triết
học, tôn giáo, tổ chức xã hội Ấn đến tột đỉnh, tạo nên nền văn minh Vedas,
cốt lõi của Ấn giáo. Upanishads có lẽ được kết tập giữa thế kỷ thứ 8 và
thứ 5 TTL.
Nhưng cũng từ đó xã hội Ấn đã
bị phân chia ra nhiều đẳng cấp khác biệt, còn kéo dài đến ngày nay; đại để
có bốn giai cấp (varnas) từ cao đến thấp là Brahmans (Bà-la-môn: gồm thầy
tế lễ, trí giả), Kshatriyas (vương tướng), Vaisyas (thương nhân, địa chủ)
và Sudras (kẽ lao động, thợ thuyền, nghệ nhân, gia nhân). Ba đẳng cấp trên
dành cho người gốc Aryan, được xem là tinh khiết, được quyền học kinh
Vedas để được tái sinh theo nghĩa tôn giáo (born again). Đẳng cấp thứ ba
dành cho dân gốc bản địa, không tinh khiết và không được học kinh Vedas.
Phải kể thêm một hạng người nữa khốn khổ thấp kém nhất chẳng được xếp vào
giai cấp nào, gọi là Harijans hay Paraiyans (Hạng ghê tỡm), bao gồm những
kẽ làm nghề sát sinh súc vật, thuộc da. Nên nhớ là trong mỗi đẳng cấp còn
có sự phân chia ra rất nhiều thứ loại (jati) tạm gọi là phường hay nghiệp
đoàn. Theo thống kê năm 1901 đã có đến 2,378 phường như thế.
Đến khoảng thế kỷ thứ 6 TTL,
thời đức Phật Thích Ca còn tại thế, đã nẩy sinh nhiều trường phái đòi cải
cách những quan nịệm bất công đối xử trong xã hội bắt nguồn từ Vedas và
còn thách thức cả Ấn giáo. Hai tôn giáo mới có tầm nhìn khoan dung và cách
mạng hơn đã xuất hiện: đó là Phật giáo và Kỳ Na giáo (Janism). Trong giai
đoạn này, đất Ấn có khoảng 16 nước lớn nhỏ; và các vương quốc hùng mạnh
đều tập trung ở vùng bắc Ấn (vùng Bihar bây giờ) như Avanti, Vaishali
(Vệ-sá-lị), Kosala (Kiều-tát-la), Magadha (Ma-Kiệt-Đà) vv.. Sau nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược tương tàn, Magadha dưới triều vua Bambisara
(Tần-Bà-Sa-La, lại có nơi dịch là Bình-Sa-Vương) thuộc giòng họ Haryanka
thâu tóm các lân bang trở nên một đế quốc khá rộng, đóng kinh đô ở
Rajagrha (Thành Vương Xá), cách Patna ngày nay khoảng 35 dặm về phía đông
nam.
Vua Bambisara lên ngôi lúc 15
tuổi, trở thành một cư sĩ Phật tử lúc 30 tuổi, và nhịệt tình hổ trợ đạo
Phật. Ông trị vì được 52 năm, đã xây 16 tịnh xá ở Vương Xá và cúng dường
Đức Thích Ca khu vườn trúc rộng lớn để Phật cùng tăng đoàn cư ngụmà hoằng
hoá. Khu vườn này được nhắc đến nhiều lần trong Tam tạng kinh điển, đó là
Tịnh Xá Trúc Lâm (Venuvan-arama). Nhiều tác giả nghiên cứu về Phật giáo
đều cho rằng ngôn ngữ đức Thích Ca thuyết pháp thời bấy giờ là tiếng
Magadhi phổ thông.
Đến khoảng năm 420 TTL triều
đại Haryanka lại mất vào tay của giòng họ Nanda, nhưng họ Nanda chỉ tồn
tại được trong vòng 100 năm rồi bị giòng họ Maurya lật đổ.
Triều Đại
Maurya:
Đầu thế kỷ thứ 4 TTL, ở vùng
Trung-đông đại đế Alexander của Hy lạp sau khi đánh bại quân Persians vào
năm 326 TTL, đã mở rộng đế quốc Hy từ phía Tây đến biên cương Ấn nhưng rồi
bị chận đứng ở vùng sông Bès (bây giờ là Lahore, Pakistan). Sau khi
Alexander rút lui và qua đời ở Babylon vào năm 323 TTL, vua Chandragupta
Maurya lúc bấy giờ đã lật đổ triều đại Nanda vào năm 321 TTL đẩy lui nhiều
đợt quân xâm lăng của Seleucus Nicator I, kẻ kế vị Alexander, ở vùng
Afghanistan, Baluchistan và Pakistan bây giờ, rồi mở rộng bờ cõi xuống
phía tây nam đến Gujatt và thung lũng Daccan. Vua Chandragupta Maurya (trị
vì từ 321 đến 298 TTL) đã dời đô đến Pâtaliputrâ (Thành Hoa Thị; tức thành
phố Patna ngày nay) vốn là một pháo đài kiên cố trấn ngự ở châu thổ giao
tiếp của hai con sông chính là Ganga (Hằng Hà) và sông Sona.
Sự sinh hoạt và cai trị theo
lối trung ương tập quyền và những chính sách ngoại giao khéo léo của triều
đại Chandragupta Maurya đã được ghi lại trong cuốn Arthasastra bởi
Kautilya (còn được biết dưới tên Chanakya), là tể tướng của triều ông.
Ngoài ra nhiều đoạn của một báo cáo do sứ thần của vua Seleucus tên là
Megathenes ghi lại còn tồn tại đến nay qua sự trích dẫn của các sử gia
Hy-La.
Đến đời vua Bindusàra Maurya
(trị vì từ 298 - 273 TTL) thì đế quốc này còn bành trướng thêm nữa từ
Kashmir ở phía bắc đến Karntaka ở phía nam, và từ châu thổ sông Hằng ở
phía đông sang đến mạn nam và đông của xứ Afghanistan bây giờ. Đế quốc
Maurya đã nổi tiếng với những thành phố lớn phồn thịnh như Takshasila,
Ujjain, Vidisha, Tosali, và Suvarnagiri.
Đến đời Hoàng Đế Asoka Maurya,
vị vua thứ ba của triều đại Maurya, ông kế tiếp chính sách bá quyền, và
thâu tóm gần hết tiểu lục địa Ấn. Đế quốc của ông hùng mạnh tột đỉnh và
ông đã để lại cho hậu thế một chứng liệu miên viễn bằng đá, dưới dạng
những pháp dụ, bởi nếu không thì những điều nói về vua Asoka chỉ được biết
qua những huyền thoại ghi lại trong những kỷ yếu viết bởi các tăng sĩ Phật
giáo ở Tích-Lan và Ấn như các bộ Divyavadana, Asokavadana, Mahavamsa vv..
Đại Đế Asoka
Maurya (269-232 TTL):
Đại
Đế Asoka Maurya sinh năm 304 TTL, lên ngôi năm 269 TTL lúc 35 tuổi, trị vì
được 38 năm và mất năm 232 TTL thọ 73 tuổi. Ông là vị vua vĩ đại nhất của
Ấn, và là vị hoàng đế đầu tiên đã cai trị một đế quốc Ấn rộng lớn.
Dựa vào bộ Mahàvamsa (Đại Sử)
đã được biên soạn bởi tăng già ở Tích-Lan thì ngay sau khi vua cha là
Bindusàra băng hà vào năm 273 TTL, đã có sự tranh dành ngôi vua rất gay
gắt giữa các hoàng tử trong 4 năm. Giai đoạn này Sử ghi là thời không vua
(Interregnum). Rốt cục Asoka, với sự hổ trợ đắc lực của vài đại thần ở
kinh đô Pâtaliputrâ (Thành Hoa Thị), đã thành công và lên ngôi vào năm 269
TTL.
Tám năm sau khi kế vị vua cha,
hoàng đế Asoka xua quân đánh chiếm nước Kalinga dọc vùng duyên hải mạn
đông, nay là bang Orissa vì xứ này giàu có nhờ quặng mõ, sung túc nhờ vựa
lúa, vàvị trí hàng hải thuận lợi dẫn đến vùng thung lũng Krishna đầy mõ
vàng và đá quí. Chiến dịch thành công nhưng đẩm máu. Theo các pháp dụ do
ông sai khắc lên đá thì cuộc xâm lăng này đã làm cho 150 ngàn nguòi bị bắt
làm nô lệ hoặc bị đầy ải, 100 ngàn quân sĩ bị giết, số thường dân bị sát
hại còn cao hơn nhiều lần.
Trước trận Kalinga hai năm, có
vẽ như là vua Asoka đã trở thành một Phật tử sau khi nghe vị Sa-di
Nigrodha (Ni-câu-thuật) thuyết pháp, nhưng không mấy nhiệt tâm (xem Tiểu
thạch pháp dụ số 1), mãi đến sau khi chứng kiến thảm cảnh đau thương của
chiến dịch này ôâng quá xúc động và rất hối hận, rồi từ đó quyết từ bõ
chiến tranh xâm lấn và hồi tâm để trở nên một Upàsaka (Ưu-bà-tắc: cư-sĩ
Phật tử) thuần thành. Suốt quảng đời còn lại ông đã kiên trì ứng dụng Phật
pháp vào việc trị nước một cách đầy nhân ái mà ông gọi là dhammavijaya
(pháp chinh phục), và đã ủng hộ Phật giáo phát triển sâu rộng không những
trên toàn đế quốc ông cai trị mà còn truyền bá đến các nước lân bang.
Những sự kiện này xảy ra khoảng hai thế kỷ sau khi Đức Phật Thích Ca nhập
diệt.
Bộ Mahavamsa - vốn được viết
trong tinh thần tôn giáo với nhiều huyền thoại với dụng ý răn đời đã muốn
đề cao Asoka từ khi trở thành Phật tử đã từ bõ quá khứ đầy ác nghiệp, từ
một Candàsoka (A-Dục Vương bạo chúa) trở thành Dhammàsoka (A-Dục Vương mộ
Pháp) - nên bộ này đã ghi rằng trong cuộc tranh dành ngôi vua, Asoka đã
giết 99 người trong số 100 anh em của mình, chỉ còn để sót lại một người
tên là Tissa. Thực ra không có chứng cớ khả tín về điều này, vã lại trong
Đại thạch Pháp dụ số 5 được ban ra 11 năm sau khi ông lên ngôi còn cho
thấy vua Asoka nhắc đến anh chị em mình. Các học giả tin rằng trong vụ
tranh ngôi này chỉ có một người anh (hay em) đã bị sát hại mà thôi. Hơn
nữa với thời gian trị vì của ông, ngoài hai sự kiện là tranh dành ngôi vua
và cuộc xâm lăng Kalinga trong 8 năm đầu, suốt quảng 30 năm còn lại ông đã
trở thành một hoàng đế nhân từ đem Chánh Pháp ra ứng dụng vào đời, chứ
không tàn bạo như Nero của La Mã hay Trụ Kịệt, Tần Thuỷ Hoàng của Trung
Quốc, nên vịệc gán cho ông xú danh Candasoka xem ra thiếu cơ sở. Nhiều học
giả nghiêm túc còn so sánh ông với những vĩ nhân khác như Hammurabi của
Babylon, Charlemagne của đế quốc Tây Âu hậu La Mã hay Akbar của đế quốc
Mogul.
Nhiều cổ thư ở Tích-Lan đã ghi
lại sự kiện là Asoka nhờ đã áp dụng chính sách chinh phục ôn hoà bằng
Chánh Pháp mà ông đã khôn khéo ổn định đời sống chính trị toàn vùng và
nhiều lần dẹp yên các cuộc nổi loạn mà không đổ máu; trong đó đáng kể là
cuộc nổi loạn của dân ở thành Takshasila thuộc vùng Gandhara chống lại sự
áp bức hà khắc của quan cai trị địa phương. Về sau Gandhara trở thành
thịnh địa của Phật giáo, mà từ đó phái Đại thừa phát triển qua phương
Đông.
Để thần dân thông hiểu chính
được những sự cải cách trong chính sách cai trị mới và những nguyên tắc về
đạo đức ông đặt ra dựa theo Chánh Pháp cốt tạo dựng nên một xã hội đầy
nhân bản và công chính hơn, Asoka đã ra lệnh khắc những pháp dụ này lên đá
- có khi gọi là Lời ghi chánh pháp (dharmalipi) , có khi lại gọi là pháp
lệnh (dharma-sravana) - đồng thời cho rao truyền rộng rãi khắp nơi trong
nước. Những pháp dụkhắc trên đá của vua Asoka đã minh họa được hình ảnh
của một vị minh quân luôn nhiệt tâm thực thi Chánh Pháp của Phật dạy để
mang lại cho trăm họ một đời sống hiền hoà, no ấm phúc lợi, nhưng vẫn
không cho biết thêm chi tiết nào về cuộc đời của ông.
Khám phá các
bia đá:
Sự khai thị về các Pháp dụ của
Asoka được xem như chỉ là gần đây mà thôi. Người nghiên cứu đầu tiên lại
là một tu sĩ Thiên Chúa giáo, khi cha Tieffenthaler khảo sát những mảnh
của pháp trụ Meerut tại Delhi vào năm 1756, nhưng không hiểu được nội
dung. Mãi đến năm 1837 những pháp dụ của Asoka mới được nhà khảo cổ James
Prinsep giải ám mã lần đầu tiên, rồi từ đó những pháp dụ được dịch thuật
và in ấn quảng bá khắp nơi.
Ban đầu Prinsep thấy rằng những
dụ này đã được ban ra bởi một vị vua tự gọi mình là "Vua Piyadasi, Thiên
tử" (phỏng từ "Beloved-of-the-Gods, King Piyadasi") hoặc "Devanampiya
Piyadasi, Thiên tử, Người Nhìn Xuống với Từ Tâm" ("Beloved-of-the-Gods, He
Who Looks On With Affection"). Các học giả phỏng đoán Vua Piyadasi có thể
là Vua Asoka, thường được xưng tụng trong các huyền thoại Phật giáo. Cho
mãi đến năm 1915, khi một pháp dụ khác được tìm thấy với tên vua Asoka,
người ta mới khẳng định được rằng cả hai chính là một, đó là hoàng đế
Asoka, và từ đó, sau hơn hai ngàn năm bị quên lãng, những pháp dụkhắc trên
đá này của vua Asoka bỗng dưng làm sáng tõ thêm về một con người vĩ đại
của lịch sử Ấn và của cả nhân loại, chứ không còn là một nhân vật chỉ đuọc
biết đến qua huyền thoại. Một câu ghi lại trên đá đã phản ánh chiều hướng
tâm linh của Asoka: "Tất cả thần dân là con của ta. Vì là con của ta, họ
phải được chu cấp đầy đủ an sinh và phúc lợi trong đời này và đời sau, như
ta vẫn hằng mong."
Ngôn ngữ thời
Maurya:
Theo giáo sư Romila Thapar về
môn Lịch sử Ấn cổ tại Đại học Jawaharlal Nehru ở New Delhi thì hệ văn tự
của các Pháp dụ này được xem là văn hệ sớm nhất của Ấn có thể nghiên cứu
được. Văn hệ cổ hơn mà người ta khám phá ở Harappa thuộc văn minh thung
lũng sông Indus chỉ là những nét vẽ tượng hình trên dấu mộc, vật trang sức
và lọ gốm mà đến nay vẫn chưa ai hiểu được ý nghĩa.
Những pháp dụ khắc đá của vua
Asoka đánh dấu thời kỳ chuyển biến từ khẩu truyền sang văn tự của xã hội
Ấn vì chúng là những chữ tượng âm chứ không tượng hình như xưa. Nghiên cứu
kỹ những bia ký, người ta thấy Hoàng Đế Asoka cho ghi lại Pháp dụ bằng bốn
văn hệ cho ba ngôn ngữ khác nhau. Phần quan trọng và chiếm đại đa số bia
ký là ngôn ngữ Prakrit - bấy giờ là ngôn ngữ đàm thoại phổ thông của xứ
Magadhi, tức là ngôn ngữ chính thức trong triều Asoka, và phần còn lại
bằng ngôn ngữ Hy-lạp và Aramaic.
Ngôn ngữ Prakrit lại được viết
dưới hai dạng văn hệ Brahmi và Kharoshthi (gần với Sanscrit). Đa số pháp
dụ được viết theo văn hệ Brahmi, truyền bá rộng khắp đế quốc. Nhiều học
giả cho rằng văn hệ Brahmi do triều đại Maurya sáng tạo bởi nhu cầu hành
chánh trong việc cai trị một đế quốc rộng lớn. Nó là dạng chuyển tiếp giữa
Sanscrit xuất phát từ vùng tây bắc Ấn (thường dùng trong giới thần học,
triết học, hoặc huyền học) và ngôn ngữ hiện đại Indo-European của Ấn. Văn
hệ Brahmi, dù vậy cũng bị biến dạng đôi chút theo phát âm ở từng địa
phương, ví dụ văn hệ để viết tiếng Tamil ở vùng phía nam vốn cải biên từ
hệ Brahmi.
Sự sử dụng ngôn ngữ Prakrit
trong các Pháp dụ cũng cho thấy rằng Asoka muốn đem Chánh pháp ra ứng dụng
với đời thường chứ không chỉ để một số tăng lữ dùng để bàn luận theo ngôn
ngữ Sanscrit. Văn phong dùng thể nói chuyện rất bình dân dễ hiểu và thuòng
lập đi lập lại, cứ như Hoàng Đế muốn trực tiếp nói với quần chúng, chứ
không kiểu cách cầu kỳ như các quốc vương khác đương thời hay xử dụng. Qua
đấy nhiều học giả đã nhìn thấy bản tính bộc trực chân thật của Asoka.
Rất ít bản khắc bằng văn hệ
Kharoshthi và bằng ngôn ngữ Hy-lạp và Aramaic. Những bản này chỉ thấy ở
vùng tây bắc thuộc Afghanistan bây giờ, nơi có nhiều dân nói được hai ngôn
ngữ ấy. Không rõ là những Pháp dụ thuộc loại này đã được triều đình ra
lệnh hay là do các quan cai trị địa phương làm ra như là một bản dịch cho
dân trong vùng, vốn đa chủng hỗn tạp. Trên một trong những pháp dụ ở vùng
này, Hoàng Đế Asoka đã kể ra tên của 5 vị vua các nước phương tây đồng
thời có bang giao, nhờ vậy đã giúp nhiều cho vịệc nghiên cứu sử đối chiếu.
Đó là các vua Antiyoka (Anh ngữ: Antiochos II Theos ở Syria: 261- 246
TTL), Turamaya (Ptolemy II Philadelphos của Ai cập: 285 - 247 TTL),
Antikini (Antigonos Gonatas của Macedonia: 278 - 239 TTL), Maka (Magas của
Cyrene: 300 - 258 TTL) và Alikasudara (Alexander của Epirus: 272 - 258
TTT).
Dựa vào các bia ký bằng Hy ngữ
và Aramaic này mà các nhà nghiên cứu Tây phương hiễu được những từ tương
tự ở bản Prakrit. Nhưng cũng chính vì vậy đã gây khá nhiều ngộ nhận, ví dụ
từ dharma lại không có lấy một chữ gốc Hy và Aramaic (và cả Anh ngữ ngày
nay) tương đồng để dịch và ngay trong các bản văn bằng Hy ngữ vàAramaic
này cũng không có nơi nào đề cập đến Đức Phật. Cho nên nhiều dịch giả phải
phỏng dịch ra như là: thương xót (piety), đức hạnh (virtue), bổn phận
thiêng liêng (sacred duty), hoặc dùng nguyên ngữ là dharma dạy bởi Đức
Phật (the dharma taught by the Buddha). Trong bản khắc bằng Hy ngữ lại
được ghi là eusebeia, với một nghĩa rất tổng quát như vừa kể.
Chính vì dựa vào những ngộ nhận
này mà nhiều học giả Tây phương nghi ngờ rằng chữ dharma Asoka đã dùng
không phải mang một nghĩa như Chánh pháp của đạo Phật mà là những khuyến
dụ về đạo đức xã hội nói chung. Có kẻ còn bảo rằng vì trên những bia ký
chẳng hề thấy Asoka đề cập đến giáo lý căn bản của Phật giáo như là Luân
hồi (samsàra), Giải thoát (mokkha), Niết-bàn (nibbàna), Vô ngã (anatta),
Bát Chánh Đạo (atthangika-magga), hay Tứ Diệu Đế (cattari ariya-saccani)
nên đã giải thích chữ dharma theo lối suy diễn ngoại đạo chủ quan của
mình. Thật là đáng tiếc, vì họ quên rằng dù Asoka đã trở thành một cư-sĩ
Phật tử nhưng ông phải cai trị một đế quốc rộng lớn như một minh quân,
phải công bằng với thần dân vốn đa dạng và đa tín ngưỡng, ở một xã hội có
nền văn hoá bao dung chứ không cuồng tín độc tôn, độc thần. Asoka không
thể nào dùng những ngôn từ thuần Phật pháp để phủ dụ thần dân được.
Nhưng qua một vài pháp dụ riêng
cho tăng già ví dụ tiểu thạch pháp dụ số 3 hay còn gọi là Pháp dụ Bairàt,
thì không còn nghi ngờ gì nữa về đức tin Phật giáo của Asoka. Trong dụ này
sau lời vấn an tăng già, ông xác định đức tin vĩ đại của ông vào Phật,
Pháp và Tăng. Ôâng bảo rằng tất cả pháp do Đức Phật thuyết giảng đều là
chân diệu pháp và ông muốn nó được trường tồn. Ông còn cho ghi ra tên của
7 bản kinh để Tăng-già thường xuyên tu học.
Những pháp dụ khắc đá nói chung
nhắm vào nhiều thành phần là các quan chức dưới triều, giới tăng già, và
thần dân. Đối với thành phần đầu thì ông quan tâm đến sự an sinh phúc lợi
của dân chúng, và kêu gọi các quan chức nên đề cao đạo đức và nhịêm vụ xã
hội để cai trị dân tốt hơn. Ở thành phần giữa thì ông quan tâm đến việc tu
tập của tăng chúng và vịệc điều hành các tịnh xá. Ở thành phần sau thì ông
chỉ khuyến khích việc ăn ở theo Chánh pháp (Dharma).
Cai trị theo
Chánh pháp:
Vua Asoka còn thường xuyên tuần
du thiên ha, gọi là những chuyến vi hành Pháp (dhammayàtras) để giảng dạy
Chánh pháp cho mọi người. Ông còn ra lệnh cho các quan đại thần cũng nên
làm như thế. Hoàng Đế Asoka tự cho mình có trách nhiệm phải giải nghĩa,
công bố và rao giảng Chánh Pháp (Dharma). Với sự minh mẫn siêu việt, Asoka
đã chỉ ra trong đời thường, nó là sự tương tác nhiều mặt của đời sống đạo
đức: Nó phản ánh những trách nhiệm và bổn phận của con người tuỳ vào vị
trí của mình trong xã hội; nó phản ánh cái trật tự trong vũ trụ và chân lý
cảm nhận được trong cái trật tự đó; nó là mối dây ràng buộc con người
trong gia đình, xã hội, tôn giáo và đất nước; nó là cái tri kiến cơ bản
làm nền tảng cho sự thông cảm và an hoà, vốn được biểu lộ khác nhau bởi
các nền văn hoá và tôn giáo dị biệt; nó là sự chỉ đạo cho hành động và sự
tự giác và hạnh phúc; nó chỉ đạt được bằng hành động, phát triễn thêm bằng
thực hành, và bảo vệ bằng luật lệ, và nhờ vậy nó tạo nên cơ sở cho chính
sách, giáo dục và công lý; nó được khám phá bằng tự quán, thiền định, và
chuyển hoá, và nó đưa dần đến việc từ bõ những điều không thích nghi với
nó. Suốt thời trị vì, ông đã kiên trì thực thi những tin tưởng của mình
cho đến cuối đời khi ông đồng hoá với quan niệm chakraqvartin, (Chuyển
luân vương); tự cho mình là một minh quân đang vận hành bánh xe chánh pháp
khắp nơi để bảo toàn sự an sinh phúc lợi cho mọi người.
Ông lại đặt ra một bộ gọi là
"Bộ thực thi Chánh pháp hay Bộ Pháp Hành", bổ nhiệm các quan đại thần gọi
là dharmamahàmàtras (Pháp đại thần) vào năm 257 TTL (theo dụ số V, 13 năm
sau khi ông lên ngôi) chuyên trông coi mọi công tác phúc lợi xã hội của
người dân, quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ, của dân sống ở
biên cương, đến các cộng đồng tôn giáo khác nhau và phải vô tư khi thi
hành công lý. Ông còn phủ dụ cho các quan chức các cấp nên thuyết phục dân
trong vịệc ứng dụng Chánh pháp vào đời sống thường ngày hơn là ép buộc
bằng lệnh lạc. Ông cũng uỷ thêm quyền cho những phán quan ở khắp nơi để
ngăn ngừa sự chểnh mảng công tác, cũng như tránh việc đối xử dã man với
súc vật và giải quyết nhanh chóng những khó khăn gặp phải. Pháp dụ còn
liệt kê những thú rừng được triều đình bảo vệ không được săn bán. Ông còn
ra lệnh là những việc khẩn cấp cần phải được đệ đạt đến ông ngay.
Những thành tựu đáng kể còn
được ca tụng đến bây giờ là việc xây cất nhiều bệnh viện cho người và gia
súc, cũng như cho trồng nhiều khu vườn thảo dược, việc xây dựng rộng rải
một hệ thống đường sá với hàng cây đa và xoài phủ bóng bên lề, với giếng
đào và nhà nghỉ dọc đường ở từng khoảng đều đặn cho khách lữ hành. Hệ
thống giao thông này đã làm cho việc thương mại và hành chánh của đế quốc
Maurya phát triễn thuận lợi nhiều mặt.
Đối với thần dân ít khai ngộ
thì Hoàng Đế Asoka khuyến khích việc ứng dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng
ngày bằng thực hành những giới đức chân thật (sace), từ bi, ôn hòa (daya),
tử tế với mọi người (samya pratipati) hơn là thường bày trò cúng tế cầu
xin ơn phước; nên thường bố thí (dana) cho người nghèo khổ (kapana
valaka), cho các vị tu hành, bạn bè, thân nhân vv..; hạn chế sát sinh,
không hành hạ súc vật (avihisa bhutanam); không xa xỉ, không tham cầu, và
tránh dữ làm lành (apa vyayata apa bhadata) [tựa theo lời dạy trong Kinh
Tăng nhất A-hàm (Anguttara Nikaya, II:282)]; biết kính trọng các bậc
trưởng thượng như cha mẹ, ông bà, sư phụ, và cả đối với bạn bè, tôi tớ và
thầy cúng tế bà la môn [tương tự lời dạy của Đức Phật trong Trường Bộ Kinh
(Digha Nikaya) Đoạn 31]. Ông dạy rằng nếu làm được như thế thì sẽ mang lại
công đức vô lường.
Ông không đề ra và bắt phải
theo một nghi lễ tôn giáo độc đoán nào, nhưng chỉ thuyết về Phật giáo
riêng với giới tăng già mà thôi. Đối với các tôn giáo khác đương thời, gồm
có Ấn giáo, Kỳ na giáo và giáo phái Ajivika chuyên tu khổ hạnh, ông rất
công bằng và khuyến khích sống đời đạo hạnh (bhava sudhi), nhiệt tâm
(usahena), tôn trọng lẫn nhau, đề cao giá trị nội tâm (bahu sruta), tự chế
(sayame) và ngăn cấm việc xung đột tôn giáo. Ông đã không ngừng học hỏi
đàm đạo với các vị chân tu của các tôn giáo.
Các Pháp dụ
khắc trên đá:
Về hình thức thì các Pháp dụ đã
được phân loại theo dạng bề mặt đã được chạm khắc: mặt núi đá tảng, trụ đá
và hang động. Ngay cả bề mặt của vật liệu và nơi chốn cũng hàm cái dụng
công của nó, cho nên nội dung của Pháp dụ cũng đổi thay tương ứng. Dựa vào
các pháp dụ này mà người ta có thể đoán được niên kỷ của các sự kiện trong
thời Asoka trị vì.
Có thể phân biệt được hai giai
đoạn các bia ký được tạo ra. Giai đoạn đầu, 11 năm sau khi Asoka lên ngôi,
các pháp dụ đước khắc trên vách đá một cách thô thiển, và tuỳ vào nội dung
dài ngắn mà còn chia ra là Đại Thạch Pháp dụ (Major Rock Edicts) và Tiểu
Thạch Pháp dụ (Minor Rock Edicts). Những Thạch Pháp dụ này thường được
khắc trên những tảng núi đá lớn đến nay đã bị hư hỏng khá nhiều. Lấy
trường hợp bia ký ở Sopara, chỉ vài mảnh của dụ VIII và IX còn sót lại.
Nhờ vào những văn bản khác còn được bảo quản tốt mà người ta đọc được
những đoạn bị mất ở những pháp dụ bị hư hỏng.
Cho đến nay người ta phát hiện
có 14 đại thạch pháp dụ mang nội dung rất rộng rãi từ việc hạn chế sát
sinh đến cung cấp các dịch vụ phúc lợi và y tế, rồi đến cuộc chiến ở
Kalinga và những tác dụng của nó. Lại thêm hai pháp dụ Kalinga đựơc ban ra
vào năm măm 259 TTL, có học giả còn gọi là pháp dụ số 15 và 16. (mà nội
dung tương tự như 3 pháp dụ đã bị hư hõng, là các pháp dụ số XI: nói về
việc cứu tế và sự tương thân của nhân loại, số XII: nói về sự khoan dung
tôn giáo và XIII: nói về cuộc chíến tranh ở Kalinga, sự hồi tâm của
Asoka). Hai pháp dụ này cũng có lời dành cho các quan cai trị vùng mới
chiếm, nói về những vấn đề đạo đức, thi hành công lý, vấn đề làm giảm căng
thẳng với lân bang và cải thiện hoà bình liên quốc.
Mười bốn đại thạch pháp dụ kể
trên được tìm thấy ở 6 nơi khác nhau gồm: hai nơi gần biên giới phía tây
của đế quốc Maurya bên biển Ả Rập là Sopara thuộc bang Bombay và Girnar
thuộc bang Saurahtra; hai nơi gần biên giới tây bắc là Mansehra và
Shahbazgarhi ở vùng tây Pakistan; một nơi ở phía bắc là Kalsi thuộc Uttar
Pradesh và một ở phía nam Erragudi thuộc Andhra Pradesh. Mười một đại
thạch pháp dụ cùng với 2 pháp dụ Kalinga còn được tìm thấy ở Dhauli và
Jaugada thuộc Orissa, gần bờ biển phía đông bên vịnh Bengal.
Những Tiểu Thạch Pháp dụ có lẽ
đã được ban ra vào năm 260 TTL và là những Pháp dụ đầu tiên, cùng lúc với
những chuyến vi hành Pháp bắt đầu. Chúng tập trung hầu hết ở phía giữa và
nam của đế quốc gồm Tiểu Thạch Pháp dụ I, được tìm thấy tại 7 nơi ở bắc
Aán và Hyderabad: là Bairat, Gavimath, Maski, Palkigundu, Gujarra, Rupnath
và Sahasram. Tiểu Thạch Pháp dụ II được tìm thấy tại 5 nơi ở phía nam là
Brahmagiri, Jatinga-Ramesvara và Siddaoura thuộc bang Mysore, Erragudi và
Rajula-Mandagiri thuộc bang Andhra. Tiểu Thạch Pháp dụ III (pháp dụ dành
cho tăng già ban ra vào năm thứ 12 sau khi lên ngôi) được tìm thấy ở
Bairat.
Ở giai đoạn sau, vào năm thứ 27
đến 28 dưới triều của hoàng đế Asoka, những pháp dụ mới đươc khắc lên trên
những cột đá đánh chà bóng loáng, được dựng lên ở nhiều thành phố quan
trọng trong thung lũng sông Hằng và các đường lớn trong đế quốc, thường
được gọi là Thạch trụ Pháp dụ (Pillar Edicts). Lúc ban đầu có lẽ có rất
nhiều pháp trụ được dựng lên, nhưng đến nay chỉ còn lại có 10 trụ mà thôi.
Mồi trụ trung bình cao khoảng từ 12 đến 15 thước, nặng đến 50 tấn. Trên
đầu mỗi trụ đều được điêu khắc những hình tượng thật tinh xảo như sư tử
gầm, con bò thần hay con ngựa thánh vv.. Tất cả thạch trụ đều được lấy từ
các mõ ở Chunar, phía nam Varanasi và được kéo đến nơi được dựng lên,
nhiều khi xa cả hàng trăm dặm. Dù sau bao nhiêu thế kỷ phơi giữa mưa nắng
gió sương vậy mà nước bóng láng vẫn còn sáng như gương, đủ nói lên chất
lượng cao tuyệt của nghệ thuật tạc đá của Aán thời bấy giờ.
Hai đại sư Trung quốc hành
hương Tây trúc (Aán) là Pháp Hiển (Fa Hien: 401 - 410 TL.) ghi là đã nhìn
thấy 6 pháp trụ, và Huyền Trang (Hiuen Tsang hay Yuan Chwang: 629 - 645
TL) thì đã thấy 15, trong số ấy ngày nay chỉ 2 còn tồn tại đúng theo lời
Huyền Trang mô tả trong ký sự. Những pháp thạch trụ dựng ở Meerut và Topra
đã được vua Sultan Driuz Shah dời về Delhi ở thế kỷ 14. Trụ tại Kausambi
(thuộc bang Kosam ngày nay) cũng đã được vua Akbar dời về Allahabad ở thế
kỷ 16. Một số lớn khác có lẽ đã bị chôn vùi, che phủ bởi rừng rậm theo
thời gian thăng trầm, vật đổi sao dời.
Các Thạch trụ Pháp dụ này gồm 7
dụ mà nội dung tương đối đơn giản: bắt đầu bằng hai trụ nói về tự tánh của
Chánh pháp, đến 3 trụ nói về sự ứng dụng Chánh pháp vào việc chế ngự ác
nghiệp và tham ái, việc truyền bá đạo đức và công lý, và những qui định về
việc sát hại súc vật và tiệc tùng công cộng, và kết thúc với một pháp dụ
(hoặc 2 như trong trường hợp của trụ Topra) nói về phương thức truyền bá
đạo đức. Những thạch trụ Pháp dụ này đã được tìm thấy ở rãi rác trên 30
nới kháp toàn cõi đế quốc Maurya bao gồm Aán độ, Nepal, Pakistan và
Afghanistan ngày nay, như Meerut và Kausambi thuộc Utter Pradesh,
Lauriya-Araraj, Lauriya-Nandangarh và Rampurva thuộc Bihar. Một trụ khác
với dụ thứ 7 lại được tìm thấy tại Topra thuộc vùng đông Punjab. Văn bản
của bia ký trên các Thạch trụ Pháp dụ này giống hệt nhau.
Trụ
Allahabad lại có khắc thêm 2 dụ khác. Dụ thứ nhất, có khi được gọi là tiểu
thạch trụ pháp du I, cũng còn thấy xuất hiện ở Sanchi thuộc bang Bhopal và
tại Sarnath thuộc bang Uttar Pradesh. Bia ký không được bảo quản tốt nên
văn bản của bia ký trên trụ ở ba nơi có nhiều thay đổi.
Trụ tại Sarnath (nơi có vườn
nai: Lộc Uyển) lại còn khắc thêm phần tiếp theo của dụ trên trụ Allahabad,
còn gọi là tiểu thạch trụ pháp dụ II. Ngày nay chính phủ Ấn dùng hình tạc
bốn con sư tử đâu lưng với nhau trên thạch trụ Sarnath làm biểu tượng quốc
gia. Dụ còn lại thứ hai trên trụ Allahabad có khi được gọi là tiểu thạch
trụ pháp dụ III, là quà tặng của một bà hoàng hậu của vua Asoka, nên còn
được gọi là Pháp dụ của Hoàng hậu.
Hai trụ tìm thấy ở Nepal là trụ
ghi dấu thánh địa, một ở Rummindei hay Lumbini, nơi đức Phật đản sanh, một
gần hồ lớn Nigali Sagar, gần tháp giữ xá lợi của cổ Phật Kanakamuni.
Những hang
động pháp dụ (The Cave Edicts):
Những hang động pháp dụ (The
Cave Edicts) được tìm thấy ở 3 trong số 4 hang trong dãy núi Barabar thuộc
bang Bihar. Trong 2 hang trước có bia ký của Hoàng đế Asoka ghi vào năm
thứ 12, hang thứ ba ghi năm thứ 19 sau khi ông lên ngôi, tặng các hang
động như là nơi cư trú cho các nhà tu khổ hạnh thuộc giáo phái Ajivika, mà
giáo chủ là Gosala cùng thời với Đức Thích Ca. Trong hang thứ 4 thì bia ký
được ghi lại thuộc thế kỷ thứ 5 TL sau này. Ở một nơi khác là đồi
Nagarjuni có 3 hang động nữa chứa bia ký đề tặng cho tu sĩ phái Ajivika
của một vị vua dùng tước vị "Thiên tử ", nhưng lại do vua Dasaratha, cháu
của hoàng đế Asoka cho dựng lên.
Hộ Pháp Vương
của Phật Giáo:
Vị trí của Hoàng đế Asoka trong
Phật giáo thật là vinh hiễn, có thể nói là được tôn sùng lên hàng Hộ Pháp
Vương. Những công đức của ông thường được giới Phật tử ca tụng là lòng
sùng bái và hổ trợï Phật giáo của ông. Asoka cho xây cất nhiều tháp thờ xá
lợi Phật (stùpa), nhiều tịnh xá (vihàra). Kinh sách còn ghi là 84 ngàn
vihàras ở 84 ngàn thị trấn, và ngôi lớn nhất Asokàràma ở ngay kinh đô để
vua thường đến cúng bái.
Ông đã chu cấp thực phẩm cho
hàng trăm ngàn tăng ni, vì thế thời bấy giờ đã có nhiều kẽ xấu lợi dụng
khoác áo nhà tu gia nhập tăng chúng để được sống an nhàn. Điều này đã đưa
đến tình trạng suy đồi trong việc tu tập Phật pháp. Theo hai bộ Mahavamsa
và Samantapàsàdikà thì khi biết ra tệ nạn, Asoka liền ra lệnh cho thanh
lọc hàng ngũ tăng già và đã loại bõ đến 60 ngàn kẽ ngụy danh và ăn bám,
trước kỳ Đại hội kiết tập kinh điển (sangìti) lần thứ 3 tại kinh đô
Pâtaliputrâ dưới sự chủ trì của cao tăng Moggaliputtatisa (Mục-kiền-liên
Tử-đế-tu hay nói gọn Mục-liên-đế-tu) và do nhà vua bảo trợ.
Theo văn học PG thì kể từ sau
đại hội kết tập lần thứ hai hơn 116 năm sau khi đức Phật nhập Niết bàn,
trong giới tăng già đã manh nha sự phân phái thành hai trường là Trưởng
lão bộ (s: sthavira) và Ðại chúng bộ (s: mahāsāṅghika), tùy theo lối giải
dịch giáo pháp và giáo luật của đức Phật.
Như một giòng sông lớn khởi đi
từ nguồn sẽ phải phân nhánh theo thời gian và những địa hình khác nhau;
đạo Phật cũng thế, đã có những sự phân phái từ lần kết tập thứ hai. Sự
phân phái của Phật giáo là một điều kiện phải có để trường tồn. Nó phải
đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa để thích nghi với thời thế, và bản địa hóa để
dung hòa với truyền thống văn hóa, tập tục và tín ngưỡng địa phương trên
đường phát triễn. Vào thời vua Asoka thì trình độ dân trí và mức sống kinh
tế đã tương đối tăng trưởng.
Lược kê các
kỳ kết tập kinh điển quan trọng:
Muốn hiểu rõ thêm những tác
động đã đưa đến sự phân phái trong PG, xin được lược kê những kỳ kết tập
kinh điển quan trọng trong Phật sử. Mỗi phái đều có sự bất đồng về các đại
hội kết tập từ lần thứ ba trở về sau: Theo Thượng tọa bộ thì đã có 4 lần
kế tập kinh điển chính thức và thêm 2 lần khác ở Miến Điện. Theo Đại chúng
bộ thì chỉ có tổng cộng 4 lần kết tập chính mà thôi.
Kết tập lần thứ nhất: được tổ
chức trong bảy tháng tại thạch động Sattapanna trên núi Vebhàra ở thành
Ràjagaha (Vương Xá nay là Rajgir) khoảng năm 478 TTL, ba tháng sau khi Ðức
Phật nhập niết bàn (Buddha's Parinibbana), gồm 500 tỷ-kheo do ngài
Mahakassapa (Đại Ca-Diếp) triệu tập, với sự trợ giúp của vua Ajatasatru
(s.) hay Ajaratthu (p.) (A Xà Thế) xứ Magadha (Ma Kiệt Đà). Ananda truyền
tụng lại những lời Phật dạy, về sau được ghi lại thành năm bộ Nikàya;
Upali (Ưu-bà-li) tụng lại bộ Luật tạng (s, p: Vinaya-piṭaka) về sau được
ghi lại thành năm bộ Àdikamma, Pàcittiya, Mahàvagga, Cullavagga, Parivàra.
Kết tập lần thứ hai: được tổ
chức trong tám tháng trong chùa Vàlukàràma tại Vesali (thành Vệ-Xá-lị) 116
năm sau khi Phật nhập niết bàn, hay 362 TTL, gồm 700 vị tỷ-kheo do cao
tăng Revata chủ trì và vua Kàkàsoka bảo trợ, được gọi là Sattasati. Lí do
kết tập là vì nhóm Tỳ khưu Vajjputtakas ở thành Vesàli không duy trì 10
điều giới luật và sống rất phóng túng, nên bị một đệ tử của Ananda là
Yassakàkandaputta (Da-xá) phê phán và đưa đến đại hội để chấn chỉnh giáo
luật. Có 8 cao tăng trong ban chấp sự là Revata, Sambhuta-Sanavasi, Yasa,
Sumana, Sabbakami, Salha, Khujjasobhita, và Vasabhagamika, Việc này đã
manh nha đưa đến sự phân phái giữa Trưởng lão bộ (s: Sthavira, khi du nhập
Tích Lan thì thành Thượng tọa bộ - Theravada) và Ðại chúng bộ (s:
Mahāsāṅghikas, hay còn ghi là Mahasangitikas) về sau như đã trình bày.
Theo bộ Dipavamsa (Đảo sử - 76,
82) ở Tích Lan được phái Thượng tọa bộ ghi lại về sau thì sau khi bị khiển
trách nhóm Vajjiputtakas liền tách ra tổ chức một đại hội khác gọi là
Mahāsangiti (Đại Tụng) nhưng không gồm 6 tập của Abhidhamma; Patisambhida;
Niddesa; một phần của Jatakas; và vài câu kệ đã được Trưởng lão bộ phê
chuẩn.
Kết tập lần thứ ba: đã được tổ
chức trong 9 tháng tại ngôi chùa Asokàràma tại Pàtaliputra vào khoảng năm
242 trước TTL, hay 236 năm sau Niết Bàn, gồm 1.000 tỷ-kheo ưu tú được chọn
lọc kỷ lưỡng, chủ trì bởi cao tăng Moggaliputta Tissa, dưới sự bảo trợ của
vua Asoka. Lí do là để chấn chỉnh lại giáo pháp và giáo luật, đồng thời
thanh lọc lại hàng ngũ tăng già, vốn bị phồn tạp bởi sự chu cấp dồi dào
của vua Asoka.
Trước kỳ đại hội gần đến ngày
rằm, theo truyền thống có lễ Uposatha, tăng già qui tụ để trì tụng Giới
bổn tỷ-kheo (Pātimokkhā), nhưng một số trưởng lão từ chối họp chung với
đám giả danh nên triều đình mạnh tay can thệp của làm thiệt mạng một số
tăng sĩ; vì thế vua Asoka vội mời cao tăng Moggaliputta Tissa từ chỗ ẩn tu
xuống núi chủ trì đại hội. Khi kết thúc, Moggalliputta-Tissa tổng kết nên
bộ Kathāvatthu (Luận Sự) vốn là những lập luận chính thống để bài bác các
tà kiến, được đưa vào Luận Tạng (hay A-tì-đạt-ma tạng) còn truyền đến ngày
nay. Moggalliputta-Tissa cũng còn được xem như là vị sáng lập ra Phân biệt
bộ (s. vibhajyavādin). Phái này được Mahindà truyền qua Tích Lan không lâu
sau đó.
Các đòan
truyền giáo của PG chủ xướng bởi Asoka:
Sau đại hội, với sự đề nghị của
Moggaliputta Tissa, vua Asoka đã cho thành lập nhiều đoàn truyền giáo
(Dharmaduta) gởi đi khắp nơi ra ngoài biên cương của đế quốc Maurya, nhờ
thế mà PG được lan truyền rộng khắp. Nhưng cũng vì PG phát triển trên
nhiều địa bàn khác nhau và không có một bộ phận chỉ đạo tập quyền nên việc
phân phái là điều không thể tránh khỏi từ đấy (Frauwallner, 1956).
Đoàn thứ nhất do các tỷ-kheo
Mahinda, Sanghamitta, Ittiya, Uttiya, Sambala, Bhaddasàla và về sau có
tỷ-kheo-ni Sumana hướng dẫn đi truyền giáo ở đảo Tích Lan (Lankà,
Lankàdìpa); và chính đòan này đã thiết lập nên phái Theravada (Thượng tọa
bộ). Mahinda là hoàng tử và Sanghamitta là công chúa, và về sau cả đứa
cháu Sumana cũng tham gia vào đoàn truyền giáo vào năm thứ sáu dưới triều
vua Asoka. Đoàn thứ hai do Majjhantika hướng dẫn đi truyền giáo ở xứ
Kashmir và Gandhara, về sau thành phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivādins).
Đoàn thứ ba do Mahàdeva (có lẽ là một vị tỷ-kheo trùng tên với vị đã đưa
ra 5 thuyết đã dề cập) hướng dẫn đi truyền giáo ở xứ Mahinsakamandala ngày
nay gọi là Mysore, về sau thành phái Mahisasakas. Đoàn thứ tư do Rakkhita
hướng dẫn truyền giáo qua xứ Vanavàsi ở phía nam Ấn. Đoàn thứ năm do
Yonaka Dhammarakkhita, có gốc Hi-lạp hướng dẫn đi đến xứ Aparantaka, nay
là bắc Gujarat, Kathiwara, Kutch và Sindh); về sau thành phái
Dharmaguptaka. Đoàn thứ sáu do Mahàrakkhita hướng dẫn đi xứ Yonaka-loka
tức vùng tây bắc lục địa Ấn bao gồm xứ Baktria, Trung Á và miền bắc Iran
(Ionian). Đoàn thứ bảy do chư vị Majjhima, Kassapagotta, Mùlakadeva,
Durabhissara và Deva Sahadeva hướng dẫn truyền bá ở khu vực Himavant
(Tuyết Sơn) cạnh núi Himàlaya; về sau thành phái Haimavata, gồm phái
Kasyapiyas. Những xá-lợi của quí vị này đã được tìm thấy ở Vedisa (Willis,
2001). Đoàn thứ tám do hai đại tỷ kheo Sona và Uttara hướng dẫn đi hoằng
pháp ở xứ Suvannabhùmi, nay là Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, và có thể
đã đến xứ Phù Nam (Funan), ở châu thổ sông Cữu Long Việt Nam ngày nay.
Trong khi những đoàn truyền
giáo qua hướng tây, thuộc đế quốc Hy lạp mãi đến vùng biển Địa Trung Hải
(Mediteranean) từ Syria đến Macedonia, như đã ghi trong pháp dụ số XIII
không mấy thành công thì những tăng đoàn hoằng hoá do hoàng tử Mahinda và
công chúa Sanghamitta hướng dẫn xuống phía nam lại thành công rực rỡ. Ngay
từ buổi đầu cho đến nay Phật giáo đã trở thành quốc giáo ở Tích Lan.
Một đại hội
khác của Đại chúng bộ tại Pàtaliputra:
Ngoài đại hội vừa kể, còn có
một đại hội khác của Đại chúng bộ đã diễn ra tại Pàtaliputra trước triều
đại Maurya, khoảng năm 350 TTL, tức hơn một thế kỷ trước kỳ kết tập thứ 3
kể trên. Đại hội này dĩ nhiên không được phái Trưởng lão bộ ghi nhận nên
không được chính thức ghi trong Luật tạng.
Lí do đại hội cũng đã không
được chép lại rõ ràng, cho nên những sự kịện biết được cho đến nay chỉ như
là huyền sử. Một tỷ-kheo tại Pāṭaliputra tên là Ðại Thiên (Mahādeva), có
vẻ là thủ lãnh của Đại chúng bộ (Mahasamghikas) bấy giờ nêu lên năm nghi
thuyết về cảnh giới của Arhat (A-la-hán): 1. Dư sở dụ: A-la-hán vì còn
nhục thân nên có thể bị tham ái chi phối; có nơi còn nói rõ là bị mộng
tinh (CBETA – Chinese Buddhist Electronic Text Association – T49, no.
2032, p. 18, a11-13 ghi là ‘nocturnal emission’ đúng hơn phải là
‘nocturnal ejaculation’) 2. Vô tri: A-la-hán chưa hoàn toàn thoát khỏi Vô
minh; 3. Do dự: A-la-hán chưa hết nghi ngờ; 4. Tha linh nhập: A-la-hán còn
cần trợ lực bên ngoài mới biết mình đạt Bồ-đề; 5. Ðạo nhân thanh cố khởi
(Ðạo nương vào âm thanh mà sinh): A-la-hán cần những thanh âm đặc biệt để
đạt Ðịnh, và ngộ chân lí.
Đại chúng bộ không những đã ủng
hộ năm thuyết của Mahadeva mà còn đi xa hơn tán thành luận thuyết về cảnh
giới chứng ngộ của Phật còn cao hơn A-la-hán. Phái này cho rằng Phật là
nhân vật siêu thế, vô tận, đã đạt Nhất thiết trí, toàn năng, thể nhập đại
định vĩnh cửu, với thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Quan điểm của Đại chúng
bộ được xem là tiền thân của giáo pháp Đại thừa sau này. Nhưng đối với
Thượng tọa bộ, Phật vẫn chỉ là một nhân vật lịch sử, được xem là một bậc
vạn thế sư biểu tôn kính, không phải là hoá thân của một thật thể nào.
Trưởng lão bộ đã bài bác các
quan điểm này qua lần kết tập thứ ba với bộ Kathāvatthu (Luận Sự) của cao
tăng Moggalliputta-Tissa, như đã nói trên.
Năm thuyết của Ðại Thiên đã làm
cho sự phân chia Tăng-già ra làm hai phái sâu xa hơn không thỏa hiệp được
nữa. Nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy “ngũ thuyết” của Đại thiên
chẳng có liên hệ gì đến đại chúng bộ cả. Nhưng càng về sau, nhiều luận bản
xuất hiện làm xa dần khoảng cách định nghĩa giữa từ Phật và từ A-la-hán.
Lúc ban sơ đức Phật vẫn tự cho mình là một A-la-hán.
Điều này còn được Ðại Chúng Bộ
phát triển thêm qua lần kết tập thứ tư, vào năm Phật lịch 400, tức khỏang
đầu TK thứ 2 TL, tại Jālandhar Kashmīrthat, Kashmir, mà trong văn học PG
hay gọi là xứ Ô- Trượng-Na (Udỳanna), gồm 500 vị tỷ-kheo dưới sự chủ tọa
của đại sư Vasumitra (Thế Hữu, dịch âm là Bà-tu Mật-đa) và sự bảo trợ của
Hòang đế Kanishka I (127-151 TL). Mục đích của kỳ kết tập này là để soạn
ra các bộ luận: Kinh Sớ, Luật Sớ và Luận Sớ. Ðại hội này chính là khởi
điểm cho sự phát triển của Sarvāstivāda (Nhất thiết hữu bộ) và Ðại thừa
(Mahayana) về sau.
Vasumitra là Tổ thứ 7 của Thiền
tông Ấn độ. Giáo lí của ngài nằm giữa Tiểu thừa và Ðại thừa.Tương truyền
Vasumitra là tác giả của hai bộ luận là samayabhedavyūhacakra-śāstra (Dị
bộ tông luân luận) và ārya-vasumitra-bodhisattva-saṃcita-śāstra (Tôn
Bà-tu-mật Bồ Tát sở tập luận). Chính ngài đã đề cập đến sự tranh luận giữa
Trưởng lão bộ và 5 thuyết của Mahadeva trong kỳ kết tập thứ ba dưới triều
Asoka; và bộ Đại tì bà sa (Mahavibhasa) được viết sau đó để bôi lọ
Mahadeva, thủ lãnh của Đại chúng bộ (CBETA - T27, no. 1545, p. 510, c23-p.
512, a19). Phần này đã lý giải rằng phái Nhất thiết hữu bộ ở vùng tây bắc
Ấn là hậu duệ của những vị A-la-hán kể trên.
Riêng Thượng tọa bộ thì cho
rằng lần kết tập lần thứ tư đã được tổ chức tại động Aloka gần làng Matale
ở Tích Lan vào khoảng 35-32 TTL do Maharakkhita chủ tọa, gồm 500 vị
tỷ-kheo, dưới sự bảo trợ của vua Vattagàmani. (John Snelling, The Buddhist
Handbook). Qua đại hội, tam tạng của Trưởng lão bộ được hiệu đính, sắp
xếp, chú thích của ba tạng, rồi ghi lại Tam tạng trên lá cọ (palm) bằng
tiếng Pàli.
Các lần kết tập thứ 5 và thứ 6:
đều được Thượng Tọa Bộ tổ chức vào các thời kỳ 1868-1871 tại Madalay và
1954-1956 tại Yangon. Cả hai đều là kinh đô Miến Điện vào thời tương ứng.
Lời Kết:
Ngoài ra vua Asoka thường đi
hành hương chiêm bái những Phật tích và cho dựng những cột trụ đá tán
thán, mà gần đây nhiều cuộc khảo cổ đã phát hiện được ở Lumbini nơi Đức
Thích Ca đản sanh, hay ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya) mà thời ấy được gọi
là Sambodhi hay Vajirasana. Riêng thạch trụ ở Bồ đề Đạo tràng lại có khắc
Pháp dụ số VIII ban ra vào năm thứ 10 sau khi ông đăng quang. Ông còn đề
ra một chương trình tu hïoc Phật pháp cho tín đồ. Ông cũng cho dựng những
trụ đá ghi sự liễu ngộ Phật pháp của ông (như trên Tiểu thạch pháp dụ).
Ông thường trực tiếp phân xử những cuộc tranh luận giữa các tông phái và
cương quyết ngăn chặn những sự phân hoá trong tăng già.
Trụ đá do Asoka cho dựng tại
Lumbini
Đáng tiếc là sau khi ông mất
vào năm 232 TTL thì đế quốc Maurya rộng lớn cũng tan rã theo khoảng 50 năm
sau, và rồi bị giòng họ Shungas thay thế; và những công tác phúc lợi xã
hội do ông đề xướng cũng không kéo dài được lâu trừ những pháp dụ khắc vào
đá và ảnh hưởng truyền bá đạo Phật qua Tích Lan và Đông Phương.
Trần
Trúc-Lâm
Seattle,
Chớm thu 2001. Hiệu đính mùa hạ, 2007.