- Phật Học Khái Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết II
- Ngũ Uẩn và Vô Ngã
Ngũ uẩn là giáo lý rất
phổ biến, Thế Tôn thường giảng giáo lý Vô ngã đi kèm theo với sự phân
tích Duyên sinh hay phân tích Ngũ uẩn. Giáo lý này, lần thứ nhất được đề
cập đến ở thời pháp thứ hai, ngay sau bài Sơ chuyển pháp luân, tại vườn
Lộc Uyển để tiếp độ nhóm năm huynh đệ Tôn giả Kiều-trần-như.
Chúng ta phải thấy rằng,
sự phân tích con người như là tập hợp của Năm uẩn là một sự phân tích
rất đặc biệt và rất là vững chắc đến nỗi các nhà bác học ngoại đạo dù
không chấp nhận nó cũng không thể bác bỏ nó. Chúng ta hãy tìm hiểu những
lời dạy của Thế Tôn về Năm uẩn ấy.
Kinh Tương Ưng Bộ III
(bản dịch của HT. Thích Minh Châu) chép: "Này các Tỷ-kheo, khi nào Ta
chưa thật liễu tri Năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, cho đến khi ấy, này
các Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, cùng với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không xác chứng Ta
đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào Ta đã
liễu tri Năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, cho đến khi ấy, này các
Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm Thiên, cùng với quần chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta xác chứng Ta đã chứng Vô
Thượng Chánh đẳng Chánh giác". (tr. 71).
Ở đoạn kinh tiếp theo,
Thế Tôn đã giải thích Năm uẩn theo bốn chuyển. Liễu tri sắc (thọ, tưởng,
hành, thức), liễu tri sắc (thọ, tưởng, hành, thức) tập khởi, liễu tri
sắc (thọ, tưởng, hành, thức) đoạn diệt gọi là thắng tri Năm uẩn theo bốn
chuyển.
Hiểu rõ sắc là hiểu rằng
sắc gồm có bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa, và các sắc do bốn yếu tố ấy
làm nên (tư tưởng được gồm vào đây). Sắc này do thức ăn nuôi dưỡng. Khi
thức ăn tập khởi thì sắc tập khởi; khi thức ăn đoạn diệt thì sắc đoạn
diệt. Bát Thánh đạo dẫn đến yếm ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải
thoát là con đường tu tập đưa đến đoạn diệt sắc.
Về Thọ uẩn, gồm có thọ
do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỉ xúc sanh, thọ do thiệt
xúc sanh, và thọ do ý xúc sanh. Do có xúc sanh khởi nên thọ sinh khởi;
do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt. Con đường đưa đến thọ đoạn diệt là
Bát Thánh đạo dẫn đến yếm ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải
thoát.
Về Tưởng uẩn, có sắc
tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng. Do
xúc tập khởi nên Tưởng tập khởi, do xúc đoạn diệt nên Tưởng đoạn diệt.
Con đường dẫn đến Tưởng đoạn diệt là Bát Thánh đạo đưa đến yếm ly, ly
tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
Về Hành uẩn, có sáu tư
(hay hành): sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư. Đây
gọi là Hành uẩn. Do xúc khởi nên tư khởi, do xúc diệt nên tư diệt. Bát
Thánh đạo là con đường đưa đến tư (hành) đoạn diệt, dẫn đến yếm ly, ly
tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
Về Thức uẩn, gồm có nhãn
thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Do danh sắc
(hoặc hành) tập khởi nên thức tập khởi; do danh sắc đoạn diệt nên thức
đoạn diệt. Con đường đưa đến thức đoạn diệt là Bát Thánh đạo dẫn đến yếm
ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
Kinh Phân Biệt Sáu Giới
(Trung Bộ Kinh III, số 140), Kinh Lục Giới Phân Biệt (Trung A-hàm, số
42) và nhiều kinh khác của A-hàm, Nikàya cắt nghĩa địa đại gồm có nội
địa đại (thân người của mình) và ngoại địa đại (tha nhân và thế giới vật
lý); tương tự đối với thủy, hỏa, phong đại. Như thế, sắc uẩn cũng được
định nghĩa gồm có nội sắc (thân mình) và ngoại sắc (tha nhân và thế giới
vật lý); thọ uẩn gồm có nội thọ (cảm thọ về các Thiền lạc) và ngoại thọ
(gồm có các cảm thọ về sắc, thanh, hương, vị, xúc). Những cảm nhận về
hỷ, lạc, xả, ưu, khổ thuộc thọ uẩn. Những khả năng kinh nghiệm về sắc,
thanh, hương, vị xúc, pháp và những khả năng hồi tưởng, ký ức thì thuộc
về tưởng uẩn. Khả năng ghi nhận sự có mặt của các pháp qua tai, mắt,
mũi, lưỡi, thân và ý thì thuộc về thức uẩn. Khả năng tư duy, nghĩ thiện,
nghĩ ác, v.v... thuộc hành uẩn.
Trong Kinh Tương Ưng Bộ
III, Thế Tôn dạy: "Không liễu tri Năm uẩn thì không thể đoạn tận khổ
đau. Do vậy cần phải liễu tri Năm uẩn: 'Sự đoạn tận tham, sự đoạn tận
sân, sự đoạn tận si được gọi là liễu tri'". (tr. 32).
Cũng trong Kinh Tương
Ưng Bộ III (Hán tạng, Đại 2, 17-a; Tập 3.1 Sanh diệt, Đại 2, 156; Tập
3.2 Bất thừa, Đại 2, 156) khi đề cập đến Thiền định, Thế Tôn tuyên bố:
"Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Vị Tỷ-kheo tu tập Thiền định
thì hiểu biết một cách như thật. Hiểu biết gì một cách như thật? - Sắc
tập khởi và sắc đoạn diệt, thọ tập khởi và thọ đoạn diệt, tưởngập khởi
và tưởng#273;oạn diệt, hành tập khởi và hành đoạn diệt, thức tập khởi
và thức đoạn diệt". (tr.16).
Tương tự giáo lý Duyên
khởi, Thế Tôn định nghĩa Năm uẩn tập khởi có nghĩa là toàn bộ khổ uẩn
tập khởi, và Năm uẩn đoạn diệt có nghĩa là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Ở
đây, Thế Tôn trình bày Năm uẩn kết hợp chặt chẽ với 12 nhân duyên:
"... Do vị ấy hoan hỷ,
hoan nghênh, đắm trước rồi an trú sắc, hỷ đối với sắc khởi lên. Do duyên
thủ đối với sắc, hữu khởi lên. Do duyên hữu, sanh khởi lên. Do duyên
sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên. (Tương tự đối với thọ,
tưởng, hành và thức). Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn" (Tương
Ưng III, tr.17).
Và, "Do không hoan hỷ,
không hoan nghênh, không đắm trước sắc, hỷ đối với sắc đoạn diệt; ...
thủ đoạn diệt;... hữu đoạn diệt;... lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não đoạn
diệt. (Tương tự đối với thọ ... và thức). Như vậy là sự đoạn diệt của
toàn bộ khổ uẩn". (tr.17).
Một lần khác đề cập đến Năm uẩn, Thế Tôn đã nói lên lời cảm hứng này:
" Năm uẩn là gánh nặng
Kẻ gánh nặng là người;
Cầm lấy gánh nặng lên
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống
Tức là lạc ở đời.
Đặt gánh nặng xuống rồi,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ
Không còn đói và khát,
Đã giải thoát, tịnh lạc". -- (Sđd, tr. 26).
Thế Tôn đã giải thích
rằng nắm giữ tham ái là cầm gánh nặng lên, đoạn diệt tham ái là đặt gánh
nặng xuống. Như vậy khổ đau không phải do chính Năm uẩn, cũng không do
vì Năm uẩn vô thường, mà là do chính lòng khát ái Năm uẩn: "Năm uẩn là
khổ đau. Chính khát ái (dục ái, hữu ái và vô hữu ái) là cội gốc của khổ
đau". (Sđd, tr. 39).
Phân Biệt Năm Uẩn và Năm Thủ Uẩn - Vị Trí của Năm Uẩn trong Giáo Lý Phật Giáo
Năm uẩn còn được gọi là
Năm thủ uẩn. Thế Tôn, một lần ở thành Xá-vệ (Sàvatthi), đã cắt nghĩa
phân biệt giữa từ "Năm uẩn" và từ "Năm thủ uẩn" rằng:
- "Này các Tỷ-kheo, phàm
có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế,
liệt hay thẳng, xa hay gần, đây gọi là sắc uẩn" (Tương Ưng III, tr. 58).
(Tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức).
- "Này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại.... được chấp thủ gọi là sắc thủ uẩn". (Ibid., tr.58).
(Tương tự đối với thọ thủ uẩn.., thức thủ uẩn).
Qua sự cắt nghĩa Năm thủ
uẩn trên, một Tỷ-kheo hạch hỏi Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, chấp thủ ấy là
Năm thủ uẩn ấy hay chấp thủ ở ngoài Năm thủ uẩn?" (Ibid., tr.120).
- "Này Tỷ-kheo, chấp thủ
ấy không là Năm thủ uẩn ấy, và chấp thủ cũng không ngoài Năm thủ uẩn.
Nhưng chỗ nào có tham và dục, chỗ ấy có chấp thủ". (Ibid., tr.120).
- "Như thế nào, bạch Thế Tôn, là có thân kiến?" (Ibid., tr.121).
- "Ở đây, này Tỷ-kheo,
kẻ phàm phu... quán sắc như là tự ngã; hay quán tự ngã như là có sắc,
hay quán sắc ở trong tự ngã; hay quán tự ngã ở trong sắc (tương tự đối
với thọ, tưởng, hành và thức). Như vậy, này các Tỷ-kheo, là có thân
kiến" (Ibid, tr.122).
- "Bạch Thế Tôn, do biết
như thế nào, do thấy như thế nào đối với thân có thức này và đối với
tất cả tướng ở ngoài không có quan điểm: Ngã kiến, ngã sở kiến, mạn tùy
miên? " (Ibid., tr. 123).
- "Này Tỷ-kheo, phàm sắc
gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại..., tất cả sắc (tương tự đối thọ,
tưởng, hành và thức) Tỷ-kheo như thật thấy với chánh trí tuệ như sau: "Đây không phải là tôi! Đây không phải là của tôi! Đây không phải là tự ngã của tôi!"
Này Tỷ-kheo, do biết như vậy, thấy như vậy, đối với thân có thức này và
đối với tất cả tướng ở ngoài, không có quan điểm: ngã kiến, ngã sở
kiến, mạn tùy miên". (Ibid, tr.123).
Một hôm, Tôn giả A-nan
(Ananda) lập lại lời dạy của Tôn giả Mạn-từ Tử (Punna Mantaniputta)
trước một số các vị Tỷ-kheo rằng: "Này Hiền giả Ananda, do chấp thủ mà
khởi lên tư tưởng "tôi là". Do chấp thủ gì?" - "Do chấp thủ sắc... tho.ﮮ
tưởng... hành...thức, khởi lên tư tưởng "tôi là". (Ibid., tr.125).
Đấy là một số lời dạy về chấp thủ liên hệ với Năm uẩn.
Thế Tôn đã trình bày Năm
uẩn liên kết chặt chẽ với duyên sinh, với ái và thủ. Ngài cũng đã trình
bày liên kết mật thiết Năm uẩn với Tứ đế; Năm uẩn tập khởi là khổ tập
khởi, gốc của khổ tập khởi này là tham ái và chấp thủ. Năm uẩn đoạn diệt
hay ái diệt, là khổ diệt, và con đường đưa đến khổ diệt là Bát Thánh
đạo.
Chính điểm nhất quán này
trong giáo lý Phật giáo đã làm nổi bật điểm trọng tâm của giáo lý, như
đã được Thế Tôn nhiều lần nhấn mạnh rằng, Thế Tôn chỉ giảng dạy về Khổ
và Con đường đoạn diệt khổ. Đây là điểm mà những người học Phật và những
người thuyết giảng cần hết sức để tâm khi học hỏi giáo lý hay thuyết
giảng giáo lý.
Một lần, một số Tỷ-kheo
xin phép Thế Tôn đi hành đạo ở một quốc độ phương xa, Thế Tôn dạy các
Tỷ-kheo ấy đến xin phép Tôn giả Xá-lợi-phất.
Bởi vì quốc độ mà các
Tỷ-kheo này sẽ đến là nơi có mặt nhiều học giả, nhiều nhà tri thức,
nhiều bậc hiền trí, nên Tôn giả Xá-lợi-phất đã sửa soạn cho các Tỷ-kheo
ấy một số hành trang Phật Pháp trước khi lên đường, dưới hình thức đặt
một số câu hỏi trắc nghiệm về sự hiểu biết Phật Pháp của các vị ấy (xem
Tương Ưng III, tr. 8, 9).
* Câu hỏi 1:
"Này chư Hiền giả! Các
bậc hiền trí có thể hỏi: "Bậc Đạo Sư của các Tôn giả nói gì? Tuyên bố
gì?" thì các Hiền giả phải trả lời thế nào để không xuyên tạc lời dạy
của Thế Tôn?"
Tôn giả Xá-lợi-phất dạy
tiếp: "Được hỏi vậy, các Hiền giả phải trả lời: "Bậc Đạo Sư của chúng
tôi nói đến sự điều phục dục và tham".
* Câu hỏi 2:
"Điều phục dục và tham đối với cái gì?"
- "Điều phục dục và tham đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức".
* Câu hỏi 3:
"Nhưng do thấy những nguy hiểm gì, bậc Đạo Sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với Năm uẩn?"
- "Đối với Năm uẩn, ai
chưa viễn ly tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì khi sắc, thọ, tưởng,
hành, thức biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Này
chư Hiền giả, do thấy sự nguy hiểm này đối với sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, bậc Đạo Sư của chúng tôi nói lên sự điều phục dục và tham".
* Câu hỏi 4:
"Nhưng do thấy những lợi
ích gì, bậc Đạo Sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối
với sắc, thọ, tưởng, hành, thức?"
- "Đối với sắc, thọ,
tưởng, hành và thức, ai đã viễn ly tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì
khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức biến hoại, sẽ không khởi lên sầu, bi,
khổ, ưu, não. Do thấy sự ích lợi này, bậc Đạo Sư của chúng tôi nói đến
sự điều phục dục và tham đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức".
Cho đến khi nào những
người Phật tử không thấy rõ được gốc của sinh tử, khổ đau và lòng dục,
tham đối với Năm thu uẩn, thì cho đến khi ấy có thể nói rằng họ chưa
hiểu Phật pháp. Và cho đến khi nào những người Phật tử chưa tu tập để
đoạn trừ dục và tham đối với Năm thủ uẩn, thì cho đến khi ấy, chắc chắn,
họ chưa cảm nhận được hương vị giải thoát của giáo lý đạo Phật.
Cũng thế, cho đến khi
nào người tu sĩ Phật giáo chưa nói đến sự nguy hiểm của dục, tham đối
với Năm thủ uẩn, thì cho đến khi ấy, người tu sĩ ấy chưa thuyết giảng
đạo Phật.
Và, cho đến khi nào,
người tu sĩ chưa giới thiệu con đường đưa đến đoạn tận dục, tham đối với
Năm thủ uẩn, thì cho đến khi ấy, vị tu sĩ ấy chưa giới thiệu đạo Phật
một cách đầy đủ và thiết thực.
Vị Ngọt, Sự Nguy Hiểm, và Sự Xuất Ly của Năm Uẩn
Khi còn là Bồ-tát, trước
lúc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Tôn tự hỏi: "Cái gì là
vị ngọt? Cái gì là sự nguy hiểm? Và cái gì là sự xuất ly của sắc?"
(Tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức).
Bấy giờ Thế Tôn tự nghĩ:
"Do duyên sắc, lạc hỷ
sanh. Cái ấy là vị ngọt của sắc. Vô thường, đau khổ, biến hoại của sắc
là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục, tham, đoạn tận dục, tham đối
với sắc là sự xuất ly của sắc" (Tương Ưng Bộ Kinh III, tr. 34).
(Tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức).
Thế Tôn đã dạy tiếp, cho
đến khi nào Thế Tôn chưa biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của sắc, thọ, tưởng, hành và thức thì Thế Tôn chưa tuyên bố Thế Tôn đã
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. (Theo Tương Ưng Bộ Kinh III, tr.
34 - 35).
Sự hiểu rõ vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của Năm uẩn ở trên không phải là sự thông hiểu
bằng tri thức thuần túy, mà phải bằng trí tuệ thể nhập.
Hầu hết chúng ta đều có
thể nhận ra dễ dàng vị ngọt của sắc, thọ, tưởng, hành và thức bằng cách
sống với nó, hoặc bằng trí tuệ quán sát cuộc sống chung quanh mình.
Nhưng chúng ta biết còn rất ít về sự nguy hiểm của Năm uẩn, lại càng
biết rất ít về sự xuất ly khỏi Năm uẩn. Cần phải có nhiều công phu tu
tập, phải Thiền quán sâu xa, thâm trầm về tính Vô ngã, Vô thường, Hoại
diệt và Khổ đau của các pháp, ta mới thấy rõ khía cạnh nguy hiểm của
chúng.
Từ chỗ thấy rõ nguy hiểm
ấy, chúng ta mới khởi niệm tinh cần để yếm ly, ly tham. Sau khi đoạn
tận dục, tham, ta mới thấy rõ sự xuất ly khỏi Năm uẩn.
Sự Liên Hệ giữa Duyên Sinh và Năm Thủ Uẩn
Một Tỷ-kheo hỏi: "Bạch
Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, được gọi là sắc uẩn?... thọ uẩn?...
tưởng uẩn?... hành uẩn?... thức uẩn?..." (Tương Ưng III, tr. 121).
- "Do nhân bốn đại, này
Tỷ-kheo, do duyên bốn đại được gọi là sắc uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc
được gọi là tưởng uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc được gọi là thọ uẩn.
Do nhân xúc, do duyên xúc được gọi là hành uẩn. Do nhân danh sắc, do
duyên sanh sắc được gọi là thức uẩn". (Sđd, tr.121).
Năm uẩn do duyên sinh nên Năm uẩn là Vô ngã, Vô thường và đem lại Khổ đau. Thế Tôn dạy:
"Này các Tỷ-kheo... sắc
đã được cái Vô ngã làm cho sanh khởi, từ đâu là ngã được? Sắc đã được
cái Vô thường làm cho sanh khởi, từ đâu là thường được? Sắc đã được cái
Khổ làm cho sanh khởi, từ đâu có thể lạc được?".(Tương tự đối với thọ,
tưởng, hành và thức). -- (Sđd, tr. 28 và 29).
Trước đây có quan điểm
cho rằng Nam tạng chủ trương "Ngã không, Pháp hữu", nhưng thật ra đây
chỉ là một ngộ nhận. Nikàya xác định rất rõ rằng con người do Năm uẩn
sinh khởi là Vô ngã và cả đến sắc uẩn cũng Vô ngã, thọ uẩn là Vô ngã,
tưởng uẩn là Vô ngã, hành uẩn là Vô ngã. Đấy là "Ngã không, Pháp không".
Mỗi uẩn tự nó là duyên sinh, nương vào bốn uẩn kia mà có mặt, không thể có mặt tách rời khỏi chúng.
Kinh Đại Duyên (Trường
Bộ III) trình bày: Nếu thức vắng mặt, thì cái thân danh-sắc (Năm uẩn)
không thể hình thành hay tồn tại. Nếu không có mặt nghiệp thức thì bào
thai không thể hình thành. Ngay cả khi bào thai hình thành, hay ngay cả
khi trẻ đã ra đời, nếu thức không có mặt thì thai nhi sẽ chết hay đứa
trẻ sẽ chết.
Tương Ưng III (tr. 64) lại ghi:
"Này các Tỷ-kheo, ai nói
như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ
rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay
sự lớn mạnh của thức"; sự việc như vậy không xãy ra".
Như vậy, sự tồn tại của
một uẩn là sự tồn tại của Năm uẩn. Khi tham ái được đoạn tận, có nghĩa
là hành uẩn diệt thì Năm uẩn diệt hay khổ diệt. Đây là Niết-bàn. Khi
thức diệt thì Năm uẩn cũng bị tận diệt, gọi là khổ diệt hay Niết-bàn.
Hệt như Phẩm Kiến Lập Niết-bàn của Kinh Lăng-già nói: "Vọng tưởng thức
diệt tức là Niết - bàn", hoặc như Kim Cương Bát-nhã nói: "Thủ diệt, là
đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Thủ diệt tức là ái diệt, tức là thức
diệt)" mà ta sẽ bàn đến ở phần tiếp.
Năm Thủ Uẩn và Bắc Tạng
- Bài Kinh "Bát-nhã Tâm
Kinh" là phần tóm tắt của Bát-nhã, giáo lý mà các nhà học giả Phật giáo
xem là nền tảng của Bắc tạng. Trọng tâm của Bát-nhã Tâm Kinh nằm ở câu
đầu: "Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến
ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế khổ ách".
Bát-nhã chú trọng đến
vấn đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành
trí tuệ Bát-nhã sâu xa soi rọi rõ Năm uẩn là Vô ngã (Không). Thấy Năm
uẩn là Vô ngã là thấy hết thảy các pháp là Vô ngã: khổ là Vô ngã, và
người cảm thọ khổ là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Như thế rõ
ràng, không thực có khổ, cũng không thực có cái gọi là con người thọ
khổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả. Mặt khác,
thấy rõ Năm uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ Năm uẩn là mình, là
của mình, hay là tự ngã của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt.
Đấy là ngõ vào giải thoát. Nội dung của nhận thức và tu tập của giáo lý
Bắc tạng xuyên qua Bát-nhã như thế là hệt như nội dung của giáo lý Năm
uẩn được kết tập ở Nam tạng (nói rõ là ở Nikàya).
Tại đây chúng ta có thể
kết luận: giáo lý Năm thủ uẩn là giáo lý rất nền tảng của các bộ phái
Phật giáo, Bắc tạng cũng như Nam tạng.
- Chương Kiến Lập
Niết-bàn ở kinh "Lăng-già" nói rõ, khi ý thức diệt thì thức Mạt-na (thứ
7) cũng diệt, tất cả vọng thức đều diệt. Vọng thức diệt là Niết-bàn.
Ý thức được đề cập ở
Lăng-già này chính là thức uẩn trong Năm thủ uẩn. Khi Thức diệt thì Năm
thủ uẩn diệt. Năm thủ uẩn diệt là khổ diệt. Và khổ diệt chính là
Niết-bàn.
Phần giáo lý này của Lăng-già không nói gì khác hơn giáo lý Năm thủ uẩn của Tương Ưng Bộ Kinh III (Nikàya) cả.
Năm Thủ Uẩn và Những Câu Hỏi Siêu Hình
Một thời, vua Ba-tư-nặc
(Pasenadi) đến yết kiến Tỷ-kheo-ni Khemà tại Teranavatthu, giữa Xá-vệ
(Sàvatthi) và Sàketa, và đặt bốn câu hỏi về Như Lai:
1. Như Lai có tồn tại sau khi chết?
2. Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3. Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
4. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
Nữ Tôn giả Khemà trả lời: "Thế Tôn không trả lời cho bốn câu hỏi trên".
Vua Pasenadi liền hỏi tiếp: "Vậy do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn không trả lời bốn câu hỏi ấy?"
Nội dung câu trả lời của
Tôn ni Khemà cho câu hỏi này là: Bởi vì Thế Tôn đã đoạn tận gốc rễ sắc,
thọ, tưởng, hành và thức, làm cho như cây ta-la bị chặt đứt không thể
tái sanh trong tương lai. Như Lai là thâm sâu vô lượng, đã giải thoát
ước lượng của sắc, của thọ, của tưởng, của hành và của thức, nên không
thể định nghĩa Như Lai ngang qua sắc, hay ngang qua thọ hoặc tưởng,
hành, thức. Do đó, không thể chấp nhận sự kiện cho rằng: Như Lai có tồn
tại sau khi chết. Tương tự, không thể chấp nhận sự kiện Như Lai không
tồn tại sau khi chết v.v...
Rồi vua Pasenadi đến hầu
Thế Tôn và đặt lại bốn câu hỏi trên, và được Thế Tôn trả lời y hệt nội
dung mà nữ Tôn giả Khemà đã trả lời. (Tương Ưng IV, phẩm Tương Ưng Không
Thuyết).
Trong một dịp đàm đạo,
Tôn giả Đại Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) đặt lại bốn câu hỏi trên với Tôn
giả Xá-lợi-phất (Sàriputta). Tôn giả Xá-lợi-phất đã trả lời là Thế Tôn
không trả lời bốn câu hỏi ấy, do vì nếu trả lời mỗi một trong bốn câu
hỏi ấy là rơi vào chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Do nhân đó,
do duyên đó mà Thế Tôn không trả lời. (Tương Ưng IV, phẩm Tương Ưng
Không Thuyết).
Rồi một chiều khác, Tôn
giả Xá-lợi-phất đặt lại bốn câu hỏi trên với Tôn giả Kiều-thi-ca (Mahà
Kotthika) đã được Tôn giả Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) trả lời rằng Thế
Tôn không trả lời, và đã được giải thích vì lý do rằng:
- Chỉ với ai chưa đoạn
trừ tham dục, tham ái đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức mới có quan
điểm Như Lai có tồn tại sau khi chết, hoặc Như Lai không tồn tại sau khi
chết, v.v...
- Chỉ với ai còn ái lạc
Hữu, ái lạc Thủ, ái lạc Ái thì mới có những quan điểm "Như Lai còn tồn
tại sau khi chết", v.v... (Sđd, 386-387).
Một dạo, du sĩ ngoại đạo
Bà-sa-cù-đa (Vacchagotta) đặt mười câu hỏi siêu hình với Thế Tôn: Thế
giới là thường? Vô thường? Là hữu biên? Là vô biên? Sinh mạng và thân
thể là một hay là khác? Vừa là một vừa là khác? Như Lai có tồn tại sau
khi chết? Như Lai không tồn tại sau khi chết? Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết? Như Lai không tồn tại và không không tồn tại
sau khi chết?
Thế Tôn đã không trả lời
mười câu hỏi này và cắt nghĩa rằng: "Vì Như Lai quán sắc không phải là
tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, hay quán sắc không ở trong tự ngã,
hay tự ngã không ở trong sắc (Tương tự, đối với thọ, tưởng, hành và
thức) (Sđd, tr.392).
Mười câu hỏi trên là sản
phẩm của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính. Trả lời mười câu hỏi trên là
chấp nhận thế giới là thường hoặc là vô thường, v.v... như vậy là rơi
vào chấp thủ: chấp thường hoặc là chấp đoạn, hoặc chấp Năm thủ uẩn. Như
Lai thì chủ trương trung đạo, đoạn tận ái, thủ. Do đó, Như Lai không trả
lời.
Năm Thủ Uẩn và 62 Học Thuyết Ngoại Đạo ở AᮠĐộ
Qua mười câu hỏi siêu
hình ở trên đại biểu cho nhiều câu hỏi siêu hình khác, chúng ta thấy
rằng các chủ trương, chủ thuyết ngoài Phật giáo đều rơi vào chấp thủ,
tham ái sắc, thọ, tưởng, hành và thức, hay gọi là rơi vào tà kiến như
Thế Tôn dạy ở Kinh Tương Ưng III (Bản dịch Hòa thượng. Thích Minh Châu,
Viện Phật Học Vạn Hạnh 1982) rằng:
"Này các Tỷ-kheo, do có sắc, có chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, nên khởi lên tà kiến" (Sđd, tr. 22C)
(Tương tự đối với thọ, tưởng, hành và thức).
Sau mươi hai học thuyết
ngoại đạo được trình bày ở Kinh Phạm Võng (Trường Bộ Kinh I) hay Kinh
Phạm Động (Trường A-hàm) đều gọi là tà thuyết hay tà kiến (gồm mười tám
luận chấp về quá khứ, năm luận chấp về hiện tại Niết-bàn luận và ba mươi
chín luận chấp về tương lai). Thế Tôn đánh giá sáu mươi hai tà thuyết
ấy rằng:
"... Những Sa-môn,
Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ vào quá khứ tối
sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận
chấp. Tất cả những vị này có những cảm thọ (những chủ trương trên) do sự
xúc chạm, xúc tiếp qua sáu xúc xứ. Do duyên với những cảm thọ mà tham
ái phát khởi; do duyên tham ái, thọ phát khởi; do duyên thọ, hữu phát
khởi; do duyên hữu, sanh phát khởi; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ,
ưu não, phát khởi. Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo như thật biết sự tập
khởi, sự diệt trừ, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc xứ, vị ấy sẽ có
một sự hiểu biết vượt ra ngoài những điều trên". (Trường Bộ Kinh I, tr.
45).
Như thế, sáu mươi hai
học thuyết ở Ấn Độ, hay tất cả những chủ thuyết ở đời, chỉ là kết quả
của sự tham ái, chấp thủ Năm thủ uẩn; kết quả ấy bị trói buộc với sự tập
khởi của Năm uẩn.
Định Nghĩa Vô Minh và Minh theo Năm Thủ Uẩn
Như đã được định nghĩa ở chi phần vô minh, Vô minh là không hiểu Tứ Thánh đế, không hiểu rõ lý Duyên khởi.
Ngoài định nghĩa trên, Thế Tôn còn định nghĩa V⠭inh gắn liền với Năm thủ uẩn:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo,
kẻ vô văn phàm phu không biết rõ sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn
diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; không biết rõ
thọ..; tưởng..; hành...; thức...; không biết rõ con đường đưa đến thức
đoạn diệt. Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh". (Tương Ưng III, tr. 194).
Ngược lại, bậc đa vãn Thánh đệ tử biết rõ sắc tập khởi..., v.v...; gọi là Minh.
Năm Thủ Uẩn: Con Người Toàn Diện...
Ở mặt tương đối của hiện
tượng giới, con người được hiểu như là tổng hợp thể của Năm thủ uẩn.
Thiếu một trong Năm uẩn thì không thể hiểu là con người. Sắc uẩn thuộc
phần vật lý; thọ, tưởng, hành và thức thuộc phần tâm lý. Theo giáo lý
này, vật lý và tâm lý không thể rời nhau mà có được.
Con người toàn diện,
theo nghĩa của giáo dục, thì gồm có cơ thể vật lý, tri thức, tình cảm,
tình yêu, ý chí và trực giác. Không thể chấp nhận một con người chỉ có
mặt tư duy, khối óc; cũng không thể chấp nhận một con người chỉ có mặt
tình cảm, trái tim. Con người toàn diện là con người đang trôi chảy
trong hiện tại với các hiện tượng tâm lý, vật lý, sinh lý, tri thức...
(hay nói gọn là con người vật lý và tâm lý). Một nền giáo dục tốt là một
nền giáo dục phát triển một cách toàn diện con người toàn diện ấy. Hiểu
như vậy là hiểu đúng với sự hình thành và tồn tại của Năm uẩn.
Một người chưa có quyết
tâm đoạn diệt ái, thủ, thì việc tạo điều kiện để phát triển tốt đẹp và
điều hòa. Năm uẩn là điều cần thiết để đem lại hạnh phúc tương đối trong
hiện tại. Nếu cơ thể vật lý bệnh hoạn thì con người toàn thể sẽ bệnh
hoạn; nếu tình cảm mà thất vọng, chán nản, v.v... thì sự duy trì hay
phát triển con người toàn thể sẽ bị ảnh hưởng xấu. Nói tóm, các hiện
tượng tâm lý, sinh lý và vật lý có ảnh hưởng tương quan rất mật thiết
với nhau và với con người toàn diện.
Người tu tập giải thoát
chỉ có một điểm duy nhất khác với người bình thường là hướng sự phát
triển tâm lý về mặt giải thoát của vô tham, vô sân và vô si.
Ngoài việc giới thiệu
con người toàn diện của ý nghĩa tương đối, giáo lý Năm uẩn còn giới
thiệu cho con người một nhận thức quý giá khác (điều mà ta gọi là chánh
kiến, chánh tư duy, hay trí tuệ) là: vấn đề khổ đau và hạnh phúc giải
thoát là cái gì khác hơn những gì mà chúng ta đang có (ví dụ như là con
người Năm uẩn đang là). Chúng ta không làm chủ con người Năm uẩn, nhưng
với trí tuệ, chúng ta có thể làm chủ việc đón nhận khổ đau hay hạnh
phúc.
Chẳng hạn, được sinh ra
với cái mũi tẹt, khổ đau của chúng ta không phải vì cái mũi tẹt, xấu, mà
thực sự là vì lòng khát ái và chấp thủ - do muốn có một chiếc mũi cao
và đẹp, do chấp đắm vào sắc tướng.
Hoặc giả, lời mắng nhiếc
của người khác không phải là cái làm cho ta khó chịu, mà cái khó chịu
là do chúng ta ưa thích những âm thanh, lời lẽ ngọt ngào và chấp trước
vào âm thanh, sắc tướng và tự ngã.
Con đường đi ra khỏi
những phiền não, khổ đau do thân Năm uẩn của mình và cuộc đời đem lại do
vậy là con đường chế ngự lòng khát ái, chấp thủ vào các hình, danh,
sắc, tướng.
Việc chế ngự khát ái là điều chúng ta có thể chủ động, có thể thực hiện được ngay trong hiện tại với chính trí tuệ của mình.
Nếu sự thật của khổ đau
và hạnh phúc chính là khát ái hay loại trừ khát ái về con người, cuộc
đời thì quả thực giáo lý Năm uẩn đã mở ra cho con người một phương trời
tự do, giải thoát trước mặt. Đây mới thật sự là giáo lý rất thiết thực
hiện tại, đúng nghĩa là nhân bản đích thực.
Trầm Tư về Con Người Năm Uẩn
Sống, chúng ta cứ mãi
đinh ninh rằng thân Năm uẩn này là ta, là của ta. Thân vật lý này là ta,
là của ta. Hiểu biết, tri thức này là ta, là của ta. Tình cảm yêu
thương, tri giác (cảm thỏ) này là ta, là của ta. Ý chí và tài năng này
là ta, là của ta. Yêu mình là yêu thân thể, tri thức, tư tưởng, tình
cảm, ý chí... ấy của mình, là nắm giữ và làm đẹp chúng, là nỗ lực tìm
kiếm hạnh phúc ngang qua chúng. Xa hơn nữa, còn mơ ước trong tương lai,
đời này và đời sau nữa, chúng sẽ đẹp đẽ hoàn mỹ hơn để cho chính mình
đẹp đẽ, hoàn mỹ và hạnh phúc hơn. Sống hình như chỉ là công việc nắm
giữ, làm đẹp chúng và tiếp tục mơ ước cho chúng trở nên tốt đẹp hơn.
Chính trong hướng sống này, chúng ta phải đối đầu với bao nhiêu trở lực,
gây ra biết bao nhiêu khổ đau.
* Trở lực thứ nhất là
thân thể, sức khỏe, tình cảm, tri thức và ý chí ấy tự thân chúng biến
đổi trong từng phút, từng giây. Tất cả những biến đổi này ở ngoài sự làm
chủ của mình, do đó gây ra những sầu muộn, khổ đau. Càng yêu thương,
nắm giữ chúng bao nhiêu, chúng ta càng chịu đau đớn bấy nhiêu.
* Trở lực thứ hai, từ
khi chúng ta nhận ra mình có mặt giữa cuộc đời này, nhận ra mình là nam
hay nữ, đẹp hay xấu, thông minh hay mê muội, v.v... thì đồng thời chúng
ta cũng nhận ra rằng những gì của thân Năm uẩn của chúng ta đang là, là
những gì do nghiệp chướng của đời quá khứ tạo ra, mà không phải do ý
muốn của mình trong hiện tại. Nếu tai, mắt, mũi, mặt, da, tóc, chiều
cao, năng khiếu, v.v... của mình ngược với mong muốn, thì đấy là nỗi khổ
thâm trầm dằn vặt mình suốt đời. Đôi mắt lé, chiếc mũi khểnh, âm thanh
"the thé" hay "khàn khàn" hình như làm héo úa đi hạnh phúc và nghĩa sống
của mình, hình như hạnh phúc và nghĩa sống của mình cũng "lé", cũng
"the thé", "khàn khàn" hay "khễnh" đi vậy. Kiến thức, dòng dõi của mình
cũng ám ảnh mình tương tự; hạnh phúc và nghĩa sống của mình hình như
cũng tầm thường như chính dòng dõi hay kiến thức của mình. Ngay cả khi
ta có được một thân sắc đẹp, một trí tuệ (theo nghĩa thông thường) minh
mẫn thì chúng ta lại phải đối đầu với trở lực thứ nhất và đối đầu với
cái kết quả khổ đau ở đời mà chính thi hào Ôn Như Hầu, Đoàn Thị Điểm và
Nguyễn Du đã nhận thức rằng:
"... Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào". (Cung Oán Ngâm Khúc).
"Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời kia quen thói má hồng đánh ghen". (Đoạn Trường Tân Thanh).
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên". (Chinh Phụ Ngâm Khúc).
* Trở lực thứ ba, một
làn gió độc có thể làm tê bại cơ thể mình, hay có thể chấm dứt mạng sống
mình. Một tai nạn xe cộ cũng thế; thở ra mà vì một trục trặc nào đó
không thở vào, hay thở vào mà không thở ra nữa, thì mạng sống cũng kết
thúc, và kết thúc luôn cả những mơ ước, sự nghiệp và hạnh phúc của mình.
Sự nghiệp và hạnh phúc thiêng liêng của mình xuất hiện mong manh như
hơi thở, treo ở đầu hơi thở. Khổ đau biết bao! Nhưng, sống làm sao chúng
ta không nhận ra điều mong manh này?
Có thể vì một rủi ro nào
đó, vào một lúc nào đó, thân này bị cụt mất một tay, một chân, hay chột
đi một mắt, thì hẳn chúng ta sẽ thấy hình như mình và hạnh phúc, nghĩa
sống của mình bị chột mắt hay cụt tay vậy.
Cũng có thể, qua một cơn
bệnh, thông minh và hiểu biết của mình bỗng thành "tàn phế", bấy giờ
mình còn nói chi đến nghĩa sống và hạnh phúc nữa?
* Trở lực thứ tư, mọi
người đều phải chết. Mình cũng sẽ đi đến cái chết sớm hay muộn (thực sự
chúng ta đang tiến gần cái chết) giữa khi mơ ước của mình muốn mình tồn
tại mãi mãi. Mâu thuẫn này gây nên khổ đau.
Ngay khi đang sống yên
lành trong hiện tại thì tư duy của mình đặt ra những câu hỏi: Thế thì
mình là ai? Mình sẽ kết thúc mọi thứ theo cái chết của thân sắc này sao?
Sống là cái gì? Hạnh phúc là cái gì? v.v.. Những câu hỏi đặt ra trong
tư thế xác định chính mình là thân Năm uẩn này, sẽ mãi mãi là những gì
dằn vặt, ray rứt mình mà nghìn thu vẫn không có được câu trả lời thỏa
đáng. Đây là một mối khổ đau, tuyệt vọng.
* Trở lực thứ năm, khi
người đời chê bai, khinh khi cái thân xác này, cái hiểu biết này, v.v...
thì mình cảm nhận như chính mình bị chê khinh, khiến mình khổ sở, tức
bực. Hiện tượng bị chê khinh thì lại thường xãy ra ở đời, đe dọa hạnh
phúc của mình, do chính sự tự đồng hóa mình với Năm uẩn.
Thân bị đau vì một quả
đấm trong chừng ít phút, nhưng lòng vì nghe nỗi đau kéo dài đến hàng
tháng, hàng năm, và có thể đến trọn đời. Quả đấm tình cảm cũng đem lại
khổ đau như thế. Chính tư duy lệch lạc về quả đấm khiến mình nghe đau
đớn nhiều hơn.
* Trở lực thứ sáu, cả
đến nhà cửa, vật sở hữu và các người thân của mình bị hư hỏng, hoại diệt
cũng có thể gây ra những buồn nản, khổ đau tương tự. Có người trở thành
điên, mất trí trước sự khánh kiệt hay mất mát lớn về tài sản, hoặc
trước sự vĩnh biệt, biệt ly của người thân.
* Trở lực thứ bảy, có
khi chúng ta lại đồng hóa mình với sự thành bại của công việc làm. Một
người có thể vì thi hỏng hoặc vì thất bại trong công việc kinh doanh mà
đi đến tự hủy hoại cuộc sống.
Tất cả những khổ đau vừa
nêu trên có mặt là do vì sự có mặt của ý niệm "tôi là": tôi là sắc, là
thọ, là tưởng, là hành, là thức. Tất cả những khổ đau ấy có mặt cũng có
thể phát biểu là do lòng tham ái có mặt: ái sắc, ái thọ, ái tưởng, ái
hành, ái thức. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, mà ái có mặt thì có mặt ý
niệm "tôi là". Bất cứ lúc nào và ở đâu mà ý niệm "tôi là" có mặt thì ái
có mặt, ở đâu mà ý niệm "tôi là" hay ái có mặt thì ở đấy có mặt của niềm
đau, của sinh tử thiên thu vĩnh kiếp của con người.
Con đường đi ra khỏi niềm đau thiên thu ấy hẳn là con đường đi ra khỏi ái, hay đi ra khỏi ý niệm "tôi là".
Nhưng cái niềm băn khoăn
lớn nhất, và đây cũng là niềm đau ray rứt, là làm sao chúng ta có thể
quan niệm được sống là gì, hạnh phúc là gì khi không còn có mặt cái ý
niệm "tôi là", khi không còn có mặt lòng tham ái yêu thương của mình đối
với những gì mình đang có và đang là?
Có phải xóa sạch đi lòng
tham ái, hay ý niệm "tôi là" để rồi đi vào chỗ rỗng không, tiêu diệt
mất hết mọi ý nghĩa, ý vị của cuộc sống?
Chính tại đây, chính tại
niềm băn khoăn và nghi vấn này là ngõ rẽ của sinh tử và giải thoát. Ở
đây, cần lấy lại một chút bình tĩnh và thanh thản của trầm tư để đặt lại
hướng sống cho cuộc đời. Chúng ta phải nhận thức thật rõ ràng, chỉ có
tư duy lệch lạc của ngã tính mới đưa tất cả vào chỗ rỗng không; chỉ có
tham ái và ý niệm "tôi là" mới thật sự rỗng không. Cần phải rời gấp khỏi
tư duy ấy để đi vào cuộc sống, vào thực tại, và hãy thử một lần xóa đi ý
niệm "tôi là" và lòng tham ái thì chúng ta sẽ nhận ra ngay chúng ta
không đi vào chỗ rỗng không, mà là đi vào cảm nhận hạnh phúc. Bấy giờ
thực tại vẫn còn nguyên ở đấy mà chỉ vắng mặt khổ đau, hay "tôi khổ
đau".
Tất cả bí mật của cuộc
sống, tất cả những gì ngăn cách ta với hạnh phúc và chân lý đang nằm gọn
ở trong ta, đang nằm ở ngay trong sự nắm giữ lòng tham ái hay ý niệm
"tôi là" ấy.
Tu Tập Giải Thoát với Năm Uẩn
Con đường tu tập giải thoát luôn luôn có nền tảng là sự tu tập Bát Thánh đạo.
- Thường xuyên thấy rõ
sắc, thọ, tưởng, hành và thức là Vô ngã, Vô thường. Vì Năm uẩn vô thường
nên chúng dẫn đến khổ đau. Năm uẩn là vô thường, khổ đau nên cần nhìn
nó không phải là mình, không phải là của mình, không phải là tự ngã của
mình. Đây là chánh kiến về Vô ngã.
- Tư niệm, tư duy về Năm uẩn gắn liền với Vô ngã, Vô thường và Khổ, gọi là chánh tư duy về Năm uẩn.
- Nhớ nghĩ Năm uẩn là Vô ngã, Vô thường, đem lại khổ đau, là chánh niệm.
- Nỗ lực để trú niệm trên sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ đau ấy của Năm uẩn là chánh niệm.
- Do công phu tu tập
trên mà đi vào Thiền định, luôn luôn giác tỉnh Năm uẩn là Vô ngã, Vô
thường, là Khổ đau, không phải là mình, không phải là của mình, không
phải là tự ngã của mình, là chánh định.
Nhờ thấy rõ tính Vô ngã,
Vô thường và Khổ đau của Năm uẩn mà sinh lòng nhàm chán, ly tham. Do ly
tham mà có giải thoát. Trong sự giải thoát này, một trí tuệ phát sinh
biết rằng đã giải thoát gọi là Tri kiến giải thoát.
Tại đây công việc tu tập giải thoát kết thúc, không còn có gì để làm, để tu nữa.
Các Nghi Vấn về Giáo Lý Năm Thủ Uẩn
Mang sẵn trong mình thói
quen chấp ngã, người học đạo và hành đạo thường có những nghi vấn về
giáo lý Vô ngã. Những câu hỏi căn bản nhất về giáo lý Năm thủ uẩn tương
tự với những câu hỏi về giáo lý Duyên khởi: Nếu là Vô ngã thì ai tu? Ai
chứng? Ai thọ quả? Ai luân hồi? v.v...
Những câu hỏi ấy luôn
luôn là sản phẩm của tư duy nhị nguyên, nhuốm màu ngã tính. Chúng là
tiếng nói của bên này vùng sinh tử, thứ tiếng nói mà tự thân không thể
nói lên được những gì của bên kia bờ giải thoát. Hỏi là muốn hỏi về sự
thực, nhưng sự thực thì không bao giờ có mặt trong câu hỏi. Vì vậy nên
các câu hỏi bao giờ cũng sai lầm một cách nào đó. Vấn đề của giáo lý
Phật giáo là không phải trả lời những câu hỏi, mà là chỉ rõ chỗ sai lầm
của câu hỏi để chuyển thành những câu hỏi thích hợp (đúng). Từ đó, câu
trả lời thích hợp xuất hiện.
"Ai" hay "Ngã" là của tư duy. Thực tại như thật thì không có "Ai", không có "Ngã".
Một số người nghiên cứu
Phật học cho rằng nếu Năm uẩn không phải của Ta (self), thì thật ngã hay
chân ngã phải ở ngoài thế giới hiện tượng này. Quan niệm này nêu ra hai
điểm:
1. Có chân ngã hay cái ngã tuyệt đối, và
2. Chân ngã hay ngã tuyệt đối ở ngoài thế giới Duyên sinh.
- Về điểm thứ nhất, thực
tại như thật ở ngoài mọi ý niệm của ngã tính, nên nó thoát ly hết thảy
khái niệm về vọng ngã hoặc chân ngã. Vì thế, chủ trương có chân ngã cũng
chỉ là hậu quả của một sự chấp thủ tướng.
- Về điểm thứ hai, xác
nhận sự thật có mặt ở ngoài hiện tượng giới chỉ là xác nhận sự thật như
có ngã tướng. Đây cũng chỉ là hậu quả của chấp thủ.
Lại nữa, nếu sự thật
không có mặt ở hiện tượng giới thì quyết định không thể thực hiện được
giải thoát ngay trên đời. Nhưng sự kiện giải thoát có mặt ở đời nên
quyết định sự thật không hẳn ở ngoài hiện tượng giới. Hệt như sóng không
phải nước, nhưng không phải vì thế mà "nội dung" của sóng không phải là
nước. Sóng vốn chính là nước, nếu rời khỏi cái nhìn ngã tướng - cái
nhìn đã làm hiện ra tướng "sóng". Cũng thế, Năm thủ uẩn có mặt của ý
nghĩa sóng, nhưng "nội dung" của cái gọi là Năm thủ uẩn không hẳn là ở
ngoài thực tại. Vì thế, chúng ta không thể cho rằng thực tại chính là
Năm thủ uẩn, cũng thể cho rằng thực tại ở ngoài Năm thủ uẩn. Chủ trương
thực tại ở trong hay ngoài đều rơi vào chấp thủ.
Vấn đề nền tảng của Phật
giáo không phải là để hỏi và trả lời những câu hỏi trên, mà là nói lên
cái khổ và con đường diệt khổ. Khổ là do ái, thủ; đoạn trừ ái, thủ là
khổ diệt.
Đến đây, nếu lòng của
người học Phật còn chưa ổn, muốn đặt ra nhiều câu hỏi khác nữa, thì nên
nhớ lời trao của Tuệ Trung Thượng Sĩ: "Đạo bất tại vấn, vấn bất tại
đao", rồi bắt tay ngay vào công việc nhiếp phục khổ đau, lên đường tảo
trừ tham ái, vô minh. Trọng tâm của công việc nhiếp phục khổ đau này đã
được Thế Tôn dạy trong thời pháp: "Sơ Chuyển Pháp Luân": Tứ Thánh đế, sẽ
được trình bày ở Tiết III, Chương Pháp Bảo này./.