- Phật Học Khái Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Chương ba
- Tăng Bảo
- -oOo-
- Tiết I
- Đời Sống Của Chư Tăng
Tăng hay Tăng-Già là
dịch âm từ chữ Sangha (của Pàli, Sanskrit), có nghĩa là một nhóm người,
một hội chúng sinh hoạt trong cùng một mục đích, một quy luật chung. Về
sau, khi đoàn thể đệ tử của Thế Tôn ra đời, danh từ Tăng-già thường dùng
để chỉ hội chúng xuất gia của Thế Tôn, gồm Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
Thức-xoa-ma-na, Sa-di, và Sa-di-ni -- có khi chỉ gọi bốn chúng xuất gia:
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Sa-di và Sa-di-ni. Do đó, Tăng hay Tăng già còn
được gọi là Tăng Bảo, ngôi báu thứ ba trong ba ngôi báu Phật, Pháp,
Tăng.
Chỉ có Tỷ-kheo và
Tỷ-kheo-ni là thọ Cụ túc giới, đầy đủ giới của người xuất gia, đúng danh
xưng là Tăng-già, còn ba chúng xuất gia còn lại thì ở vào giai đoạn sửa
soạn, tu tập các phần căn bản để thực sự trở thành thành viên của
Tăng-già.
Được gọi là Tăng-già khi
nào một hội chúng tu sĩ Phật giáo có ít nhất là bốn vị. Dưới bốn vị thì
không thành nghĩa Tăng. Tùy theo hình thức nhóm họp, sinh hoạt của chư
Tăng, các nhóm tập hợp chư Tăng có số lượng và tên gọi khác nhau. Chẳng
hạn, hội chúng Tỷ-kheo thì giữ hai trăm năm mươi giới cụ túc, hội chúng
Tỷ-kheo-ni giữ ba trăm năm giới cụ túc. Nhóm đi hoằng hóa ở phương xa
gọi là "Chiêu đề Tăng", nhóm ở lại một nơi (Tăng xá, chùa) để học hỏi tu
tập gọi là "Thường trụ Tăng". Có những sinh hoạt chỉ cần có mặt bốn hay
năm tu sĩ, có những sinh hoạt giới hạn trong sự có mặt của mười tu sĩ,
cũng có những sinh hoạt giới hạn trong sự có mặt của hai mươi tu sĩ hay
nhiều hơn. Chúng ta sẽ đi vào từng sinh hoạt cụ thể của các nhóm
Tăng-già này trong các phần trình bày tiếp theo.
Quá Trình Thành Lập Giáo Hội Tăng Già Dưới Sự Lãnh Đạo Của Thế Tôn
Ngay sau ngày thành Đạo ở
Ưu-lâu-tần-loa (Uruvelà), Thế Tôn đi đến vườn Lộc Uyển (Migadàya), chỗ
"Chư Thiên đọa xứ" (Isipatana), tại Ba-la-nại (Bàranàsi), thuyết pháp độ
năm pháp hữu cùng tu, nhóm của Tôn giả Kiều-trần-như (Kondanna). Sau
thời pháp đầu tiên giảng về Tứ Thánh đế, Thế Tôn chấp nhận cho năm Tôn
giả ấy xuất gia. Bấy giờ chỉ có Tôn giả Kiều-trần-như đắc quả
Tu-đà-hoàn, bốn vị còn lại cảm thấy hân hoan trong Pháp nhưng chưa đắc
pháp nhãn thanh tịnh vô trần ly cấu.
Tại vườn Lộc Uyển, ngay
sau thời chuyển Pháp luân này, giáo hội Tăng-già đầu tiên ra đời gồm có
Thế Tôn và năm vị đệ tử. Ngôi Tam Bảo cũng được hình thành từ đây: Thế
Tôn và Phật Bảo; Tứ Thánh đế và Pháp Bảo và năm vị đệ tử đầu tiên ấy là
Tăng Bảo.
Thế Tôn tiếp tục thuyết
giảng vô ngã qua sự phân tích Năm uẩn, bốn ngày tiếp theo ngày Sơ Chuyển
Pháp luân thì năm anh em cùng tu của Tôn giả Kiều-trần-như đều đắc
A-la-hán quả. Thế là, Giáo hội Tăng già đầu tiên gồm có sáu vị A-la-hán
đầu tiên, mà Thế Tôn là bậc lãnh đạo.
Ở Ba-la-nại, Thế Tôn
tiếp tục thuyết pháp độ Tôn giả Da-xá (Yasa) cùng bốn người của Tôn giả
này là Vimala (Tỳ-ma-la - Vô cấu), Subàhu (Tu-bà-hầu), Punnaji
(Phu-lan-na-ca) và Gavampati (Già-bà-đạt-đế); tất cả đều đắc A-la-hán
quả. Đến đây, tại Ba-la-nại, đoàn thể Tăng-già gồm tất cả mười một vị
A-la-hán (gồm Thế Tôn).
Trước khi tiếp tục lên
đường trở lại Ưu-lâu-tần-loa để độ vua Tần-bà-sa-la (Bimbissàra), theo
lời hứa với nhà vua lúc Thế Tôn đang trên đường tầm đạo, Thế Tôn dạy
mười vị A-la-hán kia đi về mười phương hướng khác nhau, không được hai
người cùng đi về một hướng, để hoằng hóa. Tại đây, ý nghĩa nhóm "Chiêu
đề Tăng" xuất hiện đầu tiên.
Tại Ưu-lâu-tần-loa
(Uravelà), Thế Tôn độ Tôn giả Ca-diếp (Kassapa) và ngót một ngàn đệ tử
của Tôn giả; tất cả đều đắc A-la-hán quả. Cũng tại đây, vua Tần-bà-sa-la
(Bimbissàra) nghe Pháp và quy y với Thế Tôn. Nhà vua dâng cúng Thế Tôn
tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) để Thế Tôn và một ngàn đệ tử chư Tăng an trú
trong mùa mưa. Nhà vua hộ trì bốn sự cúng dường (cơm nước, y phục, sàng
tọa và thuốc trị bệnh). Đây là tịnh xá đầu tiên của Giáo hội Tăng-già
được thiết lập, và hội chúng chư Tăng thường trú xuất hiện.
Bấy giờ là tháng Vesakhà
của Ấn Độ (nhằm giữa tháng 4 và tháng 5 Dương lịch), bắt đầu mùa mưa,
Thế Tôn quyết định an cư mùa mưa đầu tiên tại tịnh xá Trúc Lâm này, mở
đầu truyền thống an cư về sau (nay chúng ta gọi là kiết hạ).
Hai tháng sau mùa an cư
đầu tiên, Thế Tôn đến Vương xá (Ràjagaha) độ Tôn giả Xá-lợi-phất
(Sàriputta), Mục-kiền-liên (Moggallàna) và ngót hai trăm năm mươi môn đệ
của ngoại đạo sư Sanjaya; tất cả đều đắc A-la-hán quả. Tại thành Vương
Xá này, kể từ đây, luôn luôn có một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử
A-la-hán theo sau Thế Tôn trên đường hoằng hóa.
Tôn giả Xá-lợi-phất đắc
Tu-đà-hoàn quả khi nghe Tôn giả Thuyết Thị (có nơi dịch là Mã Thắng -
Assaji) nói tóm tắt về Duyên khởi, trước khi đến yết kiến Thế Tôn. Tôn
giả ở bên cạnh Thế Tôn nghe Pháp và tu tập đến bốn tuần lễ sau mới đắc
A-la-hán quả thuần thục, đắc đại tuệ, thể nhập nhuần nhuyễn pháp giới
tánh. Về mặt tuệ giải thoát này, Tôn giả được Thế Tôn tán thán và xác
nhận ngang bằng với Thế Tôn; Tôn giả có thể trả lời, phân tích rõ ràng
tất cả các câu hỏi về pháp giới. Thế Tôn đã tuyên bố trước Thánh chúng
về sự chứng đắc này và tuyên bố chọn Tôn giả Xá-lợi-phất làm Trưởng tử,
bậc Tướng quân của Chánh pháp.
Tôn giả Mục-kiền-liên
đắc Tu-đà-hoàn quả khi nghe Tôn giả Xá-lợi-phất giới thiệu phần tóm tắt
của Duyên khởi trước khi đến hầu Thế Tôn. Sau khi được Thế Tôn tế độ,
Tôn giả đến ngồi tu tại làng Kallavàlla ở Ma-kiệt-đà (Màgadha). Tuần đầu
ngồi Thiền, Tôn giả bị rơi vào hôn trầm; Tôn giả tiếp tục nỗ lực Thiền
quán, tám ngày sau đó thì đắc Đại A-la-hán, nhuần nhuyễn lục thông, với
thần túc thông là tối thắng. Thế là chỉ mười lăm ngày tu tập, Tôn giả đã
chứng đắc các quả vị tối thượng. Ngày Tôn giả Xá-lợi-phất đắc quả tối
thượng thì Tôn giả Mục-kiền-liên trở về yết kiến Thế Tôn trước hội chúng
Tỷ-kheo và được Thế Tôn tán thán về sự chứng đắc của Tôn giả với thần
túc thông ngang bằng Thế Tôn. Thế Tôn đã tuyên bố chọn Tôn giả
Mục-kiền-liên là đệ tử thứ nhì của Thế Tôn trước Thánh chúng.
Sau đó, một số vị trong
Tăng chúng bàn tán về quyết định trên của Thế Tôn và Tôn giả Xá-lợi-phất
và Mục-kiền-liên, thắc mắc: Tại sao Trưởng tử lại không phải là một
trong năm Tôn giả Kiều-trần-như? Tại sao không phải là Da-xá (Yasa)? Hay
là bốn người bạn của Tôn giả Da-xá? Hay không phải Tôn giả Ca-diếp? Tại
sao Tôn giả Mục-kiền-liên đắc A-la-hán quả trước Tôn giả Xá-lợi-phất
lại làm đệ tử thứ hai? v.v... Thế Tôn bèn họp Tăng chúng và giải thích
lý do. Thế Tôn dạy rằng, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã
chứng đắc cao nhất và có nguyện vọng làm Trưởng tử Thế Tôn từ nhiều đời
trước. Thế Tôn đã chọn lựa thể theo sự chứng đắc và nguyện vọng của hai
Tôn giả ấy. Còn Tôn giả Kiều-trần-như trước đây chỉ có nguyện vọng trở
thành đệ tử đầu tiên của Thế Tôn và đắc A-la-hán quả đầu tiên; nay
nguyện vọng đó của Tôn giả đã thành tựu (Theo lời chú giải trong
Etavagga, phần chú giải của Tăng Chi Bộ Kinh - Anguttara Nikàya).
Về trường hợp giữa hai
Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thì tuy không thấy rõ lời giải
thích trực tiếp trong các kinh, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đây là
nhân duyên (hay nguyện vọng tiền kiếp của hai Tôn giả) -- theo Kinh Đại
Bổn, Trường Bộ Kinh III, và cụ thể là do quả chứng giải thoát của Tôn
giả Xá-lợi-phất là nhuần nhuyễn nhất trong hàng Thánh đệ tử Vô học của
Thế Tôn mà không căn cứ vào tuổi đời, tuổi đạo hay sự đắc quả trước, sau
(như đã được đề cập ở chương Phật Bảo). Như chúng ta cũng thấy trong
các định nghĩa về Trưởng lão, Sa-môn, Ba-la-môn trong các kinh và trong
Pháp Cú, cái gọi là Trưởng lão, Sa-môn và Bà-la-môn là ở chỗ chứng đắc,
giải thoát, chứ không phải ở tuổi tác. Chính trên cơ sở giá trị này mà
Thế Tôn chọn lựa hai vị đại đệ tử.
Đến mùa đông năm sau,
Thế Tôn cùng một ngàn hai trăn năm mươi vị đệ tử A-la-hán đi đến
Ma-kiệt-đà. Vua Tịnh Phạn đã ba lần thỉnh mời Thế Tôn về thăm Hoàng cung
(hai lần đầu, mỗi lần một phái đoàn gồm một ngàn người, lần thứ hai do
Tôn giả Ka-lưu-đà-di đến thỉnh). Tất cả đều xuất gia và đắc A-la-hán quả
sau đó. Bấy giờ Tôn giả Ka-lưu-đà-di (Kàludàyi) mới trình lên Thế Tôn
lời thỉnh mời của đức vua Tịnh Phạn. Thế Tôn nhận lời. Trong chuyến
viếng thăm này, Thế Tôn độ các Hoàng thân (như đã được trình bày ở
chương I). Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli), thợ hớt tóc của các Hoàng thân,
được độ trong dịp này và được Thế Tôn lưu ở bên cạnh Thế Tôn. Thế Tôn
thân hành dạy Luật tạng cho Tôn giả.
Năm năm sau ngày thành
Đạo, Thế Tôn cho phép thành lập Ni chúng theo lời thỉnh cầu của Di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề, đồng thời Thế Tôn chế Bát kỉnh pháp tức tám điều cung
kính đối với chư Tăng mà chư Ni phải tuân giữ. Từ đây, Ni chúng được
thành lập.
Do sự phát triển Giáo
hội Tăng-già nhanh chóng và mạnh mẽ, Thế Tôn bắt đầu thiết lập nên một
số luật tắc kể từ năm thứ sáu. Cho đến năm thứ mười ba, Luật tạng bắt
đầu hình thành, do Tôn giả Ưu-ba-ni đặc trách.
Các vị tân Tỷ-kheo hoặc
được Thế Tôn tế độ hoặc được các đệ tử A-la-hán của Thế Tôn tế độ. Tất
cả sinh hoạt thành nhiều nhóm ở nhiều tịnh xá và khu rừng, làng mạc khác
nhau, nhưng tất cả đều giữ gìn chung một Giới bổn.
Các Tỷ-kheo-ni hoặc được
Thế Tôn tế độ, hoặc được các Trưởng lão Tăng tế độ, hoặc được các
Trưởng lão Ni tế độ, đều chịu sự hướng dẫn lãnh đạo của các Trưởng lão
Ni khác. Tất cả Ni chúng tu tập chung một Giới bổn dành riêng cho Ni và ở
trong các trú xứ riêng.
Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk: Praktimoksa; Pàli: Patimokkha).
Về ý nghĩa, lý do thành
lập Giới bổn, nội dung tổng quát của Giới bổn, và tính chất về nền tảng
của Giới bổn đã được bàn đến ở tiết VIII (Giới học). Ở đây cũng không
trình bày chi tiết từng giới điều mà chỉ lược qua một số nét chính.
Giới bổn của Tỷ-kheo,
cho đến nay, gồm có hai trăm năm mươi giới và chia thành bảy tụ:
Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa; Bất định; Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề;
Ba-la-đề-đề-xá-ni; Chúng học và Diệt tránh.
Về Ba-la-di,
có bốn pháp; dâm, trộm, sát sinh và nói dối. Phạm một trong bốn giới
này thì vị Tỷ-kheo đánh mất bản chất của người Tỷ-kheo, không còn được
chấp nhận ở trong hàng ngũ Tỷ-kheo.
Về Tăng-già-bà-thi-sa,
có mười ba pháp (không liệt kê ở đây). Phạm một trong mười ba giới này,
vị Tỷ-kheo có thể làm pháp sám hối, nhưng phải biệt trú trong một thời
gian, không được sinh hoạt chung với chúng Tăng (thời gian biệt trú kéo
dài bằng thời gian từ khi phạm cho đến khi phát lồ). Sau thời gian biệt
trú thì được cư trú chung với chúng Tăng trong sáu ngày đêm, tỏ ra ân
hận việc mình đã phạm để chúng Tăng hoan hỷ. Sau đó phải đảnh lễ thỉnh
cầu cho đủ số hai mươi đại Tăng (thanh tịnh) để làm lễ sám hối xuất tội.
Về pháp Bất định
có hai. Khi phạm hai pháp bất định này thì phải chờ chúng Tăng xét xử
chính xác là vị Tỷ-kheo ấy thực sự phạm tội nào, với sự y theo lời xác
nhận tội của một vị nữ cư sĩ thành tín. Nếu là tội Tăng-già-bà-thi-sa
thì xử trị như trên, nếu là Ba-dật-đề thì sẽ xử lý theo như phần dưới
đây.
Về Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề,
có ba mươi pháp. Pháp này còn được gọi là xả đọa, có nghĩa là nếu không
xả các y bát, vật dụng thừa cho chúng Tăng thì phạm. Sau khi phạm, phải
xả xong mới sám hối. Nếu không thực hành như thế thì có thể đọa địa
ngục.
Về Ba-dật-đề, có chín mươi pháp. Nếu phạm thì chỉ cần sám hối trước chúng Tăng.
Về pháp Chúng học, có một trăm pháp. Đây là những điều nặng về cung cách, oai nghi của vị Tỷ-kheo. Chỉ là những khinh pháp.
Về Diệt tránh, có bảy pháp. Đây là bảy phương pháp để dập tắt các vụ tranh chấp trong chúng Tăng.
Về giới bổn Tỷ-kheo-ni,
có điểm khác với Giới bổn của Tỷ-kheo. Chẳng hạn, Ba-la-di của Tỷ-kheo
chỉ có bốn, nhưng Tỷ-kheo-ni nhiều hơn, có đến tám giới;
Tăng-già-bà-thi-sa có đến mười bảy giới; về hai loại Ba-dật-đề của
Tỷ-kheo chỉ có một trăm hai mươi giới, của Tỷ-kheo-ni có đến hai trăm lẻ
tám giới; về Ba-la-đề-đề-xá-ni của Tỷ-kheo chỉ có bốn giới, của
Tỷ-kheo-ni có đến tám giới; riêng về Đột-kiết-la của Tỷ-kheo có tất cả
một trăm lẻ chín giới, thì Tỷ-kheo-ni chỉ có một trăm lẻ bảy giới (bớt
hai giới bất định). Do đó Giới bổn của Tỷ-kheo-ni lên đến ba trăm năm
mươi giới.
Về giới bổn Tỷ-kheo,
Tăng Chi Bộ Kinh I, tr. 267 (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, 1980)
ghi rõ bản giới bổn của chư Tăng tụng đọc mỗi nửa tháng một lần chỉ gồm
có một trăm năm mươi học giới mà không liệt kê danh sách các học giới
ấy. Có lẽ không có một trăm chúng học là những pháp được thêm về sau. Ví
dụ, điển hình pháp chúng học từ số sáu mươi đến tám mươi lăm là đề cập
liên hệ đến tháp Phật. Lúc Phật còn tại thế thì chưa có tháp, vì thế
chúng ta biết rằng các giới ấy được thiết lập về sau.
Về Giới bổn Tỷ-kheo-ni,
trường hợp các pháp chúng học cũng tương tự. Dựa theo kinh tạng, có thể
xác định rằng ngay thời Thế Tôn tại thế, đã thiết lập hai bản Giới bổn
Tăng và Ni khác nhau. Trong đề mục Ni giáo giới (Tăng Chi III-A, tr.
252-253; bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, 1981), ghi rõ: "...
Đối với vị giáo giới, hai Giới bổn Pàtimokkha được khéo trao truyền lại
một cách rộng rãi...".
Bên cạnh Giới bổn này, Tỷ-kheo-ni còn lãnh thọ thêm "Bát kỉnh pháp", trọn đời cung kính, tôn trọng, không được vượt qua. Nội dung của tám điều cần tôn kính ấy là:
1. Dù cho thọ đại giới
một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với vị Tỷ-kheo thọ giới trong một ngày,
cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, xử sự đúng pháp.
2. Tỷ-kheo-ni không có thể an cư tại chỗ không có Tỷ-kheo.
3. Nửa tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo đến để thuyết giới.
4. Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần làm lễ "Tự tứ" trước hai Tăng chúng.
5. Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải làm pháp ý hỷ cho đến nửa tháng.
6. Sau thời gian hành các pháp Sa-di-ni hai năm, phải xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng chúng.
7. Không vì bất cứ lý do gì, Tỷ-kheo-ni có thể chỉ trích một Tỷ-kheo.
8. Chỉ có sự giáo giới
phê bình giữa các Tỷ-kheo về các Tỷ-kheo-ni, mà không có sự giáo giới
phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo (Tăng Chi III-A, tr. 250).
Thế Tôn đã giải thích lý do tại sao Ngài ban hành "Bát kỉnh Pháp" này rằng:
"Này A-nan, ví như một
người vì nghĩ đến tương lai, xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước
không thể chảy qua; cũng vậy này A-nan, vì nghĩ đến tương lai, Ta mới
ban hành "Bát kỉnh pháp" này cho các Tỷ-kheo-ni cho đến trọn đời, không được vượt qua" (Tăng Chi III-A, tr. 252).
Thế Tôn cũng đã nói cho
Tôn giả A-nan biết rằng nếu Tăng-già không có mặt Ni chúng thì Phạm hạnh
sẽ tồn tại lâu dài, diệu pháp sẽ tồn tại đến một ngàn năm. Nhưng, nếu
có Ni chúng thì Phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài, nay diệu pháp
sẽ tồn tại năm trăm năm (Theo Tăng Chi III-A, tr. 251).
Giải thích về lý do diệu
pháp bị rút ngắn thời gian tồn tại, Thế Tôn đã ví một gia đình có nhiều
phụ nữ và ít đàn ông thì dễ bị đạo tặc đánh trộm. Trường hợp Giáo hội
Tăng-già xuất hiện Ni chúng thì cũng như thế.
Vì các lý do đó mà Thế Tôn ban hành "Bát kỉnh pháp", chứ không phải vì lý do phân biệt nam, nữ, kỳ thị phái tính.
Nhưng về mặt trí tuệ và
giải thoát, thì Thế Tôn xác nhận trong Chánh pháp do Thế Tôn giảng dạy,
nữ giới xuất gia vẫn chứng đắc bốn quả vị Sa-môn (từ Tu-đà-hoàn cho đến
A-la-hán quả) như chư Tăng (Tăng Chi III-A, tr. 249).
Tại đây, chúng ta hiểu
được ý nghĩa Thế Tôn thành lập Giới bổn không ngoài những lý do đã được
trình bày ở Tiết VIII. Căn bản nhất mà nói, đấy là vì lòng từ bi thương
tưởng cuộc đời, muốn cho diệu pháp được tồn tại lâu dài.
Những điều kiện của một vị Trì luật lý tưởng và Giáo giới lý tưởng.
Một vị Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni là vị Trì luật lý tưởng nếu vị ấy có hội đủ các điều kiện sau:
- "Biết vi phạm, biết
không vi phạm; biết phạm nhẹ, nặng; có giới luật, sống chế ngự với sự
chế ngự của Giới bổn; đầy đủ oai nghi chánh hạnh, biết sợ hãi trong
những lỗi nhỏ nhặt; chấp nhận và học tập trong các học pháp; có được dễ
dàng tăng thượng pháp và hiện tại lạc trú; do đoạn trừ lậu hoặc, tự mình
ngay trong hiện tại với thắng trí chứng đạt, chứng nhập vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát". (Tăng Chi III-A, tr. 138).
- "... (tương tự như trên...; thêm vào: cả hai Giới bổn được khéo truyền lại một cách rộng rãi...)" (Sđd., tr. 138).
Một vị giáo giới đúng nghĩa là vị Tỷ-kheo có các điều kiện sau:
"... Vị Tỷ-kheo có giới
đức, sống chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn, đủ oai nghi chánh hạnh...
Nghe nhiều, hiểu nhiều..., nghĩa, lý, văn cụ túc..., khéo thể nhập
chánh kiến; thông rõ hai Giới bổn; giọng nói dễ nghe; lời tao nhã; giải
thích nghĩa, lý xác minh, có khả năng thuyết giảng..., được phần lớn các
Tỷ-kheo-ni ái mộ... được hai mươi tuổi an cư hay hơn hai mươi tuổi an
cư." (Theo Tăng Chi III-A, tr. 253).
- Một Chúng Tỷ-Kheo Hưng Thịnh
- Và Một Chúng Tỷ-Kheo Thối Đọa
Một chúng Tỷ-kheo hưng thịnh khi nào chúng Tỷ-kheo ấy thể hiện được bảy điều:
1. Chúng Tỷ-kheo thường hay tụ họp, và tụ họp đông đảo.
2. Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc Tăng trong niệm đoàn kết.
3. Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ các luật lệ đã được ban hành, sống đúng các học giới.
4. Chúng Tỷ-kheo tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các vị Tỷ-kheo Thượng toạ.
5. Chúng Tỷ-kheo không bị chi phối bởi các tham ái.
6. Chúng Tỷ-kheo thích sống chỗ nhàn tịnh.
7. An trú chánh niệm khiến các bạn đồng tu cảm mến. (Sđd., tr. 28).
Có thể có bảy điều khác để một chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự.
2. Không ưa thích phiếm luận.
3. Không ưa thích ngủ nghỉ.
4. Không ưa thích quần tụ.
5. Không có các dục vọng, không bị chi phối bởi các dục.
6. Không kết bạn với các dục vọng, không thân thích với các dục.
7. Không dừng lại nửa chừng giữa quả vị thấp kém và những quả vị thù thắng. (Sđd., tr. 29-30)
Có thể có bảy điều khác để một chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Có tín tâm.
2. Có tàm.
3. Có quý.
4. Có nghe nhiều.
5. Có tinh tấn.
6. Có chánh niệm.
7. Có trí tuệ. (Sđd., tr. 30).
Có thể có bảy điều khác khiến chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Tu tập vô thường tưởng.
2. Tu tập vô ngã tưởng.
3. Tu tập bất tịnh tưởng.
4. Tu tập nguy hại tưởng.
5. Tu tập đoạn diệt tưởng.
6. Tu tập tan rã tưởng.
7. Tu tập diệt tưởng. (Sđd., tr. 31).
Một chúng Tỷ-kheo tu tập Thất giác chi cũng sẽ đi đến hưng thịnh (Sđd., tr. 31).
Ngược lại các điều trên thì chúng Tỷ-kheo đi đến suy tàn.
Có rất nhiều pháp Thế
Tôn dạy, nếu thực hành, chúng Tỷ-kheo sẽ cường thịnh. Hầu như các pháp
tu của Ba mươi bảy phẩm trợ đạo và Giới bổn nếu được giữ gìn tu tập thì
mỗi Tỷ-kheo sẽ rời xa các bất thiện tâm, sẽ hoàn bị các thiện tâm và làm
cho Tăng chúng hưng thịnh. Pháp là một trong những chỗ y chỉ vững chắc
có tính truyền thống. Sau đây là những chỗ nương tựa căn bản của chư vị
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni mà Thế Tôn dạy:
"Lành thay, lành thay,
này Sàriputta! Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa Đạo sư, có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện. Này Sàriputta, Tỷ-kheo
cung kính, tôn trọng, sống nương tựa Pháp... Chúng Tăng... học pháp...
Định ... Không phóng dật... Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa, tiếp đón thân tình, có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện". (Sđd., tr. 120).
Thành Phần Chư Tăng Và Giáo Phẩm
Giáo Pháp của Thế Tôn
dành cho những ai muốn tu. Điều này được lập lại nhiều lần trong các
kinh và nói lên rằng con người ở mọi giai cấp, trình độ, tuổi tác, đều
có thể xuất gia tu hành; không có một sự phân biệt, kỳ thị nào xảy ra
trong Giáo hội Tăng-già dưới sự lãnh đạo của Thế Tôn.
Các Hoàng thân, vua chúa
đều được chấp nhận vào hàng ngũ Tăng-già như trường hợp bà
Ma-ha-ba-xà-ba-đề, vương phi Da-du-đà-la, các hoàng thân A-nan,
A-nậu-lâu-đà, Bạt-đề, Đề-bà-đạt-đa... các cung nữ, các quan...; như
trường hợp hoàng hậu Khemà (vợ vua Tần-bà-sa-la). Tất cả đều chứng quả
vị A-la-hán.
Các thứ dân thì có rất
nhiều, điển hình là Tôn giả Ưu-ba-ly, vốn là thợ hớt tóc của các Hoàng
thân, đã đắc A-la-hán quả và đã chủ trì Luật tạng của Giáo hội; Tôn ni
Pàtacarà (người không khố) điên cuồng vì đau khổ, sau khi đến với Thế
Tôn và Tăng chúng, đã đắc A-la-hán quả, trở thành một vị thuyết pháp
giỏi có tác dụng lớn, độ được hơn năm trăm tôn Ni khác đắc A-la-hán.
Các kỹ nữ như Vimalà và Ambapalì (xem Trưởng Lão Ni Kệ) đều được Thế Tôn cho xuất gia và đều chứng đắc quả vị tối thượng.
Kẻ đã một thời làm tướng
cướp như trường hợp Tôn giả Angulimalà (Vô Não) - hay người đeo vòng
hoa kết bằng các ngón tay - cũng được Thế Tôn tế độ và đã trở thành một
A-la-hán không bao lâu sau.
Già như Subbadha, một tu
sĩ ngoại đạo, cũng được Thế Tôn tế độ sau cùng trước ngày Ngài thị
tịch. Nhiều ngoại đạo sư khác đã được Thế Tôn chấp nhận cho xuất gia
ngay từ sau ngày ngài thành Đạo.
Riêng về hàng ngoại đạo,
thông lệ trước khi chính thức xuất gia phải trải qua một thời gian bốn
tháng sống biệt chúng. Tuy nhiên, Thế Tôn linh động giải quyết theo từng
trường hợp có thể cho nhập đạo liền tại chỗ. Tất cả đều chứng đắc Vô
lậu quả.
Các vị có gia đình rồi
vẫn được chấp nhận cho xuất gia, như trường hợp ông Visakha, bà
Dhammadinna và nhiều trường hợp khác nói lên ở Trưởng Lão Tăng Kệ và
Trưởng Lão Ni Kệ. Tôn giả ấy đều chứng đắc A-la-hán.
Các trẻ em cũng được cho
vào hàng ngũ Tăng-già, như trường hợp thị giả của Tôn giả Anurudha, thị
giả của Tôn giả Xá-lợi-phất, v.v... thường thì ít tuổi, họ là những
Sa-di tập sự; nhưng không hẳn thế, nếu các Sa-di chứng đắc A-la-hán, Thế
Tôn đặc miễn tuổi cho thọ Cụ túc giới liền, như trường hợp thị giả của
Tôn giả Xá-lợi-phất.
Tập thể Tăng-già là một
tập thể mở rộng, được thành lập và sinh hoạt trên căn bản tinh thần bình
đẳng, dân chủ và không kỳ thị màu da, giai cấp hay phái tính. Đây là
tập thể cấp tiến nhất và ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại.
Tại hàng ngũ Tăng-già,
tất cả được đối xử bình đẳng về mọi mặt; giới luật, học pháp, tu tập
giải thoát và các quyền lợi vật chất (ăn, mặc, ở và thuốc men).
Về sự phân biệt thứ tự, có tính cách biểu hiện sự hiểu biết và tôn kính thì có hai điểm:
- Điểm thứ nhất, căn cứ vào tuổi an cư kiết hạ để phân biệt chỗ ngồi trước sau, khi nghe đọc Giới bổn.
- Điểm thứ hai, căn cứ
vào quả vị chứng đắc. Điểm phân biệt này mới là yếu tố quyết định chỗ
ngồi sai biệt giữa Tăng chúng. Đáng tôn kính là những ai đã chứng đắc
sâu xa các quả vị giải thoát, dù còn trẻ tuổi.
Chỉ có hai danh xưng để phân biệt giữa các vị Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni trong Tăng chúng: danh xưng "Tôn giả"
(Bhante) dành cho các bậc Trưởng lão đã chứng đắc giải thoát; khi một
vị Tỷ-kheo ít tuổi đạo thưa chuyện với một Tỷ-kheo lâu năm (thường thì
đều có chứng đắc) thì luôn luôn bạch "Thưa Tôn giả". Ngược lại, vị
Tỷ-kheo trưởng lão gọi Tỷ-kheo nhỏ tuổi bằng "Thưa Hiền giả". Các Tỷ-kheo đồng hàng nhỏ tuổi thì gọi nhau bằng "Hiền giả"; các vị Trưởng lão chỉ xưng hô với nhau bằng từ "Tôn giả". Ngoài sự phân biệt căn bản trên, chư Tăng, Ni thường gọi là vị Đại Trưởng lão đáng tôn kính nhất trong Giáo hội bằng "Đại Trưởng lão" hay "Đại Tôn giả" (Thera: Trưởng lão, Mahàthera: Đại Trưởng lão).
Từ xưng hô "Hiền giả" có
thể được xem tương đương từ "Đại đức" ngày nay; từ "Tôn giả" thì tương
đương với "Thượng tọa"; từ "Đại Trưởng lão" thì tương đương với "Hòa
thượng".
Hình thức tổ chức và
xưng hô như thế của Tăng-già, đã nói lên một cái nhìn giá trị đặc biệt,
nổi bật nét rất là nhân bản và rất là trí tuệ.
Nếp sống của chư Tăng
Gọi là Tỷ-kheo đối với
những vị nào xuất gia có tuổi đời từ hai mươi tuổi trở lên và được thọ
Cụ túc giới (Ni thì phải có hai mươi hai tuổi đời), các vị dưới hai mươi
tuổi thì phải hành đạo trong một thời gian cho đến tuổi hai mươi. Trong
thời gian này, các vị này chỉ thọ Sa-di giới (cho Tăng) và Sa-di-ni,
Thức-xoa-ma-na giới (cho Ni). Các vị Sa-di thường y chỉ, nương tựa vào
các bậc Trưởng lão hay Thượng tọa, hoặc làm thị giả riêng cho quý vị
Trưởng lão, Thượng tọa, và chịu trực tiếp sự hướng dẫn, giáo dục của quý
vị này. Trong trường hợp chứng đắc A-la-hán quả, dù chỉ dưới mười tuổi,
các Sa-di được Thế Tôn cho thọ Cụ túc giới và tuyên bố giữa Tăng chúng
để chư Tăng biết mà cung kính đối xử.
Các vị Tỷ-kheo mới thọ
giới Cụ túc hay mới nhập đạo, thường chịu sự hướng dẫn, giáo dục trực
tiếp của hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, đặc biệt là Tôn giả
Xá-lợi-phất. Thế Tôn dạy Tôn giả Xá-lợi-phất hướng dẫn chư Tăng cho đến
quả vị Tu-đà-hoàn, và Tôn giả Mục-kiền-liên hướng dẫn từ quả vị
Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán.
Tất cả chư Tăng trong
đoàn thể Giáo hội sinh hoạt giữ cùng chung một Giới bổn, mỗi nửa tháng
đọc tụng một lần vào ngày 15 và 30 Âm lịch (theo lịch Tàu). Trong những
năm đầu, Thế Tôn thân hành tụng Giới bổn cho đến khi trong Chúng có
người phạm trọng giới. Đây là truyền thống của chư Thế Tôn. Từ khi có
Tỷ-kheo phạm trọng giới, Thế Tôn giao lại việc tụng đọc Giới bổn cho Tôn
giả Ưu-ba-ly. Tôn giả Ưu-ba-ly thường phụ trách việc tụng đọc Giới bổn
từ đó cho đến mãi về sau. (Xem Tăng Chi III-A, tr. 135).
Hằng năm, chư Tăng, Ni
an cư vào mùa mưa. Tất cả trở về sống chung trong các tịnh xá lớn và các
trú xứ nhỏ hơn. Trong thời gian này, chư Tăng không đi khất thực, đã có
thiện nam, tín nữ, đến tại trú xứ "để bát" và lo tứ sự
cúng dường. Cứ đến ngày Bồ-tát (Uposatha), tụng đọc Giới bổn, thì tất cả
đều quy tụ về quanh Thế Tôn. Chư Ni thì có đại diện đến xin lãnh giới ở
chư Tăng và trở về trú xứ riêng của Ni để tụng đọc Giới bổn Ni.
Vào ngày Tự tứ, ngày kết
thúc của mỗi mùa an cư, Thế Tôn và chư Tăng làm lễ Tự tứ. Lễ này được
cử hành rất trang nghiêm, nhưng rất đơn giản, được tổ chức ngay giữa
trời, hay trong một khu rừng.
Trong ba tháng an cư mùa
mưa, chư Tăng chuyên học hỏi Phật pháp và hành trì Thiền định dưới sự
hướng dẫn của Thế Tôn và chư vị Trưởng lão.
Ngoài ba tháng an cư,
chư Tăng đi vào một sinh hoạt mới, được mở rộng. Chư Tăng được tung ra
khắp các phương hướng, đi đến các trú xứ khác nhau, trong các quốc độ,
vừa khất thực để độ nhật, vừa thuyết pháp độ sinh, và vừa nỗ lực tinh
cần tiếp tục hành Thiền để đoạn trừ các lậu hoặc.
Thông thường, chư Tăng ở
các trú xứ chung quanh Thế Tôn thì có một số sinh hoạt nhất định trong
mỗi ngày. Sáng thì đi khất thực khắp các nẻo đường, thứ tự từng nhà,
không phân biệt; khất thực xong, các vị trở về trú xứ riêng hay đến dưới
gốc cây trong các khu rừng để độ ngọ (ăn trưa). Sau bữa ăn, các vị rửa
bát, xếp gọn các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây
hay căn nhà trống, ngồi kiết-già lưng thẳng, để niệm trước mặt và hành
Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra.
Vào xế chiều (sau khi
chỉ tịnh, chư Tăng hoàn toàn không ngủ trưa), Thế Tôn hay Tôn giả
Xá-lợi-phất thuyết pháp. Thỉnh thoảng có các thời pháp do các Tôn giả
khác phụ trách. Thời gian có thể kéo dài. Sau thời pháp, chư Tăng nghỉ
ngơi bằng cách đi bách bộ, luôn luôn giữ mình trong phương châm "Nói
năng như Chánh pháp và im lặng như Chánh pháp". Điều này có nghĩa là
hoặc bàn luận Phật pháp (nói năng), hoặc ngồi Thiền định (im lặng).
Suốt năm canh của một
đêm, chư Tăng ngồi Thiền và đi bách bộ vào canh một; ngủ nghỉ canh hai;
ngồi Thiền và bách bộ vào canh ba; ngủ nghỉ canh tư; và lại ngồi Thiền
và bách bộ ở canh năm. Chư Tỷ-kheo luôn luôn giữ mình trong nếp sinh
hoạt đều đặn. Mọi việc tương hệ, sinh hoạt nhỏ khác thì căn cứ vào Giới
bổn để xử lý.
Phần y phục, chỗ nghỉ
(sàng tọa) và thuốc men thì đã có cư sĩ Cấp Cô Độc, nữ cư sĩ Lộc Mẫu
(Visakhà) cùng với các thiện nam, tín nữ khác lo.
Thường ngày, vẫn thường
có các thí chủ, trai chủ đến cung thỉnh Thế Tôn và chư Tăng đi thọ trai.
Chư Tỷ-kheo được phép thọ biệt thỉnh, nghĩa là được mời dùng cơm riêng ở
các tư gia. Sau mỗi bữa cơm trưa cúng dường, Thế Tôn hay một đại Tôn
giả thường ban một thời pháp ngắn như là một thời kinh tùy hỷ và chúc
lành.
Thế Tôn cũng đi khất thực và cũng thọ trai theo thể thức biệt thỉnh, tùy theo nguyện vọng của các thí chủ, trai chủ.
Việc nhận lời thọ trai
không phân biệt sang hèn, có uy quyền hay không của các trai chủ: trai
chủ nào thỉnh trước thì được Thế Tôn nhận lời trước, như trường hợp một
kỹ nữ, cô gái vườn xoài, thỉnh được Thế Tôn và Tăng chúng, trong khi các
hoàng tử đến muộn hơn nên không được Thế Tôn nhận lời thọ trai trong
cùng ngày. Sau lời tác bạch cầu thỉnh thọ trai của trai chủ, Thế Tôn
thường yên lặng nhận lời, nếu chưa có người thỉnh trước. Đây là thái độ
có tính truyền thống của chư Thế Tôn: yên lặng là tỏ sự đồng ý.
Trong chín tháng sau mùa mưa, chư Tăng được phép độc cư Thiền định trong các khu rừng.
Việc nói Pháp của chư
Tôn giả hoàn toàn thuần túy giáo lý giải thoát, và được trình bày một
cách rất xác thực, cụ thể, minh bạch và đúng pháp. Chư Tăng không được
phép biểu dương các Thần túc thông (các phép mầu), Thiên nhĩ thông hay
Tha tâm thông. Chư Tăng vận dụng thân giáo và khẩu giáo. Phần ý giáo
chính là công việc giảng dạy và học tập thường kỳ của chư Tăng và cư sĩ.
Thế Tôn luôn luôn nhấn mạnh đến Giáo hóa thần thông. Ngài nhàm chán và
ghê tởm các pháp thuật, thần thông.
Chuyện kể, một lần ngoại
đạo sư biểu diễn thần thông đi lướt nổi trên mặt sông Hằng, từ bờ này
qua bờ kia, và thách thức Thế Tôn làm như vậy. Thế Tôn ôn tồn hỏi ngoại
đạo sư do tu tập bao lâu mà được kết quả thần thông ấy. Ngoại đạo sư ấy
đáp là ba mươi năm. Thế Tôn mỉm cười nói: "Ta chỉ cần có ba xu là qua
được bên kia sông Hằng" (nghĩa là đi đò).
Câu chuỵện nói lên rõ
thái độ sống rất thực, rất tự nhiên và rất người của Thế Tôn, vừa nó rõ
thái độ coi nhẹ các thần thông của Thế Tôn.
Thế Tôn xây dựng việc tu
tập và việc nói Pháp của chư Tăng trên căn bản Giới bổn, Thiền định và
Trí tuệ, tuyệt đối không đi ra ngoài các sinh hoạt đó. Về các nghi thức
tế lễ, Thế Tôn dạy giới đàn tế lễ tốt là cúng hoa trái; tốt hơn nữa là
bố thí; tốt hơn nữa là trì giới; tốt hơn nữa là hành Thiền định; và tốt
hơn nữa là hành Trí tuệ để đoạn trừ các lậu hoặc. Thế Tôn hoàn toàn
không khích lệ chư Tăng sống dựa vào mong cầu, cầu nguyện hay vọng ngoại
mà chỉ có chú tâm tỉnh giác, chánh niệm tu tập. Mỗi lần, Thế Tôn hỏi
một số Tỷ-kheo đang theo Thế Tôn đi dọc bờ sông Hằng rằng: "Nếu có một
đám dầu nổi trên mặt nước, và có các lễ sư thông thạo trong việc cúng lễ
cầu nguyện ngồi ở trên bờ, các lễ sư cầu nguyện cho đám dầu chìm xuống,
có được không?" - "Bạch Thế Tôn, không", chư Tăng đáp. "Nếu có một viên
đá chìm xuống lòng sông, các lễ sư ấy cầu nguyện cho viên đá nổi lên
được không?" - "Bạch Thế Tôn, không", chư Tăng đáp. Thế Tôn dạy: "Đúng
vậy", và tiếp tục cuộc hành trình.
Câu chuyện này nói lên
rõ ràng không phải là việc tế lễ đoạn trừ các nghiệp, các lậu hoặc; mà
là việc tu tập để đoạn trừ các nghiệp, các lậu hoặc.
Trên mọi nẻo đường khất
thực và hoằng hóa, Thế Tôn và chư Tăng luôn luôn đi chân không và đi bộ
với bình bát trên tay. Giản dị chỉ có thế, chư vị không dùng xe cộ và
các thần thông. Hình ảnh nổi bật nhất là cho đến khi nghe Thế Tôn vừa
nhập diệt ở Kusinàra, bấy giờ Tôn giả Mahà Kassapa (Đại Ca-diếp) đang
trên đường về từ Pàva đến Kusinàra, Tôn giả tiếp tục đi bộ về, tuyệt đối
tôn trọng hành trì lời dạy của Thế Tôn, không sử dụng thần thông ngay
cả thời điểm tối quan trọng này.
Hẳn nhiên, Thế Tôn vẫn
rất tế nhị và rất kín đáo, dùng thần thông xuất hiện trước các Hội chúng
để giáo hóa. Bấy giờ Thế Tôn dùng thần thông để đóng vai trò hệt một
người trong hội chúng, nhưng tuyệt nhiên nội dung giáo hóa vẫn là Giới,
Định, Tuệ qua thân giáo và khẩu giáo.
Lịch sử ghi lại, chỉ có
Tôn giả Mục-kiền-liên là có dùng thần thông, thi thố để hàng phục một số
các ngoại đạo sư manh động và kiêu mạn. Trường hợp này Thế Tôn có quở
trách. Tuy vậy, chúng ta cũng nhận ra được bối cảnh truyền đạo, hành đạo
quá khó khăn và phức tạp thời đó đòi hỏi sự có mặt của Tôn giả
Mục-kiền-liên với sự sử dụng các đại thần thông của Tôn giả.
Cho đến đây, chúng ta
thấy nếp sống của chư Tăng thật là giản dị, rất gần gũi với thiên nhiên;
cho đến cuối đời vẫn nhẹ nhàng và giản dị.
Điển hình là chính Thế
Tôn, là bậc Thiên Nhân Sư, vô thượng ở đời, Ngài vẫn dung dị trong tấm y
vàng; có những lúc chỉ mặc y phấn tảo, đi chân không, dùng tấm lót ngồi
(tọa cụ) đan bằng cỏ khô; có những lúc Ngài trú mưa qua một đêm trong
chái nhà lá của thợ làm đồ gốm một mình. Ngài sinh ra dưới cội cây, xuất
gia tu tập dưới cội cây, thành đạo dưới cội cây và nhập Niết-bàn cũng
dưới cội cây, chỉ đơn giản nằm nghiêng trên chiếc võng dây treo giữa hai
cây tàla. Cuộc sống ấy dung dị nhưng thơ mộng biết bao! Đẹp đẽ biết
bao! Xúc cảm biết bao! Chính những hình ảnh, những nét vẻ dung dị đó là
những hào quang tối thượng và kỳ diệu nhất để cho đời chiêm ngưỡng. Ôi!
Thật là tuyệt diệu! Đấy là suối nguồn cảm hứng cho những bức danh họa,
cho những vần thơ kỳ ảo, cho những bản nhạc tuyệt vời và là cho cuộc đời
những ý sống dạt dào.
Xúc cảm về nếp sống đó của chư Tăng, đời sau đã có sáng tác bốn câu kệ mô tả:
"Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Kỳ vị sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu".
Tạm dịch:
"Một bát cơm ngàn nhà,
Một thân vạn dặm xa,
Chỉ vì chuyện sanh tử,
Nói Pháp độ người qua".
Trong tập "Thiền Đạo Tu Tập", bản dịch của Như Hạnh, đã thi hóa bốn câu kệ trên như sau:
"Một bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa,
Mắt xanh xem trần thế,
Mây trắng hỏi đường qua".
"Cô thân" trong bài kệ
không nên hiểu là chỉ một mình theo nghĩa thông thường, mà phải hiểu là
một mình theo nghĩa Thế Tôn dạy ở Tương Ưng Bộ Kinh III, tr. 11-12,
rằng: "Thế nào là kẻ du hành một mình?" - "Đấy là người ly hoàn toàn
tham ái và chấp thủ". Nếu còn tham ái, chấp thủ thì gọi là du hành hai
mình hay du hành có gia đình.
Bốn thứ cần thiết của chư Tăng (Ni):
Tài sản của một vị
Tỷ-kheo gồm có ba y (y lót hay áo lót ở trong, một tấm vải vắt trên nửa
mình và tấm y quấn tròn quanh mình) và một bình bát. Chỉ có thế, ngoài y
bát, chư Tăng còn cần đến một bữa ăn trưa mỗi ngày (gọi là thực phẩm)
mà không tích lũy, một chỗ nằm khiêm tốn gọi là sàng tọa (có thể chỉ một
tấm ván hay một chiếc giường tre hay giường dây thấp và hẹp) và một ít
thuốc men tùy thân phòng để chữa bệnh khi đau ốm. Tất cả các thứ cần
thiết này đều chờ đợi lòng tốt của các thí chủ cúng dường. Chư Tăng
không cổ động hay vận động cúng dường, cũng không cất chứa sẵn; hoàn
toàn sống không có tài sản. Về phần phục vụ bốn thứ cần thiết ấy, Thế
Tôn đã dạy các Phật tử tại gia (gọi là cận sự nam và cận sự nữ) lo liệu,
xem như là một trong các bổn phận hộ pháp của mình.
Sự nghiệp tu hành của một Tỷ-kheo chỉ có Giới, Định và Tuệ bên cạnh bốn vật dụng cần thiết ấy.
Chư Tăng mặc thì không
cầu đẹp, ăn thì không cầu ngon, ngủ thì không cầu đủ. Ngày nay nếp sống
ấy còn được duy trì trong châm ngôn của nhà chùa là "Tam thường bất túc"
(ba điều thường sống là ăn, mặc, ngủ không cần đủ; chỉ vừa phải). Nếp
sống ấy, một mặt vừa để tiết chế dục vọng, biểu hiện bên ngoài cái vẻ
kham khổ, nhưng một mặt nói lên một nghệ thuật sống cao: mặc thiếu (hay
vừa đủ) thì sẽ thấy rõ hạnh phúc của mặc, ăn ít sẽ thấy rõ hạnh phúc của
ăn; và ngủ ít sẽ cảm nhận hạnh phúc của ngủ sâu sắc hơn. Đời sống vật
chất của chư Tăng có vẻ thiếu thốn, nhưng chính vì thế mà nuôi sống tâm
hồn rất sung mãn. Các vị trọn hưởng các hạnh phúc của cuộc sống và hạnh
phúc của Thiền định một cách rất nhẹ nhàng và thanh thoát. Làm sao chúng
ta có thể diễn đạt được nguồn sống ấy, nếu chính chúng ta không là một
tu sĩ và không là một tu sĩ thể hiện đúng nếp sống ấy?
Bạn thử tưởng tượng nếu
một người có đến hơn ba mươi chiếc ấo (chemise hay áo dài), người ấy sẽ
có ít nhiều lúng túng trước khi chọn một màu áo để mặc hàng ngày hay mặc
trong các dịp hội hè, lễ lược, thì người ấy sẽ cảm thấy mất đi nhiều
cảm thú về ăn mặc. Nếu một người có thật nhiều món ăn thượng vị (ngon,
quý và bổ), thì người ấy hẳn không còn, hay mất đi nhiều cảm giác thích
thú của ăn. Nếu một người có thật nhiều thì giờ để ngủ và ngủ thật
nhiều, thì giấc ngủ của người ấy trở nên vô vị, lãng phí. Sự dư thừa về
ăn, mặc và ngủ lắm khi đánh mất đi nhiều hạnh phúc của sự sống.
Há nếp sống của chư Tăng
đề cập ở trên không để lại cho người đời một kinh nghiệm hữu ích về
nghệ thuật sống sao? Đây là chưa nói đến nghệ thuật huấn luyện tâm lý để
lúc nào quý vị cũng có thể nhìn đời với đôi mắt trong sáng, lúc nào
cũng đón nhận tại trần thế cảm thọ như tại nước Cực lạc.
Quả thực, chúng ta không
còn một thắc mắc nào cả về chuyện một hệ thống giáo lý giải thoát kỳ
diệu như thế, được lồng vào trong một nếp sống kỳ diệu như thế, đầy nghệ
thuật, nhẹ nhàng, thanh thoát và lợi tha như thế.
Xuất gia - Thọ cụ túc giới - Bố-tát và tự tứ
Vào thời Thế Tôn, khi
một người dân thông thường, một người quý tộc, một Phật tử tại gia hay
một người ngoại đạo hiểu được giáo lý giải thoát và nói lên lời cầu xin
xuất gia trước Thế Tôn một cách thành khẩn, sẽ được Thế Tôn chấp nhận
liền. Vậy là tức thì người ấy trở thành một tu sĩ. Có người được Thế Tôn
cho thọ Cụ túc giới liền; có người phải hành Sa-di giới một thời gian;
có người ngoại đạo phải ở riêng biệt với chúng Tăng bốn tháng, tùy theo
nhân duyên, căn cơ của từng người.
Đối với các vị đại đệ tử
của Thế Tôn thì việc trở thành Tỷ-kheo thật là giản dị: Thế Tôn chỉ gọi
"Đến đây, này Tỷ-kheo" thì vị ấy lập tức là Tỷ-kheo. Về sau, khi chấp
nhận một người xuất gia, Thế Tôn thường trao qua cho Tôn giả Xá-lợi-phất
và Tôn giả Ưu-ba-ly xử lý. Kinh không thuật rõ các thủ tục xuất gia mà
các Tôn giả Xá-lợi-phất và Ưu-ba-ly đã làm. Có lẽ vì sự kiện xuất gia
thuộc phần Luật tạng. Trường hợp hoàng tôn La-hầu-la (Rahula) xuất gia,
thì Tôn giả Xá-lợi-phất làm Hoà thượng, Tôn giả Mục-kiền-liên làm Yết-ma
và Tôn giả Ưu-ba-ly làm Giáo thọ.
Sau khi thọ giới, Sa-di
La-hầu-la y chỉ vào Tôn giả Xá-lợi-phất, về sau chư Tăng y chỉ và nương
tựa vào hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Có rất nhiều trường
hợp, các vị xuất gia khỏi phải thọ Sa-di giới, mà được thọ liền Cụ túc
giới. Điều này dễ hiểu, bởi vì các vị thời ấy có căn cơ tu tập gần như
đã thuần thục, chín muồi, khác với xã hội tu hành ngày nay, chỉ cần tuổi
đời từ hai mươi.
Lễ truyền thọ Sa-di giới
thường có bốn vị Tỷ-kheo Thượng tọa (hay Trưởng lão). Lễ truyền thọ Cụ
túc giới thường đòi hỏi đủ mười vị gọi là Tam sư (Hòa thượng Đàn đầu,
Hòa thượng Yết-ma và Hòa thượng Giáo thọ) và Thất chứng (tất cả bảy vị).
Ở đây, không đi sâu vào Luật tạng để trình bày những chi tiết.
Về điều kiện của một vị Tỷ-kheo có khả năng trao truyền giới Cụ túc, Thế Tôn dạy:
"Ở đây, này Ưu-ba-ly,
Tỷ-kheo có giới, sống được chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn
Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ
nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy là người nghe
nhiều, nắm rõ điều đã được nghe, cất giữ điều đã được nghe, khéo thông
hiểu, khéo quyết định theo Kinh, theo chi tiết. Vị ấy có khả năng nuôi
dưỡng người bệnh hay khiến người khác nuôi dưỡng; có khả năng làm chấm
dứt bất mãn; có khả năng đoạn trừ đúng pháp các ác pháp khởi lên; có khả
năng phân biệt, chỉ trích tà kiến khởi lên; có khả năng khích lệ trong
Tăng thượng giới; có khả năng khích lệ trong Tăng thượng tuệ" (Tăng Chi
III-B, tr. 75).
Về một Tỷ-kheo có khả năng trao truyền y chỉ hay nuôi dưỡng một Sa-di, Thế Tôn dạy:
"Ở đây, này Ưu-ba-ly... (tương tự như trên)" (Tăng Chi III-B, tr. 75).
Như thế, một Tỷ-kheo có
khả năng trao truyền Cụ túc giới cũng là vị có khả năng trao truyền y
chỉ cho Sa-di và nuôi dưỡng Sa-di. Và ngược lại.
Bốn chúng xuất gia kể
trên, ngoài những sinh hoạt họp mặt để nghe pháp, để học tập, để dự các
buổi cúng dường trai Tăng còn được Thế Tôn quy định họp mặt mỗi nửa
tháng một lần vào ngày mười lăm và ba mươi Âm lịch (bạch nguyệt và hắc
nguyệt) để nghe tụng đọc Giới bổn. Các Phật tử tại gia cũng được nghe
đọc Giới bổn riêng của mình là "Bát quan trai giới". Ngày tụng đọc Giới
bổn được gọi là ngày Bố-tát (Uposatha) hay còn gọi là ngày trai giới.
Bố-tát hay Bố-sa-tha là
dịch âm của từ Uposatha (Pàli) hay Upovasatha (Sanskrit), có nghĩa là
tịnh trú, hay trưởng tịnh, bởi vì việc nghe đọc Giới bổn sẽ giúp cho
chúng Tăng nuôi dưỡng giới đức thanh tịnh.
Trong thời Bố-tát, không
một Tỷ-kheo nào được phép không Bố-tát. Nếu ở nơi không hội đủ chúng
Tăng (từ bốn vị trở lên) thì sẽ hành Bố-tát theo thể thức "Đối thú
Bố-tát" cho ba vị; nếu chỉ có một mình thì hành lễ Bố-tát theo thể thức
cho mình, tự mình âm thầm nói: "Hôm nay là ngày Bố-tát của chúng Tăng,
tôi là Tỷ-kheo.... thanh tịnh" (3 lần).
Thời Bố-tát diễn ra vào
sáng sớm của ngày hắc nguyệt và bạch nguyệt, trước lúc trời sáng. Trong
những năm đầu thì Thế Tôn tụng đọc Giới bổn. Đến khi trong Tăng chúng có
người không được thanh tịnh thì Thế Tôn trao việc đọc Giới bổn cho chư
Tỷ-kheo, Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ-kheo, không có một sự kiện, không có
cơ hội rằng Như Lai có thể đọc Giới bổn trong một hội chúng không thanh
tịnh". (Tăng Chi III-A, tr. 195; Trung A-hàm, số 37).
Nhưng, ngay cả khi việc
đọc Giới bổn trao về cho các Tỷ-kheo, thì việc tụng đọc Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa (Pàtimokkha) vẫn có thể bị ngưng lại vì mười lý do:
"Khi có một người phạm
Ba-la-di (Pàràjika) ngồi trong hội chúng ấy; khi thảo luận về người phạm
Ba-la-di tội chưa chấm dứt; khi có người chưa thọ Cụ túc giới ngồi
trong hội chúng ấy; khi thảo luận về người chưa thọ Cụ túc giới chưa
chấm dứt; khi một người từ bỏ học pháp ngồi trong hội chúng; khi cuộc
thảo luận về người từ bỏ học pháp chưa chấm dứt; khi một người thiếu năm
căn ngồi trong hội chúng; khi cuộc thảo luận về người thiếu năm căn
chưa chấm dứt; khi có người 'ô nhục Tỳ-kheo-ni' còn ngồi trong chúng ấy;
khi cuộc thảo luận về người ô nhục Tỷ-kheo-ni chưa chấm dứt" (Tăng Chi
III-B, tr. 73).
Trường hợp một vị
Tỷ-kheo bị tẩn xuất, cần được một hội đồng xét xử, gồm nhiều vị Tỷ-kheo
hội đủ điều kiện tốt, như trường hợp để truyền thọ Cụ túc giới hay nuôi
dưỡng Sa-di.
Sau mỗi mùa an cư, Thế Tôn và chư Tăng thường họp mặt tại một nơi và tiến hành một thủ tục kết thúc mùa an cư gọi là Tự tứ.
Ở xứ ta, lễ Tự tứ thường
cử hành vào sáng mười lăm hay mười sáu tháng bảy Âm lịch cho thủ tục
tiền an cư (nếu ngày vào hạ là 15 hay 16 tháng 4 Âm lịch); lễ Tự tứ cử
hành vào sáng mười bảy hay mười tám tháng bảy Âm lịch cho thủ tục hậu an
cư (nếu ngày vào hạ là sau ngày 16 tháng 4 Âm lịch).
Sau đây là khung cảnh và diễn tiến của một nghi thức Tự tứ dưới thời Thế Tôn:
Nhân ngày trăng tròn của
Bố-tát và Tự tứ, Thế Tôn ra ngồi ở ngoài trời (khoảng trống); chư vị
Tỷ-kheo im lặng ngồi vây quanh Ngài. Thế Tôn nhìn quanh chúng Tỷ-kheo và
mở lời: "Này các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, nay Ta mời các Tỷ-kheo nói
lên, các Tỷ-kheo có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời
nói" (Tương Ưng I, tr. 237). Bấy giờ chúng Tỷ-kheo gồm năm trăm vị
A-la-hán.
... Tôn giả Xá-lợi-phất
(Trưởng chúng) đắp thượng y chắp tay vái chào Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn,
chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về thân hay về lời nói. Bạch Thế
Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn làm cho sanh khởi; con đường
chưa được rõ biết, Thế Tôn làm cho rõ biết; con đường chưa được thuyết
giảng, Thế Tôn đã thuyết giảng. Thế Tôn biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo về
đạo; và bạch Thế Tôn, các đệ tử nay là những người sống hành đạo, và sẽ
thành tựu đạo về sau. Và bạch Thế Tôn, con xin mời Thế Tôn nói lên, có
điều gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói?" (Sđd, tr.
238).
Thế Tôn đáp:
"Này Xá-lợi-phất, Ta
không có gì chỉ trích Ông về thân hay về lời nói. Này Xá-lợi-phất Ông là
bậc đại trí..., quảng trí..., tốc trí...., tiệp trí..., nhuệ trí...
nhập trí. Này Xá-lợi-phất, ví như Trưởng tử con vua Chuyển luân vương,
chân chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này
Xá-lợi-phất, Ông chân chánh vận chuyển Pháp luân vô thượng đã được Ta
vận chuyển" (Sđd, tr. 238).
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch tiếp:
"Bạch Thế Tôn, Thế Tôn
không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói, vậy bạch Thế Tôn, đối
với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về
thân hay về lời nói?" (Sđd, tr. 238).
Thế Tôn dạy:
"Này Xá-lợi-phất, đối
với năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời
nói. Này Xá-lợi-phất, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi
Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc chứng được Sáu thắng
trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu phần giải thoát, và các vị còn lại là
bậc Tuệ giải thoát". (Sđd, tr. 238).
Rồi tiếp theo, Tôn giả
Vangìsa đắp thượng y tác bạch xin phép Thế Tôn trình bày một vấn đề, và
được Thế Tôn cho phép. Vấn đề mà Tôn giả Vangìsa trình bày là đọc lên
một bài kệ (đại khái tương tự những vần thơ cảm hứng) tán thán buổi lễ
Tự tứ với sự có mặt của tất cả những vị đã đoạn tận khát ái, dòng dõi
mặt trời. Và buổi lễ được kết thúc.
Như thế, các lễ xuất
gia, thọ Cụ túc giới, Bố-tát và Tự tứ là đã có từ năm đầu, sau ngày Thế
Tôn thành đạo. Truyền thống ấy, căn bản vẫn còn giữ đến ngày nay, tuy
hình thức biểu hiện ngày nay có vẻ nặng phần hình thức hơn.
Giáo Giới - Buộc Tội - Hành Xử Đúng Pháp
Khi đã có Giáo hội Ni ra
đời thì việc giáo giới (hay giảng dạy Phật pháp và việc tu tập) cho chư
Ni do một vị đại diện chư Tăng đảm trách được đặt ra. Vị ấy phải là vị
có hiểu biết về giáo lý như thế nào, có kinh nghiệm tu tập như thế nào
về trì giới và Thiền định, có giới đức như thế nào để có thể đem lại lợi
ích cho Ni chúng? Vì thế, một hôm Tôn giả A-nan đã bạch hỏi Thế Tôn về
tư cách của một vị Tăng được chọn để giáo giới Ni, và đã được Thế Tôn
dạy:
"Ở đây, này A-nan,
Tỷ-kheo có giới đức, sống chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những
lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy nghe nhiều,
nắm vững ý nghĩa những điều đã được nghe, nhớ kỹ các điều đã được nghe;
những pháp ấy sơ, trung, hậu thiện, nghĩa lý, văn cú đầy đủ; đề cao đời
sống Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh; ... khéo thể nhập chánh
kiến. Vị ấy đối với hai bản Giới bổn, được khéo trao truyền rộng rãi,
khéo phân tích, khéo thông hiểu... Vị ấy có một giọng nói dễ nghe, phát
âm tốt, tao nhã, không bập bẹ, giải thích nghĩa lý minh xác. Vị ấy có
khả năng thuyết giảng pháp thoại cho chúng Tỷ-kheo,... khích lệ, làm cho
hoan hỷ, phấn khởi, được phần đông các Tỷ-kheo-ni ái mộ, thích ý. Trước
khi y chỉ Thế Tôn để xuất gia, vị ấy không có phạm trọng tội nào, được
hai mươi tuổi an cư hay hơn hai mươi tuổi an cư" (Tăng Chi III-A, tr.
252).
Thế có nghĩa là vị đi giáo giới Ni cần hội đủ một số điều kiện căn bản này:
- Có giới đức thanh tịnh.
- Thông rõ Kinh và Luật (luật Tăng và luật Ni).
- Có trình độ văn hóa khá để có thể trình bày lưu loát các vấn đề Phật pháp, với cú pháp sáng sủa, rõ ràng.
- Có khả năng thuyết giảng và có âm thanh nhẹ nhàng, ngôn từ tao nhã, cung cách nghiêm chỉnh và từ ái.
- Tuổi hạ từ hai mươi
trở lên, nghĩa là tuổi đời ít nhất là bốn mươi. (Đây là điều kiện tuổi
của một vị Thượng toạ, theo tổ chức của Giáo hội Phật giáo Tăng-già Việt
Nam từ 1964).
Việc buộc tội và hành xử
tội trong trường hợp một Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni vi phạm tội nặng phải biểu
hiện đúng tinh thần của giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (như đã được trình
bày ở Tiết VIII - Giới học) có nghĩa là xây dựng cho cá nhân và tập thể
Tăng-già. Thành thử một vị Tỷ-kheo đứng ra buộc tội cũng cần hội đủ một
số điều kiện như sau:
- Thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh;
- Có từ tâm, không buộc tội với tâm sân hận đối với vị Tỷ-kheo phạm tội;
- Là vị có nghe nhiều, hiểu nhiều và hành trì nhiều về Phật pháp.
- Rành rẽ hai bản Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa thì việc buộc tội mới đưa đến kết quả xây dựng tốt. (Tăng Chi III-A, tr. 81-82).
Các điều kiện nêu trên về tư cách của một vị Tỷ-kheo đứng ra buộc tội nổi bật nét từ tâm, xây dựng và hữu hiệu của việc làm.
Trong khi một vị Tỷ-kheo
bị làm phép tìm tội Yết-ma thì bị hạn chế nhiều trong sinh hoạt chung
với chư Tăng; vị ấy bị cấm chỉ một số công việc như:
- Không được truyền Cụ túc giới;
- Không được cho Sa-di y chỉ, hay hầu hạ;
- Không được nói chuyện với Tỷ-kheo;
- Không được giáo giới Tỳ-kheo-ni;
- Không được hưởng các quyết định của Tăng chúng.
- Không được đặt trong
một vị trí đặc biệt nào; và không được phép trở lại vị trí cũ, do bất cứ
lý do nào. (Tăng Chi III-A, tr. 317).
Vấn Đề Hòa Hợp Tăng
Khi Tôn giả Ưu-ba-ly đặt ra vấn đề thế nào là Tăng hòa hợp và xin Thế Tôn chỉ dạy, Thế Tôn đã tuyên bố:
"Ở đây, này Ưu-ba-ly,
các Tỳ-kheo thuyết phi pháp là phi pháp; thuyết phi luật là phi luật,
thuyết luật là luật; thuyết điều Như Lai không nói là điều Như Lai không
nói; thuyết điều Như Lai có nói là điều Như Lai có nói; thuyết điều Như
Lai thường không làm là điều Như Lai thường không làm; thuyết điều Như
Lai thường làm là điều Như Lai thường làm; thuyết điều Như Lai không chế
đặt là điều Như Lai không chế đặt; thuyết điều Như Lai có chế đặt là
điều Như Lai có chế đặt".
"Với mười sự này, chư
Tỷ-kheo không phá hoại, không chia rẽ, không hành Bất cộng Yết-ma, không
tuyên đọc Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa khác biệt. Cho đến như vậy, này
Ưu-ba-ly, là Tăng chúng được hòa hợp" (Tăng Chi III-B, tr. 77).
Ngược lại với một trong mười sự việc trên là ý nghĩa của phá hòa hợp Tăng.
Quan trọng là ở điểm, dù
vì bất cứ lý do nào, dù là do chủ trương hay nhận thức bất đồng về Pháp
và Giới luật của Thế Tôn, hoặc dù là do các ý đồ khác nhau (danh, lợi,
chính trị...) ở ngoài phạm vi tu hành mà gây ra hiện tượng chia rẽ, lũng
đoạn Tăng chúng, đều là ý nghĩa của phá hòa hợp Tăng cả.
Tội phá hòa hợp Tăng là một trong năm tội trạng (ngũ nghịch tội) tương lai sẽ bị đọa địa ngục.
Để tạo điều kiện sinh hoạt hoà hợp của chư Tăng, Thế Tôn đã dạy sáu nguyên tắc sống hòa hợp gọi là "Lục hòa".
1) Nguyên tắc thứ nhất gọi là "Thân hòa đồng trú",
có nghĩa là chư vị Tỷ-kheo thân hành từ ái, trước mặt và sau lưng đối
với các Tỷ-kheo cùng tu để tạo nên tương kính, tương ái, đưa đến hòa
hợp, nhất trí, không tranh luận.
2) -3) Nguyên tắc thứ hai và ba gọi là "Khẩu hòa vô tránh" và "Ý hòa đồng duyệt",
có nghĩa là lời nói từ ái, ý nghĩ từ ái đối với các vị Tỷ-kheo cùng tu,
trước mặt và sau lưng, để tạo thành tương ái, tương kính, hòa hợp, nhất
trí và không tranh luận.
4) Nguyên tắc thứ tư là "Lợi hòa đồng quân",
có nghĩa là đối với các lợi dưỡng nhận được đúng pháp, gồm cả các thức
ăn nhận từ bình bát, các Tỷ-kheo nên san sẻ với các vị Tỷ-kheo cùng tu,
có giới đức, để tạo thành tương ái, tương kính đi đến hòa hợp, nhất trí,
không tranh cãi.
5) Nguyên tắc thứ năm gọi là "Giới hòa đồng tu",
có nghĩa là các vị Tỷ-kheo giữ gìn các giới luật của cùng Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa, không để bị ô nhiễm, sứt mẻ đối với các Tỷ-kheo cùng
tu, cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành tương ái, tương kính, hòa
hợp, nhất trí và không tranh cãi.
6) Nguyên tắc thứ sáu gọi là "Kiến hòa đồng giải",
có nghĩa là các vị Tỷ-kheo nhiệt tâm nỗ lực để thành tựu các tri kiến
của bậc Thánh, có khả năng đưa đến diệt tận khổ đau; Tỷ-kheo sống như
vậy đối với các Tỷ-kheo khác, cả trước mặt lẫn sau lưng (nghĩa là dù các
Tỷ-kheo khác thấy hay không thấy) để tạo thành tương ái, tương kính đưa
đến hòa hợp, nhất trí, không tranh cãi.
Sáu nguyên tắc sống hòa
hợp trên, nếu được chúng Tỷ-kheo thực hiện thì sẽ đưa đến một cuộc sống
an ổn, tịnh lạc giữa chúng Tăng, và đưa đến sự tăng thịnh của chúng
Tăng, đem lại nhiều phước lạc cho loài Người và chư Thiên. (Kinh Hoàng
Lô Viên, số 157; Tăng Chi II-B, tr. 340-341; Kinh Kosambi, Trung Bộ I).
Nguyên tắc "Lục hòa" này
không những chỉ áp dụng có kết quả tốt đẹp ở trong Tăng chúng mà còn có
thể áp dụng tốt đẹp cho bất cứ một sinh hoạt tập thể nào. Nguyên tắc ấy
vừa đầy tình thương, đầy nhân tính, đầy công bằng hợp lý và nổi bật hẳn
nét rất tâm lý (như đã được đề cập ở phần thái độ giáo dục của Thế
Tôn), có thể được áp dụng rất là hữu hiệu trong các nhóm tu tập của nam,
nữ cư sĩ.
Ngoài pháp "Lục hòa" đem
lại sự tương ái, tương kính, hòa hợp, nhất trí trong Tăng chúng, Thế
Tôn còn chế ra bảy pháp (hay bảy điều luật) khác để dập tắt các cuộc
tranh luận, mỗi khi có cuộc tranh luận xảy ra. Bảy điều luật ấy là: luật
về sự hiện diện gọi là "Hiện tiền tì-ni", luật về ức niệm gọi là "Ức
niệm tì-ni"; luật về không si mê gọi là "Bất si tì-ni"; luật về sự thú
nhận gọi là "Tự ngôn trị"; luật về đa số gọi là "Đa nhơn mích tội"; luật
về tìm tội tướng gọi là "Tội xứ sở"; và luật về sự trải cỏ ra gọi
là"Như thảo phú địa" (Tăng Chi III-A, tr. 140; Kinh Xá-di Thôn, Trung Bộ
III).
Về luật Hiện tiền
(Sammukhavinaya), khi xảy ra một tranh chấp nào thì đòi hỏi sự có mặt cả
nguyên cáo lẫn bị cáo, mà không được phép xử vắng mặt. Nếu dẫn chứng
Kinh hay Luật thì cần đem cuốn Kinh hay Luật cần dẫn chứng ấy trước
chúng Tăng. Đây gọi là "Hiện tiền tì-ni".
Về luật Ức niệm
(Sativinaya), trường hợp một người bị các người khác cho là phạm giới,
nhưng đương sự không nhớ rõ mình có vi phạm hay không, bấy giờ sinh ra
tranh cãi. Trong trường hợp này, chúng Tăng nên làm pháp bạch tứ Yết-ma
(một lần tuyên bố và ba lần hỏi lại) để cho đương sự nhớ kỹ lại có vi
phạm hay không. Nếu đương sự nhớ ra có vi phạm thì sám hối theo luật
định; nếu không thì cho thông qua. Sau khi cho thông qua rồi thì không
một vị Tỳ-kheo nào được gợi lại sự việc ấy nữa. Nếu vị nào gợi lại
chuyện mà Tăng chúng đã cho thông qua thì sẽ phạm Ba-dật-đề.
Về luật Bất si tì-ni
(Amulhavinaya), trường hợp có một Tỳ-kheo bị cuồng tâm phạm nhiều điều
lỗi do mất ý thức, khi lành bệnh, tỉnh táo thì một số Tỷ-kheo khác trong
Tăng chúng không chấp nhận cho cùng sinh hoạt bình thường trong Tăng
chúng. Trường hợp này có sự tranh cãi xãy ra, Tăng cần có Yết-ma về Bất
si (Bạch tứ Yết-ma) xác nhận vị Tỷ-kheo bị bệnh kia đã lành bệnh hẳn,
không còn cuồng loạn, để được chấp nhận vào Tăng chúng. Từ sau lần
Yết-ma này, nếu vị Tăng kia phạm lỗi thì mới bị xử lý theo luật định.
Về luật Tự ngôn trị
(Patinnatakaranam), nếu có một Tỷ-kheo phạm lỗi mà chưa chịu thú nhận,
thì nên tìm cách khuyên nhủ, phân tích thế nào để Tỷ-kheo ấy tự mình
nhận lỗi, sám hối mà Tăng chúng không được dùng bất cứ một áp lực nào
khác.
Về luật Đa nhơn mích tội
(Yebhuyyasika), trường hợp một vị Tỷ-kheo phạm tội mà không chịu nhận
tội, cứ lý luận, trình bày các vấn đề "vòng vo tam quốc" giữa Tăng chúng
gây nên phản ứng tranh cãi, vị thì cho là phạm, vị thì cho là không
phạm. Trường hợp này phải dùng biểu quyết bỏ thăm kín hoặc biểu quyết
công khai để kết luận theo đa số tương đối.
Về luật Tội xứ sở
(Tassapapiyasikà), trường hợp vị Tỷ-kheo phạm tội mà không chịu nhận
tội, cứ nói vòng vo khiến khởi lên cuộc tranh luận về phạm, không phạm,
nặng, nhẹ v.v... Trường hợp này thì chư Tăng phải làm pháp Yết-ma; nếu
vị ấy thấy phạm thì sám hối, nếu vị ấy không thấy phạm thì Tăng chúng
cần hoan hỷ cho thông qua.
Như nếu vị Tỷ-kheo bị
phạm tội nặng mà nói dối là chỉ phạm tội nhẹ, khi làm pháp Yết-ma (Bạch
tứ Yết-ma) xác định rõ ràng tội nặng thì vị Tỷ-kheo phạm tội ấy trọn đời
phải chịu ràng buộc tám điều: không được độ người xuất gia, không được
truyền Cụ túc giới, không được cho Sa-di y chỉ, không được giáo giới
Tỷ-kheo-ni, không được nhờ các Tỷ-kheo khác giúp việc, không được làm sứ
giả cho Tăng chúng, không được thuyết pháp và Luật cho Tỷ-kheo, và
không được theo thứ tự thọ thỉnh. Cho đến khi nào vị ấy tự mình thú tội
thì chư Tăng sẽ làm pháp giải tội cho vị Tỷ-kheo ấy thoát khỏi tám điều
ràng buộc trên.
Về luật Như thảo phủ địa
(Tinnavatthàraka), có nghĩa là như cỏ che khuất đất. Trường hợp Tăng
chúng chia rẽ thành hai nhóm hay nhiều nhóm chỉ trích lời của nhau và
bênh vực nhóm của mình. Cuộc tranh cãi trở thành loạn đả, không thể đi
đến một kết luận nào. Trong trường hợp này tất cả được xem ai cũng có
lỗi, tất cả đều làm lẽ sám hối để đem lại hòa khí cho Tăng chúng, không
còn chỉ trích hay tranh cãi nữa. Như thế là giống với hình ảnh trải cỏ
ra để phủ kín các đất dơ. Pháp này gọi là "Như thảo phủ địa".
Các trường hợp tranh cãi
của Tăng chúng đều rơi vào trong bảy trường hợp kể trên và đã có sẵn
bảy biện pháp như vừa trình bày để chấm dứt các cuộc tranh cãi ấy. Chưa
chấm dứt các cuộc tranh cãi là chưa dập tắt các mầm mống đưa đến chia
rẽ, rạn nứt, đổ vỡ của hàng ngũ chư Tăng. Chấm dứt sớm các mầm mống đưa
đến suy sụp, đổ vỡ trong Tăng chúng là củng cố xây dựng một Tăng chúng
hưng thịnh để duy trì diệu pháp đem lại nhiều an lạc, hạnh phúc cho chư
Thiên và loài Người.
Pháp Yết-ma (Kamma hay Karma)
Yết-ma là từ dịch âm chữ
Karma (Sanskrit) hay Kamma (Pàli), có nghĩa là làm, công việc làm. Đây
là phương pháp tuyên cáo trong khi tiến hành các việc thọ giới, tranh
luận... của chư Tăng. Danh từ Yết-ma nói đủ là Tăng-già Yết-ma
(Sangha-kammam hay Sanghakarmam). Việc thực hiện Yết-ma chỉ xảy ra trong
một nhóm chư Tăng có ít nhất là bốn vị thì pháp Yết-ma mới thành nghĩa.
Số lượng chư Tăng đòi hỏi tối thiểu cho công việc Bồ-tát là bốn vị, cho
công việc hành Tự tứ là năm vị, cho việc truyền thọ Cụ túc giới là mười
vị, và cho việc hành xử tội Tăng-già-bà-thi-sa (Tăng tàn) là hai mươi
vị. Số lượng và hình thức này đã có từ thời Thế Tôn tại thế mà chúng ta
có thể đọc thấy trong các kinh của A-hàm và Nikàya. Nếu số lượng chư
Tăng nhiều hơn số lượng tối thiểu được ấn định ở trên thì cũng được chấp
nhận, pháp Yết-ma được thành nghĩa.
Khi pháp Yết-ma đã được
làm xong, có nghĩa là Tăng chúng đã hoàn toàn (100%) nhất trí quyết định
vấn đề đã được đưa ra thì tuyệt đối không một vị Tỷ-kheo nào được phép
phủ nhận hay phản đối. Nếu vị nào còn bàn tán vào, ra về kết quả của
pháp Yết-ma trên thì sẽ bị xử tội theo luật định.
Pháp Yết-ma chỉ thực hiện riêng biệt giữa Tăng, Ni: không được làm tập hợp Tăng và Ni.
Bên cạnh các pháp Yết-ma
đúng nghĩa trên, chư Tăng trong một số trường hợp đặc biệt chỉ có từ
một tới ba người thì vẫn làm Yết-ma mang tính chất hình thức của Yết-ma.
Như trường hợp một người tự mình nói và làm theo thể thức Yết-ma, nhưng
không có người thứ hai đến nghe để làm chứng, trường hợp này gọi là tâm
niệm Yết-ma (tâm niệm Bố-tát và tâm niệm Tự tứ).
Trường hợp việc làm trên xảy ra giữa sự có mặt của hai hay ba Tỷ-kheo thì gọi là đối thủ Yết-ma.
Pháp Yết-ma đúng nghĩa có ba loại: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ.
Đối với những công việc
xảy ra có tính thường xuyên không mang một tầm ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, thì chỉ tuyên cáo cho chư Tăng biết một lượt, không cần gạn hỏi;
đây gọi là đơn bạch Yết-ma. Với công việc có tầm mức khá quan trọng thì
sau khi tuyên cáo vấn đề giữa chúng Tăng cần phải hỏi lại một lần nữa để
tránh sự bất đồng ý kiến về sau, đây gọi là bạch nhị Yết-ma. Với công
việc có tầm quan trọng đặc biệt, thì sau khi tuyên cáo, cần gạn hỏi lại
ba lần nữa. Sau khi toàn thể Tăng chúng có mặt đáp "thành" (hay chấp
thuận) thì pháp Yết-ma mới thành. Đây gọi là bạch tứ Yết-ma.
Về tầm mức quan trọng
của các Tăng sự để thực hiện đơn bạch, bạch nhị hay bạch tứ, có một số
đối tượng để làm Yết-ma đã được quy định làm điển hình. Về đơn bạch có
bốn mươi bốn việc; về bạch nhị có bảy mươi tám việc; về bạch tứ có ba
mươi chín việc (theo Yết-ma Chỉ Nam). Tuy nhiên, tùy theo điều kiện xã
hội, văn hóa và đoàn thể chư Tăng đang sinh hoạt mà tầm mức quan trọng
của các pháp Yết-ma vừa kể có thể được định giả lại, và một số sự việc
chưa được liệt kê, có thể thêm vào, nếu chư Tăng xét thấy cần. Chính sự
việc xét về sự thay đổi giá trị của các tâm mức quan trọng này, bản thân
nó cũng cần được làm pháp Yết-ma để quyết định.
Nguyên tắc của việc tiến
hành Yết-ma khác nhau ở các đối tượng Yết-ma khác nhau, như Yết-ma của
Bố-tát khác với Yết-ma của truyền thọ Cụ túc giới, v.v... (Ở đây không
đi sâu vào chi tiết).
Nghĩa là thành tựu của
mỗi pháp Yết-ma đòi hỏi đủ bốn nhân tố: nhân tố người, nhân tố Tăng
chúng, nhân tố giới trường, và sau hết là nhân tố tiến trình Yết-ma.
Về nhân tố người, ví dụ
về Bố-tát thì đòi hỏi số lượng Tỷ-kheo ít nhất là năm vị Tỷ-kheo. Có mặt
đủ ít nhất là năm vị thì gọi là nhân tố Tăng thành tựu.
Về nhân tố giới trường,
là tiểu giới trường hay đại giới trường đã được làm pháp Yết-ma để ấn
định đúng pháp. Khi pháp Yết-ma được tiến hành đúng vị trí giới trường
ấn định thì gọi là nhân tố giới trường thành tựu.
Về nhân tố tiến trình
Yết-ma, khi các thủ tục, các giai đoạn Yết-ma được tiến hành đúng thì
gọi là nhân tố tiến trình Yết-ma thành tựu.
Nếu một pháp Yết-ma được
tiến hành, được thể hiện không đúng loại của nó (đơn bạch, bạch nhị hay
bạch tứ) và không đúng tiến trình của nó thì được gọi là Yết-ma không
thành tựu. Trường hợp này còn được gọi là phi pháp.
Nếu một pháp Yết-ma được tiến hành không đủ túc số nhân sự thì gọi là phi tỳ-ni.
Trên đây chỉ là một số nét chính về pháp Yết-ma. Các phần chi tiết khác cần được tham khảo ở sách Yết-ma Chỉ Nam./.