SỐ 9
CHÍN CÕI (cửu địa - cửu hữu)
Chín cõi chỉ là một cách phân chia khác của “ba cõi” hay “sáu nẻo”, đều chỉ cho cái vòng sinh tử luân hồi. Chín cõi ấy là:
1. Ngũ thú tạp cư địa: Cõi của năm loài có dục vọng cùng ở chung với nhau. Năm loài này là: Trời cõi Dục, Người, Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh. Nói cách khác, đây tức là cõi Dục, một trong ba cõi đã đề cập ở trước. Cõi Dục là nơi cư trú chung của năm loài tâm đầy dục vọng, cho nên danh từ Phật học cũng gọi cõi này là “Dục-giới ngũ-thú địa”.
2. Li sinh hỉ lạc địa: Cõi của chúng sinh do vừa thoát li khỏi cõi Dục đầy xấu ác khổ đau, nên tâm sinh niềm hỉ lạc; đó tức là cõi trời Sơ-thiền của cõi Sắc.
3. Định sinh hỉ lạc địa: Ở trên cõi trời Sơ-thiền là cõi trời Nhị-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú thường trực trong thiền định mà sinh niềm hỉ lạc thù thắng; cho nên gọi là “Định-sinh-hỉ-lạc địa”.
4. Li hỉ diệu lạc địa: Ở trên cõi trời Nhị-thiền là cõi trời Tam-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu mà bỏ được niềm vui có tính tự mãn của hai cõi trước, tâm trở nên an tĩnh hơn, niềm vui thanh thoát hơn; cho nên gọi là “Li-hỉ-diệu-lạc địa”.
5. Xả niệm thanh tịnh địa: Trên cùng của Sắc-giới là cõi trời Tứ-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu hơn nữa, nên dứt hẳn các niềm hỉ lạc của ba cõi dưới, sống trong cảnh giới thanh tịnh, tĩnh lặng, bình đẳng, sáng suốt; cho nên gọi là “Xả-niệm-thanh-tịnh địa”.
6. Không vô biên xứ địa: Tiến lên Vô-sắc giới, cõi trời đầu tiên là Không-vô-biên-xứ. Chúng sinh ở cõi này vừa thoát khỏi cái khung vật chất của Sắc giới để an trú trong thiền định không hình tướng, đầy tính tự tại của cảnh giới hư không vô biên; cho nên ở đây được gọi là “Không-vô-biên-xứ địa”.
7. Thức vô biên xứ địa: Tiếp đến là cõi trời Thức-vô-biên-xứ, là cảnh giới thiền định thứ hai của cõi Vô-sắc, chúng sinh được an trú trong cảnh giới mà thức hoàn toàn trải rộng trong không gian và thời gian vô hạn; cho nên gọi là “Thức-vô-biên-xứ địa”.
8. Vô sở hữu xứ địa: Ở trên cõi trời Thức-vô-biên-xứ là cõi trời Vô-sở-hữu-xứ, cảnh giới thiền định thứ ba của cõi Vô-sắc. Chúng sinh ở cõi này dứt bỏ được tính giao động của hai cõi trước, an trú trong cảnh giới mà tư tưởng hoàn toàn vắng lặng, không còn đến một niệm sở hữu; cho nên cảnh giới đó được gọi là “Vô-sở-hữu-xứ địa”.
9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa: Trên cùng của Vô-sắc giới là cõi trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; nơi đó, chúng sinh an trú trong cảnh giới thiền định cao tột của ba cõi, không còn niệm phân biệt có tư tưởng hay không có tư tưởng, không thiên có, không thiên không, hoàn toàn bình đẳng, an tịnh, cho nên gọi là “Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa”.
Tất cả 9 cõi này đều do nghiệp lực của chúng sinh mà hiện hữu, và đều có chúng sinh tồn tại, nên cũng được gọi là “chín hữu” (cửu hữu).
CHÍN ĐIỀU KIỆN GIÚP THỨC PHÁT SINH (cửu duyên sinh thức)
Vạn pháp do thức mà biểu hiện, nhưng thức cũng phải nương vào các điều kiện (duyên) mới phát sinh được. Thức gồm có 8 tác dụng: thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), ngửi (tị thức), nếm (thiệt thức), xúc chạm (thân thức), phân biệt (ý thức), suy nghĩ tính toán (mạt-na thức), chứa đựng tất cả chủng tử vạn pháp (a-lại-da thức). Các thức này muốn phát sinh, cần nương vào 9 điều kiện sau đây:
1. Ánh sáng (minh duyên). Đây là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn, hay bất cứ vật gì có thể phát sinh ra ánh sáng. Có ánh sáng thì mọi vật mới lộ rõ hình tướng, màu sắc, và nhờ đó mà con mắt mới thấy được. Không có ánh sáng thì mắt không thấy được gì cả, cho nên, ánh sáng là điều kiện giúp cho nhãn thức phát sinh.
2. Khoảng không gian (không duyên). Không gian không có gì chướng ngại, nhờ đó mà sắc tướng của mọi vật mới hiện rõ ra, giúp cho mắt thấy được đối tượng; nếu một vật được áp sát vào mắt (tức không có một khoảng cách cần thiết nào), thì mắt không thế thấy vật ấy được. Âm thanh cũng nhờ không gian mà chuyển động từ nơi này đến nơi khác, nhờ đó mà tai nghe được tiếng; tức là, tai cũng cần một khoảng không gian cần thiết thì mới nghe được tiếng, nếu một tiếng phát ra sát màng nhĩ, thì tai đã không nghe được mà màng nhĩ còn có thể bị hư hại. Vì vậy, không gian là điều kiện giúp cho nhãn thức và nhĩ thức phát sinh.
3. Giác quan (căn duyên). Thân thể con người có 5 căn (giác quan): nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), và thân (thân thể nói chung). Nhãn thức nương nơi nhãn căn mới có thể thấy biết, nhĩ thức nương nơi nhĩ căn mới có thể nghe biết, tị thức nương nơi tị căn mới có thể ngửi biết, thiệt thức nương nơi thiệt căn mới có thể nếm biết, thân thức nương nơi thân căn mới có thể xúc biết. Bởi vậy, 5 thức phải nương vào 5 căn mới có thể sinh khởi tác dụng, nếu không có 5 căn thì 5 thức không thể phát sinh; cho nên, 5 căn là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.
4. Cảnh (cảnh duyên). Cảnh, hay trần cảnh, là chỉ cho 5 đối tượng của 5 giác quan, là sắc, thanh, hương, vị, và xúc. 5 căn nhãn, nhĩ, tị, thiệt, và thân, tuy có cái biết (thức) thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc biết, nhưng nếu không tiếp xúc với đối tượng của chúng là 5 cảnh, thì thức không thể phát sinh được; cho nên, 5 cảnh là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.
5. Tâm sở tác ý (tác ý duyên). Tác ý là một loại tâm sở, là một hiện tượng tâm lí có tác dụng kích thích, làm cho 5 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân) chú ý, nhận biết lập tức đối tượng và dẫn tới ý thức khởi niệm phân biệt đối tượng ấy. Khi mắt (nhãn căn) vừa đối trước một vật (sắc cảnh) thì tâm sở tác ý này làm cho mắt nhận biết (nhãn thức) ngay, và mách bảo cho ý thức (thức thứ sáu) biết để khởi niệm phân biệt tốt xấu, lành dữ v.v... Khi các căn nhĩ, tị, thiệt và thân vừa đối trước đối tượng của chúng cũng vậy, đều nhờ có tâm sở tác ý mà nhận biết, rồi ý thức cũng nương nơi đó mà khởi niệm phân biệt. Cả 6 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý) đều nương nơi tâm sở tác ý mới có thể khởi sinh tác dụng, cho nên, tâm sở tác ý là điều kiện giúp cho 6 thức phát sinh.
6. Căn bản y (căn bản y duyên). Chữ “căn bản” ở đây là chỉ cho thức a-lại-da (tức thức thứ tám); chữ “y” nghĩa là nương dựa. A-lại-da là thức căn bản của tất cả các thức. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý nương nơi tướng phần của thức a-lại-da (tức là sum la vạn tượng) mà phát sinh; trong khi đó, tướng phần của thức a-lại-da cũng nương nơi 6 thức này mà hiện khởi; cho nên, căn bản y là điều kiện giúp 6 thức và thức thứ tám sinh khởi.
7. Nhiễm tịnh y (nhiễm tịnh y duyên). “Nhiễm tịnh y” là chỉ cho thức mạt-na (tức thức thứ bảy). Tất cả các pháp nhiễm hay tịnh đều nhờ thức mạt na mà chuyển. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, đối trước 6 trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, khởi sinh các phiền não hoặc nghiệp; đó gọi là pháp “nhiễm”. Các pháp ô nhiễm này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử hữu lậu. Nếu 6 thức tu tập các đạo phẩm thanh tịnh, đó gọi là pháp “tịnh”. Các pháp thanh tịnh này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử vô lậu. Vì gồm đủ cả nhiễm cả tịnh, nên gọi là “nhiễm tịnh y”. Lại nữa, thức mạt-na cũng y vào thức a-lại-da mới có thể chuyển; còn thức a-lại-da thì lại y nơi thức mạt-na mà tùy duyên; cả hai cùng nương nhau, dựa nhau, bởi vậy, nhiễm tịnh y là điều kiện giúp cho cả 8 thức, (từ nhãn thức cho đến a-lại-da thức) sinh khởi tác dụng.
8. Phân biệt y (phân biệt y duyên). “Phân biệt y” là chỉ cho ý thức (tức thức thứ sáu). Ý thức là thức có khả năng phân biệt để biết rõ sự khác nhau của vạn pháp trong vũ trụ, nào pháp thuộc về sắc, pháp thuộc về tâm; nào pháp thiện, pháp ác; nào cái hay, cái dở, cái dơ, cái sạch; v.v... Năm căn nhãn, nhĩ, v.v... tiếp xúc với 5 cảnh mà sinh khởi 5 cái biết (thức), nhưng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ các hình sắc xấu đẹp, các âm thanh hay dở, v.v... Sự nhiễm, tịnh của mạt-na thức cũng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ. Tướng phần của a-lại-da thức (sum la vạn tượng) cũng phải nhờ sức phân biệt của ý thức mới hiển lộ rõ ràng. Thậm chí, ý thức cũng phải nhờ sức phân biệt ấy mà biết rõ những ý tượng, những ảnh tượng ở trong chính bản thân nó. Cho nên, phân biệt y là điều kiện giúp cho cả 8 thức sinh khởi tác dụng.
9. Chủng tử (chủng tử duyên). Thức a-lại-da hàm chứa chủng tử của vạn pháp, hay nói cách khác, tất cả các căn, cảnh và thức đều do từ chủng tử hàm chứa trong thức a-lại-da mà phát hiện ra. Nhãn thức nương nơi chủng tử của nhãn căn mà có thể thấy sắc; nhĩ thức nương nơi chủng tử của nhĩ căn mà có thể nghe tiếng; tị thức nương nơi chủng tử của tị căn mà có thể ngửi mùi; thiệt thức nương nơi chủng tử của thiệt căn mà có thể nếm vị; thân thức nương nơi chủng tử của thân căn mà có thể xúc biết; ý thức nương nơi chủng tử của ý căn mà có thể phân biệt; mạt-na thức nương nơi chủng tử nhiễm tịnh mà được tương tục không gián đoạn; a-lại-da thức nương nơi chủng tử hàm chứa trong chính nó mà biểu hiện ra vạn pháp; tất cả các thức đều nương nơi chủng tử mà sinh khởi tác dụng, cho nên, chủng tử là điều kiện giúp cho 8 thức sinh khởi.
CHÍN LỖ (cửu khổng)
Khắp thân thể con người có chín lỗ, qua đó, các chất dơ bẩn từ bên trong tiết ra ngoài; gồm có: 2 lỗ con mắt (tiết ra nước mắt, ghèn); 2 lỗ mũi (tiết ra nước mũi); 2 lỗ tai (tiết ra ráy tai); miệng (tiết ra nước miếng, đờm); lỗ tiểu tiện (tiết ra nước tiểu); và lỗ đại tiện (tiết ra phân).
CHÍN PHÁP GIỚI (cửu giới - cửu pháp giới)
Chín pháp giới tức là 9 cảnh giới của mọi loài hữu tình trong vũ trụ, gồm có 6 cảnh giới của phàm phu (Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Người và Trời) và 3 cảnh giới của thánh nhân (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát). (Xin xem lại mục “Một Niệm Ba Ngàn” ở trước.)
CHÍN PHẨM HOA SEN (cửu phẩm liên hoa)
Theo giáo lí của tông Tịnh Độ (một trong các tông phái Phật giáo đại thừa) thì trong vũ trụ có một thế giới tên là Cực-lạc (hay Tịnh-độ), là quốc độ của đức Phật A Di Đà. Sở dĩ có tên như vậy là vì quốc độ ấy hoàn toàn trong sạch, đẹp đẽ (từ các loài hữu tình cho đến các loài vô tình), hoàn toàn an vui, hạnh phúc, trí tuệ cao diệu, sống lâu vô lượng, chứ không phải xấu xa, dơ bẩn, sinh sinh tử tử, đầy dẫy tham sân si phiền não, ngập tràn đau khổ xót xa như thế giới chúng ta hiện sống ở đây. Theo đại nguyện của đức Phật A Di Đà thì bất cứ chúng sinh nào cũng có thể cầu được vãng sinh về thế giới Cực-lạc của Ngài, và khi đã được vãng sinh về đó thì sẽ luôn luôn có được các hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi để tu tập thẳng đến quả vị giác ngộ, vĩnh viễn không bao giờ bị luân chuyển trở lại vào các thế giới khổ đau. Muốn được vãng sinh về Tịnh-độ, hành giả trước hết phải có ý chí, phải có tâm tha thiết mong cầu vãng sinh, và sau đó là chuyên cần tu tập tịnh nghiệp làm nhân tốt cho việc vãng sinh. Chúng sinh ở cõi Tịnh-độ được hóa sinh từ hoa sen, và tùy theo tịnh nghiệp nhiều ít của mỗi người mà sẽ được vãng sinh về ở một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau, gọi là “chín phẩm hoa sen”. Chín phẩm hoa sen này do đặt trên căn bản ba loại căn tánh của hành giả mà phân chia: Đó là căn tánh bậc thượng, căn tánh bậc trung và căn tánh bậc hạ. Mỗi loại căn tánh đó lại chia làm 3 bậc thượng, trung, hạ; cho nên có cả thảy là 9 phẩm.
Tóm lại, 9 phẩm hoa sen gồm có 3 cấp: trên (thượng), giữa (trung), dưới (hạ); và mỗi cấp lại chia làm ba bậc: cao (thượng), vừa (trung), thấp (hạ), như sau:
1. Bậc cao của cấp trên (thượng phẩm thượng sinh - thượng thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất trong 9 phẩm hoa sen. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả tu pháp môn Tịnh Độ, trước tiên phải phát khởi 3 tâm: 1) tâm chí thành, 2) tâm tin sâu, 3) tâm hồi hướng phát nguyện; thứ đến phải tu tập 3 tịnh nghiệp: 1) giữ lòng từ bi không sát sinh, hành trì trọn vẹn giới luật đã thọ, 2) đọc tụng kinh điển đại thừa, 3) tu hành 6 niệm (xin xem lại mục “Sáu Niệm Tưởng” ở trước). Hành giả tinh tấn dũng mãnh, đến giờ phút lâm chung, đức Bồ-tát Quán Thế Âm bưng đài kim cang, cùng với đức Bồ-tát Đại Thế Chí, đến trước hành giả, đức Phật A Di Đà phóng ánh sáng lớn chiếu đến thân thể hành giả, và hành giả liền được đức Phật cùng với hai vị Bồ-tát đưa tay tiếp dẫn.
2. Bậc vừa của cấp trên (thượng phẩm trung sinh - thượng trung phẩm): Dưới bậc thượng thượng phẩm là bậc thượng trung phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả cũng phát khởi 3 tâm (như trên), tuy không thọ trì đọc tụng và tu hành theo giáo pháp đại thừa, nhưng hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà, hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, cùng vô lượng đại chúng, bưng đài bằng vàng y, đến trước hành giả, đưa tay tiếp dẫn.
3. Bậc thấp của cấp trên (thượng phẩm hạ sinh - thượng hạ phẩm): Dưới bậc thượng trung phẩm là bậc thượng hạ phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, tuy hành giả không thể thọ trì đọc tụng và hiểu rõ nghĩa lí của giáo pháp đại thừa, nhưng tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và chư thánh chúng, cầm hoa sen vàng, hóa hiện ra 500 vị Hóa Phật, đến trước hành giả đưa tay tiếp dẫn.
4. Bậc cao của cấp giữa (trung phẩm thượng sinh - trung thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất của cấp giữa, tiếp dưới bậc thượng phẩm hạ sinh. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả hành trì trọn vẹn 5 giới, thường tu 8 trai giới, không tạo tội ngũ nghịch, không lầm lỗi. Đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng, phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, chiếu đến hành giả. Hành giả trông thấy như thế, tâm sinh vui mừng, tức thì thấy thân mình ngồi trên đài hoa sen.
5. Bậc vừa của cấp giữa (trung phẩm trung sinh - trung trung phẩm): Tiếp dưới bậc trung thượng phẩm là bậc trung trung phẩm. Để được vãng sinh vể bậc này, hành giả tu 8 trai giới trọn một ngày một đêm, hoặc hành trì trọn vẹn giới sa di hay giới cụ túc trong một ngày một đêm, oai nghi tề chỉnh không thiếu sót. Đến giờ phút lâm chung, hành giả thấy được đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, bưng đài sen bảy báu đến tiếp dẫn.
6. Bậc thấp của cấp giữa (trung phẩm hạ sinh - trung hạ phẩm): Người thiện nam hay tín nữ nào, trong đời sống hằng ngày, hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân nghĩa giúp ích cho đời; rồi đến giờ phút lâm chung lại có duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe về cõi nước an vui của đức Phật A Di Đà, cùng 48 lời nguyện của tì kheo Pháp Tạng; người ấy chí thành tin tưởng, muốn vãng sinh, thì liền được vãng sinh về bậc trung hạ phẩm này.
7. Bậc cao của cấp dưới (hạ phẩm thượng sinh - hạ thượng phẩm): Người làm nhiều nghiệp ác, phỉ báng kinh điển đại thừa, không bao giờ biết hổ thẹn, nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe tên 12 bộ kinh đại thừa, và được dạy cho cách chắp tay xưng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”; người ấy nghe kinh và xưng niệm danh hiệu Phật rồi, liền dứt trừ được tội chướng trong trăm nghìn kiếp. Lúc bấy giờ, hóa thân của đức Phật A Di Đà cùng hóa thân của hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đồng đến tiếp dẫn, người ấy liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.
8. Bậc vừa của cấp dưới (hạ phẩm trung sinh - hạ trung phẩm): Người hủy phạm 5 giới, 8 giới, và cụ túc giới, ăn cắp vật dụng của tăng chúng, nói pháp bất tịnh, mà tâm không biết hổ thẹn, đến giờ phút lâm chung, lửa ở địa ngục liền ập tới bức bách; nhưng ngay lúc đó, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức tán thán uy đức của đức Phật A Di Đà, người ấy liền dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, lửa địa ngục trở thành hơi mát mẻ, thổi các hoa trời, trong những hoa đó đều có hóa thân Phật và chư vị Bồ-tát đồng đến tiếp dẫn, liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.
9. Bậc thấp của cấp dưới (hạ phẩm hạ sinh - hạ hạ phẩm): Đây là bậc thấp nhất trong 9 phẩm hoa sen. Người tạo tội ngũ nghịch, thập ác, không điều ác gì mà không làm; nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức xót thương an ủi, nói cho nghe Phật pháp nhiệm mầu, dạy cho phép niệm Phật. Người ấy liền vui vẻ, đem tâm chí thành, cố gắng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” liên tiếp 10 lần, thì cứ mỗi niệm dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, liền thấy có hoa sen vàng lớn như mặt trời ngay ở trước mặt; và người ấy được vãng sinh về hoa sen bậc hạ hạ phẩm ở nước Cực-lạc.
CHÍN PHÉP QUÁN TƯỞNG TRÊN THI THỂ (cửu tưởng quán)
Cửu tưởng quán là phép quán tưởng về chín tướng trạng, hay chín giai đoạn tàn hoại của thân thể con người sau khi chết; vì vậy nó cũng được gọi là “cửu tướng quán”. Đây là một trong các phép quán tưởng về bất tịnh mà người tu học thực tập để diệt trừ các vọng tưởng tham dục và đạt được an lạc, giải thoát. Cả chín phép quán tưởng đều tập trung vào thân thể của con người sau khi chết. Hành giả có thể quán tưởng ngay chính thân thể của mình, của thân nhân mình, hay của bất cứ một người nào khác. Tốt nhất là nên quán tưởng thi thể ấy đang nằm nơi đồng trống, từng bước tuần tự như các liệt kê ở sau đây:
* Phật Quang Đại Tự Điển liệt kê: 1. Quán tử thi trở nên bầm xanh; 2. Quán tử thi bị rữa, máu mủ rịn ra từ chín lỗ; 3. Quán tử thi sinh giòi tửa, bị chim thú ăn thịt; 4. Quán tử thi sình chương lên; 5. Quán máu mủ từ tử thi chảy ra lênh láng trên mặt đất; 6. Quán tưởng da thịt bầy nhầy, rữa nát; 7. Quán tưởng da thịt tiêu hết, chỉ còn xương gân vương vãi; 8. Quán tưởng tử thi bị thiêu đốt thành tro bụi; 9. Quán tưởng tử thi chỉ còn là một đống xương trắng tản mác.
* Tam Tạng Pháp Số ghi: 1. Quán tưởng tử thi sình chương lên; 2. Quán tưởng tử thi bầm xanh; 3. Quán tưởng tử thi da thịt bầy nhầy, đầu mình tay chân rã rời, phủ tạng rữa nát; 4. Quán tưởng tử thi, từ đầu đến chân, máu mủ chảy tràn lan; 5. Quán tưởng giòi mủ từ chín lỗ của thi thể tứa ra, da thịt nát bấy, vương vãi trên mặt đất, hôi thúi cùng cực; 6. Quán tưởng tử thi bị giòi bọ rúc rỉa, chim thú kéo đến mổ xé tơi bời; 7. Quán tưởng tử thi tan rã, gân đứt, xương lìa, đầu chân mỗi cái mỗi nơi; 8. Quán tưởng thi thể hoàn toàn tiêu hết da thịt, chỉ còn đống xương trắng phơi bày, rời rã; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, cuối cùng chỉ còn tro bụi.
* Luận Đại Trí Độ ghi: 1. Quán tưởng thi thể sình chương; 2. Quán tưởng thi thể rã hoại; 3. Quán tưởng thịt máu tràn lan; 4. Quán tưởng mủ máu chảy khắp, rất là hôi thúi; 5. Quán tưởng thi thể xanh bầm; 6. Quán tưởng thi thể bị giòi trùng rúc ăn, chim thú mổ xé; 7. Quán tưởng gân xương đứt lìa, rời rạc mỗi thứ mỗi chỗ; 8. Quán tưởng thi thể bây giờ chỉ còn là xương trắng, vương vãi khắp nơi; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, biến thành tro than.
* Sách Con Đường Chuyển Hóa (kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm) của Nhất Hạnh ghi: 1. Xác chết sình lên, xanh lại, thối nát ra; 2. Xác chết bị các loài giòi bọ rúc rỉa, bị quạ, diều hâu, kên kên và chó sói rừng xé ăn; 3. Xác chết chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu; 4. Chỉ còn là một bộ xương, hết thịt nhưng còn dính máu; 5. Chỉ còn là một bộ xương, không còn dính máu, nhưng các đốt xương còn dính vào nhau; 6. Chỉ còn một đống xương rời rạc; nơi này là xương ống tay, nơi kia là xương ống chân, nơi nọ là đầu lâu...; 7. Chỉ còn một đống xương trắng màu vỏ ốc; 8. Chỉ còn một mớ xương khô; 9. Xương đã mục, chỉ còn lại một mớ bụi.
Các liệt kê trên có chút ít khác biệt về thứ tự cũng như về các chi tiết. Do đó chúng ta thấy, tuy nói là “cửu tưởng quán”, thật sự, những đề mục quán tưởng không nhất thiết là có con số nhất định, có thể là 9, 10, hay nhiều hơn nữa; miễn là những đề mục ấy thuận theo một thứ tự hợp lí từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt, cốt làm cho thấy rõ cái tính chất bất tịnh của thân xác con người. Một cách phổ thông, 9 phép quán tưởng ấy tuần tự như sau:
1. Quán tưởng để thấy thi thể trương phình lên.
2. Thấy thi thể đổi màu, trở thành xanh tím.
3. Thấy thi thể bắt đầu bị thối rữa.
4. Thấy máu, nước vàng... chảy ra.
5. Thấy từng mảnh thịt thối rã ra.
6. Thấy thi thể bị các loài chim, thú rứt rỉa.
7. Thấy đầu, mình, tay chân của thi thể rời ra.
8. Thấy xương trắng vương vãi lăn lóc trên đất.
9. Thấy xương thịt trở thành đất bụi, gió thổi bay đi, trở về với đất bụi.