cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra
hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy,
trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu
trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của
con người trở thành vô nghĩa?
Với tôi, không phủ nhận đạo lý
tuyệt đối này, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm vì tính tuyệt đối mà
phủ nhận tính tương đối của cuộc đời. Vì dù gì đi nữa, thân người là một
hợp thể của 5 uẩn, nó chỉ nhận thức được qua những dữ liệu từ 6 trần, là
những hình ảnh (biểu tượng) của sắc thinh hương vị xúc và pháp. Đồng thời,
cơ thể con người chỉ tồn tại khi con người còn ăn uống, hít thở không khí…
một đời người cũng chỉ trăm năm, trước và sau cuộc sống này là gì, nó vẫn
còn là câu hỏi lớn cho con người. Đó là lý do tại sao đức Phật nói:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây
(Trung Bộ. Kinh Nhất dạ Hiền
Giả).
Nói như thế khhông đồng nghĩa
phủ nhận kiếp trước hay kiếp sau, thời gian trước hay thời gian sau, nhưng
dù có hay không cũng không là vấn đề quan trọng. Điểm quan trọng là hiện
giờ chúng ta đang tồn tại, tồn tại với con người và hòan cảnh chung quanh
nó điều mang nghĩa tương đối, hơn nữa mọi vấn đề đều bắt nguồn từ hiện
tại. Do vậy, không thể lấy lý do vì mọi vật là tương đối là giả tạm mà
chúng ta từ chối chúng, chúng ta lại không ăn uống…, không suy nghĩ theo
một trật tự của tương đối đó, muợn nó để vươn tới một cái gì đó có ý nghĩa
cho cuộc đời. Hay nói một cách khác, chúng ta không nên quá cường điệu
tính tuyệt đối mà quên đi cái đạo lý tương đối.
Trong điều kiện con người và
hòan cảnh sống con người là như thế, chúng ta lấy gì làm thước đo cho sự
nhận thức? Theo tôi, khái niệm không gian và thời gian là nguyên tắc cơ
bản để nhận thức hay đánh giá bất cứ vấn đề nào, vì không có một sự nhật
thức nào lại không liên hệ đến thời gian và không gian. Có nghĩa là tách
thời gian và không gian ra khỏi sự vật thì không có nhận thức, hay nói
cách khác đối tượng nhận thức đó trở nên mơ hồ lẩn quẩn, giá trị nhận thức
trở thành vô nghĩa, ngay cả vấn đề luân lý đạo đức, trật tự xã hội cũng
không thể thiết lập. Điều đó chẳng khác nào như đặt câu hỏi khái niệm đói
và no cái nào có trước cái nào có sau? Khái niệm đói và no chỉ có giá trị
khi nào khái niệm thời gian và không gian đi liền với nó. Cũng vậy, khái
niệm mẹ và con được hình thành chỉ khi nào trật tự về thời gian được xác
định, nếu không, đứng về mặt sinh tử luân hồi thì ai là mẹ ai là con thật
khó nói. Vô lý vì nghĩa tuyệt đối mà ta lại phủ nhận cái đạo lý mẹ con hay
sao?
Cũng vậy, ý nghĩa về con gà
sinh ra cái trứng hay cái trứng nở ra con gà’ nó chỉ có giá trị nhận thức
khi nào trật tự thời gian và không gian được đi cùng. Ví dụ tháng trước
tôi thấy tại nhà ông A con gà sinh ra cái trứng. Tôi được quyền nói như
vậy. Nhưng một tháng sau người khác lại thấy tại nhà ông B cái trứng nở ra
con gà. Người ta cũng được quyền phát biểu theo sự thấy của mình. Phát
biểu như vậy không sai, vì khái niệm thời gian và không gian rất cụ thể và
rõ ràng.
Nhự vậy, một cách tương đối mà
nói, khái niệm thời gian và không gian là thước đo để truy tìm giá trị
tương đối của sự vật, nó là cái tiêu chuẩn tương đối để thiết lập mọi
nguyên tắc họat động xã hội, ngay cả luân lý đạo đức.
Đề cập đến khái niệm thời gian
và không gian là đề cập đến bộ môn sử học. Bộ môn này chuyên khảo sát mối
quan hệ giữa thời gian và không gian. Nói một cách dễ hiểu hơn, khi nghiên
cứu hay tìm hiểu một vấn đề nào, điều kiện cơ bản cần phải xác định địa
điểm và thời gian phát sinh ra nó. Mức độ xác định thời gian và không gian
càng rõ chừng nào thì đối tượng nghiên cứu càng rõ ràng và đúng chừng ấy.
Vì bất cứ sự kiện nào phát sinh cũng phát sinh trong một bối cảnh cụ thể,
chúng có mối quan hệ và tương tác lẫn nhau. Do vậy, thời gian và không
gian của vấn đề càng rõ thì đối tượng nghiên cứu càng chuẩn xác hơn.
Tác phẩm “Những Hộ Pháp Vương
của Phật giáo tại Ấn độ” của Bác sĩ Trần Trúc Lâm, là một tuyển tập bao
gồm những bài nghiên cứu của tác giả, chuyên khảo cứu những chủ đề quan
trọng mang tính lịch sử của Phật giáo ở Ấn Độ. Ví dụ khảo cứu các bia ký
của nhà vua Asoka là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong việc
tìm hiểu và đánh giá nhà vua, cũng như sự phát triển Phật giáo ở Ấn Độ.
Bài viết đã đã tập trung nghiên cứu về các bia đá này, khi giới thiệu về
nhà vua Asoka, là việc làm hết sức cần thiết và nghiêm túc. Đây là một ví
dụ mang tính điển hình, các bài nghiên cứu khác trong tác phẩm này, tác
giả cũng làm việc theo tinh thần như vậy.
Tôi đã đọc qua bản thảo của tác
phẩm “Những Hộ Pháp Vương của Phật giáo tại Ấn độ” của tác giả BS Trần
Trúc Lâm, là tác phẩm bao gồm những bài viết có giá trị học thuật cao,
mang tính nghiên cứu hơn là một tác phẩm mang tính tiểu thuyết. Nếu như
cuốn tiểu thuyết hay làm cho trái tim độc giả ngất ngây phập phồng hồi
hộp, thì công trình nghiên cứu này của BS Trần Trúc Lâm được trình bày
trong tác phẩm này, làm cho người nghiên cứu sử lắm điều thú vị, học hỏi
nhiều điều từ tác phẩm này. Tác giả tập trung trình bày vấn đề niên đại,
cũng như những sự kiện phát sinh chung quanh, và tái hiện bối cảnh lịch sử
của nó. Điều đó giúp cho người đọc nhận thức có hệ thống và logic hơn, góp
phần làm giảm đi cách suy tư tùy tiện, thiếu cơ sở, dẫn đến lời phê bình
hay đánh giá mang tính cảm tình hay chủ quan mà chúng ta thường gặp. Ở
đây, tôi không có ý định bình luận vấn đề tính đúng sai của tác phẩm, vì
các sự kiện xảy ra trong thời cổ đại và các chứng liệu khảo cổ và sử học
vẫn còn tranh cãi, vấn đề này xin nhường lại cho các nhà nghiên cứu và học
giả, ở đây tôi chỉ tán đồng và nhấn mạnh thái độ nghiên cứu nghiêm túc và
phương pháp nghiên cứu hợp lý của tác giả.
Như tôi đã nói, tác phẩm này là
công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà
nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo, cho thấy giáo
lý của đức Thích Ca Mâu Ni rất gần gũi với đời thường và đã trải qua bao
thăng trầm lịch sử. Tôi mong quí vị độc giả đọc tác phẩm này trong tinh
thần ‘Uống nước nhớ nguồn’ để cảm nhận công đức to lớn của biết bao bậc
cao đức, A la hán, cả những vua chúa là những vị hộ pháp, tín đồ đã gìn
giữ và lưu truyền Phật pháp cho hậu thế, qua hơn 2500 năm lịch sử; đọc để
biết và trân quí những tấm gương hy sinh cao cả của các đại sư chiêm bái
trong việc truyền bá chánh pháp; đọc để cảm thấy gần gũi với cổ nhân. Tôi
nghĩ tác giả không vì thương mại mà viết, ngược lại vì lý tưởng: phụng sự
đạo pháp, phụng sự cho dân tộc, cộng thêm tính tò mò của một người quen
làm việc khoa học, muốn tìm hiểu những vấn đề của Phật giáo trong quá khứ,
viết lên những đắng đo suy nghĩ của mình.
Theo tôi, tác phẩm này có thể
giá trị về kinh tế giới hạn, nhưng tôi tin rằng giá trị về học thuật khá
cao. Nó mang tính gợi ý, giúp cho người làm công việc nghiên cứu Phật giáo
Ấn Độ có thêm tư liệu, và có cái nhìn chuẩn xác hơn.
Tôi xin trân trọng giới thiệu
tác phẩm này đến độc giả trong và ngoài nước. Tôi tin tưởng rằng, người
nghiên cứu sẽ cảm thấy hài lòng với tác phẩm này.
Nơi đây, tôi cũng xin cám ơn
Bác sĩ đã cống hiến cho Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng
một tác phẩm có giá trị học thuật.
Sài gòn ngày 16 tháng 7 năm 2007
Tỳ Kheo Thích Hạnh Bình
Giáo sư, Phật học Viện Viên Quang, Taiwan.