- Phật Học Khái Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Chương Hai
- Pháp Bảo
Thông thường, Pháp được
đề cập đến như là Kinh, Luật và Luận. Ở đây, Pháp chỉ được đề cập đến
trong giới hạn những lời dạy của Thế Tôn được kiết tập qua các Kinh điển
Bắc tạng và Nam tạng. Đó là con đường giải thoát của Giới, Định, Tuệ.
Nói đủ là Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến.
Giới, được hiểu một cách
giản dị là bước đầu tu tập đưa vào Định. Định là bước tu tập thứ hai
dẫn đến Tuệ. Tuệ là bước đi giải thoát sau cùng. Thực ra, ở mặt giải
thoát, khó mà phân định giới hạn giữa Giới, Định và Tuệ, và khó mà phân
ly Giới, Định, Tuệ. Trong Giới và Định vốn có Tuệ, trong Giới và Tuệ vốn
có Định, và trong Định và Tuệ giải thoát vốn có sự viên mãn của Giới.
Cũng khó mà xác định cấp độ giải thoát cao thấp giữa Giới, Định, Tuệ khi
mà một vị trì Giới thì đắc A-na-hàm quả, trong khi một vị tu Định và
Tuệ thì chỉ chứng đắc Tu-đà-hoàn quả. Nhưng chỉ khi nào Giới, Định, Tuệ
được hành đến Ba-la-mật thì bấy giờ được gọi chung một quả vị là Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác (theo Kinh Kim Cang Bát-nhã).
Tuy nhiên, ở mặt hình
thức trình bày, chúng ta có thể phương tiện phân loại giáo lý thành từng
nhóm, nghiêng nặng về Tuệ, hoặc nổi bật sắc thái Định, hoặc nhấn mạnh
về Giới. Theo tinh thần đó, các giáo lý Duyên khởi, Niết-bàn được xếp
vào nhóm Tuệ; Ba mươi bảy phẩm trợ đạo của Đạo đế được xếp vào nhóm
Định, Giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) và các giáo lý về hộ trì
các căn thì thuộc về Giới.
Chương Pháp Bảo này sẽ
được trình bày theo thứ tự Tuệ, Giới và Định như thứ tự của Tuệ uẩn,
Giới uẩn và Định uẩn được Thế Tôn trình bày trong Bát Thánh đạo.
Về giáo lý phát triển
Tuệ, Duyên khởi là giáo lý mà từ đó Thế Tôn giác ngộ Vô Thượng Chánh
Đẳng Giác dưới cội Bồ-đề; Tứ đế là giáo lý mà Thế Tôn thuyết giảng lần
đầu (Sơ chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển) cho năm huynh đệ Tôn giả
Kiều-trần-như; Vô ngã là thời Pháp thứ hai cũng được giảng tại Lộc Uyển
cho năm huynh đệ của Tôn giả Kiều-trần-như sau khi nghe Tứ đế mà chưa
đoạn trừ hết lậu hoặc. Các giáo lý này sẽ được lần lượt trình bày trước
tiên, như là giáo lý cơ bản nhất./.
-oOo-
- Tiết I
- Duyên Khởi Và Vô Ngã
- (Paticcasamuppàda và Anattnà)
Duyên khởi là giáo lý mà
từ đó Thế Tôn giác ngộ Vô Thượng Bồ-đề. Từ đấy, Thế Tôn được Trời,
Người tôn xưng với mười hiệu Như Lai. Không có một sử liệu nào, cũng
không có một bản Kinh nào nói khác đi về nội dung chứng ngộ đó của Thế
Tôn.
Kinh Tương Ưng Nhân
Duyên (Tương Ưng Bộ Kinh II; Tập 12, 16, Đại 2, 85a), Kinh Phật Tự
Thuyết (Udàna - Tiểu Bộ Kinh I, Bản dịch của HT. Minh Châu 1982), Kinh
Đại Bổn (Trường Bộ Kinh III) và Kinh Đại Duyên (Trường Bộ Kinh III) là
các Kinh bàn rõ về giáo lý Duyên khởi.
Theo Kinh Tương Ưng Nhân
Duyên (Tương Ưng Bộ Kinh II), Thế Tôn Tỳ-bà-thi (Vipassi), sáu Thế Tôn
tiếp theo Thế Tôn Tỳ-bà-thi trong quá khứ, Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni và cả
chư Thế Tôn trong vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ-đề từ giáo lý Duyên
khởi.
Tại sao giác ngộ Duyên
khởi là giác ngộ tối thượng? - Nếu không muốn nói là "Pháp nhĩ như thị"
(Pháp vốn như vậy) thì câu trả lời giản dị nhất là Duyên khởi nói lên
thực tính của các pháp. Thực tính ấy là Duyên sinh tính hay Vô ngã tính.
Trung Bộ Kinh I, số 28; Tương Ưng III, tr. 144 và Tiểu Bộ I, tr. 48
chép lời Thế Tôn: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy
Phật (Ta)". Thấy Phật quả là sự giác ngộ tối thượng.
Nếu đi vào phân tích
giáo lý, thì từ giáo lý Duyên khởi ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp.
Vô ngã là giáo lý độc đáo nhất của Phật giáo, độc đáo nhất của lịch sử
Tôn giáo và tư tưởng của nhân loại, làm nền tảng chủ yếu cho các giáo lý
Bắc tạng và Nam tạng.
Giữa khi sáu mươi hai
học thuyết Ấn Độ chấp ngã và ngã sở, giữa khi nhân loại chấp thủ ngã và
ngã sở, bị chìm sâu vào vòng sinh tử khổ đau, thì tiếng nói Duyên sinh
Vô ngã phải là tiếng nói của giác ngộ, giải thoát khổ đau.
Duyên khởi là gì? Thế
Tôn định nghĩa: "Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do
thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có
xúc sinh; do xúc, có thọ sinh; do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh;
do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh, có lão tử, sầu, bi,
khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ Khổ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi (hay
Duyên sinh)". (Tương Ưng Bộ Kinh II, tr. 1-2).
"Do đoạn diệt tham ái,
vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt;
v.v.... lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ Khổ uẩn
đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy là đoạn diệt" (Ibid. tr. 1-2).
Khi Mười hai nhân duyên
sinh khởi thì đồng nghĩa với toàn bộ Khổ uẩn khởi. Khi Mười hai nhân
duyên diệt hay gọi là Mười hai nhân duyên đoạn diệt thì đồng nghĩa với
toàn bộ Khổ uẩn đoạn diệt. Tất cả đó gọi là Duyên khởi, là sự thật về sự
có mặt của các pháp, đã được Thế Tôn xác nhận: "Pháp Duyên khởi ấy, dù
có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp
quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng
đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt, Như Lai tuyên
bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị".
Ngài dạy: "Duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, có các hành, v.v.... Như
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là như tánh, bất hư vọng tánh, bất dị như
tánh, y duyên tánh ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Duyên khởi". (Ibid.,
tr.31).
Về bốn danh từ nói về lý
Duyên khởi ở trên, được Tập Sớ giải thích như sau: lý Duyên sinh này
trú như vậy, không có một sanh, già, chết, v.v.... nào không có duyên
sinh (Paccaya). Do duyên nên có các pháp khởi lên, tồn tại, do vậy nên
gọi là Pháp trú tánh ấy (Dhammatthitata). Các duyên ra lệnh hay an trú
các pháp, do vậy được gọi là pháp quyết định tánh. Các duyên của sanh
già v.v..... là các duyên đặc biệt gọi là y duyên tánh. Thế nào là duyên
sinh pháp (hay pháp do duyên sinh)?
- "Gọi là duyên sinh pháp là các pháp được tác thành, hữu vi, biến hoại, tan rã, đoạn diệt, vô thường". (Ibid, tr. 31).
Trong kinh Phật Tự Thuyết (Tiểu Bộ I, tr. 291), nguyên lý Duyên khởi đã được Thế Tôn tóm tắt:
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Trong kinh Đại Duyên
(Trường Bộ III), khi Tôn giả A-nan ca ngợi giáo lý Duyên khởi thâm thúy,
thì Thế Tôn lại nhấn mạnh hơn: "Này Ananda, chính vì không giác ngộ,
không thâm hiểu giáo pháp Duyên khởi này mà chúng sanh hiện tại bị rối
loạn như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau
sậy babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sinh tử". (tr.
56).
Để hiểu rõ Duyên khởi
hơn, chúng ta cần đi vào ý nghĩa của từng chi phần trong Mười hai nhân
duyên, và đi vào một số vấn đề được đặt ra với Duyên khởi.
- Lão tử (Jaràmarana):
"Cái gì thuộc các loài chúng sinh bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc
bạc, da nhăn, tuổi thọ lớn, các căn chín muồi thì gọi là già. Cái gì
thuộc các loài chúng sinh bị từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụn,
thân thể vứt bỏ, tử vong thì gọi là chết". (Ibid, tr. 3).
- Sinh (Jàti): "Cái gì
thuộc các loài chúng sinh bị sanh, xuất sinh, giáng sinh, đản sinh, xuất
hiện các uẩn, thành tựu các xứ thì gọi là sinh" (Tương Ưng II, tr. 3).
- Hữu (Bhava): "Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, gọi là hữu". (Tương Ưng II, tr. 3).
- Thủ (Upàdàna): "Có bốn thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ. (Ibid, tr. 3).
- Ái (Tanhà): "Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái - hay: dục ái, sắc ái và vô sắc ái". (Ibid, tr. 3).
- Thọ (Vedana): "Có sáu thọ: thọ do nhãn xúc sinh, thọ do ..., và thọ do ý xúc sinh". (Ibid, tr. 3).
- Xúc (Phassa): "Có sáu xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc". (Ibid, tr. 3).
- Sáu xứ (Chabbithàna):
"Gồm sáu nội xứ (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý căn) và sáu ngoại xứ
(sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp)". (Ibid, tr. 4).
- Danh sắc (Nàma-rùpa):
"Danh gồm xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư (có nơi trình bày Danh gồm có
thọ, tưởng, hành và thức uẩn). Sắc là tứ đại và các pháp do tứ đại
sanh". (Ibid, tr. 4).
- Thức (Vinnàna): "Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức". (Ibid, tr. 4).
- Hành (Sankhàra): "Gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành".
- Vô minh (Avijjà):
"Không hiểu rõ Tứ đế gọi là vô minh (Tương Ưng II, tr. 4). Có thể phát
biểu cách khác rằng, không hiểu Duyên khởi, Vô ngã là vô minh".
Khi Thế Tôn giảng về
Duyên khởi, Tôn giả Moliya Phagguna hỏi, "Bạch Thế Tôn, ai cảm xúc? Ai
thọ? Ai khát ái? Ai chấp thủ?" (Tương Ưng II, tr. 15-16). Thế Tôn dạy:
"Như Lai chỉ dạy xúc, thọ, ái, thủ...., chớ không dạy người nào xúc,
thọ,...., nên các câu hỏi đó không phù hợp với định lý Duyên khởi. Câu
hỏi phù hợp lý Duyên khởi phải là: Do duyên gì xúc sinh, thọ sinh?
v.v...." (Tương Ưng II, tr. 16).
Ngoại đạo lõa thể
Kassapa (Tương Ưng II, tr. 22) và ngoại đạo du sĩ Timbakura (Tương Ưng
II, tr. 26) đặt vấn đề với Thế Tôn rằng: "Có phải khổ do mình làm ra,
hay do người khác làm ra? Hay do mình và người khác làm ra? Hoặc khổ do
tự nhiên sinh?" Thế Tôn đã dạy nghĩa Trung đạo: "Khổ do Duyên sinh (khổ
do xúc sinh)."
Tương tự, đối với mười
một chi nhân duyên còn lại đều do duyên mà sinh. Hễ cái gì do duyên sinh
thì là hữu vi, vô thường, đoạn diệt, biến hoại, không thật.
Một hôm, Thế Tôn cắt
nghĩa với Tôn giả Kaccayana (Tương Ưng II, tr. 20) rằng, ai không chấp
thủ, vị ấy không có nghĩ đây là tự ngã của tôi, và khi khổ sinh thì xem
là sinh, khi khổ diệt thì xem là diệt, mà không xem có tôi khổ, hay tôi
hết khổ.
Từ mười hai chi phần nhân duyên của Duyên khởi như vừa được trình bày, chúng ta có thể đi đến một số kết luận:
1. Tất cả các pháp hữu
vi đều do duyên sinh. Sự có mặt của một pháp thực ra chỉ là sự có mặt
của nhơn duyên sinh ra nó; sự hoại diệt của một pháp cũng chỉ là sự hoại
diệt nhơn duyên sinh ra nó. Các pháp không có thật sinh hay thật diệt.
Tiếp tục lập luận như
thế với tất cả các duyên, không dừng lại một nơi nào cả, ta sẽ thấy
không có một bóng hình hữu ngã nào xuất hiện trong pháp giới Duyên khởi
này cả. Nói một cách ngắn gọn, tất cả do duyên sinh nên vô ngã.
Duyên khởi nói lên sự
thật vô ngã và phủ nhận tự ngã, nên phủ nhận mọi câu hỏi và mọi câu trả
lời về bản chất của các pháp, về nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ.
2. Mỗi một chi phần
trong mười hai chi phần nhân duyên là sự có mặt của mười một chi phần
kia. Sự đoạn diệt hoàn toàn một chi phần cũng có nghĩa là sự đoạn diệt
cả 12 chi phần nhân duyên. Vô minh, hành, thức, v.v... không thể có mặt
một mình, vì thế khi ái diệt hoặc thủ diệt hoặc thức diệt.... thì vô
minh phải hoàn toàn diệt.
3. Khi ái, thủ, hay vô
minh tồn tại hay tập khởi, thì toàn bộ khổ uẩn tập khởi. Con đường tập
khởi này là sinh tử, gọi là tà đạo.
Khi tham ái, chấp thủ, hay vô minh đoạn diệt, thì toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Con đường đoạn diệt này là chánh đạo.
4. Duyên khởi, trong
thực tại, là một hiện tượng trùng trùng. Một sự vật có mặt có nghĩa là
tất cả nhơn duyên trùng trùng ấy có mặt, tất cả pháp giới có mặt. Nói
khác đi, không thể có một ngã tướng nào có mặt ngoại trừ pháp giới Duyên
khởi.
Một pháp tập khởi chính
là pháp giới tập khởi. Đây là ý nghĩa của "Một là tất cả, tất cả là
một". Một ở đây, chính là tất cả, chính là pháp giới.
Tất cả chính là một và chính là pháp giới. Một là tất cả ấy đồng nghĩa với Duyên sinh và Vô ngã.
Vì duyên sinh, vô ngã,
vốn không sinh, không diệt, nên tự nó không có ý nghĩa thường hay vô
thường, có hay không có, khứ hay lai, v.v..... nó thoát ly mọi tướng
trạng.
5. Cái gọi là Duy tâm,
Duy vật, Duy thức, Duy linh, v.v... không có ý nghĩa khác biệt nhau nào
cả, nếu chúng được nhìn là do duyên sinh, là vô ngã.
Với Duyên khởi, do đó,
tất cả các chủ thuyết đều không phù hợp nếu chúng được xây dựng trên căn
bản ngã tính; tất cả sẽ phù hợp nếu chúng được xây dựng trên căn bản vô
ngã tính.
Các vấn đề siêu hình (metaphysic) bàn về nguồn gốc, tự thể của các hiện hữu đều được xem là hý luận đối với giáo lý Duyên khởi.
6. Đối tượng nghe giáo
lý Duyên khởi là con Người. Đối tượng này bị vướng mắc vào vô minh, ái,
thủ, nên vì lợi ích giải thoát, Thế Tôn đã trình bày Duyên khởi dưới
dạng thức mười hai chi phần nhân duyên.
Chi phần lục nhập (6 căn
và 6 trần) nói lên rõ ràng đối tượng nghe phải là con người (các loài
bàng sanh không đủ lục nhập; một số các loài Trời cũng thế, có nơi tỷ
thức và thiệt thức không có hoạt động nên không liên hệ đến hương trần
và vị trần).
Với sự có mặt của tham
ái hay chấp thủ, các chi phần nhân duyên của Duyên khởi được nhìn thấy
là hữu vi (vô thường, đoạn diệt); với những ai ngay trên đời này mà ái
diệt, thủ diệt thì các pháp là phi khổ đau, là trung đạo, là vô vi, như
chính Thế Tôn xác định quan điểm của Thế Tôn: "Khi Tôi thanh tịnh, Tôi
thấy thế giới thanh tịnh". Bài kệ mở đầu Trung Luận của Tổ Long Thọ cũng
nói lên ý nghĩa ấy:
"Bất sanh diệc bất diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất khứ diệc bất lai,
Năng thuyết thị nhân duyên,
Thiện diệt chư hý luận". -- (Chương I, Trung Luận).
Ở đây cho thấy thực tại
là Duyên khởi, Vô ngã. Đây chính là thật pháp, như pháp, là thật tánh,
bất hư vọng tánh, như chủ trương của Hoa Nghiêm qua giáo lý "Pháp giới
trùng trùng Duyên khởi". Không có một sự cao thấp nào giữa Duyên khởi
được Thế Tôn chứng ngộ trình bày dưới mười hai chi phần nhân duyên
(Tương Ưng Bộ Kinh II) và Duyên khởi của Hoa Nghiêm cả.
Nói về thực tại như
thật, Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ-kheo, có xứ này, tại đây không có đất,
không có nước, không có lửa, không có gió, không có Hư không vô biên xứ,
không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi
phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt
trăng, mặt trời. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến,
không có đi, không có trú, không có diệt, không có sinh, không có an
trú, không có chuyển vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn diệt khổ
đau". Và: "Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị
làm, không hữu vi. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không
hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự
xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi. Vì rằng, này
các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm không hữu
vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm,
khỏi hữu vi". (Tiểu Bộ Kinh I, Kinh Phật Tự Thuyết, tr. 382).
Sự kiện Thế Tôn giác ngộ
nói lên rằng vô vi cũng chính là cuộc đời này. Một buổi sáng thanh
tịnh, Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti) đã khéo nhận ra việc mở bày tâm Kim
Cang của Thế Tôn qua việc đắp y, trì bát, vào Xá-vệ thành khất thực,
v.v..... (Kinh Kim Cương, phần mở đầu) và đã dâng lời tán thán Thế Tôn:
"Thiện hộ niệm, thiện phó chúc chư Bồ-tát".
Câu kệ Pháp Cú số 279
viết: "Hết thảy các pháp là vô ngã" (Sabbe dhammà anattà). Thế có nghĩa
là hữu vi và vô vi đều vô ngã, hay hữu vi cũng chính là vô vi ở mặt tự
thể, hay ở mặt chân nghĩa của Duyên khởi. Đây là ý nghĩa mà Kinh Kim
Cang bảo: "Nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp"; Hoa Nghiêm nói: "Nhứt
thiết chư Pháp vô phi Phật pháp" và các tư tưởng Bắc tạng thường đề cập:
"Phiền não tức Bồ-đề", hay "Sinh tử tức Niết-bàn", hoặc "Thiết lập nhân
gian Tịnh độ".
Tại đây, chúng ta có thể
ổn định kết luận rằng Duyên khởi là giáo lý nền tảng nhất của Phật
giáo. Dù Duyên khởi được nhìn dưới quan điểm bộ phái nào, dù được trình
bày dưới định thức tổng quát "Cái này có, cái kia có...." hay dưới mười
hai chi phần nhân duyên, nó vẫn chuyên chở đầy đủ ý nghĩa thậm thâm
nhất. Cho rằng Duyên khởi là giáo lý thuộc Duyên giác thừa hay Tiểu thừa
chỉ là một thiên chấp hay là một ngộ nhận đáng tiếc.
7. Không thể xem Duyên
khởi, Vô ngã như là giáo lý được Thế Tôn phương tiện thuyết để đối trị
chấp ngã, cái nhân khổ đau. Thực sự, khổ đau là do vô minh, không hiểu
rõ tính Duyên khởi, Vô ngã của các pháp. Đoạn tận khổ đau đồng nghĩa với
giác ngộ Duyên sinh, Vô ngã ấy.
8. Bàn đến Duyên sinh,
nhà học giả Nhật Bản Kimura Taiken trong cuốn "Đại Thừa Phật Giáo Tư
Tưởng Luận" (bản dịch của TT. Thích Quảng Độ, Tu thư Vạn Hạnh, 1969)
nhận định:
"Vấn đề Duyên sinh tuy
có thể diễn tả theo nhiều cách, song điểm phát xuất của nó vẫn không
ngoài Tâm, nếu lìa Tâm ra thì lý Duyên sinh sẽ vô căn cứ. Bởi thế, nói
một cách rốt ráo thì Tâm là nguồn gốc của Duyên sinh quan. Cho nên, cái
gọi là pháp, là Duyên sinh rốt cuộc cũng không ngoài cái Tâm tướng biến
hiện của ta. Đó là điểm căn bản độc nhất của Phật giáo, Tiểu thừa cũng
như Đại thừa. Điều phục lấy Tâm đã trở nên một phương châm tu dưỡng
quyết định trong Phật giáo. Do đó, khi nói đến Duyên khởi, tất nhiên ta
phải đề cập đến Tâm, vì giữa hai điểm ấy có một mối quan hệ rất mật
thiết và nếu ta muốn hiểu rõ dụng ý căn bản của Phật giáo, ta không thể
quên điểm hệ trọng đó". (tr. 28).
Công trình nghiên cứu tư
tưởng Phật học qua các bộ phái của Kimura Taiken là một công trình giá
trị, nhưng qua đoạn phát biểu này về Duyên sinh của tác giả, chúng ta
cảm nhận ngay có cái gì bất ổn trong đó, nghe hơi thiếu vẻ Duyên sinh.
Tác giả xem Tâm là gốc
của Duyên sinh, trong khi thực tế chính Tâm là do Duyên sinh, là Duyên
sinh. Ngay cả từ nguồn gốc, tự thân nó đã là không phù hợp với Duyên
sinh. Tâm trong Phật giáo (hay đấy là thọ, tưởng, hành và thức uẩn) là
vô thường, biến diệt, nó còn phi thật hơn cả vật chất (sắc uẩn), Tâm này
cũng là Duyên sinh, Vô ngã.
Tu, điều phục Tâm, là đi đến giải thoát và tri kiến giải thoát: ở đây, thì phi tâm phi vật, nó là Chân như, Vô ngã.
9. Cái thắc mắc lớn nhất
về giáo lý Duyên Sinh, Vô ngã của người học Phật vẫn là: khó mà quan
niệm được một pháp giới hoàn toàn Vô ngã. Làm sao mà có thể tồn tại, nếu
là Vô ngã? Ai sinh tử, luân hồi? Ai tu? Ai chứng?..... như chính thắc
mắc của Moliya Phagguna, Kassapa và Timbura (như đã đề cập), như âu lo
của Kimura Taiken (phải có tâm là gốc thì Duyên khởi mới đứng vững) và
như chính Tôn giả A-nan, trong Thủ Lăng Nghiêm, đã sửng sốt khi nghe Thế
Tôn dạy chân tâm là Vô ngã.
Gốc của các thắc mắc ấy là tập khí tham ái, chấp thủ của chúng sinh do nhiều kiếp chấp ngã trôi lăn trong sinh tử.
Theo Phật giáo, gốc của
sinh tử là vô minh. Vô minh là nhận lầm thực tại vốn không có "ngã"
thành có "ngã". Sinh tử chính là sự nhận lầm có cái "ngã" ấy. Thực sự,
không có "ngã" trong sinh tử, luân hồi.
Tu là lộ trình đi ra
khỏi sinh tử, luân hồi; có nghĩa là đi ra khỏi sự trói buộc đầy sương mù
của sự chấp có ngã, là đoạn trừ cái chấp ngã ấy. Đoạn trừ cái chấp ngã
là đoạn trừ hết thảy vọng tưởng.
Chứng, hay chứng ngộ, là đoạn trừ hoàn toàn chấp thủ ngã tướng, chấp có ngã, để chứng đắc thực tại không có tự ngã.
Vì thế, các câu hỏi: Ai tu? Ai chứng? v.v.... là những câu hỏi đầy vọng niệm, trái với lý Duyên khởi như Thế Tôn đã dạy.
10. Thực tại Vô ngã thì
không trống rỗng. Chỉ có thế giới ngã tướng là trống rỗng. Không phải vì
ngã tướng mà thế giới tồn tại, mà thực sự nhờ Vô ngã, thế giới mới sinh
khởi và tồn tại. Chúng ta thử đi vào quán sát một số hiện tượng sau
đây:
- Vì carbon (C) và sắt
(Fe) là vô tự tính nên mới có hợp chất của gang và thép. Vì hydro và
oxy, v.v... là vô tự tính nên mới có tổng hợp của nước, mới có các phản
ứng hóa học.
- Vì hư không là Vô ngã
tính nên mới vừa tối, vừa sáng, có nắng, có mưa, có bốn mùa vận hành.
Nếu hư không có ngã tính thì chỉ có hoặc tối, hoặc sáng, v.v.....
- Nếu con người có ngã
tính thì sẽ hoặc dốt, hoặc thông, hoặc khỏe, hoặc bệnh, mà không thể
chuyển đổi từ dốt sang thông, từ bệnh sang vô bệnh, từ buồn sang vui, từ
thất vọng qua hy vọng, từ ghét hận thành yêu thương....
- Vì các hiện tượng xã hội là Vô ngã tính nên mới có thể cải tạo, chấn hưng.
- Vì sự vật và nhận thức là Vô ngã tính nên mới có sáng tạo, gốc của văn hóa và văn minh.
- Vì Vô ngã nên mới có hiện tượng thần túc thông: cả nghìn chư Thiên có thân khổng lồ trú ở đầu mũi kim mà không vướng nhau.
- Vì Vô ngã nên các pháp dung nhiếp nhau, mới có lý sự và sự sự vô ngại, v.v.....
Nói tóm, vì Vô ngã tính mà các tính được thành lập.
11. Khi thấy rõ Vô ngã
tính của các pháp thì tham ái và chấp thủ sẽ tan dần đến hủy diệt, khổ
não sẽ tiêu đi, và giải thoát đến. Bấy giờ thực tại Duyên sinh trở về
chính nó. Nó là như thế, mãi mãi như thế. Kinh Pháp Hoa gọi đây là "Thế
gian tướng thường trú". Nó không bị nhân quả hay bị duyên sinh. Nhân quả
và duyên sinh là chính nó. Đây là tánh "Không" của Bát-nhã, tánh "Như
thị" của Pháp Hoa, và là tánh "Diệu hữu" của Hoa Nghiêm, Niết-bàn.
12. Dù Duyên khởi được
hiểu theo bất cứ quan điểm của bộ phái nào, Niết-bàn (hay giải thoát
toàn triệt) cũng đồng nghĩa với ái diệt, thức diệt hay vô minh diệt. Đây
là quả vị giải thoát sau cùng, gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề
(Anuttnara Sammasambodhi). Có lẽ đây là lý do mà Thế Tôn trình bày Duyên
khởi dưới dạng thức mười hai chi phần nhân duyên. Và đây cũng là ý
nghĩa mà người biên soạn tập sách này chọn mười hai nhân duyên là dạng
thức ổn định của Duyên khởi để khảo sát, để tránh khỏi những bối rối có
thể có, khi đi vào một số chủ trương Duyên khởi khác nhau qua các thời
kỳ phát triển Phật giáo.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu Duyên khởi biểu hiện qua một số kinh điển Bắc tạng tiêu biểu.
I. Duy Thức và Duyên Khởi
Trong"Bát Thức Quy Củ"
do Pháp sư Huyền Trang sáng tác, giải nghĩa về từ "Duy thức", Pháp sư có
viết: "Duy thức nghĩa là chỉ có Thức, không có sự vật nào ngoài Thức mà
có được. Do tất cả sự vật đều phải nhờ cái duyên của Thức mới thành sự
vật nên gọi là Duy thức duyên khởi, do tất cả sự vật đều phải nhờ cái
duyên của Thức mới có tướng, có danh nên gọi là Duy thức biến hiện. Lại
bản tính của Thức là pháp giới tính, pháp giới tính duyên khởi ra tất cả
sự vật thì cũng là Thức tính duyên khởi ra tất cả sự vật.
Xét như vậy thì biết là
do lấy một tâm niệm làm trung tâm chi phối các sự vật trong pháp giới
nên gọi là Duy thức. Ngược lại, nếu lấy một hạt bụi hay một quả núi làm
trung tâm chi phối các sự vật trong pháp giới tính thì cũng có thể gọi
là Duy hạt bụi hay Duy quả núi...." (1)
Thức ở đây rõ là một trong mười hai chi phần nhân duyên của Duyên khởi. Nó là Duyên khởi pháp, Duyên sinh pháp hay Vô ngã pháp.
Bài tụng mười bảy trong ba mươi bài tụng Duy thức của pháp sư Thế Thân viết:
"Thị chư Thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt,
Do thử, bỉ giai vô
Cố nhất thế Duy thức".
Nghĩa là:
Các thức ấy chuyển biến
Thành phân biệt và sở phân biệt (chủ thể và đối tượng)
Vì hai thứ ấy đều không (vô ngã)
Nên hết thảy đều là Duy thức.
Nói tất cả là Duy thức là nói tất cả là Duyên sinh Vô ngã ấy.
Bài kệ 25 nói: "Nhứt
thiết pháp vô tánh". Bài kệ 28 nói rời khỏi chấp thủ tướng (chấp chủ thể
và đối tượng) mới thật trú Duy thức.
Nhược thời vô sở duyên
Nhĩ thời trú Duy thức.
Trí đô vô sở đắc
Ly nhị thủ tướng cố.
Nghĩa là:
Nếu không có cái để làm duyên
Bấy giờ trú vào Duy thức.
Trí đều không sở đắc
Rời hai tướng chấp vậy.
(Chấp chủ thể và đối tượng)
Tại đây, chúng ta có một kết luận rõ ràng: Duy thức thật tánh là Duyên sinh tánh hay Vô ngã tánh.
II. Lăng Già và Duyên Khởi
Giáo lý tinh yếu của Lăng Già đã được chứa đựng trong sáu bài kệ mở đầu của kinh này.
Bài 1:
Thế gian ly sinh diệt
Do như hư không hoa.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Nghĩa là:
Thế gian rời sinh diệt
Cũng như hoa đốm giữa hư không.
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
Bài 2:
Nhứt thiết pháp như huyễn
Viễn ly ư tâm thức.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Nghĩa là:
Hết thảy các pháp như ảo huyễn
Xa rời với tâm thức.
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
Bài 3:
Viễn ly ư đoạn thường
Thế gian hằng như mộng.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Nghĩa là:
Rời khỏi đoạn và thường
Thế gian thường như mộng
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
Bài 4:
Tri nhơn, pháp vô ngã
Phiền não cập nhĩ diệm (sở trí chướng)
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm
Nghĩa là:
Biết người, pháp đều vô ngã
Phiền não cùng những sở tri chướng
Vẫn thường thanh tịnh, vô tướng
Mà hưng khởi tâm đại bi.
Bài 5:
Nhứt thiết vô Niết-bàn,
Vô hữu Niết-bàn Phật,
Vô hữu Phật Niết-bàn.
Viễn ly giác, sở giác
Nhược hữu, nhược vô hữu.
Thị nhị tất câu ly.
Nghĩa là:
Thảy thảy không có Niết-bàn
Không có Phật Niết-bàn
Không có Niết-bàn của Phật
Xa rời giác, sở giác (chủ thể, đối tượng)
Dù hữu, dù vô hữu
Hai thứ ấy đều xa rời.
Bài 6:
"Mâu-ni tịch tịnh quán
Thị tắc viễn ly sanh
Thị danh vi bất thủ
Kim thế, hậu thế tịnh".
Nghĩa là:
Quán tịch tịnh Mâu-ni
Làm cho viễn ly sanh khởi.
Quán ấy gọi là bất thủ (không nắm chấp)
Đời này, đời sau đều tịnh.
Thực pháp như thế là vô
tánh, vô sanh, vô thường, vô đoạn, phi hữu, phi vô, phi tâm, phi thức,
rời hết mọi ngã tướng. Đây là tánh Duyên sinh, Vô ngã.
Trong chương Kiến Lập
Niết-bàn (Lăng-già), Thế Tôn dạy, "Ta nói vọng tưởng thức diệt là
Niết-bàn". Vọng tưởng thức ấy là vọng niệm phân biệt do chấp thủ tướng
sinh và là vọng tâm tham ái. Con đường giải thoát rõ là con đường đoạn
diệt thức, hay đoạn diệt ái, thủ của mười hai chi phần nhân duyên.
III. Bát-Nhã và Duyên Khởi
Các nhà nghiên cứu Phật
học thường cho rằng Bát-nhã là yếu lý của Đại thừa, là nền tảng của các
kinh Bắc tạng. Nó là "Chân không Diệu hữu" mà không phải chỉ là "Chân
không" như một số ý kiến phân biệt.
Bát-nhã Tâm Kinh chép:
"Thấy năm uẩn là không (Vô ngã) thì liền thoát ly hết khổ ách" (Chiếu
kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thế khổ ách). Ngũ uẩn ấy là con người và
pháp giới. Thấy pháp giới vô ngã thì sẽ lìa xa mọi chấp thủ mà đoạn tận
khổ đau. Đây là nội dung của Bát-nhã Tâm Kinh, cũng là nội dung kinh
Kim Cương và của tạng Bát-nhã.
Kim Cương chỉ bày trí
Bát-nhã rời hẳn tất cả ngã tướng. Chấp thủ các ngã tướng là gốc của vọng
tưởng phân biệt, của vô minh; nên rời hẳn các ngã tướng là đoạn diệt vô
minh. Ý nghĩa này là hệt với những gì được trình bày ở Duyên khởi.
Phương cách để thể nhập
Không tánh (Kim Cang tánh hay Bát-nhã tánh, hoặc Không tướng, cũng thế)
là quán sát các pháp hữu vi là mong manh, vô thường, để từ đó tâm ly
tham, giải thoát sinh. Trong giải thoát này, một tuệ giác giải thoát
khởi lên, biết rằng mình giải thoát, gọi là "giải thoát tri kiến". Đây
là trí tuệ Bát-nhã mà nội dung chỉ là ái diệt, thủ diệt hay vô minh diệt
của Duyên khởi.
IV. Hoa Nghiêm và Duyên Khởi
Như được đề cập ở phần
đầu của Duyên khởi này, Pháp giới trùng trùng duyên khởi của Hoa nghiêm
cũng chỉ là Duyên khởi được trình bày qua mười hai chi nhân duyên.
Về toà "Đại lâu các
Trang Nghiêm tạng" (Vairochana Vyùha Alankara-garbha) mà đức Di-lặc hóa
hiện ở kinh Hoa Nghiêm, Tôn giả Thiện Tài đã phát biểu:" - Đại lâu các
này là trú xứ của những ai đã hiểu ý nghĩa Không, Vô tướng và Vô nguyện
(Vô dục), của những ai đã hiểu rằng hết thảy các pháp là vô phân biệt,
rằng pháp giới vốn là vô sai biệt, rằng chúng sanh giới vốn là bất khả
đắc, rằng hết thảy các pháp vốn là vô sinh. Đây là trú xứ, nơi thường
thích ở đối với những ai biết rằng hết thảy các pháp đều không tự tánh,
những ai không phân biệt pháp theo bất cứ loại tướng nào..." (2).
Đoạn trên đã nói lên rõ ràng những gì mà Duyên khởi đã nói. "Đại lâu các" chính là pháp giới Duyên khởi này vậy.
V. Pháp Hoa và Duyên Khởi
Chân lý Pháp Hoa, hay
tri kiến Phật, là nội dung được trình bày qua 28 phẩm kinh. Thiên Thai
tông phân chia nội dung ấy làm hai phần: Tích môn, phần 14 phẩm đầu, là
con đường giáo hóa của đức Thích Tôn biểu hiện trên cuộc đời này; và Bản
môn gồm 14 phẩm sau, chỉ cái gốc của sự biểu hiện trên. Tuy nhiên,
chúng ta có thể tìm thấy tinh lý của Pháp Hoa ngay từ phẩm Tựa.
Mở đầu, kinh Pháp Hoa
trình bày Thế Tôn nhập "Vô lượng nghĩa xứ định" rồi xuất "Vô lượng nghĩa
xứ định" mới tuyên thuyết Pháp Hoa. Vô lượng nghĩa thì thoát ly ý
nghĩa, thoát ly niệm. Thoát ly niệm là rời tất cả tướng. Nói cách khác,
thật tướng của các pháp là vô ngã tướng. Đây là những gì đã được nói từ
Duyên khởi.
Trong ba điều kiện để
tuyên thuyết Pháp Hoa ("nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, và toạ Như
Lai tòa") của một Pháp sư, Pháp Hoa định nghĩa an trú vào chỗ "Nhất
thiết pháp không" là "Ngồi tòa Như Lai". Không ấy là Vô tự tính, hay Vô
ngã tính; nó chính là Duyên sinh tính của các pháp. Cùng một ý nghĩa
này, phẩm Phương tiện chép:
"Chư Phật Lưỡng Túc tôn
Tri Pháp thường Vô tánh
Phật chủng tùng Duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa...."
Nghĩa là:
Chư vị Phật, chư vị Trí, Hạnh (Bi)
Biết pháp luôn vẫn Vô tánh
Quả Phật do từ duyên mà khởi
Cho nên bảo là Nhất thừa.
Giác ngộ tối thượng của
chư Thế Tôn là giác ngộ thực tánh Vô tánh của các pháp, và giác ngộ sự
thật rằng "Quả Phật" cũng từ duyên mà phát khởi.
VI. Viên Giác, Niết-Bàn, v.v... và Duyên Khởi
Thực nghĩa của các Pháp chỉ có một nên các kinh không thể thuyết có hai. Thực nghĩa đó là Duyên sinh hay Vô ngã.
Các kinh chỉ khác nhau ở
các trình bày thực nghĩa và cách thể hiện thực nghĩa đó ở đời. Cái gọi
là "Đại thừa" chỉ là sự thể hiện Phật pháp rộng rãi hơn mà không phải là
sâu xa hơn những gì gọi là "Tiểu thừa".
Hãy tự mình đi vào thực nghĩa của các kinh Bắc tạng chúng ta sẽ thấy rõ.
*
* *
Ngang đây lại có một vấn
đề khác nẩy sinh: Duyên khởi và các kinh Đại thừa đều trình bày hết
thảy pháp tướng là Vô ngã tướng, thì do duyên gì mà ý niệm về Ngã có
mặt? Chấp thủ có mặt?
Câu trả lời đúng với lý Duyên khởi là do duyên ái có thủ, do duyên thọ có ái, do duyên xúc có thọ....
Tạm thời chúng ta có thể
thấy tham ái và chấp thủ có gốc từ tư duy. Dĩ nhiên, nếu tiếp tục tìm
hiểu thì tư duy (hay hành và thức) lại có gốc là vô minh v.v... Ta hãy
khảo sát tư duy, yếu tố đang chi phối tư tưởng, tình cảm và hành động
của chúng ta.
Ba nguyên lý căn bản của
tư duy, suy lý mà Aristote, nhà đại triết gia Hy Lạp đã đặt ra, dù ta
có chấp nhận hay phủ nhận chúng, suy tư của chúng ta không thể thoát
khỏi chúng. Ba nguyên lý đó là: (3).
- Nguyên lý đồng nhất: Một vật ta gọi là A thì phải luôn luôn là A. Ký hiệu của nguyên lý này là: A = A.
- Nguyên lý phi mâu thuẫn: Một vật chỉ được gọi là A, hoặc B, mà không được khi thì A, khi thì B.
- Nguyên lý triệt tam: Một vật ta gọi hoặc A, hoặc B mà không thể vừa là A và B.
Ba nguyên lý đó bảo
rằng, một hiện hữu A thì luôn luôn phải là A, trong khi đó, thực tại thì
trôi chảy (vô thường) nghĩa A thì khác A (hay A phủ nhận A). Điều này
nói lên rõ ràng suy tư khác, với thực tại như thực, nếu không muốn nói
là không dính dấp đến thực tại như thực. Chính suy tư đã gán một ngã
tính (nature) cho thực tại vốn Vô ngã. Nói khác đi, thế giới ngã tính là
thế giới của suy tư, còn thế giới Vô ngã là thực tại chính nó. Chính vì
thế mà "Bát Thánh đạo" (hay Đạo đế) được dẫn đầu bằng hai chi phần
chánh kiến và chánh tư duy (thấy đúng và tư duy đúng với Duyên sinh
tính, Vô ngã tính của các pháp). Đây là con đường loại bỏ các tà tư duy,
các vọng niệm, hay các tư duy đầy ngã tính ấy.
*
* *
- Những cách giải thích khác nhau về
- mười hai chi phần nhân duyên
Các nhà nghiên cứu Phật học thường có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau qua 12 chi phần nhân duyên. Tại sao?
- Bởi vì Duyên sinh tính
là pháp tính của mọi hiện hữu, nên tính Duyên sinh ấy có thể biểu hiện
qua ba dòng thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai), qua chỉ một dòng
hiện tại, hoặc qua chỉ một sát-na, hay qua bất cứ một hiện hữu nào,
chẳng hạn là qua thân ngũ uẩn. Đây là lý do của các cách cắt nghĩa khác
nhau ấy về mười hai chi nhân duyên, tùy theo góc cạnh nhìn của người
khảo sát.
- Có nhà nghiên cứu ghép
hai chi phần vô minh và hành thuộc về đời sống quá khứ, tám chi phần
tiếp theo thuộc đời sống hiện tại, hai chi phần sau cùng thuộc đời sống
vị lai. Đối với hiện tại, vô minh và hành là nhân, tám chi phần hiện tại
là quả, đối với vị lai, tám chi phần hiện tại là nhân, hai chi phần vị
lai là quả.
Đấy là nhìn Duyên khởi biểu hiện qua ba đời.
- Có nhà nghiên cứu giải
thích rằng: Do vô minh và hành là nghiệp vụ tạo tác trong quá khứ mà
tạo ra nghiệp thức đi đầu thai (vào thai mẹ). Tiếp theo, giai đoạn tượng
thai là giai đoạn hình thành danh sắc (nếu không có thức thì quyết định
danh sắc không thể hình thành. Ngay cả khi hình thành, nếu thức diệt,
thì danh sắc cũng diệt). Giai đoạn thai nhi đầy đủ các căn gọi là giai
đoạn lục nhập. Giai đoạn trẻ bú nớm là giai đoạn của xúc. Giai đoạn của
trẻ từ 3 đến 5 tuổi là giai đoạn của thọ (trẻ biết cảm thọ, đòi hỏi).
Năm giai đoạn trên (từ thức đến thọ) là sự biểu hiện của nghiệp quá khứ,
trẻ chưa tác ý thiện, ác, để tạo nên nghiệp hiện tại. Từ 6 tuổi trở đi,
trẻ cảm nghiệm vui, buồn, khổ, lạc, ưa, ghét, v.v... là giai đoạn hình
thành ái, thủ, hữu. Trẻ tạo nghiệp ở giai đoạn ái, hữu này để dẫn đến
một đời sống mới ở tương lai (sinh và lão tử).
- Cũng có nhà nghiên cứu
nhìn 12 nhân duyên biểu hiện ngay trong hành động và cảm nghiệm hiện
tại. Do vô minh, nhận lầm các pháp Vô ngã thành có ngã tướng; từ phân
biệt có ngã tướng dẫn đến các hành (hành động của thân, khẩu, ý); do các
hành, thức được nuôi dưỡng. Do thức có mặt, danh sắc được hình thành;
do danh sắc có mặt, lục nhập có mặt; do có lục nhập mà xúc sinh; do từ
xúc, các cảm thọ khổ, lạc.... sinh. Do cảm thọ, ưa, ghét, sinh; do tham
ái các đối tượng khả ý, chấp thủ đối tượng sinh; do chấp thủ các đối
tượng; có mặt (hữu) sinh. Sự có mặt các đối tượng gọi là sinh; sự thay
đổi và biến mất các đối tượng gọi là lão tử. Do lòng tham ái muốn nắm
giữ các đối tượng khả ý giữa khi chúng đi đến hoại diệt mà sầu, bi, khổ,
ưu, não sinh....
- Cũng có nhà nghiên cứu nhìn 12 nhân duyên cùng có mặt trong từng hiện hữu, trong từng sát-na hiện hữu.
Các pháp dù lớn như pháp
giới, hay nhỏ như hạt bụi, có mặt là mười hai chi phần nhân duyên có
mặt trong từng sát-na. Không phải mười hai chi phần ấy tuần tự sinh khởi
theo thứ tự thời gian hay không gian nào. Lối nhìn này rất sống động và
rất là thiện xảo.
Sau các giải thích khác
nhau về mười hai chi phần nhân duyên, chúng ta đi vào tìm hiểu các chủ
trương khác nhau về Duyên khởi, như là Nghiệp cảm Duyên khởi, Tứ đại
Duyên khởi, Lục đại Duyên khởi, Chân như Duyên khởi, A-lại-da (Alaya)
Duyên khởi và Pháp giới Duyên khởi.
I. Nghiệp Cảm Duyên khởi
Chúng sinh trong luân hồi thì bị chi phối bởi luật nhân quả. Yếu tố chính quyết định diễn trình của nhân quả là Nghiệp cảm.
Mười hai chi phần nhân
duyên vẽ nên vòng tròn sinh hóa (Mà không phải là đường thẳng sinh hóa),
trong ý nghĩa rằng, không có điểm sinh hóa khởi đầu mà sự sinh hóa liên
tục, triền miên của sinh tử khổ đau. Theo đây, các hành động của ái,
thủ và hữu của đời trước tạo nên cái gọi là vô minh và hành dẫn đến đời
sống hiện tại và chi phối đời sống hiện tại. Các hành động của ái, thủ,
hữu trong hiện tại thì tạo nên cái gọi là vô minh và hành dẫn đến đời
sống vị lai.
Khi chết là chết cái
thân xác, còn cái năng lực tâm lý của nghiệp vẫn tồn tại, tiếp tục quay
chuyện. Năng lực tiềm tàng này gọi là Nghiệp cảm.
Nghiệp gồm có biệt
nghiệp và cộng nghiệp: Biệt nghiệp tạo nên cá thể; cộng nghiệp thì tạo
nên thế giới, vũ trụ. Biệt và cộng cùng có mặt (sẽ được khảo sát thêm ở
phần Nghiệp, Nhân quả và Luân hồi).
II. Tứ Đại và Lục Đại Duyên Khởi
Tứ đại là bốn yếu tố:
đất, nước, gió, lửa; những yếu tố tổ hợp thành con người và vũ trụ vật
lý. Các yếu tố tổ hợp nói đủ là sáu: đất, nước, gió, lửa, không gian và
thức.
Về sự hình thành chúng
hữu tình, đặc biệt là con người, Phật giáo (gồm hầu hết các bộ phái) cho
rằng, do nhân duyên sinh, và luôn luôn gồm đủ hai phần vật lý và tâm
lý.
Chi phần danh sắc trong
mười hai nhân duyên là gồm có hai phần tố tâm lý và vật lý ấy. Thuyết
Ngũ uẩn cũng thế. Do đó, danh từ Tứ đại chỉ là nói tóm tắt của Lục đại,
hoàn toàn khác hẳn với chủ trương duy vật luận của ngoại đạo (một trong
sáu mươi hai tà thuyết của Ấn Độ đương thời).
Về Lục đại Duyên khởi,
có các kinh đề cập đến như kinh "Phân biệt Sáu Giới" (M.140), kinh Hán
tạng tương đương là "Phân biệt Lục Giới Kinh" (Trung A-hàm 42). Thuyết
Lục đại Duyên khởi là của Chân ngôn tông, thật sự có gốc từ sự phân tích
con người qua sáu giới này (như nhận xét của Kimura Taiken, trong
"Nguyên thủy Phật giáo Tư tưởng Luận").
Tứ đại Duyên khởi thì có
gốc phân tích từ Kinh "Đại-câu-hi-la" (Trung A-hàm 7) và vài nơi khác
trong Nikàya. Đây chính là trường hợp trình bày tóm tắt của Lục đại.
III. A-Lại-Da Duyên Khởi
Đây là thuyết Duyên khởi của trường phái Duy thức Pháp tướng tông trong buổi đầu thành lập trường phái này.
A-lại-da còn được gọi là
Tàng thức hay Dị thục thức (hoặc Nhất thế chủng thức). Đây là kho tàng
tích chứa của tâm, ý, thức tích chứa các hạt giống (chủng tử) để biểu
hiện (hiện hành) thành thế giới, con người và các hoạt động của con
người; sau khi biểu hiện, lại được huân thành chủng tử. Mỗi một kiếp
sống là kết quả hiện hành của một nhóm chủng tử, với sự kết hợp của các
chủng tử mới. Các chủng tử và hiện hành liên tục vẽ thành vòng tròn sinh
tử. Kết quả này được gọi là A-lại-da Duyên khởi.
Thuyết A-lại-da Duyên khởi này tiến xa hơn thuyết Nghiệp cảm Duyên khởi ở điểm nó giải thích căn nguyên của Nghiệp.
- IV. Chân Như Duyên Khởi hay
- Như Lai Tạng Duyên Khởi
Nỗ lực của A-lại-da
Duyên khởi là giải tích căn nguyên của Nghiệp. Nhưng, A-lại-da chỉ là
kho chứa các chủng tử sinh diệt, nên nó thuộc về sinh diệt. Nó chưa có
khả năng giải thích căn nguyên của cuộc sinh tử, hay nói khác đi, nó
không thể giải thích căn nguyên của chính nó. Do đó, về sau, trường phái
Duy thức giải thích rộng rằng A-lại-da thức gồm có hai phần: Phần nhiễm
gọi là A-lại-da thức (hay thức thứ tám), và phần tịnh gọi là Bạch tịnh
thức (hay là thức thứ chín) để nói lên tính chuyển hóa của Duy thức,
chuyển từ Nghiệp (nhiễm) qua Giải thoát nghiệp (tịnh).
Để ổn định hơn trong
việc cắt nghĩa gốc của sinh tử, Duy thức tiến xa thêm một bước nữa trong
việc thành lập nên thuyết Như Lai tạng Duyên khởi, hay Chân như Duyên
khởi. Như Lai tạng hay Chân như là thể tánh như tánh của các pháp. Như
tánh này thoát ly hết thảy mọi ý niệm, tướng trạng. Chỉ có thể tánh như
tánh này thực sự ổn định là gốc của các pháp, còn những gì thuộc sinh tử
thì không thể là gốc của sinh tử, như chính A-lại-da thức không thể là
gốc của Nghiệp.
Kinh Bắc tạng để cập
nhiều đến Như Lai tạng Duyên khởi là kinh Lăng-già Tâm Ấn; luận đề cập
nhiều đến Chân như Duyên khởi là Đại Thừa Khởi Tín Luận.
Các Luận sư Duy thức có
khuynh hướng chỉ đề cập đến những gì có thể đề cập trong tương hệ nhân
quả nên không đả động đến Như Lai tạng (hay Chân như), đối tượng khảo
sát ở ngoài khả năng diễn đạt. Nhưng các nhà Pháp tánh học thì khác.
Pháp tánh học không xem Chân như như là nhân và hiện tượng là quả, mà
trình bày Chân như có hai mặt: mặt tĩnh là tự thân chân như, và mặt động
là biểu hiện của chân như. Chính tại quan điểm này, Chân như Duyên khởi
được thành lập và có khả năng cắt nghĩa căn nguyên của A-lại-da thức.
Về thuyết Chân như Duyên
khởi này, người học Phật thường thắc mắc rằng tại sao từ Chân như lại
có thể sinh khởi hiện tượng, cái mà tự thân không cùng loại với Chân
như?
Thực ra thì thắc mắc này
không phù hợp với nội dung của thuyết Chân như Duyên khởi. Chấp nhận
thắc mắc ấy (hay câu hỏi ấy) hợp lý, là chấp nhận rằng Chân như có ngã
tính và hiện tượng có ngã tính trái ngược. Đây là điều không thể có, bởi
hết thảy các pháp vốn vô ngã tính. Thực sự Chân như chính là pháp giới,
và pháp giới chính là Chân như.
V. Pháp Giới Duyên Khởi
Hoa Nghiêm tông không
chú ý giải thích điểm khởi nguyên của vũ trụ, pháp giới, mà chỉ trình
bày cái thực thể toàn thể của pháp giới khi thành lập thuyết Pháp giới
Duyên khởi. Tuy nhiên, trong sự trình bày cái thực thể toàn thể ấy, Hoa
Nghiêm đã nói lên quan điểm của mình về điểm khởi nguyên.
Vạn pháp trong vũ trụ,
theo Hoa Nghiêm, thì cùng khởi, đồng thời có mặt: Một tương quan với tất
cả; tất cả tương quan với một. Tất cả hòa điệu trong một pháp giới tròn
đầy biểu hiện qua bốn mặt:
- Thế giới của sự: là thế giới hiện thực của các dữ kiện.
- Thế giới của lý: là thế giới của các định luật, các luật tắc của các pháp.
- Thế giới của lý sự vô ngại: là thế giới của tương giao hòa điệu của lý và sự: trong sự có lý.
- Thế giới của sự sự vô
ngại: là thế giới của tương giao, hòa điệu của các thực kiện hiện hữu.
Các thực kiện dung nhau, nhiếp nhau, hỗ trợ nhau, phụ thuộc nhau. Chúng
có đồng nhất tính duyên sinh.
Các thuyết Duyên khởi ở
trên đều hàm chứa giáo nghĩa Duyên khởi được Thế Tôn trình bày qua mười
hai nhân duyên. Tất cả đều nói lên mọi hiện hữu là Vô ngã, ngũ uẩn là Vô
ngã. Chính giáo nghĩa này đánh tan ngộ nhận các pháp có ngã tính để phá
trừ ái, thủ, phá trừ cội nguồn của sinh tử, đau khổ.
*
* *
Bây giờ chúng ta đi vào
phần trình bày khác nhau về số lượng các chi phần nhân duyên, về nội
dung khác nhau của các thuyết nhân duyên ấy.
Ngay trong 5 bộ kinh của
Nikàya đã có sự trình bày khác nhau về số lượng chi phần này. Kinh Đại
Duyên (Trường Bộ Kinh III) trình bày Duyên khởi qua 9 chi phần (thiếu vô
minh, hành, lục nhập) thay vì mười hai chi phần như ở Tương Ưng Bộ Kinh
II. Trường hợp kinh Đại Duyên có thể là trường hợp kiết tập thiếu sót;
cũng có thể là trường hợp trình bày thu gọn (bởi ba chi phần vô minh,
hành, lục nhập đã hàm chứa trong các chi phần thức, danh sắc và xúc).
Đại Tỳ-bà-sa luận, cuốn 24 theo Kimura Taiken trong Phật giáo Nguyên
thủy Tư tưởng luận, giới thiệu Duyên khởi được trình bày dưới các số
lượng chi phần khác nhau như sau:
- Một Duyên khởi: hết thảy các pháp hữu vi.
- Hai Duyên khởi: nhân và quả.
- Ba Duyên khởi: hoặc, nghiệp và sự (Tam thế).
- Bốn Duyên khởi: vô minh, hành, sinh, lão tử.
- Năm Duyên khởi: ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
- Sáu Duyên khởi: nhân và quả của ba đời.
- Bảy Duyên khởi: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ.
- Tám Duyên khởi thức: thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu.
- Chín Duyên khởi: thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử (Kinh Đại Duyên, Trường Bộ III).
- Mười Duyên khởi: (Ở
Kinh Thành Dụ, A-hàm; và Kinh Đại Bổn, Trường Bộ Kinh III): thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
- Mười một Duyên khởi: (thiếu chi phần vô minh).
Phật Âm (Buddhaghosa)
trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga, XVII, p. 523) cho rằng, Thế
Tôn trình bày Duyên khởi dưới bốn dạng thức:
- Đủ mười hai chi nhân duyên (thuận chiều từ vô minh đến lão tử).
- Đủ mười hai chi nhân duyên (ngược chiều từ lão tử tới vô minh)
- Từ chi phần thọ đến lão tử.
- Từ thủ - ái - tho ﭠxúc - lục nhập - danh sắc - hành - vô minh.
Dù được trình bày dưới số lượng chi phần nào, Duyên khởi vẫn không đi ra ngoài định thức:
"Do cái này có nên cái kia có,
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này không có nên cái kia không có,
Do cái này diệt nên cái kia diệt".
Định thức này vừa là nội
dung của các thuyết nhân duyên trong nhiều kinh, luận khác nhau như Lục
nhân luận, Tứ duyên luận, Thập duyên luận, Nhị thập tứ duyên luận.
* Lục Nhân Luận:
Thuộc Hữu bộ, do
Ca-đa-diễn ni-tử (tác giả của Phát Trí Luận) thành lập, gồm có năng tác
nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, dị thục nhân, tương ứng nhân và biến
hành nhân (xem Câu-xá Luận, quyển 6).
1. Năng tác nhân: Trừ tự thể ra, hết thảy các pháp đều gọi là năng tác.
2. Câu hữu nhân: Là điều
kiện hỗ tương để thành lập một sự kiện, ví dụ, chủ thể và khách thể
nương nhau mà thành lập. Trong sự thành lập này, chủ thể là nguyên nhân
của khách thể, khách thể là nguyên nhân của chủ thể.
3. Đồng loại nhân: Khi nhân và quả cùng một tính chất thì nhân đó được gọi là đồng loại nhân.
4. Tương ứng nhân: Chỉ
giới hạn ở lĩnh vực tâm lý. Khi một tâm niệm sinh khởi thì có những tác
dụng tâm lý theo tâm mà phát khởi. Những tác dụng tâm lý này trở nên
những hoạt động tâm lý cụ thể, do đấy chúng được đặt tên là "Tương ứng
nhân". Thực ra, tự thể của "Tương ứng nhân" chỉ là "Câu hữu nhân", nhưng
câu hữu nhân phổ biến cả đến lãnh vực vật chất, còn tương ứng nhân chỉ ở
lĩnh vực tâm lý mà thôi.
5. Biến hành nhân: Chỉ
cái căn bản phiền não làm nguyên nhân cho tất cả mọi phiền não khác. Đó
là biến hành hoặc, gồm có 11 thứ: Khổ đế có 7 (tham, sân, si, mạn, thân
kiến, biên kiến, giới cấm thủ) và Tập đế có 4 (vô minh, nghi, tà kiến,
kiến thủ).
6. Dị thục nhân: Do nghiệp tập sai biệt khiến quả có cái tướng trạng biểu hiện bất đồng với nhân, nên gọi là dị thục.
* Tứ Duyên Luận:
Tứ duyên luận được tìm
thấy ở kinh Phân biệt Duyên khởi, Sơ thắng, Pháp môn (cuốn hạ) thuộc Bắc
tạng. Theo Kinh này, các điều kiện thành lập nên vạn hữu gồm có bốn:
nhân duyên, thứ đệ duyên (hay đẳng vô gián duyên), sở duyên duyên (hay
cảnh giới duyên) và tăng thượng duyên.
1. Nhân duyên: Chỉ những
nguyên nhân, điều kiện thành lập hiện tượng. Theo A-tỳ-đạt-ma Pháp Yếu
Luận, nhân duyên chỉ có tham, sân, si, xả, từ bi và trí tuệ, những hoạt
động tâm lý, nền tảng của sự sinh khởi các hiện tượng. Duy Thức Luận thì
xem nhân duyên là chủng tử của A-lại-da thức biểu hiện ra vạn hữu.
2. Thứ đệ duyên (đẳng vô
gián duyên): Chỉ sự quan hệ liên tục tồn tại của các pháp. Theo tâm lý
học của đạo Phật, các tâm niệm sinh diệt liên tục không ngừng, khi tâm
niệm trước diệt thì dẫn khởi cái duyên cho tâm niệm sau, đây là đẳng vô
gián duyên. Thể của tâm và tâm sở của niệm trước là một, thì thể của
tâm, tâm sở của niệm sau cũng là một; giữa niệm trước và niệm sau không
có một yếu tố thứ ba xen vào, vì thế nên gọi là đẳng vô gián duyên.
3. Sở duyên duyên (cảnh
giới duyên): Chỉ tất cả những đối tượng của tâm. Tâm sinh khởi hẳn phải
nương vào cảnh, nên cảnh giới duyên là một duyên trọng yếu trong bốn
duyên.
4. Tăng thượng duyên:
Chỉ động cơ chính yếu chi phối mọi hành vi của ta. Đây là động lực tinh
thần mạnh mẽ của dục, tinh tấn, tâm, tư duy (tứ như ý túc).
Do vì bốn duyên trên làm
nên hiện hữu của các pháp nên mỗi pháp có đủ bốn duyên ấy. Tùy theo
khía cạnh nhìn mà pháp ấy là nhân duyên, là thứ đệ duyên, là sở duyên
duyên, hay là tăng thượng duyên.
* Thập Duyên Luận: (theo Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm Luận):
Thuyết Tứ duyên trên là hình thức thu gọn của thuyết Thập duyên này. Mười duyên gồm có:
1. Nhân duyên (như cắt nghĩa ở trên).
2. Vô gián duyên (như đẳng vô gián duyên ở trên).
3. Cảnh giới duyên (hay sở duyên duyên, tương tự ở trên).
4. Y duyên: Y là nương
tựa, ví như nương vào miệng mà có khẩu nghiệp, nương vào mắt và sắc mà
có nhãn thức, v.v.. vì thế gọi là y duyên.
5. Nghiệp duyên: Chỉ tổng quát mọi hoạt động tạo nên nghiệp.
6. Báo duyên: Chỉ cái tác nghiệp đưa đến sự chiêu cảm quả báo thiện, ác.
7. Khởi duyên: Yếu tố khiến mình và người khởi nghiệp thiện, ác, hay khởi ý, thức, tưởng, tư, giác cho đến tứ đại.
8. Vị duyên: Tương tự với câu hữu nhân trong lục nhân ở trên.
9. Tương tục duyên: Sự tiếp nối không ngừng của các pháp, của nghiệp.
10. Tăng thượng duyên: Tương tự duyên thứ tư của thuyết Tứ duyên ở trên.
* Nhị Thập Tứ Duyên Luận:
Theo tài liệu khảo cứu
của Kimura Taiken, thuyết 24 duyên này có từ thế kỷ thứ bốn trước Tây
lịch, vào thời đại vua A-dục (Asoka), gồm có:
Nhân duyên, cảnh giới
duyên, tăng thượng duyên, vô gián duyên, đẳng vô gián duyên, câu sanh
duyên, hộ vi duyên, y duyên, cận duyên, tiền sinh duyên, hậu sinh duyên,
tương tục duyên, nghiệp duyên, báo duyên, thục duyên, tăng duyên, thiền
duyên, đạo duyên, tương ứng duyên, bất tương ứng duyên, hữu duyên, phi
hữu duyên, ly duyên, phi ly duyên.
Ngoài các thuyết nhân
duyên vừa trình bày, các bộ phái còn có các chủ trương tương tự hay có
phần sai biệt, như "Bát môn Duyên khởi", "Cửu duyên", "Tứ duyên ngũ
quả", v.v.. Nội dung của các thuyết nhân duyên đều chỉ trình bày rõ pháp
tánh vô tánh để đánh đổ "Vô nhân luận" và "Ngẫu nhiên luận" của ngoại
đạo.
Duyên Khởi và Ngũ Uẩn
Mười hai nhân duyên hòa
hợp sinh tất cả pháp. Con người là một pháp, nên cũng là kết quả hòa hợp
của mười hai nhân duyên. Ngũ uẩn là con người, do đó có một sự tương
quan, tương đồng giữa mười hai nhân duyên và Ngũ uẩn:
- Vô minh và hành thì tương đương với hành uẩn. Hành trong mười hai nhân duyên chính là hành uẩn.
- Thức của Ngũ uẩn chính là thức của 12 chi phần nhân duyên.
- Danh sắc chính là Ngũ uẩn.
- Lục nhập tương đương với sắc uẩn.
- Thọ của mười hai chi nhân duyên chính là thọ uẩn.
- Ái, thủ, hữu: tương đương với hành uẩn.
- Sinh, lão tư; sự hình thành, hoại diệt của Ngũ uẩn.
Thế Tôn lại trình bày
Duyên khởi dưới dạng thức nhân duyên cho phù hợp chặt chẽ với đối tượng
nghe pháp - con người - nên hẳn nhiên có một sự tương đương rõ rệt giữa
12 chi phần nhân duyên và Ngũ uẩn.
Thường khi thuyết giảng
về Vô ngã, Thế Tôn chỉ phân tích từ mười hai nhân duyên, hoặc từ Ngũ
uẩn. Con người do Ngũ uẩn sinh là do duyên sinh; mỗi uẩn có mặt thì do
bốn uẩn kia tạo thành, nên mỗi uẩn cũng do duyên sinh. Đây là điểm nhất
quán trong giáo lý của Thế Tôn.
Duyên Khởi và Tứ Đế
Thế Tôn đã định nghĩa
mười hai nhân duyên khởi là khổ tập khởi. Như thế ái, thủ, thức, vô minh
khởi là khổ có mặt. Chính ái, thủ, thức, vô minh là nhân của khổ. Với
con người, với chúng sinh, Thế Tôn dạy gọn, ái là gốc của khổ. Thực ra,
khi nói ái là nói đủ sự có mặt của mười hai chi phần nhân duyên. Nhưng
con người mang nặng duyên ái nên Thế Tôn nhấn mạnh ở chi phần ái này,
xem nó là Tập đế.
Khi giảng Tứ đế, Thế Tôn
dạy Ngũ uẩn là khổ đau. Mà Ngũ uẩn chính là mười hai chi nhân duyên của
chúng hữu tình, nên 12 chi nhân duyên có mặt là khổ đau có mặt, hay nói
khác đi, nhân duyên sinh khởi đồng nghĩa với khổ.
Thế Tôn cũng định nghĩa
mười hai nhân duyên đoạn diệt là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Do đó, ái
diệt, thủ diệt, thức diệt, hay vô minh diệt có nghĩa là Niết-bàn hay
Diệt đế trong Tứ đế.
Khi dạy con đường đoạn
diệt ái, thủ và vô minh, Thế Tôn thường dạy Bát Thánh đạo, đại biểu cho
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, như vậy là tương đương với Đạo đế trong Tứ đế.
Vật Tứ đế là giáo lý
được Thế Tôn dạy riêng ra như giáo lý Duyên khởi nhưng nội dung của Tứ
đế vốn đã được bao hàm trong Duyên khởi qua mười hai chi phần nhân
duyên. Ở đây, chúng ta lại thấy rõ nét nhất quán của giáo lý Phật giáo.
Duyên Khởi và Nhân Quả
Khi trình bày mười hai
chi nhân duyên, Thế Tôn trình bày chặt chẽ qua tương hệ nhân quả, như đã
được trình bày ở phần cắt nghĩa mười hai chi phần nhân duyên khác nhau
giữa các bộ phái (phần trước).
Khổ như là kết quả, mà
mười hai chi phần nhân duyên (hay ngũ uẩn) tập khởi như là nhân. Nói các
khác, vô minh, thức, ái, thủ như là nhân của khổ; hoặc lão tử là nhân
của khổ; và ái diệt, thủ diệt, vô minh diệt, thức diệt... lão tử diệt là
quả; con đường tu tập đoạn trừ ái, thủ, v.v. là nhân.
Tất cả các chi phần ấy
đều duyên sinh. Thế có nghĩa: nhân là vô ngã, và quả là vô ngã. Chính vì
nhân, quả đều vô ngã, ta mới có thể tu tập để thoát ly sinh tử và sự
thật vấn đề Đạo đế mới được đặt ra.
Cần phải rọi ánh sáng
Duyên khởi vô ngã vào Nhân quả, chúng ta mới tránh khỏi ngộ nhận khi
khảo sát giáo lý này. Tại đây, một kết luận quan trọng có thể được rút
rằng: các giáo lý Phật giáo như một chuỗi ngọc mà Duyên khởi thì như một
sợi chỉ báu xâu suốt và kết lại chuỗi hạt ngọc này.
Duyên Khởi và Tam Pháp Aᮼ/big>
Pháp ấn là sắc thái đặc
biệt của Phật giáo. Bất cứ một giáo lý nào của Phật giáo cũng nổi bật
sắc thái của Pháp ấn. Ba sắc thái đặc biệt của Phật giáo gọi là Ba Pháp
ấn, đó là Khổ, Vô thường và Vô ngã.
Chính từ giáo lý Duyên
khởi (hay 12 nhân duyên) biểu hiện Khổ, Vô thường và Vô ngã ấy. Các pháp
do duyên sinh, không tự có, nên vô ngã. Vì do các điều kiện sinh nên
biến dịch, vô thường theo sự biến dịch của các duyên. Vì vô thường, biến
dịch, đoạn diệt nên đem lại khổ đau đối với chúng hữu tình (những chúng
sinh đầy chấp thủ và tham ái).
Ba Pháp ấn là pháp được
các bộ phái Phật giáo thuộc Bắc tạng và Nam tạng xem như là nét đặc biệt
nền tảng của giáo lý. Chính vì thế mà Duyên khởi là giáo lý nền tảng
của Phật giáo, rõ nét đến độ mà người Phật tử chúng ta không còn băn
khoăn gì nữa.
Lối Vào Giải Thoát từ Duyên Khởi
Qua định thức Duyên
khởi, hay qua sự biểu hiện của mười hai nhân duyên, người có trí tuệ
nhận ra ngay thế giới ngã tướng là hoàn toàn trống rỗng. Thấy cái huyễn
sinh, huyễn diệt của ngã tướng thì ly tham có thể sinh khởi . Từ ly
tham, ly thủ, giải thoát đến, và trí tuệ biết rằng đã giải thoát sinh tử
(tri kiến giải thoát).
Con tàu vào giải thoát
rốt ráo có thể di chuyển trên lộ trình này: Vô minh - Hành - Thức - Danh
sắc - Lục nhập - Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh - Khổ - Tín - Hỷ -
Hân hoan - Khinh an - Định - Tri kiến như thật - Yếm ly - Ly tham - Giải
thoát - Tri kiến giải thoát. (Tương Ưng II, tr.37).
Hoặc chúng ta có thể
đoạn diệt ái, thủ bằng cách hành Tứ Niệm xứ hoặc Bát Thánh đạo (như Thế
Tôn đã dạy trong nhiều kinh), hoặc đoạn diệt vô minh theo một quá trình
thân cận bậc Chân nhân để nghe điệu pháp đến đoạn tận năm triền cái, như
dưới đây:
- Do thân cận bậc Chân nhân nên nghe được diệu pháp;
- Nhờ nghe điệu pháp nên khởi tín tâm;
- Nhờ có tín tâm nên như lý tác ý;
- Nhờ có như lý tác ý nên được chánh niệm, tỉnh giác;
- Nhờ có chánh niệm, tỉnh giác mà các căn được chế ngự.
- Nhờ các căn được chế ngự nên có thân, khẩu, ý thiện hành;
- Nhờ có thân, khẩu, ý thiện hành mà năm triền cái bị đoạn diệt.
Năm triền cái là thức ăn
nuôi dưỡng vô minh, khi năm triền cái diệt thì vô minh sẽ không có nhân
duyên để tồn tại. (Lời Thế Tôn dạy ở Tương Ưng Bộ Kinh, phẩm Tương Ưng
Nhân Duyên).
- Ư鮧 Dụng Tinh Thần của Giáo Lý Duyên Khởi.
- 1. Lãnh vực nhận thức:
Duyên khởi nói lên tính
tương đối và tương quan của hiện tượng giới, gồm tính tương đối của nhận
thức. Nhận thức bao giờ cũng nhận thức một đối tượng; điều này có nghĩa
là đối tượng không xuất hiện như đối tượng đang là, mà bị bóp méo bởi
nhận thức, bởi các chủ thể mà tự thân vốn do điều kiện sinh. Do đó, nhận
thức không phải là thực tại. Tư duy cũng thế, trừ chánh tư duy là nhân
tố đang hướng chúng ta về giải thoát.
Thật là dễ hiểu! Chúng
ta sống là sống với thực tại, mà không phải là nghĩ về thực tại, cũng
như yêu thương (hay yêu đương) thì khác nói về tình yêu. Bởi thế, nhận
thức cần được xem là chỉ có giá trị tương đối trên nghĩa sống thực và
trên đường vào sự thật.
2. Lãnh vực giá trị:
Nhận thức đánh giá cuộc sống, lập nên bảng giá trị của đời sống. Vì thế, các giá trị có ý nghĩa tương đối như chính nhận thức.
Chân giá trị, hay chân
nghĩa của cuộc sống phải là sự vật như thật hay hạnh phúc chân thật của
con người. Đây là giá trị tiêu chuẩn cho mọi giá trị khác.
Ý nghĩa tương đối của
giá trị không cho phép chúng ta liệt kê giá trị của cuộc sống, bởi vì
tùy theo nhân duyên, tùy theo điểm nhìn mà sự vật xuất hiện dưới nhiều
giá trị khác nhau. Chẳng hạn, cơm là thức ăn nuôi dưỡng con người, nhưng
nó trở thành thứ giết người nếu được ăn bởi người đau thương hàn. Tương
tợ, thuốc bổ sẽ thành độc dược nếu dùng quá liều lượng an toàn.
Do vì cái biểu hiện bên
ngoài của hành động không nói lên được thực chất giá trị của hành động
(chẳng hạn hành động không nói lên được động cơ thúc đẩy nó, cũng không
nói lên được mục đích mà hành động nhắm đến), nên chúng ta không thể xếp
loại thiện, ác cho các hành động của con người, mà chỉ đề ra được một
số tiêu chuẩn thiện, ác, căn cứ vào kết quả của hành động (chẳng hạn,
cái gì đem lại lợi vừa mình vừa lợi người, đem lại giải thoát hay giảm
trừ khổ đau là thiện; ngược lại là ác, v.v.)
Lại cũng vì do sự vật
vốn duyên sinh nên mang ý nghĩa bất định tính. Một sự vật xuất hiện dưới
nhiều giá trị khác nhau đối với những người khác nhau, đối với những
bối cảnh khác nhau, và đối với chúng sinh khác nhau. Giáo lý Phật giáo
cũng thế. Tứ đế hay Duyên khởi không mang ý nghĩa Tiểu thừa hay Đại
thừa, Nhơn thừa hay Thiên thừa... mà Tiểu hay Đại thừa... là do người
hành trì thực hiện, là nội dung thực hiện.
Giá trị tối thượng thì
thoát ly ý nghĩa giá trị, vì nó vượt ra ngoài vòng đối đãi của tốt xấu,
thiện ác, được mất, hạnh phúc, khổ đau. Nó là vô minh diệt, ái diệt, thủ
diệt, thức diệt, hay Niết-bàn.
3. Lãnh vực giáo dục:
Con người là sự kết hợp
của Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn). Giáo dục con người là
giáo dục phát triển toàn diện con người Ngũ uẩn đó. Năm uẩn vốn cùng có
mặt, một uẩn không thể có mặt ngoài bốn uẩn kia. Do đó, một đường hướng
giáo dục tốt phải giáo dục đủ các mặt: trí dục, đức dục, thể dục, sinh
lý, tình cảm, mỹ dục và gồm cả lao động (như đã được đề cập ở chương
Phật Bảo, tiết Giáo dục của Thế Tôn). Không thể xem nhẹ phần vật lý,
sinh lý hay tình cảm, cũng không được xem nhẹ phần lao động, bởi vì các
yếu tố ấy đều có liên hệ "duyên khởi" mật thiết với trí dục, đức dục và
vấn đề phát triển con người toàn diện.
Một liên hệ "duyên khởi"
khác là liên hệ giữa con người và xã hội, con người với văn hóa và
truyền thống. Con người với xã hội, văn hóa và truyền thống là một tương
quan bất ly. Không được xem con người đứng độc lập với xã hội, văn hóa
và truyền thống; nhưng cũng không được đặt xã hội, văn hóa và truyền
thống trước con người và hạnh phúc của con người.
Ngoài ra, một nền giáo
dục theo tinh thần duyên khởi cần thể hiện sự hòa điệu giữa các sinh
hoạt lớn của quốc gia (kinh tế, quốc phòng, ngoại giao, xã hội và giáo
dục), và giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Qua các phần trình bày về Duyên khởi ở trên, chúng ta có thể thêm một lần nữa nhấn mạnh một số điểm cần chú ý này:
- Duyên khởi là giáo lý nền tảng của các bộ phái Phật giáo, Bắc tạng và Nam tạng.
- Trong việc tìm hiểu các giáo lý căn bản của Phật giáo, Duyên khởi luôn luôn cần được vận dụng để soi sáng các vấn đề.
- Duyên khởi là giáo lý
chỉ có trong đạo Phật. Đây là phần giáo lý làm nổi bật nét khác biệt
giữa Phật giáo và Ấn giáo, giữa Phật giáo và các triết thuyết, tôn giáo
khác.
- Khi 12 nhân duyên đoạn
diệt hay pháp hữu vi đoạn diệt thì pháp vô vi xuất hiện. Con đường đưa
đến đoạn diệt pháp hữu vi là con đường tu tập để đoạn diệt ái, thủ, thức
hay vô minh. Thực tại vô vi có mặt đối với ai mà ái diệt, thủ diệt...
nó là thực tại của sự thể nhập mà không phải của nhận thức.
- Thế giới với hình,
danh, sắc, tướng mà chúng ta đang thấy là thế giới duyên sinh qua sáu
căn, sáu trần, và sáu thức. Khi sáu căn, sáu trần, sáu thức diệt thì
thực tại như thực sẽ xuất hiện như nó là. Ví dụ, với con mắt như một
kính hội tụ này thì hình ảnh và khoảng cách các vật xuất hiện như thế
này, nhưng nếu con mắt mình mà cấu tạo như một lăng kính... thì sự vật
đã xuất hiện một cách khác, v.v...
Nhưng, với một người (có
đủ sáu căn và sáu thức) mà giác ngộ ngay trên cuộc đời này thì thế giới
sẽ xuất hiện với hình, danh, sắc, tướng như trước một con người phàm
phu không? Ví dụ, với trái núi, con sông của người phàm phu, Thánh giác
ngộ có còn thấy là núi, là sông không? - Câu trả lời, theo Duyên khởi,
đối với bậc Thánh giác ngộ hoàn toàn, thì hẳn là núi vẫn là núi, sông
vẫn là sông nhưng núi, sông này được nhìn dưới cái nhìn đã đoạn tận lậu
hoặc, đoạn tận chấp thủ.
Như chúng ta biết, bậc
Thánh khác với phàm phu là do đoạn tận 10 kiết sử: thân kiến, nghi, giới
cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử, vô minh. Bậc Thánh
là vị tự giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của 10 kiết sử mà không cần
phải thay đổi gì hiện tượng giới. Khi nhìn các pháp, bậc Thánh nhìn với
pháp nhãn, thấy Duyên khởi ngay nơi các pháp mà không bị đánh lừa bởi
ngã tướng không thật.
Kinh Tiểu Không (Trung
Bộ Kinh III, Nikàya) trình bày rằng: Thế Tôn (hay bất cứ ai đạt đến giải
thoát cứu cánh) có thể trú trong bất cứ đối tượng nào, trong bất cứ
loại tưởng nào; khi trú trong các đối tượng này thì đối với Thế Tôn lúc
ấy, đối tượng này là thực - "Cái gì bấy giờ không có mặt thì xem như cái
ấy không có" - Với đối tượng này, Thế Tôn biết: "Cái kia có, cái này
có". Như thế gọi là trú Không tánh (sunyàta). Ở đây cho chúng ta câu trả
lời cho câu hỏi thực tại như thực sẽ xuất hiện thế nào.
- Duyên khởi được trình
bày ở Bắc tạng hay ở Nam tạng chỉ là một, thực sự không có cao thấp khác
nhau. Có thể nhận định này giúp người học Phật xóa tan được thái độ chỉ
trích bộ phái, và hé mở cho thấy tính nhất quán và nghĩa "nhất thừa"
của giáo lý Phật giáo xuyên qua các bộ phái, điều chỉnh được cái nhìn
đầy màu sắc thiên chấp, bộ phái.
- Vì thực tính của các
pháp là Duyên khởi tính nên không thể hỏi thực tính ấy là gì, bởi "là
gì" là không phải Duyên khởi, không phù hợp với Duyên khởi.
- Vì là Duyên khởi tính
nên các giáo lý Phật giáo trở thành bất định tính: Tùy theo khả năng
nhận thức và tu tập mà tính của pháp biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn, nỗ
lực tinh cần không phải luôn luôn mang tính giải thoát; nếu nỗ lực yếu
thì hành giả tu thiền có thể rơi vào tính thụ động hoặc hôn trầm, nếu nỗ
lực quá mức thì sẽ rơi vào tính năng động hay trạo cử; lại nữa, ý nghĩa
nỗ lực vừa phải cũng khác nhau đối với các hành giả khác nhau, và đối
với các giai đoạn tu tập khác nhau.
- Khi thấy một pháp mà
thấy Duyên khởi tính của nó là thấy thật pháp; nhưng nếu thấy cái tướng
riêng của nó và ái, thủ sinh là thấy giả tướng của pháp. Do đó, mà toàn
thể pháp giới này là thực tại như thật, nếu chúng ta biết nhìn Duyên
khởi tính của nó; ngược lại, pháp giới là như huyễn. Tại đây, hiển lộ ý
nghĩa phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn, hay "hồi đầu thị ngạn".
- Sau cùng, Duyên khởi
đã phơi bày toàn thể thực tại, toàn thể pháp giới là Vô ngã, nếu còn có
thắc mắc nào về Vô ngã tính này thì đấy là điều bí mật nằm về phía chúng
ta. Bí mật của cuộc đời xuất hiện cùng với ái và thủ của mình. Đốt cháy
hết ái, thủ, nếu chúng ta có quyết tâm như thế, thì pháp giới không còn
gì là bí mật nữa./.
--------
Tài Liệu Tham Khảo
- Tương Ưng Bộ Kinh II, III, IV.
- Kinh Đại-Duyên (Trường Bộ III).
- Tăng Chi Bộ Kinh V.
- Kinh Hữu Minh Tiểu Kinh (Trung Bộ I).
- Kinh Thanh Tịnh (Trung Bộ III).
- Kinh Tiểu Không (Trung Bộ III).
- Các Tông phái đạo Phật.
- Lịch sử Tư tưởng Tiểu thừa, Nguyên Thủy và Đại thừa Luận của Kimura Taiken.
- Kinh Kim Cương.
- Kinh Pháp Hoa.
- Kinh Lăng-Già.
- Duy thức Tam Thập Tụng.
- Hoa Nghiêm (bản dịch của THẾ TÔN Trí Tịnh).
- Thiền Luận của Suzuki.
------
Ghi chú:
(1) Bản dịch của Lê Đình Thám, Tu thư Viện Phật học Vạn Ha/nh sưu tập, 1982, tr.2.
(2) Thiền Luận, D.T. Suzuki, bd. Tuệ Sỹ, cuốn Hạ, tr.173.
(3) Spaulding, The New Relationalism, New York, Henry Holt and Company, 1918, pp 106-107.