2.1.
Không tiếp xúc với nữ giới, ni giới
Đời nhà
Tuỳ (581-618), tỉnh Tượng Châu, chùa Diễn Không, có pháp sư Linh Dụ.
Pháp sư
Linh Dụ là người Định Châu. Sư sắp xếp, bố trí cho chúng xuất gia ở
hai khu vực, phân chúng đã thọ đại giới và chưa thọ đại giới làm
hai nơi ở hẳn hoi. Nếu như ngôn ngữ, hành vi tản mạn chắc chắn bị quở
trách. Ngài phát nguyện không truyền thụ giới cho ni giới, chỉ khi nào giảng
kinh thuyết pháp, mới cho phép ni giới vào chùa nghe, và lúc bắt đầu buổi
giảng phải vào sau cùng, kết thúc phải ra trước tiên. Ngài ở một mình
trong phòng, tuyệt đối không cho Ni Giới vào. Chúng Sa di đến khi thọ giới
cụ túc, tất phải thỉnh đại đức Tăng làm tôn chứng sư, nhưng phải
đủ 20 tuổi mới cho đăng đàn Tỷ-kheo thọ giới cụ túc. Đại sư suốt
đời chỉ đắp y bá nạp bằng vải thô. Chiếc quần dài chỉ đến mắt
cá, tay áo lót, miệng rộng bốn ngón tay, dài chỉ đến khuỷ tay. Nếu
như xem y phục nào quá ư sa hoa thì cắt
phá.
2.2. Tuổi
nhỏ không vui đùa
Đời nhà
Đường (618-907), tỉnh Kinh Đại, chùa Từ Ân,
pháp sư Huyền Trang.
Pháp sư
Huyền Trang, người họ Trần, là hậu duệ của Trần Trọng Công, Thái
khâu trưởng triều nhà Hán. Tuổi nhỏ theo anh Tố xuất gia (tức là Trương
Tiệp pháp sư), mới 11 tuổi đã tụng đọc kinh Duy Ma, Pháp Hoa. Sư tính
tình chính trực siêu bạt, không a dua theo thời cuộc, chìm nổi theo trần
tục. Có một ngày thấy chúng Sa di ngồi nói chuyện bông đùa tán dốc, sư
nói với chúng rằng : “Kinh Phật không
có để nói à ? Là người xuất gia thì phải tu pháp vô vi, tại sao lại
có thể ngồi nói chuyện bông đùa như vậy ? Cứ tiếp tục mãi như thế
này thì chỉ lãng phí cuộc sống quí báu này thôi !”. Người cao minh
xem đến sự kiện này thì biết đạo đức của đại sư thật phi phàm !
Bình luận:
Tuổi nhỏ đã có đức hạnh
cao siêu, đó không phải do thiên phú
đặc biệt mà là do tập khí tu tập đời trước không quên mất. Biết
được đạo lý này, có thể hiểu được cuộc sống hôm nay, cũng có thể
nói cuộc sống hôm nay tu tập miên mật, thì kiếp sau tự nhiên đạo đức siêu trần bạt tục.
2.3.
Nghiêm Huấn Thị Giả
Đời nhà
Đường (618-907), núi Giang Nam, chùa Chí Tương, pháp sư Trí Chính.
Pháp sư
Trí Chính, người Định Châu, An Gia. Vào niên hiệu Khai Hoàng, năm thứ 10,
triều Tuỳ Dạng Đế*, phụng chỉ sắc lệnh
của Hoàng Đế trú trong chùa Thắng Quang, Nhân Thọ, sau đến núi Chung Nam,
chùa Chí Tương và kết bạn với pháp sư Uyên, một vị giải hạnh tương
đối cao, đáng được ngưỡng mộ ở kinh thành, cùng ở chung với nhau 28
năm, không liên quan đến vấn đề thế sự.
Đại
sư Trí Chính có một đệ tử tên là Trí Hiện, vâng chịu sự dạy dỗ của
Ngài; mỗi lúc đại sư Trí Chính xem sách, ngồi ngay thẳng suy nghĩ, pháp sư
Trí Hiện cầm bút đứng hầu phía sau. Đại sư Trí Chính muốn nói ra điều
gì, ngài lập tức ghi chép lại. Cứ như vậy trải qua mấy năm, lúc nào cũng
chăm chỉ siêng năng không thay đổi. Lúc đầu pháp sư Hiện chỉ đứng không
ngồi, có một ngày, chân bị đau, trong lòng buồn bực, Hiện té xuống đất
lúc nào không hay, Đại sư Trí Chính quở trách : “Vào thời quá khứ rất xa, thuở đức Phật
Phất Sa tại thế, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tiên nhân ngoại đạo,
lên núi tuyết hái thuốc thấy đức Phật Phất Sa ngồi trên bảo toà
trong hang nhập hoả định, phóng hào
quang rực rỡ, thấy vậy trong lòng rất hoan hỉ, kính tin, bèn bước tới
đứng chắp tay, hướng đến Phật nhất tâm chiêm ngưỡng, mắt không rời
bảy ngày bảy đêm, mở lời khen Phật rằng : “Trên trời, dưới trời
không ai giống như Phật, mười phương thế giới cũng không ai có thể so
sánh, con đã nhìn khắp thế giới này, tất cả không ai giống như Phật”, do lời khen ngợi và tấm lòng ngưỡng mộ
này mà trải qua chín kiếp, trong kiếp thứ 9 được thành chánh giác (Đại
Trí Độ Luận, quyển 4, Bồ Tát Thích Luận), Con mới đứng có một chút
thì đã ngã rồi nguyên nhân là do tâm không trịnh trọng!”. Đại sư
Trí Chính nghiêm khắc như vậy.
Bình luận:
Đã bị
té lại còn bị trách mắng, thật là quá nghiêm khắc ! Người xưa vì cầu
pháp mà quên đi bản thân mình, như nhị tổ Thần Quang (Huệ Khả) vị sư
cầu pháp nơi tổ sư Đạt Ma. Đạt Ma ở động thiếu thất, tĩnh toạ
quay mặt vào vách núi, đại sư Thần Quang tiến về phía trước cầu pháp,
đứng ở bên ngoài, tuyết phủ đầy mặt đất, suốt một đêm, tuyết ngập
lên tận đầu gối. Lại nữa, hai vị học trò nhà nho là Du La Đạo và Dương Thời học Đạo với tiên
sinh Y Xuyên; tiên sinh Y Xuyên bấy giờ đang nhắm mắt dưỡng thần, hai
người đứng ở ngoài cửa, gặp lúc tuyết đang rơi, hai người không cảm
thấy kinh động, tiên sinh ở trong phòng mở mắt nhìn ra ngoài cửa, thấy
tuyết dày đến ba tấc. Tấm gương tôn sư trọng đạo của hai người này,
còn lại không nhiều. Người ngày nay ngồi luận đạo, lại có cảm giác
chán chường mệt mỏi. Ôi ! làm thầy quản
giáo nghiêm khắc, làm một người học trò tôn sư trọng đạo, những việc
như vậy đã sớm bại hoại hết rồi, thực tại đáng buồn thay!
2.4. Phá hoại đồ đựng rượu
Đời nhà
Đường (618-907), tỉnh Dịch Châu, chùa Thanh Hoá, có pháp sư Huyền Giám.
Pháp sư
Huyền Giám là người Cao Bình, Dịch Châu. Tính tình sư đôn hậu, ngay thẳng,
bộc trực, thấy người đến không như pháp, nhất định bị sư quở trách
ngay trước mặt, không kiêng nể đối phương là người có thế lực,
ngoan cường như thế nào. Một đời đại sư kiến tạo, tu bổ rất nhiều
đạo tràng. Lúc đó phải thuê mướn rất nhiều công nhân, nếu như có người
đưa rượu đến cho công nhân uống, đại sư cấm cản bảo: “Tôi tạo tự viện nhất định phải làm
như pháp, thà rằng công nhân bãi công, không cho phép công nhân uống rượu”.
Lúc đó,
chùa Thanh Hoá đang thi công làm chánh điện (Phật điện). Ở Dịch Châu
có một vọng tộc*, gọi là nhà Tôn Nghĩa, chở hai xe rượu
đến ủy lạo cho công nhân, Giám đại
sư bèn đánh phá hết mấy vò rượu, rượu chảy tràn lan ra đất. Tôn Nghĩa
rất giận, quyết định ngày hôm sau phải cho đại sư Giám khó xử, nhưng
tối hôm đó ông nằm ngủ mộng thấy một người cầm dao đến muốn giết
ông ta, bảo ông ta không được vô lễ đối với đại sư, tỉnh dậy Tôn
Nghĩa biết được lỗi của mình, thế là từ đó, ông rất cung kính, quì
trước mặt đại sư xin sám hối.
Bình luận:
Ngày nay
chiêu đãi công nhân, không những dùng rượu bia, lại còn sát sanh, chiên nấu
những thức ăn tanh, đến nỗi phá đất, nghinh thần tế lễ mời đại khách,
càng sát hại rất nhiều sinh vật, dùng đinh, móc câu đóng sinh vật treo
lên trên vách tường (dụ cho sự tàn sát trắng trợn). Cầu phước kiến
tạo chùa chiền như vậy, thiên đường thành tựu đâu chưa thấy, trước
đã gieo nhân tạo địa ngục rồi, đây là tình hình cuộc sống thực tại đấy, người muốn làm chùa,
tu sữa tháp miếu cầu phước, ngàn vạn
lần phải cấm chỉ hẳn những việc làm trên.
2.5.
Không tiếp xúc người nữ
Đời nhà
Đường (618-907), tỉnh Phong Châu, chùa Đại Hưng Quốc, có pháp sư Đạo Lâm.
Pháp sư
Đạo Lâm người huyện Cáp Dương, Đồng Châu, năm 35 tuổi mới xuất gia
vào sâu trong hang động núi Thái Bạch ẩn cư. Hoàng đế coi trọng Ngài, sắc
lệnh cho trú trì chùa Đại Hưng Quốc. Không bao lâu, Ngài lại trốn đến ẩn cư ở phía nam Lương
Sơn. Một đời cần kiệm, khắc khổ, cho rằng nữ sắc là gốc của tai
hoạ, sản sinh ra dục nhiễm, suốt đời không nhìn mặt nữ giới; không
vì nữ giới nói pháp, không tiếp nhận vật thực nữ giới cúng dường,
không cho người nữ vào phòng của mình, lúc lâm chung, có mấy nữ đệ tử
đến hỏi thăm tình hình bệnh tật và hậu cận, đại sư ở trong phòng
biết được, bảo các cô không được bước vào, không cho các cô thấy mặt.
Bình luận:
Trong giới luật cũng cho phép
vì người nữ thuyết pháp, nhưng phải thận trọng, không được cười đùa
cho đối phương thấy răng của thầy, cũng không cho phép nói nhiều, nhưng
đạo sư Đại Lâm thì tuyệt đối không vì những người nữ thuyết pháp,
tựa hồ nghiêm khắc thái quá. Nhưng, là thời kỳ mạt pháp, tâm người
không tốt, giới luật suy vi, căn bản không phải không yên lòng người xuất
gia vì người nữ thuyết pháp, chỉ sợ
người xuất gia vì người nữ thuyết pháp rồi mê đắm, ái nhiễm mà
thôi. Giống như phong cách của Thiền
sư Đạo Lâm đây, kẻ hậu học có thể lấy làm gương .
2.6. Nỗ lực bảo vệ chánh điện,
thiền đường
Đời nhà
Đường (618-907), tỉnh Thuỷ Châu, chùa Hương Lâm, có đại sư Huệ Chủ.
Đại sư Huệ Chủ, người huyện Vĩnh Quy, tỉnh
Thuỷ Châu, chuyên tâm tinh nghiêm nghiên cứu giới luật, ở tại chùa Thanh
Lâm. Có một ngày, Lăng Dương Công đến Ích Châu. Lăng Dương Công xưa nay
đối với Phật pháp không một chút tín ngưỡng, cho nên đem hơn một
trăm cặp lừa, la dẫn vào trong chùa, sắp đặt ở đại điện, giảng
đường, Tăng xá v.v… Trong chùa không một người nào dám chống cự. Đại
sư Huệ Chủ từ trong thôn lạc trở về sau, thấy tình hình tạp loạn, bẩn
thỉu, lập tức vào trong phòng mang tích trượng và ba chiếc áo cà sa ra,
nói lớn : “Chết sống hôm nay nhờ trời
quyết định”!. Nói xong sư cầm tích trượng đánh đuổi lừa, la ra
khỏi chùa; lừa, la bị Ngài đánh hôn mê ngã lăn trên đất, tựa như chết
ngất đi một chập. Đại sư Huệ Chủ giơ tay lùa những lừa, la bỏ vào
trong một hố lớn. Quan huyện địa phương biết sự việc này, vô cùng hoảng
sợ, bắt đại sư Huệ Chủ đến chỗ Lăng Dương Công trình phán tội.
Không thể ngờ rằng, Lăng Dương Công
không những không trách phạt gia hình, mà còn hoan hỷ nói rằng: “Nhờ ơn luật sư đây khai thị, phá bỏ
tâm tham dục, bủn xỉn hà tiện của con, từ đây con học hỏi sự giáo
huấn của Ngài, được ích lợi không nhỏ.” Thế rồi tặng cho đại
sư 10 cân trầm hương, 10 đoạn vải trừu. Sau trở về kinh thành, lại
theo đại sư thọ Bồ Tát giới.
2.7.
Đuổi các cô ni ngang ngược
Đời nhà
Đường (618-907 ),ở kinh sư, Chùa Phổ Quang, pháp sư Huệ Mãn.
Pháp sư
Huệ Mãn, người Ung Châu, 7 tuổi xuất gia, sau phụng thánh chỉ của Hoàng
Đế trú trì chùa Hoằng Tế, đó thời gian các ni cô chùa Chứng Quả ở
cung đình thường ra vào, ngang ngược không cấm kị, và chiếm giữ chùa
Hòa thượng làm am ni giới. Đại sư Huệ Mãn triệu tập đại chúng đuổi
các cô đi, các ni sư đi vào trình bày cáo trạng với đông cung thái tử,
thái tử phái Di Chiêm Sự (tên quan chưởng quản đông cung sự vụ) Đỗ
Chính Luân v.v… ra giải vây. Đại Sư Huệ Mãn vẫn kiên trì đuổi các sư
cô đi, mọi người sợ việc này tiếp tục sẽ chọc tức đến đại
cung, chuốc lấy tai ương, thế là miễn cưỡng vứt bỏ thể diện theo cùng
ni sư. Đại sư liên tiếp mấy ngày than thở không vui, sau các ni sư đến
yết bái đại sư, tạ tội sám hối, đại sư vẫn đi thẳng, không ngó đến
quý cô.
2.8. Không nhận sách tiên
Đời nhà
Đường (618-907), tỉnh Minh Châu, núi Đại Mai, Pháp sư Pháp Thường.
Pháp sư
người Tương Dương, tính tình cương trực nhạy bén, xưa nay vẫn đắp nạp
y, dùng bát đất, mỗi ngày ăn một bữa vào sáng sớm mà thôi, suốt đời
không thay đổi. Vào đời Đường Đức Tông (lên ngôi năm 780), niên hiệu
Trinh Nguyên thứ 12 (797), sư từ núi Thiên Thai đến núi Đại Mai. Mai sơn là
nơi tiên nhân Mai Phước, triều nhà Hán, ẩn cư tu hành. (Thuở xưa Mai Tử
Trực cũng vào núi, thấy nhiều long huyệt, thần xà, mỗi khi nhả khí ra
là thành lâu các, mây mưa tối tăm, bên trong khối đá có cất chứa kinh
sách Tiên dược). Đại sư thường nghĩ đêm trong phòng của Mai Phước ở
ngày trước. Có một hôm sư mộng thấy thần nhân nói rằng : “Ngài không phải là người bình thường,
ở trong khối đá này có tiên thư (ghi chép những sự việc quá khứ, tương
lai), ngài xem rồi có thể làm chủ vương đế, không làm Hoàng đế, cũng
có thể làm quốc sư cho Hoàng đế”.
Đại
sư Pháp Thường nói : “Đây không phải
là cái mà tôi hướng về, trước đây đại sư Tăng Trù, đời nhà Tề,
tu thiền ở trong núi Tây Vương, Hoài Châu, nghe thấy hai con hổ dữ đánh
nhau, gầm thét chấn động núi rừng, liền dùng tích trượng ngăn cách
chúng ra, hoá giải trận đấu của hai con hổ, sau khi hai con hổ mỗi con tự
giải tán rút lui, chốc lát bổng nhiên có một vị tiên cầm hai quyển
kinh xuất hiện ở trên giường, Đại sư Tăng Trù nói : “Tôi vốn xưa
nay tu tập theo đạo Phật há lại mong cầu người trường sanh sao?. Tôi
tuy có truy cầu bất sanh bất diệt, nhưng mà là cái bất sanh bất diệt của
Niết bàn vô dư, vô thượng mới là tốt hơn hết.” Thần nhân nghe
xong vô cùng bội phục, hết lời tán thán.
2.9. Đóng cửa từ con
Đời nhà
Đường, ở Lạc Kinh, chùa Quảng Ái, pháp sư Tùng Gián, người Nam Dương,
xuất gia lúc tuổi tráng niên, không bao lâu đốn ngộ chơn lý chân không
diệu hữu. Đời Đường Võ Tông (841-847), niên hiệu Hội Xương thứ năm
(846), huỷ báng đạo trời, triệt hạ chùa Phật, bắt Tăng ni phải hoàn tục,
Phật pháp lâm vào đại nạn, bị tàn phá, huỷ hoại, bài xích, đại sư
trốn đến ẩn cư trong biệt thự suối nước nóng ở Hoàng Phủ Mai. Đường
Tuyên Tôn lên ngôi (847), niên hiệu Đại Trung, năm thứ nhất, khôi phục
Phật giáo. Ngay sau đó sư trở lại Lạc Dương, chỗ ở ngày trước. Đứa
con của ngài (lúc chưa đi tu ngài đã có gia đình) từ Quảng Lăng đến
thăm ngài. Ngài gặp nó ở cửa chùa, vì không nhận ra ngài, nó hỏi : “Đại Sư Tùng Gián ở đâu ?”, đại
sư Tùng Gián biết rõ là con mình nên
từ chối không nhận chỉ tay về bên hướng đông nam, con ngài hướng về
phía đông nam đi tìm. Đại sư Tùng Gián ngay sau đó đóng cửa không tái
xuất đi lại. Nén đau, cắt ái như vậy không gặp mặt đứa con thân
sinh, công phu này không phải người bình thường có thể làm được .
2.10. Kháng cự bất khuất
Triều
đại nhà Đường, ở kinh sư, chùa Đại Tổng Trì, có pháp sư Trí Thật.
Đại
sư Trí Thật lúc ở Lạc Dương, vua Đường Thái Tông* lâm hạnh** Lạc
Dương. Thuở ấy, vì mê phương thuật của đạo giáo cho nên đạo giáo rất
được sủng ái, vua hạ chiếu lệnh, danh vị Đạo sĩ cùng với Tề cung hạnh
phải đứng trước mặt Tăng lữ. Tăng nhân ở Lạc Ấp trần thuật, dâng
lời can gián, nhưng quan đương sự không chấp nhận. Đại sư Trí Thật thấy
Hoàng đế giá lâm liền dâng biểu trần tấu, luận rõ những sai lầm to lớn,
Hoàng đế mệnh lệnh cho tể tướng Sầm Văn Bổn viết thư chỉ trích đại
sư, đại sư chọn điều thiện, cố chấp không chịu vâng theo chiếu lệnh
của Hoàng đế. Hoàng đế rất giận, trong buổi đường triều sử phạt
đại sư, cho người dùng cây đánh ngài, lột bỏ y phục của ngài, cho
ngài mặc y phục của thường dân, rồi bắt đi đày đến địa phương Lãnh
Nam. Có người chê cười đại sư không biết tự lượng sức mình, không
biết tiến thoái, đại sư nói : “Tôi xưa
nay vẫn biết không có cách gì chuyển biến cuộc thế trước đạo sau
Tăng, nhưng vì sao tôi cứ như lý mà tranh đấu cho mục đích, là vì muốn
để cho người đời sau biết rằng vào triều Đại Đường có một Hòa
thượng thà chịu chết không chịu khuất phục trước uy vũ và cố giữ lấy
điều đúng”. Nghe đến những lời này ai nấy đều tán thán, bội phục
không thôi.
2.11. Phòng tâm ly quá
Triều
đại nhà Tống (960-1279), ở Biện Kinh (tức phủ Khai phong, tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc ngày nay), chùa Pháp Vân, có Thiền sư Thiện Bổn.
Thiền
sư Thiện Bổn họ Đổng, là con cháu đời sau của Đổng Trọng Thư, tể
tướng triều nhà Hán (947-950), bác học quần thư, quy y ở chùa Huệ Lâm,
xuất gia với Thiền sư Viên Chiếu Tông Bản.
Thời Tống
Triết Tông (1086-1101), Sư trụ trì chùa Pháp Vân, vua ban cho hiệu Đại Tống
Thiền sư. Ngày thường, không luận làm hay nghỉ điều đoan chính nghiêm
trang, mắt không hề liếc đi chỗ khác. Lãnh chúng được 3 năm, chưa từng
cười nói tuỳ tiện. Bất cứ đi đến chỗ nào, thấy tượng Phật, Bồ
Tát Sư chỉ đứng tuyệt đối không dám ngồi; rau cải, trái cây biến chế
gọi là thịt cá, vật liệu thức ăn chay mà gọi tên đồ mặn thì không
ăn. Công phu tu tập của đại sư luôn phòng tâm không cho nó đi quá xa
trong sự tham muốn, lỗi lầm, ngăn ngừa cẩn thận nghiêm khắc như vậy.
Đời Tống
Huy Tông (1101-1126), niên hiệu Đại Quán (1107-1110) thứ 3 (1109), ngày giáp
tý, tháng 12, đột nhiên Sư nói với mọi người rằng : “Ta chỉ còn ba ngày thôi”. 3 ngày sau quả nhiên ngài thị tịch. Người
đời gọi đại sư Viên Chiếu Tông Bổn là Đại Bổn, Thiền sư Thiện Bổn
gọi là Tiểu Bổn v.v…
Bình luận:
Công phu “phòng tâm ly quá” đến như vậy, người xưa cho rằng là Thánh Hiền, người
ngày nay cho là cổ hủ, lạc hậu, thật là đáng buồn thay.
2.12.
Suốt đêm chấp tay
Triều
đại nhà tống, ở Lô Sơn, chùa Viên Thông, có Thiền sư Cư Nột. Sư thường
hay nhập định, pháp tướng rất đặt biệt. Lúc đầu hôm, hai tay đan chéo
vào nhau ngồi yên lặng; đến nửa đêm hai tay chấp lại từ từ đưa cao
lên đến giữa ngực, thị giả mỗi khi thấy hai tay đại sư đưa lên đến
giữa ngực là biết gà sẽ gáy lần đầu. Người cầu pháp phải nên
chuyên tâm nhất trí như vậy.
2.13.
Không nói chuyện đời
Triều đại nhà Tống, Thiền sư Quang Hiếu
An, trụ trì chùa Thanh Thái.
Có một
hôm ngài nhập định, trong định ngài thấy hai vị Tăng dựa lan can nói
chuyện. Lúc đầu, có thiên thần ủng hộ, bảo vệ, cung kính nghe họ đàm luận, ít lâu sau
thiên thần bỏ đi, không bao lâu lại nghe ác quỷ ở hai bên không tiếc lời
mắng chửi họ, quét sạch những dấu chân họ đi qua. Sau khi xuất định
Ngài truy cứu sự việc, kết quả, nguyên do là hai vị Tăng lúc đầu thảo
luận Phật pháp, do đó thiên thần hộ vệ đến nghe, tiếp đến lại nói
chuyện nhà trước đây, rồi sau nói đến sự việc cúng dường tài vật,
ác quỷ nghe thấy cũng không tiếc lời thoá mạ. An Thiền sư ngay sau đó,
phát nguyện suốt đời không nói đến chuyện thế tục.
Bình luận:
Người xưa vì sinh tử đại sự
hành cước tham vấn, vừa mới gặp được thầy bạn liền vội vàng đàm
luận thưa hỏi một việt lớn này, đâu có thời gian để thảo luận mấy
chuyện vụn vặt của thế gian kia? Người ngày nay, suốt ngày nói những
chuyện lộn xộn, không có gì để nói. Lại cho rằng phải khó lắm mới tìm được trường hợp giống như hai vị
Tăng này, nghĩ rằng quỷ thần đâu phải lúc nào cũng ở bên cạnh chúng
ta, họ lại làm gì được nào? Thực tại thật đáng sợ thay!
2.14. Thấy lỗi của Tăng
Thế tục
có ngạn ngữ: “Người đời không nên thấy
lỗi lầm của người xuất gia, thấy hoặc nói sẽ có tội”. Nhưng Khổng
Phu Tử là thánh nhân, ông còn vui mừng khi người khác biết lỗi lầm của
ông, chỉ trích ông. Tử Lộ là một người hiền, cũng vui mừng khi người
khác nói lỗi lầm của ông. Là người xuất gia lại sợ người khác biết
lỗi lầm của mình mà không muốn nghe hay sao? Cần biết rằng, không nên
chỉ thấy một mặt lỗi lầm của người xuất gia, đây là đối với
người tại gia mà nói. Người xuất gia dựa vào câu nói nầy làm xằng
làm bậy không một chút sợ sệt. Như vậy, cái câu nói này trở thành lương
dược của người tại gia mà độc dược của người xuất gia, thật đáng
buồn thay!
2.15. Môn đình cao tuấn
Người
xưa nói ý nghĩa của “Cửa đình cao lớn” là giống như cư sĩ Duy Ma Cật
thị hiện có bệnh, Phật sai quý thầy A-la-hán đi đến hỏi thăm, quý thầy
A-la-hán mỗi người đều nêu lý do nói rằng họ không có tư cách đi
thăm hỏi cư sĩ Duy Ma Cật. Bồ tát Văn Thù cũng nói: “Vị đại đức này
rất khó ứng phó”, hình ảnh này gọi là “Môn đình cao tuấn”. Sau
này, chư đại tôn sư thiền tông, lúc người học đạo tham vấn, hoặc dùng
cây đánh, hoặc thét lên thật lớn, hoặc đưa lên một ngón tay, hoặc trương
cung lên muốn dùng tên bắn người, hoặc buông một câu nói, một khẩu ngữ,
ví như mộc tai làm canh không có cách gì ăn được, lại giống như Thái a
bảo kiếm, không thể sờ vào được (kiếm rất bén, sờ vào liền bị chảy
máu), lại giống như ánh trăng trong nước, không thể nắm bắt được, nếu
như không phải là kẻ tham học lâu
ngày, công phu đã sâu, không dám lên cửa cầu giáo huấn, giống như trường
hợp nầy gọi là “Môn đình cao tuấn”. Kỳ thật, tôn sư bình đẳng thật
lòng tiếp người, tuyệt đối không cố ý làm nên cao lớn nghiêm khắc.
Nhưng do tâm người học bị đánh tự đề
cao lên, một cách tự nhiên sinh lòng kính sợ. Đâu phải cố ý nâng cao tư
thế, khiến oai phong, lời lẽ to lớn, sắc mặt nghiêm khắc, biểu hiện
dáng vẻ bề ngoài nghiêm khắc, oai nộ mà cho là “Môn đình cao tuấn”
hay sao?
2.16. Người xuất gia đua theo việc
học thế tục
Học vấn
của nhà nho lấy các sách Lục kinh (thư, thơ, dịch, lễ, nhạc, xuân thu),
Luận ngữ, Mạnh tử, làm chuẩn, và người học Lão Trang thậm chí kinh Phật
cũng cấm hẳn không cho học, chỉ chuyên nghiên cứu học hỏi một môn, đó
là đạo lý chính đáng, không có gì lấy làm lạ. Làm người xuất gia
cũng phải giống như thế, nên chuyên nhất một việc tu hành thì mới mong
thành tựu. Nhưng ngày nay, có nhiều Hoà thượng không đọc tụng kinh Phật
mà đọc sách nhà nho, đọc sách nhà nho chưa đủ, thậm chí còn đọc Lão
Tử, Lão Trang, người thông minh tinh sảo một chút lại thêm chú giải, viết
sớ giải thích. Vậy còn chưa đủ, lại học làm thơ, sáng tác văn
chương, học thư pháp, học thư tín…. Học toàn những thứ không đâu
này đều chướng ngại cho việc học đạo. Xưa nay, chư vị tổ sư có người
bác thông Nho gia, Lão, Trang, thậm chí giỏi thơ từ, chữ, hoạ, là dùng để
độ sanh, đó là vì các ngài đã nắm lấy sự sống chết của các ngài rồi,
học Phật đã đến chỗ tinh thâm,
không hại đến du hí tam muội, để rộng hoá duyên. Người bây giờ việc
sanh tử chưa xong mà đua theo việc học bên ngoài, đó là một hiện tượng
suy vi của Phật pháp, thật không thuốc chữa!
Người
xuất gia lại có người làm thầy địa lý, làm thầy bói quẻ, xem tướng
số mệnh, làm thầy thuốc, làm thầy thuốc khoa phụ nữ, làm thầy phù
thuỷ, đốt lửa luyện chì, luyện thuỷ ngân … thời kỳ mạt pháp những
sự tai hại thực tại rất nhiều. Hoặc có người nói : “Đại sư Bách Trượng Hoài Hải sai Tư Mã
Đầu Đà tuyển chọn một đạo tràng có thể xây dựng cho 500 vị Tăng tu
hành, liền tìm được đạo tràng Quy Sơn. Đây là nhờ công lao của thầy
địa lý! Tiếp theo lại tuyển chọn trụ trì đạo tràng Quy Sơn và đã chọn
được Thiền sư Đại Hữu, vị Tăng tài này không thể có nhiều được,
đó là công lao của tướng sĩ ! Vì sao lại nói như vậy?” Ôi, đó
là thánh hiền thửa xưa vì xiển dương Phật pháp, phổ lợi quần sanh mà
tuỳ thuận cơ duyên và phương tiện thôi! không phải chỗ cho hàng phàm
phu tục tử có thể hiểu và đo lường được, huống chi Thiền sư Bách
Trượng, Tư Mã Đầu Đà là hai người thuộc về nhân vật nào há có thể
để cho những thầy địa lý, tướng sĩ… đem ra so sánh !?
TỔNG LUẬN
Có lẽ
có người sẽ nói như vậy: “Tăng” có nghĩa là “lục hoà kính”, và
còn phải tu nhẫn nhục, chịu đựng nên không thể có chữ “nghiêm”. Đây
là không hiểu ý nghĩa chữ “nghiêm” mà tôi nói. Tôi nói “nghiêm”
không phải “nghiêm khắc” mà là “nghiêm chính”! Dùng hạnh nghiêm chính để thâu nhiếp thân tâm,
thì tâm sẽ được chính; dùng hạnh nghiêm chính
để nắm giữ chánh pháp thì đạo
phong pháp môn có thể tự mình gây dựng lên sự nghiệp. Nếu như biểu hiện
hành vi cử chỉ kỳ lạ đặc biệt để cầu danh dự, làm điều hung ác,
bạo ngược để tỏ rỏ oai phong của mình và cho đó là nghiêm chính, thực
tại là có khác biệt một trời một vực, người xuất gia không thể
không phân biệt rõ ràng!