1.1.
Không mở trai đàn
Thời Nam triều (420-589), đời
nhà Tống, vua Vũ Đế (Lưu Dụ), niên hiệu Sở Sang (420-423), có một người
xuất gia pháp danh là Mân.
Sư Mân xuất gia lúc 7 tuổi,
bác thông kinh điển, tiếng đồn khắp nước, dân chúng gọi ngài là Mân
pháp sư. Mân pháp sư kiến tạo, tu sửa chùa miếu, in kinh đúc tượng, phóng
sanh, bố thí chưa từng mệt mỏi hay bỏ sót một việc nhỏ nào.
Có một
người hỏi sư : “Công đức tu tập của
Hòa thượng không phải nhỏ, đáng tiếc chưa nghe Hòa thượng mở hội
trai đàn chẩn tế, sợ rằng công đức ấy không được viên mãn”.
Sư trả
lời : “Đại hội chẩn tế trai đàn rất
khó thực hiện hợp lý, như pháp, vả lại, nhu cầu các thứ phẩm vật như
gạo, rau, muối, giấm, củi, nước lạnh, nước sôi, than củi… rất tốn
kém; rồi người đi lại giẫm đạp, rửa ráy, thiêu đốt… rất nhiều
việc thương tổn đến vi trùng, những loài sinh vật nhỏ bé. Bởi vậy,
tôi không mở đại hội trai đàn chẩn tế. Nếu như phó thác người tốt cho Vương Cung hay Đạt
Quan biện liệu và xử lý thì khó mà như pháp. Bọn họ chỉ cầu sự xã
giao trong xã hội, mất đi ý nghĩa chân chính của việc trai đàn, chẩn tế,
vì vậy, dứt khoát không mở hội trai đàn”.
Bình luận:
Người ngày nay làm một việc
phước là mở hội trai đàn, cho danh tiếng tốt đẹp đó là viên mãn; thậm
chí, Hòa thượng nhập thất, sau khi đóng cửa một hai ngày, liền nghĩ đến
chuyện lo tổ chức trai đàn, ngày đêm tính toán chuẩn bị cho việc mở hội
chẩn tế, luôn luôn không thể duy trì hoặc đánh mất việc tu hành và giữ
chánh niệm. Than ôi! Lời nói của Pháp sư Mân đến nay đã hơn mười thế kỷ mà vẫn không sai.
1.2. Phân phát đồ nhận cúng
Thời
Nam Triều (420-589), đời nhà Lương (502-577), ở Tích Đô, chùa Bành Thành,
có pháp sư Huệ Khai, người Hải Diêm, Ngô Đô. Sư cùng học kinh luận với
hai vị pháp sư Trí Tạng ở chùa Khai Thiện, Chung Sơn, và pháp sư Tăng Mân,
chùa Trang Nghiêm, ở Dương Đô. Sau đó Sư giảng kinh, giảng rất hay, danh
tiếng vang khắp thiên hạ. Thái thú Dự Chương tên Tạ Huệ kính ngưỡng
đi nghe Sư giảng kinh, cúng dường rất nhiều tiền bạc, nhưng Sư không một
lần đến nhà, tiền bạc cúng dường Sư đem bố thí, phân phát hết.
Thái
thú Tấn An tên Lưu Nghiệp cúng dường cho Sư một vạn tiền, không đến
một ngày, toàn bộ số tiền đó đều bố thí, cấp phát cho người nghèo
khổ hết. Cá tính của sư rộng rãi,
vui vẻ tuỳ hòa, không chú trọng vẻ bề ngoài, y phục bụi bặm bám đầy
cũng không để ý đi giặt giũ.
Bình luận:
Thuyết pháp mà không nhận của cúng dường
như thế mới gọi là bố thí Pháp chân chính! Nếu như mỗi người xuất
gia đều giống như Pháp sư Huệ Khai thì tốt biết mấy!.
1. 3. Tích chứa bụi bặm và
nuôi giữ côn trùng
Thời
Nam Triều, đời nhà Lương (502-577), tại kinh đô Dương Châu, chùa Linh Cơ,
có pháp sư Đạo Siêu.
Sư Đạo
Siêu cùng học đạo với Pháp sư Mân ở chùa Linh Cơ, sau sống một mình
trong một am nhỏ, tuyệt giao bạn bè, không tiếp khách. Cả phòng toàn bụi
đất, bốn vách đều nghe tiếng dế kêu. Có một ngày, Trung thư Lương
Trương Suất đến thăm sư, thấy tình hình như vậy, ông hỏi : “Côn trùng kêu ầm ỉ, bụi bặm chất đầy
cao quá gối, thầy học đạo khó khăn đến nỗi không còn thời gian để
ý những việc này sao?”. Sư trả lời : “Mỗi ngày nghe tiếng côn trùng nỉ non như
nghe một bản nhạc hoà âm được tấu lên bởi tiếng sáo, tiếng tiêu; bụi
bặm thì theo gió mà đến đây, chưa bao giờ quét dọn, để quý khách
trông thấy những thứ này thật là thất lễ, thật xấu hỗ quá!”.
Trương
Lương Suất nghe mấy câu này rồi thêm bội phần khâm phục và hết lời
khen ngợi.
1.4. Ở ẩn bên suối
Triều
nhà Đường (618-907), tại Đông Dương, chùa Thanh Thái, có pháp sư Huyền
Lang.
Pháp sư
Huyền Lang là cháu nối dõi đời thứ sáu của Phó Đại Sĩ, thường tu hạnh
đầu đà, ở bên khe núi, nên có biệt hiệu là Tả Khê Tôn Giả. Sư sống
một mình trong một am nhỏ, cho rằng am tuy nhỏ, nhưng có thể thấy rộng
lớn như pháp giới vô lượng, đó chính là tâm cảnh trong kinh Hoa Nghiêm,
một hạt bụi thâu nhiếp vô lượng thế giới. Hơn bốn mươi năm chỉ đắp
một chiếc y thất (y 7 điều), cả đời người chỉ dùng một toạ cụ
(ni-sư-đàn) không thay đổi. Nếu như không tra cứu kinh điển tuyệt đối
không tuỳ tiện đốt đèn sáp; nếu như không phải là lễ Phật tụng
kinh, tuyệt đối không tuỳ tiện bước đi một bước. Nếu sư muốn rửa
bát thì bầy khỉ trong núi tranh nhau đi rửa cho sư. Lúc sư tụng kinh, chim
muông đều bay đến đậu trước mặt, đuổi không đi. Thứ sử Vương Chính
Dung thường hay thỉnh sư vào thành cúng dường, nhưng sư đều từ chối,
thoái thác rằng có bệnh, không thể đi được.
Bình luận:
Người đời nay đọc sách đại sư Vĩnh Gia
đối đáp với đại sư Huyền Lang (Xuất tự thiền tông Vĩnh Gia tập),
trong đoạn đầu có ba câu viết thế này : ‘Kiến đạo không phải
ở trong núi tịch tĩnh, kẻ ngu si, chốn ồn ào náo loạn, không chỗ nào
không phải là đạo’, thế là coi thường
sư Huyền Lang, cho rằng sư an phận vui cảnh vắng, không biết rằng đây
là lời đại sư Vĩnh Gia dùng để phá tâm chấp pháp của sư Huyền Lang,
chỉ là lời nói phương tiện tạm thời, giống như trong sách Tín Trung có
ghi : ‘Như thế không phải là dùng thuyền trí tuệ để vượt biển
pháp nhưng lại muốn bẻ lái quay đầu vào hang núi hay sao?’, là nhằm vào sư Huyền Lang, với mục đích
thôi thúc sư xuống núi rộng độ chúng sanh. Phong độ, khí thế của đại
sư Tả Khê Lang còn lưu lại chính là cái mà kẻ học ngày nay nên học đấy
! Làm người phải nên có cái thấy phân minh, kỉ lưỡng. Đại sư Vĩnh
Gia trong cuốn Tín Trung có nói : ‘Được mất tại người, quan hệ gì
đến động tĩnh’. Người đời nay nghiệp
chướng sâu nặng, không những trong động không thể kiến đạo mà ngay
trong tĩnh cũng khó giữ được chánh niệm tu tập; trước không lo ẩn cư
tu tập cho thật vững chãi mà muốn hành đạo Bồ tát trong chỗ ồn ào
náo nhiệt thì không khỏi rơi vào sự nghi ngờ.
1.5. Tiền rơi không nhìn
Đời nhà
Tuỳ (581- 618), có pháp sư Phú Thượng. Sư hành cước đến Ích Châu, chùa
Tịnh Đức, trên đường đi, lúc nghỉ ngơi, sư treo một chiếc nón rộng
vành, rất lớn, lên một bên đường, rồi ngồi dưới nón tụng kinh. Sư
cũng không mở miệng hướng đến những người qua lại hoá duyên, xin bố
thí; có ai bố thí tài vật cho sư cũng không
cảm ơn hay giống như những vị Tăng hoá duyên trong miệng lâm râm cầu
cho thí chủ tiêu tai thoát khổ, được phước. Bởi vì đường vắng, hẻo
lánh, ít người qua lại cho nên nhiều năm không nhận được một vật bố
thí nào.
Có người
hỏi sư : “Ở thành Tây bắc người qua lại
rất đông, sự bố thí cúng dường cũng nhiều, vì sao Ngài cứ ở mãi chỗ
này mà không qua đó?”.
Sư trả
lời : “Một đồng hai đồng đã có thể
duy trì sự sống này tốt rồi, hà tất phải cần nhiều? Nhiều cũng không
dùng”.
Thứ sử
Lăng Châu, Triệu Trung Thư, đương thời là một vị quan lại độc ác,
nghiêm khắc trong Tam đại (ba triều đại Hạ, Thương, Chu), không tin Phật
pháp, cũng không kính Tam Bảo, nhưng khi nghe đến chuyện đại sư Thượng,
ông cố ý muốn thử ngài, bèn cưỡi ngựa đi qua đó, giả vờ vô ý đánh
rơi một túi tiền. Phú đại sư vẫn điềm nhiên đọc kinh xem như chẳng
có vật gì trước mắt. Thứ sử họ Triệu sau khi đi rất xa, bèn sai người
trở lại lấy tiền, đại sư cũng chẳng để ý đến, coi như không nhìn
thấy. Triệu trung thư liền hỏi đại sư:
“Suốt ngày không có hơn một tiền, bây giờ có một ngàn tiền rơi trên
đất, ngài để người ta lấy đi, vì sao không ngăn cản?”. Đại sư
nói: “Đó không phải là vật của tôi,
vì sao tôi phải mạo nhận nó là của tôi mà ngăn cản người ta lấy đi?”.
Thứ sử
họ Triệu bèn xuống ngựa đảnh lễ nhận lỗi, rồi hết lời tán thán,
tỏ lòng khâm phục xong mới về.
1.6. Không chứa vải, lương thực
Đời nhà
Đường có pháp sư Thông Huệ, xuất gia được ba mươi năm. Sư một mình
vào trong núi Thái Bạch tu hành mà không mang theo lương thực. Đói thì ăn
cỏ dại, quả rừng, khát thì uống nước khe, ngủ thì tựa dưới gốc cây,
suốt ngày toạ thiền, tham cứu, trải qua hơn năm năm. Có một ngày sư dùng
gậy đánh gò đất, gò đất bị phá nát không còn hình thể nữa hốt
nhiên sư đại ngộ. Cuối đời, sư chỉ mặc một bộ đồ, đắp một cái
chăn, mang một đôi giày, dùng như thế suốt hai mươi năm, y phục may vá mấy
lớp, mùa đông mùa hạ đều không khác nhau.
1.7. Không quan tâm tiền cúng dường
nhiều ít
Đời nhà
Đường, ở thủ đô, chùa Hoàng Pháp, có sư Tỉnh Lâm, vốn là người
Kinh Triệu Hoa, đạo hạnh cao siêu, đạo phong vang khắp mọi nơi, tín đồ
cúng dường một ngày một đông. Tín đồ cúng dường tài vật cho sư, tất
cả đều đưa cho thị giả, cũng không hỏi lại nhiều ít. Sau đó, có một
ngày sư muốn đem tiền đi làm việc công đức, mới hối hận là mình hết
tiền, thị giả lấy tiền đem ra, sư nói: “Tưởng
rằng hết tiền, không ngờ ta lại còn nhiều tiền như vậy”. Bình
sinh, y phục rách đều lấy chỉ khâu vá lại.
1.8. Cửa không đóng
Đời nhà
Đường, ở Kinh sư, chùa Biện Tài, có Pháp sư tên Trí Tắc, người Ung Châu,
Trường An. Sư tính tình quang minh lỗi lạc, phong độ tự nhiên phóng
khoáng, không chú ý đến ăn mặc, thường đắp một y bá nạp, quần chỉ
che đến trên gối, (tức giống như quần soọc ngày nay), trong phòng chỉ
có một chiếc giường, một chiếc bát đất, một cái muỗng bằng gỗ,
ngoài mấy thứ đó ra, không còn một vật gì nữa. Sư ở một mình một
thất nhỏ và không bao giờ đóng cửa, người đời đều gọi ngài là người
điên cuồng. Ngài nghe vậy cảm khái nói một tràng: “Bảo ta là người điên nhưng không biết
chính các ông mới là điên! Ra khỏi nhà, lìa khỏi tục, trở lại lo việc
cơm áo (bận tâm việc cơm áo), đi thì muốn mặc áo đẹp, ở thì muốn
ở nhà cao cửa rộng có tường che chắn, cửa thì khoá, hòm rương buộc nắp…
lãng phí thời gian như thế đấy, nhiễu loạn đạo nghiệp, lại còn thu
góp cất chứa tài vật, cả ngày bận rộn và tâm lo sợ không yên, những
người này nếu không phải là điên cuồng thì chắc không có người điên
cuồng trên đời!”
1.9. Không cần thị giả
Đời nhà
Đường, chùa Di Đà, ở núi Hành Sơn, có pháp sư Thừa Viễn.
Ngài Thừa
Viễn lúc đầu học đạo ở thành đô, sau đến ở trong Sơn Nam, phía tây
nam dãy Hành Sơn. Có người cúng dường vật thực cho sư thì sư dùng,
không có người cúng thì ăn cỏ cây hoa lá. Có người ngưỡng mộ đức hạnh
của sư mà đến lễ bái và gặp sư ở dưới khe núi cheo leo, cao và dốc,
thân hình sư tiều tuỵ, đầu mặt dính bụi, tóc tai bù xù, liền tự
mình nhận trách nhiệm nhặt củi, lại đi tìm người để làm thị giả
cho sư, nhưng sư không đồng ý, không biết rằng ngài chính là Viễn Đại
Sư. Đường Đại Tông nghe đến đức hạnh của sư bèn ban cho sư trụ trì
‘Ban Chu Đạo Tràng’, người đời tôn xưng đại sư là tổ thứ ba Liên
Tông (Tịnh Độ Tông).
Bình luận :
“Vua Nghiêu còn ở nhà tranh vách cỏ, người
ta xem đó chỉ cho là nhà nho ẩn cư ở thôn quê mà không biết rằng đó
là chỗ ở của Hoàng đế; Vua Vũ mặc áo quần cũ rách, người ta không
biết ngài là Hoàng đế, còn cho rằng ngài là người dân dã, quê mùa! Huống
chi người xuất gia, vốn chỉ dùng một bát, một y để duy trì thân mạng,
lại có thể coi trọng sao! Hiện thời, có những người xem trọng y phục
xa hoa lãng phí, thuê nuôi nhiều người giúp việc, lại sợ người ta không
biết mình có tiền, mặc áo quần hoa lệ, mang theo nhiều người hầu,
dương dương đắc ý đi qua chỗ có nhiều dân chúng sinh sống. Những hạng
người này nên cảm thấy hổ thẹn!”
1.10. Mặc áo lá sen, ăn hạt tùng
Đời nhà
Đường, ở Ninh Châu, núi Đại Mai, có Thiền sư
Pháp Thường.
Thiền
sư Pháp Thường sau khi được yếu chỉ tâm pháp ‘tức tâm tức Phật’
của Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất, liền về ẩn cư trong núi sâu, không người
biết đến. Quan Quản Lam (giữ muối) viết thư triệu kiến sư, sư từ chối
không đi, viết thư trả lời Quản Lam rằng: “Tôi ở đây có một cái ao vuông, trồng
toàn hoa sen, tôi dùng lá sen để làm y phục che thân thể, dùng cũng dùng
không hết. Có mấy cây tùng thật tốt, lên lớn rồi ra hoa, trái, dùng đở
đói lòng, đầy đủ có dư. Tôi cho rằng, chỗ ở của tôi không ai biết
đến, có thể một mình tu đạo thanh nhàn, không ngờ lại có người đến
tìm, thế thì tôi lại bỏ chốn này, dời vào trong núi sâu hơn để ở”.
1.11. Làm bạn với chim, nai
Thời Ngũ
đại (907-960), đời Hậu Chu (951-960), trên đỉnh Phật Thủ, núi Lô Sơn, có
đại sư tên Hạnh Nhân.
Đại
sư Hạnh Nhân ẩn cư trên đỉnh Phật Thủ, Lô Sơn. Mỗi ngày vào lúc tối,
có một con nai, một con chim sơn trĩ đến ngủ một bên thạch thất của sư,
và rất thân mật, ôn hoà thuần hậu giống như những người bạn tốt,
không có một chút sợ hãi. Bình sinh sư không có đồ đệ, nhưng những
Tăng nhân của các chùa, miếu gần đó tự động cúng dường cho sư, hầu
hạ chăm sóc sư. Có một ngày, sư nói với thị giả : “Cuốn rèm treo cửa
sổ lên, ta muốn đi”. Rèn cửa sổ vừa mới được cuốn lên, sư xuống
giường đi được mấy bước, rồi đứng lại, viên tịch”.
Bình luận:
“Người nhiều tham dục, lúc
lâm chung sẽ rất nhiều khổ hại (dục vọng càng thêm đốt cháy mạnh mẽ),
thậm chí tranh đoạt tài sản để lại (văn của Lục Cơ điếu Nguỵ Võ
Đế, có dẫn di mệnh của Võ Đế rằng : ‘Dư hương có thể chia cho các
phu nhân, những người trong nhà đều không có học, cũng có thể học làm
giày dép mà bán.’ Đối với sự việc tài vật của người đời, nhớ
nhung mãi không thôi, xả không được, bỏ không xong. Không chỉ những người
tại gia thế tục, mà ngay cả người xuất gia cũng có giống như vậy. Nếu
như có thể mỗi người xuất gia đều giống như đại sư Hạnh Nhân, một
đời thanh cao lẫm liệt, viên tịch giống như vui chơi, nhẹ nhàng, thoải
mái, không phải là rất tốt sao?!”
1.12. Thiểu dục tri túc
Thời
nhà Tống (420-479), tại Hồng Châu Vân Cư, Thiền sư Hoằng Giác Đạo Ưng
huấn giới đồ chúng rằng : “Các ông đều
đã là người xuất gia, giống như những phạm tù trong ngục thất được
phóng thích ra, từ đây trở đi phải hướng đến đạo lớn liễu sanh thoát
tử, xa hẳn trầm luân vạn kiếp, đây là vận may của các ông, nhân đây,
phải chế ngự dục vọng, thường sống tri túc, không nên tham cầu những
hư vinh thế tục, phải nên nhẫn chịu đói khát, lập chí học đạo, tu tập
pháp vô vi, chơn như tịch chiếu (Kinh Kim Cang nói : “Hết thảy thánh hiền
đều lấy pháp vô vi mà có sai biệt), siêng năng nghe, giữ Phật pháp, hun
đúc tài năng, phẩm hạnh tốt dần lên, thật khó có thể quý hơn, tu hành
Phật pháp phải chín lần chết một lần sống, vào nơi nước sôi lửa bổng,
cũng không một khắc vứt bỏ”.
1.13. Ước mong biển chúng thanh
tịnh
Đời nhà
Tống (420-479), ở Đông Kinh, có Thiền sư Từ
Thọ Huệ Lâm Hoài Thâm.
Có một
hôm, sau khi đốt hương tham thiền, diễn ra một cuộc tham vấn nhỏ, Sư
khai thị đồ chúng:
“Quý thầy hãy ngàn vạn lần
quên đi danh và lợi, lấy sự đạm bạc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm
thiểu rồi, hướng ý nghĩ về đạo thanh tịnh tự nhiên phát sinh thêm lớn.
Giống như Hòa thượng Biển Đam Sơn, một đời nhặt trái lịch* ăn
cho đỡ đói. Đại sư Vĩnh Gia không
ăn rau cải trồng bằng sự cày cuốc, bởi vì cày cuốc sợ thương hại
đến những sinh vật nhỏ bé ở dưới đất bùn, và kính trọng sự lao khổ
cực nhọc của người nông phu đã bỏ giọt mồ hôi xuống đất cấy cày
hạt gạo; bậc cao Tăng như Hòa thượng
Huệ Hưu, 30 năm chỉ mang một đôi giày, lúc đi đường đất không sỏi
đá gai gốc thì quải dép lên vai mà đi chân. Các thầy ngày nay cơm áo
không thiếu, mỗi thứ hưởng thụ đầy đủ, chưa đói đã ăn, chưa lạnh
đã thêm áo, thân thể chưa một hạt bụi bẩn đã tắm gội, chưa đến
giờ ngủ đã ngủ, còn như con đường sanh tử thì chưa nắm được rõ
ràng, tâm cảnh ô nhiễm chưa rửa sạch, nghiệp chướng chưa đoạn, thì
dù phước báo như trên đã kể sao dám hưởng thụ?”
1.14. Đắp một y, ăn một bửa
Đời nhà
Đường (618-907), ở Ích Châu, chùa Khuông Tuệ, có pháp sư Huệ Hy.
Pháp sư
Huệ Hy độc cư một mình, không có thị giả, ngày ăn một bửa, không tiếp
nhận của người ta cúng dường. Trong phòng, trên mặt đất ngoại trừ những
vết chân đi lại, bình thường đi tới đi lui, còn lại rêu phong mọc đầy,
chiếc giường của sư trừ chỗ chính giữa sư thường ngồi là tương đối
không có bụi đất, còn lại hai đầu thì bụi đất bám đầy đóng lớp,
hình như lâu, thật lâu lắm chưa có người ngồi. Quần áo của sư rách
nát, cũ nhàu không thể tả, chỉ có thể che chắn được gió lạnh, mùa
đông thì đắp chiếc y cũ rách này, mùa hạ thì cởi nó ra treo lên trên
sàn nhà. Người ta mộ danh sư mà đến yết kiến đảnh lễ, ở trong phòng
này mà lãnh giáo, đại sư đối đãi rất từ bi, hoà nhã, thiết tha, ân cần
khuyên bảo, có khi người đến đông quá phải đợi đến mấy ngày mới
có thể gặp sư để đàm đạo.
1.15. Một mình giữ cửa chết
Triều
nhà Nguyên (1206-1368), ở Hàng Châu, Thiền sư Thiên Mục Cao Phong Nguyên Diệu.
Thiền sư
Nguyên Diệu tu hành tại Long Tu 9 năm, tự tay chặt cây gỗ dựng thành một cái am nhỏ để ở, không
kể mùa đông mùa hạ, chỉ mặc một chiếc áo nạp y may vá nhiều chỗ (nạp
y là chiếc áo được may vá nhiều mảnh, giống như chiếc y ngày xưa ni
sư Phước Huệ đã may trong vườn Lộc Uyển, tức nạp y). Sau đó, ngài đến
trong thạch động Tây Nham núi Thiên Mục, kiến tạo một am nhỏ một mái
giống như chiếc thuyền, lập một cái bảng gọi là ‘Cửa tử’. Trước
mặt am la những tảng đá nước nhỏ giọt nhẵn bóng, trơn lụi, phía sau
là đất bùn nhão nhẹt, mỗi lần gió mưa chiếc am lại lung lay. Sư xin miễn
cúng dường và thị giả, y phục và những vật dụng hàng ngày cũng nhất
thiết không cần, không tắm rửa, không cạo râu tóc. Sư đem cái vò bụng
lớn miệng nhỏ, cắt bỏ nửa trên làm thành cái nồi, mấy ngày mới ăn
một bửa cơm chín, tự cho vậy làm vui; trong sơn động sư ở không có
thang mây* không có cách gì để leo lên được.
Sư đã vứt bỏ thang, cắt đứt ngoại duyên, dù là đồ đệ của sư
cũng khó gặp được.
Bình luận:
“Giống như mặt trời treo lơ lững ngoài
chín tầng mây, những bậc đại đức ẩn cư trong vách núi cao ngàn vạn
nhẫn**, trước có đại sư Huệ Hy, sau có đại
sư Cao Phong Diệu đây, hai ngài quả thật là những bậc siêu trần bạt tụt.
Trước đây, tôi lên Thiên Mục Sơn, tiến vào động Trương Công, ghé mắt
nhìn xuống thấy khe núi cao đến ngàn trượng, muôn nghìn cảnh tượng hiện
ra trước mắt. Luôn tiện tôi cũng đi yết bái di tích “Cửa tử”. Bấy
giờ trước mắt tôi vẫn còn phảng phất hình bóng oai nghi và dung nhan của
đại sư Cao Phong Diệu, tôi tự than trách thân phận mình sanh sau đẻ muộn
không thể thân cận để được nghe ngài chỉ giáo, không ngăn cản được
xúc động, nước mắt tuôn rơi, lâu thật lâu không thể kiềm chế được!”.
1.16. Không ăn tối
Ở tỉnh
Chiếc Giang, vùng Triệu Hưng, vào mùa an cư tham thiền, mỗi tối làm cơm
ăn, gọi là “phóng tam phạn’ (bửa cơm thứ ba). Tương truyền tập tục
ăn bửa cơm này rất thịnh soạn, xa xỉ hơn bửa cơm ngọ, rất nhiều thức
ăn. Cái tập tục hư hại này lại được truyền rất lâu. Thuở xưa có một
vị tiền bối đạo đức cao siêu (tức Thiền sư Pháp Huệ) nghe chúng Tăng
phòng bên cạnh làm thức ăn sau giờ ngọ không ngăn được nước mắt,
than thở Phật pháp thời kỳ suy đồi, cho nên, cấm người xuất gia quá
giờ ngọ không ăn bất cứ vật gì, huống chi đêm hôm lại ăn ư?! Trong
giới luật có ghi : “Người đời khua chén bát ra tiếng, ngạ quỷ nghe
không kềm chế được cơn đói, trong cổ tự nhiên lửa bừng cháy”. Huống
chi đêm hôm mọi người đã yên nghỉ, khua động chày, máy, mâm, chén…
âm thanh truyền vào tai người ta, lại chiên, rán, nấu, thổi, nướng…
hương vị truyền vào mũi người ta. Không nhớ rằng đối với chúng sanh
phải từ bi dạy bảo, phóng túng dục vọng cho thoả bụng miệng, tâm như
thế có thể yên ổn ư? Hoặc hỏi : ‘Nửa đêm bụng đói phải làm sao?”.
Có thể ăn vài loại quả trái cây, bánh kẹo, không phải động đến nồi
niêu, vật thực nấu nướng, lại có thể đỡ đói. Huống nữa, người
ta giữ ngọ, từ sau buổi trưa cho đến sáng hôm, trong khoảng thời gian đó,
ngoại trừ uống nước, không ăn một thứ gì nữa. Chúng ta buổi tối
dùng mấy thứ bánh kẹo, cây trái, thuốc dưỡng sinh cho đỡ đói lại
còn không biết đủ, quả là thái quá đi rồi.
Phụ:
Luật Phật
chế là căn cứ lập trường của một thầy thuốc, cho rằng ăn đúng giờ
ngọ là điều kiện sống khoẻ mạnh và trường thọ, rất phù hợp với
thực tại bây giờ. Ngày nay y học đã chứng minh. Trước kia phương pháp
làm thức ăn bằng nhiệt lượng cao, nhiều tròng trắng trứng đã bị lật
đổ, hoàn toàn phủ định, phương pháp làm thức ăn này chỉ là con đường
dẫn đến sự béo phì, cao huyết áp, sơ cứng động mạch… những tâm bệnh,
rất dễ đưa đến tử vong nhanh chóng. Ăn chay có thể tránh được những
thứ tâm bệnh này và ngừa ung thư cũng đã được chứng minh và phổ biến
rồi; bửa ngọ ăn ít, người sẽ gầy một chút, nhưng tuyệt đối không
dẫn đến kém dinh dưỡng, tinh thần lại rất tốt. Đạo gia cũng có nói
rằng : “Anh muốn sống lâu, trong ruột phải thanh tịnh”. Ngày nay người
ăn ít sống lâu rất nhiều, như lão Hòa thượng Quảng Khâm, lão cư sĩ Lý
Bỉnh Nam, đều hơn 90 tuổi. Nhìn lại, trên từ Phật Thích Ca, dưới đến
lịch đại chư vị tổ sư, không một ai không tu khổ hạnh mà được thành
tựu, thậm chí có ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt lúa, đâu đâu cũng
có. Mạnh tử cũng nói : “Kẻ muốn làm việc lớn trong thiên hạ, tất trước
phải nhọc gân cốt mình, đói thân thể mình, khổ tâm chí mình, làm mà
không rối loạn, đây gọi là động tâm nhẫn tánh, chỗ lợi ích Tăng thêm
không ít”. Tài năng sửa trị việc đời còn cần phải ‘nhọc gân cốt,
đói thân thể’, huống chi người xuất thế hướng đến đại đạo vô
thượng, có thể ‘suốt ngày no nê’, vừa đói là ăn hay sao?
Huống nữa,
“no ấm thì nghĩ chuyện dâm dục”, sẽ là chướng ngại lớn cho việc
tu hành, người xuất gia không thể không biết việc đó. Lợi ích của việc
ăn đúng ngọ rất lớn, nhỏ thì có thể kéo dài tuổi thọ, thân thể kiện
khương, lớn thì có thể liễu sanh thoát tử. Bởi trong Bát quan trai giới
thì chính là 8 giới với một ‘trai’. Trai có nghĩa là ăn đúng ngọ.
Công đức của Bát quan trai giới lớn đến mức độ nào? Người tu Tịnh
độ nếu như giữ thêm 8 giới quan trai, vãng sanh tất không bị rối loạn.
Niệm Phật trong một khoảnh khắc rất quan trọng. Nếu lúc lâm chung không
như pháp ‘nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo’, rất dễ tuỳ theo
nghiệp mà đi, rất nguy hiểm! Vạn nhất tâm rối loạn, điên đảo thì phải
làm sao?
Thứ nhất,
phải nhờ sự trợ niệm của đạo tràng niệm Phật, nhắc nhở chánh niệm,
đánh khánh dẫn dắt, xem tượng Phật …vì vậy, tổ chức đạo tràng ‘liên
xã liên hữu’ cũng rất quan trọng, đây cũng là một phương diện phản
ánh pháp môn niệm Phật của đại thừa, nhập thế và tinh thần bình đẳng.
Thứ
hai, chính là nhờ vào sự trì giới, bảo đảm có sức mạnh rất lớn. Người
xem kinh Dược Sư đều coi trọng việc tiêu tai thêm thọ, đâu biết rằng
lợi ích lớn nhất mà Phật Dược Sư cho chúng sanh ở cõi Ta bà này chính
là vãng sanh sang thế giới Lưu Ly Tịnh độ của Ngài ở phương Đông và
thế giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Trong kinh có nói như
sau:
“Lại nữa, Mạn Thù Sư Lợi,
nếu có bốn chúng, Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và những người
có niềm tin thanh tịnh, thiện nam, tín nữ… có thể thọ trì tám phần
trai giới, hoặc trải qua một năm, hoặc ba tháng, thọ trì những điều đã
học, thì nhờ thiện căn này mà nguyện sanh sang thế giới Tây phương cực
lạc, nghe chánh pháp đức Phật Vô Lượng Thọ nói; còn chưa được định,
nếu nghe danh hiệu đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, lúc lâm
chung có tám vị Bồ tát lớn : Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đắc Đại
Thế Chí, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dược Thượng, Di Lặc, tám
vị Bồ tát này từ trên hư không mà đến, chỉ cho con đường để đến
thế giới kia, từ trong hoa báu nhiều màu tự nhiên hoá sanh”.
Xem đó
có thể thấy rằng, giữ giới chỉ có ba tháng thì đã có 8 vị Bồ tát lớn
đến đón về Tây Phương, sự việc vô cùng tiện nghi. Lòng từ của chư
Phật và Bồ tát nghĩ ra rất nhiều phương tiện cho chúng sanh, chỉ vì
chúng ta không biết lợi dụng đó thôi. Cho nên, người niệm Phật nếu
như chưa được nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo thì nên giữ giới,
ăn đúng ngọ cho tốt!.
1.17. Hoá duyên trái lẽ
Trong những
thanh quy của Tăng đoàn chùa Vân Thê, có một điều như vầy: “Người đi quyên tiền, hoá duyên trái lẽ,
trục xuất khỏi sơn môn”.
Có một
thầy nói:
“Không cần phải cấm điều này, cấm thì
cơ hội gieo trồng phước điền của chúng sanh sẽ giảm ít đi. Bởi vì,
tuy người phạm tội hoá duyên trái lẽ, vi phạm nhân quả, nhưng có thể
làm cho chúng sanh phá bỏ được tánh xan tham, xả bỏ tài vật thì cũng
được lợi ích và công đức. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, người xuất
gia mượn danh nghĩa của Phật để mưu sinh đức Phật đã bao giờ vì những
người này chế một điều cấm chưa?”.
Tôi trả
lời:
“Lời nói của thầy cố nhiên không sai,
phát tâm tốt, nhưng thầy chỉ biết có một mà không biết có hai. Hoá
duyên trái lẽ, cái nhân giả dối thì quả mờ mịt, người bố thí biết
được, vì đây mà thối mất đạo tâm, về sau không bố thí nữa, sao có
thể khiến người ta phá xan tham được? Lúc Phật còn tại thế, có các
đệ tử đi du hoá ở các phương xa
trở về, đi qua một thôn lạc, người dân ở trong vùng ấy thấy các thầy
Tỷ-kheo này từ xa vội vàng đóng cửa lại hết. Các thầy mới hỏi một
số người gần đó vì sao lại có tình trạng sợ hãi các thầy sa môn đến
vậy, người ta trả lời nguyên do là vì người ta sợ các thầy hoá duyên
trái lẽ! Trước đây có các thầy Tỷ-kheo xấu đi hoá duyên trái lẽ, cho
nên họ sợ quý thầy ở đây cũng giống như vậy. Sự việc xảy ra như vậy
quý thầy sau khi trở về bẩm báo với đức Phật, đức Phật nghe rồi
cho gọi các thầy Tỷ-kheo hoá duyên trái lẽ đến trách mắng, vì sao có
thể nói đối với việc này Phật không lập giới cấm!? Phải thận trọng,
đừng đi hoá duyên trái lẽ”.
1.18. Thầy giảng pháp
Có những
vị pháp sư giảng kinh, thuyết pháp có công đức, vô hình trung thay đổi
tâm tánh chúng sanh lúc nào không biết, nhưng chưa có thầy thí thực và
có trách nhiệm, giao thiệp đi lại làm bạn với quỷ thần (dễ chuốc lấy
phiền muộn và nguy hiểm), chúng ta nên so sánh hai hạng người này có lỗi
lầm ít nhiều gì không. Tôi thì cho rằng không nhất định. Thầy giảng
kinh nếu như không cẩn thận thì cũng có thể chuốc lấy lỗi lầm rất lớn.
Thí thực chỉ là một pháp môn, một pháp giống như dễ dàng tinh thông.
Kinh luận thì nhiều loại, muốn mỗi mỗi đều phải tinh thông thì rất
khó khăn. Bởi vậy, người xưa, nhiều vị chỉ chuyên nghiên cứu, học tập
một pháp môn, như chuyên về nghiên cứu nghĩa lý kinh Pháp Hoa, hoặc
chuyên về kinh Hoa Nghiêm… Người bây giờ thì mỗi kinh, mỗi luận đều
tuyên giảng, so với chư vị đại đức tiền bối phải chăng họ cao minh
hơn? Nhưng mà chưa có bậc minh sư dạy dỗ hướng dẫn thì làm sao dám tự
cao tự đại ? y theo cái biết nông cạn, suy luận chủ quan của mình mà
phát biểu, thích đề cao cái mới, lập dị rồi phê bình bậy bạ những
bậc tiền bối? Kinh luận chỉ có xem qua một chút đã tiến hành giải
thích, nhưng chưa có một chút ý kiến bàn luận nào phát huy được rõ
ràng. Những điều này thì không đúng! Nhất định phải nghiên cứu lâu
ngày, trường kỳ cho thật tinh thâm, nghiên cứu thảo luận nhiều mặt,
ôm ấp trong lòng nguyện vọng sáng đạo vốn có làm gốc, không mưu đồ
lợi dưỡng, danh vọng riêng mình như thế mới có nhiều công đức mà
không lỗi lầm. Hoặc giả, có người hỏi rằng: “Đại sư Trí Giả nói
: ‘Vì lợi dưỡng mà hoằng dương kinh Phật
cũng có đầy đủ danh nghĩa Bồ tát, lời nói này như thế nào?’. Ồ,
đại sư Trí Giả nói câu này là vì khích lệ những người có đầy đủ
lòng từ bi nhưng hãy còn thiếu hạnh nguyện Bồ tát vào đời độ sanh mà
nói, không phải vì những người tham cầu danh lợi mà nói. Nếu như không
suy nghĩ, tìm hiểu ý nghĩa của câu nói này, rất dễ dàng hiểu lầm.
1.19. Lợi ích của người xuất
gia
Chư vị
đại đức thuở xưa có nói: “Người tốt
nhất chính là người xuất gia”; trong dân gian cũng có lưu truyền một
câu như thế này: “Một người con xuất
gia chín dòng được sanh thiên*”. Những câu nói như vậy đều là tán
thán, khen ngợi người xuất gia, nhưng chưa nói xác định rõ ràng chỗ lợi
ích của người xuất gia. Suy cho cùng thì lợi ích của người xuất gia là
ở chỗ nào? Thật khó nói, người xuất gia không cần phải cấy cày,
không đi dệt vải mà vẫn có cơm ăn, có áo mặc, đó là lợi ích của người
xuất gia sao? Hoặc giả nói, không cần phải mua nhà, không cần phải thuê
phòng, nhưng vẫn có chỗ cư trú, đó là lợi ích của người xuất gia? Hoặc
nói, quốc vương đại thần ủng hộ, tín đồ thí chủ cung kính, trên
không bị quan lại bắt đi lính, dưới không bị thứ dân quấy nhiễu mà
lại được tự nhiên vui vẻ, thanh nhàn, phóng khoáng, đó là lợi ích của
người xuất gia?
Người
xưa có bài kệ nói vầy:
“Hạt gạo của thí chủ
Lớn tựa núi Tu di
Nếu đạo lớn không thành
Mang lông đội sừng trả*”
Lại nói
: “Một ngày kia lão Diêm Vương tính toán
cơm tiền với anh, xem anh lấy gì bồi thường?”. Xem đây đủ thấy,
người xuất gia, trái lại nấp kín bên trong một cây đại tai hoạ, lại
còn nói là lợi ích sao? Cái gọi là lợi ích của xuất gia chính là có thể
thoát được phiền não, dập tắt vô minh, chứng được vô sanh pháp nhẫn,
liễu thoát sanh tử, đây mới là việc làm tối thắng, cao quý hơn hết,
trong loài trời, người, hơn nữa, cha mẹ giòng họ cũng có thể nhờ đây
mà ân triêm đức hạnh. Nếu không như lời này, dù có giàu có đến thiên
vàng vạn bạc, cho đến được vinh hiển làm quốc sư cho bảy đời hoàng
đế đi nữa (như Thanh Lương quốc sư) cũng chẳng có lợi ích gì để nói!
Thật tại tôi rất lo sợ vạn phần, sợ phạm vào lỗi lầm lớn này, đồng
thời nói với các bạn đồng tu cùng nhau cảnh giác, lo sợ mà tu.
TỔNG LUẬN
Tỷ-kheo
là tiếng phạn Bikkhu, người Trung Hoa dịch là khất sĩ. Sống một mình,
thanh tịnh tu hành mới gọi là khất sĩ. Nếu như còn nhiều nhu cầu, nhiều
sự nuôi dưỡng, tham dự nhiều việc, đây không phải là trái lại nghĩa
gốc của hai chữ Tỷ-kheo sao? Chương này ghi chép lại sự việc từ pháp
sư Mân, cho xuống đến chư vị đại đức, khoảng thời gian đó cho đến
hôm nay có trên một ngàn năm lịch sử, nhưng phong độ và khí thế của
quý ngài, vẫn còn lưu truyền cho đến hôm nay chưa tiêu mất, nghe biết
phong độ, khí tiết cao sáng của quý ngài mà không quyết chí vươn lên lại
có thể xứng đáng làm Tỷ-kheo sao?
* Trái lịch
hình tròn, lớn
bằng đầu ngón trỏ, vị gắt, vỏ cứng, nhân giống như thịt hạt sen già, có thể ăn
được, vỏ có thể làm thuốc nhuộm.
* Một loại thang dài dùng để đánh
thành hay chửa cháy.
** Nhẫn, đơn vị đo
lường ngày xưa, khoảng bảy tám thước
* Cửu tộc: từ ông
cao tổ đến cháu huyền gọi là chín dòng.
* Mang lông
đội sừng trả tức là làm súc sanh.