21/07/2011 09:55 (GMT+7)
Số lượt xem: 156517
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

SỐ 2

HAI CÁI THẤY CỰC ĐOAN (nhị kiến - nhị biên kiến)
Do thiếu sáng suốt, không thấu rõ được tính duyên sinh của vạn pháp, người ta đã có hai cái thấy cực đoan, đối nghịch nhau về sự vật:
1. Thấy có (hữu kiến): Có người cho rằng tất cả mọi sự vật là có thật, cho nên sinh lòng tham đắm, tranh đoạt và giữ chặt.
2. Thấy không (không kiến): Có người cho rằng tất cả mọi sự vật đều là tạm bợ, không có thật, cho nên sinh lòng nhàm chán, xa lánh.
Ngoài cặp cực đoan “có và không” này, còn một cặp cực đoan khác:
1. Thấy thường còn (thường kiến): Có người cho rằng mọi chúng sinh đều có cái TA thường còn, vĩnh viễn. Hễ là người thì muôn kiếp vẫn là người; đã là thú thì vĩnh viễn vẫn là thú. Vì vậy, làm thiện hay làm ác cũng không có gì đáng quan tâm.
2. Thấy mất hẳn (đoạn kiến): Có người quan niệm ngược lại, cho rằng, thân tâm mọi loài qua hết một đời thì mất hẳn, không còn gì cả; không có đời sau, không có nhân quả, không có nghiệp báo, vì vậy, làm thiện hay làm ác cũng vậy thôi.
Thật ra, thấy thường còn là vì đã thấy có, và thấy mất hẳn là vì đã thấy không; rốt cục, “thường và đoạn” đã bao hàm trong “hữu và vô”.
Dù thấy có hay thấy không, thấy thường còn hay thấy mất hẳn, cũng đều là cái thấy không chân chính, không đúng sự thật. Người có tu học Phật và có thực tập thiền quán thì không bao giờ bị lạc vào cái thấy cực đoan, không sáng suốt như trên; vì vạn hữu không phải có cũng không phải không, không phải thường còn mà cũng không phải mất hẳn.
Lại nữa, nếu xét theo trình độ giác ngộ thì cái thấy có là cái thấy của người chưa tu học, trí tuệ chưa được khai mở. Trong khi đó, cái thấy không là cái thấy của người có tu học, nhưng theo con đường nhỏ (tiểu thừa), cho rằng mọi sự vật là vô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh. Vượt trên tất cả, đối với trí tuệ của Bồ-tát thì tất cả vạn hữu vừa là KHÔNG, vừa là CÓ. Nhưng tính chất có và không ở đây siêu việt lên trên ý nghĩa có và không thông thường. Cái không ở đây là “chân không” (vạn vật không có bản ngã chân thật chứ không phải là không hiện hữu); và cái có ở đây là cái “có mầu nhiệm” (diệu hữu – vạn vật hiện hữu và tồn tại theo nguyên lí “một trong tất cả, tất cả trong một”) mà chỉ có công phu thiền quán mới đạt tới được.

HAI CHƯỚNG NGẠI (nhị chướng)
Đây là hai thứ luôn luôn làm trở ngại, khiến cho người tu học không thể tiến đến sự chứng ngộ trí tuệ của chư Phật.
1. Chướng ngại của phiền não (phiền não chướng). “Phiền não” là những hiện tượng tâm lí xấu, làm động cơ thúc đẩy con người gây ra vô vàn lầm lỗi về cả thân, miệng và ý. Phiền não có nhiều loại, có những loại thuộc về tình cảm, có những loại thuộc về trí thức. Lòng tham dục, sự giận hờn, những tâm trạng như buồn phiền, lo lắng, ghen tức, kiêu mạn, khinh khi v.v..., là những loại phiền não thuộc về tình cảm; sự si mê, ngu muội, trì trệ, những cái thấy biết sai lầm, những tâm niệm cố chấp, bảo thủ, thành kiến, những tư tưởng ngông cuồng, tà vọng..., là những loại phiền não thuộc về trí thức; tất cả mọi thứ, chúng làm cho con người đau khổ triền miên, không có phút giây nào tỉnh thức để tu tập đạo giác ngộ, không thể nào tiến lên được địa vị giải thoát, cho nên chúng được gọi là “phiền não chướng”.
2. Chướng ngại của kiến thức (sở tri chướng). “Sở tri” là những quan điểm, những cái thấy, những hiểu biết, những khái niệm thu thập được từ sự học hỏi, đọc sách..., nói chung là những kiến thức mình có được. Những kiến thức này rất cần thiết cho người tu học để đạt đến trí tuệ, chứ chính chúng không phải là trí tuệ. Cho nên, nếu chúng ta cứ khư khư ôm giữ lấy những kiến thức ấy và cho rằng chúng là hay nhất, chúng là chân lí; chúng ta thỏa mãn với chúng, tự thấy không cần phải học hỏi gì thêm nữa, thì tức là ta đã bị mắc kẹt vào chúng, không thể nào tiến bộ được nữa; đạo Phật gọi những kiến thức đó là “sở tri chướng” – tức là những kiến thức làm trở ngại cho tiến trình giác ngộ. Cái gì mà mình vừa biết được và liền cho đó là số một, thì lập tức con đường tiến thủ của mình bị chận lại, vì vậy, hành giả phải biết phá vỡ, vượt thoát những kiến thức đã có để có thể đi xa hơn nữa. Có như thế thì tuệ giác giác ngộ – mục tiêu sau cùng của hành giả – đến một lúc nào đó mới hiển lộ ra được.
Hai thứ chướng ngại này, có khi trạng thể rất vi tế, khó nhận thấy; chúng lại luôn luôn liên kết với nhau, giúp đỡ cho nhau để bám sát theo chúng sinh, hoặc ở trạng thái phát hiện (nổi trên mặt ý thức), hoặc ở trạng thái tiềm ẩn (chủng tử nằm sâu trong tàng thức); trong khi đó thì chúng sinh cũng mù quáng đeo đuổi theo chúng như người ngủ say để tạo ra các nghiệp xấu, ngày càng chất chồng. Vì vậy, Duy Thức Học gọi chúng (phiền não chướng và sở tri chướng) là “tùy miên”.

HAI CON ĐƯỜNG (hay HAI CỖ XE) (nhị thừa)
Giáo pháp của Phật chỉ có một con đường duy nhất là đưa đến sự chứng ngộ trí tuệ rộng lớn của chư Phật. Nhưng vì người tiếp nhận và thực hành giáo pháp ấy có nhiều căn cơ khác nhau, cao thấp không đều, cho nên đức Phật đã tùy theo mỗi trình độ mà khai thị cho những con đường khác nhau. Đó là tính cách “khế cơ” của đạo Phật. Một cách tổng quát thì có hai con đường (hay hai cỗ xe):
1. Con đường nhỏ (hay cỗ xe nhỏ – tiểu thừa): là con đường tự độ của những vị quá nhàm chán cõi thế gian vô thường, vô ngã, đầy khổ não, chỉ muốn chóng giải thoát khỏi ba cõi, đạt được quả vị A-la-hán hay Bích-chi Phật, rồi nhập niết bàn. Khuynh hướng này về sau trở thành một trong hai hệ phái lớn của Phật giáo, – sử thường gọi là Phật giáo Tiểu-thừa – được truyền bá sang các nước phía Nam và Đông Nam Ấn độ (như Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan, v.v...), cho nên cũng được gọi là Phật giáo Nam-tông (hay Nam-truyền).
2. Con đường lớn (hay cỗ xe lớn – đại thừa): là con đường của những vị có tình thương rộng lớn, ý chí dũng mãnh, vừa nỗ lực giúp cho chính mình đạt được an lạc giải thoát mà cũng vừa giúp đời kiến tạo hạnh phúc. Họ luôn luôn vì mọi người và mọi loài mà tu tập và thực hiện hạnh bồ-tát. Mục đích của họ là hoàn thành sự nghiệp giác ngộ toàn vẹn của chư Phật. Khuynh hướng này về sau trở thành một trong hai hệ phái lớn của Phật giáo, – sử gọi là Phật giáo Đại-thừa – được truyền bá sang các nước phía Bắc và Đông Bắc Ấn-độ (như Nepal, Tây-tạng, Trung-hoa, v.v...), cho nên cũng được gọi là Phật giáo Bắc-tông (hay Bắc-truyền)
Ở một mặt khác, “hai con đường” (hay “hai cỗ xe) cũng còn được dùng để chỉ cho hai bậc Thanh-văn (Thanh-văn thừa) và Duyên-giác (Duyên-giác thừa). Giáo pháp căn bản của người tu học theo con đường Thanh-văn là “bốn sự thật” (tứ đế), và quả vị cuối cùng của họ là A-la-hán. Trong khi đó, những người tu học theo con đường Duyên-giác (hay Độc-giác) thì chuyên quán sát cái vòng nhân quả “mười hai nhân duyên” (thập nhị nhân duyên) mà giác ngộ được chân lí và đạt được quả vị Phật Bích-chi. Trong kinh Đại Niết Bàn (Phẩm 22), đức Phật bảo BồTát Lưu Li Quang: “Chớ nghĩ rằng, tôi nghe pháp rồi trước tự độ mình, sau sẽ độ người; trước tự giải thoát rồi sau sẽ giải thoát cho người; ... Trước phải vì người, sau mới vì mình. Nên vì đại thừa chứ không nên vì nhị thừa...” Chữ “đại thừa” ở đây đức Phật dùng để chỉ cho cỗ xe Bồ-tát; còn chữ “nhị thừa” là chỉ cho các cỗ xe Thanh-văn và Duyên-giác. Vậy theo ý nghĩa này thì cả Thanh-văn và Duyên-giác đều được gọi chung là tiểu thừa.
Tóm tắt lại, danh số “Hai Cỗ Xe” (nhị thừa) có thể dùng trong hai trường hợp: một là để chỉ cho cỗ xe nhỏ (tiểu thừa) và cỗ xe lớn (đại thừa); hai là để chỉ cho cỗ xe Thanh-văn (Thanh-văn thừa) và cỗ xe Duyên-giác (Duyên-giác thừa).

GHI CHÚ: Tiểu-thừa và Đại-thừa đã là hai thực thể đối nghịch nhau rong suốt hai ngàn năm qua trong lịch sử truyền bá và phát triển của Phật giáo. Thật ra, Tiểu-thừa hay Đại-thừa, chỉ nói lên cái tình hình chuyển biến của tư tưởng Phật giáo theo nhu cầu phát triển của trí tuệ qua các giai đoạn lịch sử mà thôi. Ngày nay, Phật giáo không phải chỉ đóng khung ở các nước Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan, hay Tây-tạng, Việt-nam, Nhật-bản v.v... nữa, mà nó đang có mặt như ánh sáng mặt trời ở khắp năm châu bốn biển. Tinh thần tu học Phật pháp của con người hiện đại cũng không còn câu nệ vào Tiểu thừa hay Đại thừa nữa. Ở Việt-nam chẳng hạn, từ thập niên 50, Phật giáo Nam-tông đã song hành phát triển với Phật giáo Bắc-tông một cách chính thức và nhịp nhàng. Các quốc gia Tây phương gần đây đã và đang tiếp nhận nhiều dòng Phật học khác nhau đến từ Tây-tạng, Tích-lan, Trung-hoa, Đại-hàn, Việt-nam, Nhật-bản, Thái-lan v.v... Cho nên ý thức phân biệt cực đoan giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa đã đến lúc phải được tẩy xóa khỏi tâm thức của người tu học trong thời đại ngày nay. Trong cái nhìn mới, Phật giáo không có sự mâu thuẫn quyết liệt giữa tiểu thừa và đại thừa, mà chỉ có những pháp môn hành trì khác nhau đưa đến những trình độ tu chứng khác nhau, chỉ có những sự phát tâm mạnh yếu khác nhau đưa đến những thành quả phụng sự lớn nhỏ khác nhau; vả chăng chỉ có một nền PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ (chỉ cho nền Phật học tối cổ thời Phật tại thế) và một nền PHẬT GIÁO PHÁT TRIỂN (chỉ cho nền Phật học từ sau thời Phật tại thế cho đến ngày nay); mà nền Phật giáo Nguyên thỉ luôn luôn là nền tảng căn bản cho nền Phật giáo Phát triển.

HAI DÒNG (nhị lưu)
“Hai dòng” là dòng thuận và dòng nghịch.
1. Dòng thuận (thuận lưu), tức là xuôi thuận theo dòng sinh tử, khởi hoặc tạo nghiệp, trôi lăn trong sáu đường chúng sinh.
2. Dòng nghịch (nghịch lưu), tức là đi ngược lại với dòng sinh tử, tinh cần tu tập, dứt trừ phiền não để hướng tới đạo quả giải thoát niết bàn.

HAI ĐỨC NHẪN (nhị nhẫn)
Chữ “nhẫn” ở đây tức là nhẫn nại, an nhẫn. Có hai đức nhẫn mà Bồ-tát luôn luôn tu tập: Sinh nhẫn và Pháp nhẫn.
1. “Sinh nhẫn”, cũng gọi là “chúng sinh nhẫn”, tức là Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh không bao giờ sinh tâm sân hận, buồn phiền. Dù cho chúng sinh đem lòng ám hại mình, gieo tai họa, gây bao nhiêu điều xấu ác cho mình, Bồ-tát không bao giờ oán trách, vẫn nhẫn nại chịu đựng. Dù chúng sinh kính quí, khen ngợi mình, đem bao nhiêu của cải trân quí cúng dường, Bồ-tát vẫn không vui mừng, không tự cao, tham đắm. Như thế gọi là “sinh nhẫn”.
2. “Pháp nhẫn”, cũng gọi là “vô sinh pháp nhẫn” tức là Bồ-tát an trú (an nhẫn) trong pháp thậm thâm bất sinh bất diệt, tâm không còn quái ngại, không giao động, không thối chuyển, gọi là “pháp nhẫn”.

HAI HOẶC (nhị hoặc)
Chữ “hoặc” ở đây là một tên khác của phiền não, chẳng những thế, nó còn chỉ cho những phiền não gốc rễ, làm cho chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Có hai loại hoặc căn bản nhất, mà nếu dứt trừ tận gốc thì tức khắc xa lìa ba cõi, giải thoát sinh tử:
1. Kiến hoặc. “Kiến” tức là suy nghĩ, thấy biết, đoán định về những lí lẽ của cuộc đời. “Kiến hoặc” tức là cái thấy sai lầm, cái thấy xuyên tạc về sự thật cuộc đời. Vì vô minh che lấp nên không thấy được vạn pháp là vô thường, vô ngã v.v..., khiến nên kẻ phàm phu lúc nào cũng đầy dẫy tà tri tà kiến. Một cách tổng quát, có 5 cái thấy sai lạc như vậy (xin xem mục “Năm Cái Thấy Sai Lạc” ở sau). Những cái thấy này cũng chính là những kiến thức, những hiểu biết (sở tri) của phàm phu, làm chướng ngại cho thánh đạo, nên Duy Thức Học gọi chúng là “sở tri chướng” (xin xem lại mục “Hai Chướng Ngại” ở trên). Những cái thấy này vì không được trí tuệ soi sáng, nên hoàn toàn không đúng sự thật, trái với chân lí, nên cũng gọi là “lí hoặc” (sai lầm về lí). Hành giả tu học Phật, khi đã hoàn toàn chuyển hóa được năm cái thấy sai lạc này, trí truệ hoàn toàn tương ưng với chân lí, thì vượt thoát được thân phận phàm phu mà bước vào dòng thánh (nhập lưu); từ đó tiến tu mãi cho đến khi thành đạt quả vị Vô thượng Bồ đề.
2. Tư hoặc. Vì tâm ý mê muội, nên kẻ phàm phu luôn luôn khởi niệm tham đắm đối với mọi sự mọi vật ở thế gian; cái gì vừa ý thì tham lam muốn có, cái gì không vừa ý thì giận hờn oán trách, khiến nên con người gây ra bao nhiêu tội lỗi, đau khổ trong đời sống, đó gọi là “tư hoặc” (cũng gọi là “tu hoặc”). Một cách tổng quát, loại hoặc này có 5 thứ căn bản, là tham (lòng tham lam đối với mọi thứ mình yêu thích), sân (lòng giận hờn oán trách đối với những gì mình không vừa ý), si (tâm mê mờ không thấy rõ được sự thật), mạn (tâm kiêu mạn, tự cao tự đại, cho mình là hơn hết rồi khinh khi người khác), nghi (nghi ngờ, không tin tưởng điều chân thật, nhất là không tin Tam Bảo). Từ 5 thứ hoặc căn bản này mà sinh ra bao nhiêu tính xấu ác khác, như tham lam, ích kỉ, bỏn sẻn, đua đòi, trộm cắp, tà dâm, giận dữ, hờn trách, mắng chưởi, nói năng thô bạo, phỉ báng người hiền, nói xấu kẻ khác, tự thị khinh người, ngu dốt mà cứ cố chấp v.v... 5 thứ hoặc này phát khởi do vì mê đắm sự vật, thuộc về tình cảm, cho nên cũng gọi là “sự hoặc” (sai lầm về sự). Lại nữa, 5 thứ hoặc ấy là những phiền não gây ra đau khổ triền miên, làm cho chúng sinh không thể tu tập để tiến đến bến bờ giải thoát, cho nên Duy Thức Học cũng gọi chúng là “phiền não chướng” (xin xem lại mục “Hai Chướng Ngại” ở trên). Hành giả tu học Phật, khi đã đoạn trừ sạch hết 5 loại hoặc này thì chứng quả A-la-hán, giải thoát ba cõi.

HAI KIẾN CHẤP VỀ NGÃ (nhị ngã kiến)
1. Tất cả phàm phu vì mê lầm, không thấy được rằng con người là do năm uẩn giả hợp mà thành, cho nên cố chấp cho rằng con người có quyền chủ tể, có tự thể thường nhất, chân thật, đó gọi là “ngã kiến về con người” (nhân ngã kiến).
2. Đối với mọi sự vật (pháp) chung quanh mình cũng vậy, kẻ phàm phu không thấy được chúng là do bốn nguyên tố (bốn đại) giả hợp mà có, nên cho chúng là thật có, rồi tham đắm, bám giữ. Ngay cả các hành giả ở hai thừa Thanh-văn và Duyên-giác cũng vậy, tuy có trí tuệ thấy rõ con người không có ngã (nhân vô ngã kiến), nhưng lại không thấy được tánh KHÔNG của vạn pháp, cho nên cố chấp cho rằng tất cả các pháp đều có thể tánh chân thật, sợ sệt pháp sinh tử, bám giữ pháp niết bàn, gọi là “pháp ngã kiến” (ngã kiến về vạn pháp).

HAI LẬU (nhị lậu)
“Lậu” nghĩa là lọt xuống, rỉ ra, rịn ra; đó là tính chất của phiền não, cho nên “lậu” cũng là một tên gọi khác của phiền não. Các pháp trên thế gian có thể chia làm hai loại: hữu lậu và vô lậu.
1. “Hữu lậu” là còn có thể lọt xuống, rơi rớt lại. Các pháp hữu lậu là các pháp còn nằm trong thế giới sinh diệt khổ đau, là những nguyên nhân làm cho còn vướng mắc trong sinh tử luân hồi.
2. “Vô lậu” là không còn lọt xuống, hay rơi rớt lại nữa. Các pháp vô lậu là các pháp trong thế giới bất sinh bất diệt, là những nguyên nhân đưa đến giải thoát, niết bàn.
Thật ra, hữu lậu và vô lậu không phải là hai pháp riêng biệt, mà chỉ là hai “tính chất” của một pháp. Khi chúng ta nhìn sự vật và thấy có sinh, có diệt, có hơn, có thua, có trắng, có đen, có dơ, có sạch v.v..., thì đó là cái thấy hữu lậu – tức là cái thấy của thế giới khổ đau, của sinh tử luân hồi; còn nếu nhìn sự vật mà thấy không có sinh diệt, không có hơn thua, không có dơ sạch v.v..., thì đó là cái thấy vô lậu – tức là cái thấy của giác ngộ, giải thoát, an lạc. Một hành động bố thí chẳng hạn, nếu chúng ta bố thí để cho có danh tiếng với đời, bố thí để cho người kia phải chịu ơn ta, bố thí để được hưởng phước báo tốt đẹp ở kiếp sau..., thì hành động bố thí đó được gọi là hữu lậu, vì tuy có phước đức – dù là phước đức ở cõi trời đi nữa, nhưng vẫn là thứ phước đức nằm trong sinh tử luân hồi. Mặt khác, cũng thì hành động bố thí như vậy, nhưng khi bố thí, tâm chúng ta không vì mong cầu gì cả, không vì danh tiếng, không vì được đền ơn, không vì phước báo..., bố thí là vì bố thí, bố thí một cách vô tâm, thì hành động bố thí đó được gọi là vô lậu – nó không làm cho ta bị vướng mắc, nó đưa ta tới tự do, giải thoát, không rơi rớt lại trong vòng sinh tử luân hồi.

HAI LOẠI CHẤP NGÃ (nhị ngã chấp)
“Chấp ngã” là cố chấp có cái ngã chân thật, và có các vật sở hữu của ngã. Có hai loại:
1. Tâm chấp ngã vốn có (câu sinh ngã chấp). Đó là tâm chấp ngã vốn có từ bao đời kiếp trước, khi một người vừa sinh ra đời thì tâm chấp ngã ấy cũng đi liền theo mà có mặt cùng lúc với thân mạng.
2. Tâm chấp ngã do vọng tưởng phân biệt mà có (phân biệt ngã chấp). Sau khi sinh ra đời, do vọng tưởng phân biệt, do ảnh hưởng các ngoại duyên từ hoàn cảnh xã hội, do hấp thụ sự giáo dục của tà sư tà giáo v.v... mà sinh ra tâm chấp ngã.

HAI LOẠI HẠT GIỐNG (nhị chủng chủng tử)
Tàng thức của chúng ta chứa đựng mọi loại hạt giống của thế gian. Tất cả những hạt giống ấy có thể chia làm hai loại:
1. Hạt giống sẵn có (bản hữu chủng tử), là những loại hạt giống vốn có gốc rễ sẵn từ đời vô thỉ. Ngay sau khi thành đạo, đức Phật liền nói: “Lạ thay! Tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ, hạnh phúc và an lạc, nhưng họ không biết, cứ để mình trôi lăn trong chốn khổ đau từ kiếp này sang kiếp khác!” Vậy, giác tánh là một trong vô số hạt giống đã có sẵn trong chúng ta từ vô thỉ.
2. Hạt giống trao truyền (tân huân chủng tử), là những loại hạt giống được nhận được do sự trao truyền từ ông bà tổ tiên nhiều đời, từ cha mẹ, dòng họ, từ bạn bè, học đường, xã hội, từ sách vở, phim ảnh v.v...
Sự phân biệt có hai loại hạt giống như trên chỉ là nhắm giúp ta dễ hiểu, dễ nhận thấy theo sự hiểu biết thông thường, và nhất là để tu tập trong những bước bắt đầu; sự thật thì bất cứ loại hạt giống nào chứa đựng trong tàng thức cũng sẵn có gốc rễ từ vô thỉ.

HAI LOẠI NGHIỆP (nhị nghiệp)
Có nhiều pháp số về “nhị nghiệp”:
A. Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
1. “Dẫn nghiệp”, là hành động đưa đẩy chúng sinh đi đến một phương hướng nào đó – tức là sẽ sinh ra ở một loài nào đó trong các loài chúng sinh (Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh v.v...). Khi một chúng sinh sinh vào loài Người chẳng hạn, thì chúng sinh ấy phải mang lấy thân thể, hình dáng, các giác quan, tâm ý, cách thức sinh hoạt, đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... giống như bao nhiêu chúng sinh khác của loài Người; vì vậy, “dẫn nghiệp” cũng còn được gọi là “tổng báo nghiệp”.
2. “Mãn nghiệp”, là hành động tự làm cho chính nó trở nên đầy đặn, chín muồi trong hướng đi tới của nó. Đã đành là khi sinh ra làm Người thì chúng sinh đó phải mang lấy thân thể, hình dáng v.v... của chung loài Người, nhưng trong cái thế giới loài Người đó, có người giống nam, có người giống nữ, có người xinh đẹp, có người xấu xí, có người thông minh, có người ngu dốt, có người hiền lành, có người ác độc, có người dễ thương, có người khó thương v.v..., có thể nói là “chẳng ai giống ai”, đó là cái kết quả của “mãn nghiệp”, và vì vậy, nó cũng còn được gọi là “biệt báo nghiệp”.
B. Cộng nghiệp và Biệt nghiệp
1. “Cộng nghiệp” là do tạo những nghiệp nhân giống nhau mà nhiều chúng sinh sẽ sinh ra và cùng sống chung trong một hoàn cảnh (quả báo) giống nhau: những người cùng sinh ra trong một gia đình thì cùng thụ hưởng, chia xẻ nếp sống chung của gia đình ấy; một quốc gia đang ở trong tình trạng chiến tranh thì tất cả nhân dân trong quốc gia ấy đều phải chịu chung những bất hạnh, những tang tóc, những khổ đau cùng cực do chiến tranh gây ra; dân chúng ở những nước tân tiến thì sẽ hưởng được những tiện nghi vật chất đầy đủ hơn dân chúng ở những nước bán khai; v.v...
2. “Biệt nghiệp” là mỗi chúng sinh phải nhận chịu nghiệp báo riêng của mình khi đang cùng sống chung với những chúng sinh khác trong cộng nghiệp như vừa nói trên. Do đã tạo những nghiệp nhân khác nhau mà những người dân của một nước đang trong thời kì chiến tranh, có người thì giàu sang nhờ chiến tranh, có người thì tán gia bại sản vì chiến tranh; có người thì phải vào sinh ra tử không trốn thoát được, nhưng cũng có người cứ ngày ngày ăn chơi phè phỡn như ở một nơi thanh bình; có người thì suốt đời lăn lóc trong trận mạc mà vẫn sống khỏe mạnh, nhưng cũng có người vừa đụng trận lần đầu đã mạng vong; có nhiều gia đình mà mọi người đã bị hi sinh hết trong chiến tranh, nhưng cũng có nhiều gia đình được an toàn trọn vẹn; v.v...
C. Định nghiệp và Bất định nghiệp
1. “Định nghiệp” là những nghiệp nhân chắc chắn phải đưa tới quả báo.
2. “Bất định nghiệp” là những nghiệp nhân không nhất định phải đưa tới quả báo. Trường hợp một ý niệm vừa khởi lên liền bị dập tắt ngay – tức là bị cho chìm xuống đáy tàng thức ngay – và từ đó, ý niệm ấy không bao giờ được có dịp hiện hành (tái xuất hiện trên mặt ý thức) nữa, có thể vì nó đã bị các chủng tử khác lấn áp làm cho tiêu hao, hoặc nó có thể đã bị chuyển hóa hoàn toàn, thì cái ý niệm ấy (nghiệp nhân) sẽ không đưa tới một quả báo nào cả.
D. Thiện nghiệp và Ác nghiệp
1. “Thiện nghiệp” là những hành động mang tính chất từ bi, trí tuệ, sẽ đưa đến an lạc, giải thoát, giác ngộ.
2. “Ác nghiệp” là những hành động phát xuất từ tham, sân, si v.v..., sẽ đưa đến sinh tử luân hồi.

HAI LOẠI SINH TỬ (nhị chủng sinh tử)
Từ “sinh tử” ở đây có nghĩa là cái giai đoạn của mạng sống từ khi sinh cho đến lúc chết; có hai loại: sinh tử của chúng sinh phàm phu thì gọi là “phần đoạn sinh tử”, và sinh tử của thánh nhân thì gọi là “biến dịch sinh tử”.
1. Phần đoạn sinh tử. Tất cả chúng sinh trong ba cõi, do những nghiệp hữu lậu (thiện, ác) làm nhân, do phiền não làm duyên, mà luân chuyển trong sáu đường, thọ nhận quả báo tốt xấu. Phần chính yếu của các quả báo này là cái nhục thân thô trọng, hoặc cao lớn hoặc bé nhỏ, và cái mạng sống có hạn kì nhất định, hoặc lâu dài hoặc ngắn ngủi; được gọi là “phần đoạn thân”. Và sự sinh tử (sinh ra và chết đi) của cái thân phần đoạn này được gọi là “phần đoạn sinh tử”. Chúng sinh ở các cõi trời Vô-sắc, dù thân thể không có hình sắc vật chất như chúng sinh ở cõi Dục và cõi Sắc, nhưng vẫn có thọ mạng với hạn kì nhất định, vẫn còn trong phạm vi sinh tử, cho nên vẫn thuộc loại “phần đoạn sinh tử”. Tóm lại, “phần đoạn sinh tử” là sự sinh tử của tất cả mọi loài chúng sinh phàm phu trong ba cõi sáu đường. Dứt được phần đoạn sinh tử là giải thoát 3 cõi.
2. Biến dịch sinh tử. Các bậc A-la-hán, Bích-chi Phật và Bồ-tát lớn (từ bậc Sơ-địa trở lên) đã lìa thoát ra ngoài ba cõi, thọ nhận thân thể vi diệu thù thắng, tùy ý hóa sinh. Các ngài lại dùng cái thân này trở lại trong ba cõi để tu Bồ-tát hạnh, hóa độ chúng sinh, cho đến khi thành Phật. Trong thời gian này, vì nguyện lực từ bi mà nhục thể của các ngài có thể tùy ý tự do biến hóa đổi khác, thọ mạng cũng không bị hạn kì nhất định, cho nên gọi là “biến dịch thân”. Trong thời gian tu tập hạnh Bồ-tát này, cứ mỗi khi có sự chuyển biến từ nấc thang này lên nấc thang khác trong tiến trình tu chứng thì được coi như là một lần sinh tử, cho nên gọi là “biến dịch sinh tử”. Lại nữa, mỗi lần sinh tử như thế, Bồ-tát tự cảm nhận được trạng thái kì diệu trong tâm trí, không thể nghĩ bàn, cho nên cũng gọi là “bất tư nghị biến dịch sinh tử”.

HAI NGHIỆP BÁO (nhị báo)
“Nghiệp báo” hay “nghiệp quả” là kết quả của các hành động (nghiệp nhân) mà chúng sinh đã tạo ra; có hai loại:
1. Chánh báo, tức là kết quả chính của nghiệp, gồm có một thân thể và tất cả các hiện tượng tâm sinh lí được phát hiện trong thân thể đó.
2. Y báo, tức là hoàn cảnh, môi trường trong đó chánh báo đang sống, gồm có gia đình và những điều kiện thiên nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, v.v...

HAI NGƯỜI LÀM CHẢY MÁU THÂN PHẬT (nhị nhân xuất Phật thân huyết)
Đó là hai người đã làm cho thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bị chảy máu, hồi thời Phật còn tại thế. Hai trường hợp này đã xảy ra với tính chất khác nhau: một đàng thì do ác tâm, muốn ám hại Phật; một đàng thì do thiện tâm, vì để chữa bệnh cho Phật.
1. Tì kheo Đề Bà Đạt Đa, vì ganh tị với Phật, muốn hại Phật để chiếm địa vị lãnh đạo giáo đoàn, đã nhiều lần tìm cách sát hại Phật, trong đó, có một lần ông đứng trên đỉnh núi Linh-thứu, thấy đức Phật và tôn giả A Nan đang đi ở dưới chân núi, bèn xô một tảng đá lớn cho lăn xuống ngay chỗ Phật; rất may là tảng đá đã bị lệch đi, nhưng một mảnh nhỏ của nó đã văng trúng vào một ngón chân Phật, làm cho chảy máu, bị thương. Do tội nghịch này mà ông bị quả báo đọa địa ngục Vô-gián.
  2. Y sĩ Kì Bà, người chuyên lo chăm sóc sức khỏe cho Phật và tăng đoàn. Có lần Phật bị bệnh, ông phải dùng kim châm để chữa trị. Do châm kim mà thân Phật bị chảy máu, nhưng việc này là do thiện tâm, vì để chữa bệnh cho Phật, nên ông được phước báo.

HAI PHƯƠNG TIỆN (nhị phương tiện)
1. Phương tiện thiện xảo thế gian (thế gian thiện xảo phương tiện). Bồ-tát vì muốn lợi mình và lợi người mà thi thiết mọi thứ phương tiện, bởi vậy, trong lúc thực hiện các hạnh tự lợi và lợi tha ấy, Bồ-tát vẫn còn chấp trước, vẫn còn thấy có “sở đắc”, cho nên gọi là “phương tiện thiện xảo thế gian” – hay nói tắt là “phương tiện thế gian”.
2. Phương tiện thiện xảo xuất thế gian (xuất thế gian thiện xảo phương tiện). Bồ-tát dùng nhiều thứ phương tiện thiện xảo chỉ vì lợi người, hoàn toàn không có ý niệm lợi mình, bởi vậy, trong lúc thực hiện các hạnh lợi tha ấy, Bồ-tát không chấp trước, không thấy có “sở đắc”, cho nên gọi là “phương tiện thiện xảo xuất thế gian” – nói tắt là “phương tiện xuất thế gian”.

HAI SỰ BẢO TRÌ (nhị trì)
Từ “bảo trì” ở đây chỉ cho sự bảo trì giới thể, là hai hạnh tổng quát của giới luật.
1. Chỉ trì. Chữ “chỉ” nghĩa là chế ngự, ngăn chặn, tức ngăn chặn thân, ngữ, ý không làm các điều ác (chư ác mạc tác). Do thực hành “chỉ” mà bảo trì được giới thể, gọi là “chỉ trì”.
2. Tác trì. Chữ “tác” nghĩa là tạo tác, sách tấn thân, ngữ, ý làm các điều thiện (chúng thiện phụng hành). Do thực hành “tác” mà bảo trì được giới thể, gọi là “tác trì”.

HAI SỰ THẬT (nhị đế)
1. Sự thật tương đối (tục đế), tức là sự thật do phân biệt, khái niệm mà có.
2. Sự thật tuyệt đối (chân đế), tức là sự thật siêu việt khỏi khái niệm, sự thật được nhìn thấy từ bản tính không phân biệt.
“Hai sự thật” là một phương pháp về nhận thức của tông Tam Luận, nhằm đả phá lối nhận thức thực tại bằng khái niệm, bằng ý thức phân biệt, so sánh, đối đãi; bởi vì nhận thức theo kiểu đó thì không thể nào nhìn thấy được bản tính chân thực của thực tại. Như vậy, theo phương pháp này của tông Tam Luận thì sự thật tương đối bao giờ cũng phải bị phủ nhận, phá đổ, cho đến khi hành giả đạt được sự thật tuyệt đối, tức là sự chứng ngộ về bản chất chân thật của thực tại bằng con đường trung dung – tức là siêu việt khỏi khái niệm. Phương pháp ấy như sau:
1.
a) Tất cả mọi người đều cho rằng mọi sự vật trước mắt đều có thật. (“Có thật” là sự thật tương đối.)
b) Nhưng hành giả thấy rằng, mọi sự vật tuy là có, nhưng đều do nhân duyên hòa hợp mà có, chứ tự chúng không có bản tính chân thật – tức là “không”. (“Không có bản tính chân thật” là sự thật tuyệt đối.)
2. Nhưng, nếu cái thấy “không” của hành giả lại trở thành một khái niệm “không” để đối lập với khái niệm “có”, thì:
a) Cả “có” và “không” là sự thật tương đối. Cái thấy nhị nguyên này phải bị phá đổ để tiến tới sự thật tuyệt đối – tức là thấy rằng:
b) Mọi sự vật là “không phải có cũng không phải không” – “có” và “không” vốn chỉ là hai mặt của cùng một thực tại.
3. Nếu cái thấy “không phải có cũng không phải không” lại trở thành một khái niệm để đối lập với khái niệm “có - không” thì:
a) Cả “có - không” và “không phải có cũng không phải không” đều trở thành sự thật tương đối, phải bị đả phá để tiến tới cái thấy:
b) Mọi sự vật là “không phải không phải có, cũng không phải không phải không”, là sự thật tuyệt đối.
4. Lại nữa, nếu cái thấy “không phải không phải có, cũng không phải không phải không” vừa rồi lại bị khái niệm hóa, thì:
a) Cả “có - không, không phải có cũng không phải không” và “không phải không phải có cũng không phải không phải không” đều trở thành sự thật tương đối, phải bị phủ nhận để hành giả tiến tới cái thấy:
b) Mọi sự vật “không phải là không phải chẳng có, cũng không phải là không phải chẳng không”, là sự thật tuyệt đối.
5. (...)
Sự phủ nhận như trên sẽ dần dần đưa đến chỗ không thể dùng lời nói để diễn đạt, không thể dùng trí năng để suy nghĩ, tức là hoàn toàn siêu việt khỏi mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt để thấy rõ được chân diện mục của thực tại. Tông Hoa Nghiêm gọi phương pháp nhận thức trên đây là “bốn lớp của hai sự thật” (tứ trùng nhị đế), mục đích là để phá trừ mọi chấp trước và hiển thị con đường trung dung.

HAI THẾ GIAN (nhị thế gian)
Chữ “thế” là các pháp hữu vi trôi chảy khắp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai; chữ “gian” là giữa mọi sự mọi vật đều có khoảng cách phân biệt. Một cách tổng quát, có hai loại thế gian:
1. Tình thế gian (tức hữu tình thế gian): là thế gian do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức – xin xem mục “Năm Uẩn” ở sau) giả tạm hợp lại làm thành các loài có tình thức, như trời, người, súc sinh v.v...
2. Khí thế gian (tức vô tình thế gian): là thế gian do bốn đại (đất, nước, gió, lửa – xin xem mục “Bốn Nguyên Tố” ở sau) tích tụ mà làm thành các vật không có tình thức như đất liền, sông, núi, nhà cửa v.v... để dung chứa các loài có tình thức.
Tình thế gian là chánh báo của các loài hữu tình; khí thế gian là y báo của các loài hữu tình.

HAI TRÍ TUỆ (nhị trí)
Ở đây là chỉ cho trí tuệ xuất thế gian của chư thánh giả, chư Phật. Có nhiều pháp số về “hai trí tuệ”:
1. Căn bản trí (hay vô phân biệt trí là loại trí tuệ do đoạn tận các hoặc chướng mà trực tiếp chứng nhập lí thể chân như, thấy rõ nhân không và pháp không, không còn niệm phân biệt nào đối với vạn pháp) và hậu đắc trí (do đã thành tựu căn bản trí mà có được hậu đắc trí, là loại trí tuệ có phân biệt, là các loại phương tiện thiện xảo mà chư Phật dùng để hóa độ chúng sinh).
2. Tận trí (trí tuệ vô lậu của bậc vô học do tận diệt phiền não) và vô sinh trí (trí tuệ biết rõ mình không còn bị thối chuyển vào vòng sinh tử).
3. Thật trí (trí tuệ khế hợp với lí thể chân thật) và quyền trí (trí tuệ quyền xảo, thông suốt các phương tiện độ sinh).
4. Như lí trí (trí tuệ chiếu soi rõ ràng chân lí đệ nhất nghĩa, thuộc chân đế) và như lượng trí (trí tuệ chiếu soi rõ ràng sum la vạn tượng trong vũ trụ, thuộc tục đế).
5. Nhất thiết chủng trí (tương đương với như lí trí, thật trí) và nhất thiết trí (tương đương với như lượng trí, quyền trí).
6. Quán sát trí (trí tuệ thấu suốt nhân không và pháp không, lí thể chân như hiển hiện, hoàn toàn bình đẳng, không phân biệt năng chứng cùng sở chứng) và thủ tướng trí (trí tuệ thấy rõ và giữ lấy tướng trạng sai biệt của vạn pháp, đối với các pháp sự và lí hoàn toàn viên dung vô ngại).
Nhìn chung thì tận trí, căn bản trí, thật trí, như lí trí, nhất thiết chủng trí, và quán sát trí, đều là những tên gọi khác nhau của cùng một trí thể, chẳng qua là tùy từng trường hợp mà gọi tên này hay tên kia; đó là loại trí tuệ căn bản, trí tuệ bản thể, hiển nhiên, thường nhiên của chư Phật, là mặt “thể” của trí tuệ Phật. Trong khi đó, vô sinh trí, hậu đắc trí, quyền trí, như lượng trí, nhất thiết trí, và thủ tướng trí, cũng là những tên gọi khác nhau của cùng một lực dụng; đó là loại trí tuệ phương tiện Phật dùng để độ sinh, là mặt “dụng”của trí tuệ Phật.

HAI VÔ NGÃ (nhị vô ngã)
“Vô ngã” là không có một bản ngã tồn tại. Đó là một ý niệm mà đức Phật đã phương tiện nói ra để phá bỏ cái ý niệm sai lầm là “có một bản ngã tồn tại” (ngã) mà mọi người đều chấp chặt. Có hai thứ vô ngã:
1. Con người là vô ngã (nhân vô ngã). Ý niệm này nói rằng, con người do năm uẩn hợp lại mà thành, không có một bản ngã chân thực tồn tại. Khi năm uẩn tan rã thì con người cũng không còn nữa. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền quán thì hành giả có thể diệt trừ được “phiền não chướng”.
2. Sự vật là vô ngã (pháp vô ngã). Ý niệm này nói rằng, mọi sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hòa hợp và nương nhau mà có, chứ tự nó không có bản ngã tồn tại. Khi nhân duyên tan rã thì sự vật cũng tan rã. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền quán thì hành giả có thể diệt trừ được “sở tri chướng”.
Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả sự vật đều không có bản ngã và cũng không có gì là sở hữu của bản ngã. Hành giả tu tập được phép quán niệm này thì dứt trừ được tính ngã mạn, chứng được niết bàn.”
Thực ra, “vô ngã” chỉ là một khái niệm mà đức Phật đưa ra để đả phá tâm “chấp ngã” của con người, chứ không phải đó là mục đích cuối cùng để cho người tu học đạt tới. Nói cách khác, “vô ngã” chỉ là một phương tiện giúp cho hành giả khai mở tuệ giác. Kinh Niết Bàn nói: “Người trí nên biết, Như Lai vì người chấp ngã mà nói phép quán vô ngã, và muốn cho các tì kheo tu tập phép quán vô ngã.”
Vì “vô ngã” chỉ là một khái niệm cho nên nó chỉ có giá trị như một trợ lực cho công phu thiền tập, và rồi nó phải bị phá bỏ thì tuệ giác mới tỏ lộ ra được. Nếu nó không bị phá bỏ thì sẽ trở thành một thứ “sở tri chướng”. Trong kinh Niết Bàn, Phật dạy: “Nếu cho rằng vạn hữu đều không có ngã thì là đoạn kiến; nếu cho rằng vạn hữu có ngã thì là thường kiến... Người trí nên quán niệm rằng, ‘vô ngã’ chỉ là giả danh, chẳng thật...”

HAI VÔ THƯỜNG (nhị vô thường)
Hiện hữu chỉ là một dòng sinh diệt liên tục. Tất cả vạn pháp không có một thực thể bất biến, mà luôn luôn chuyển đổi không ngừng. Danh từ Phật học gọi trạng thái sinh diệt, biến chuyển ấy là “vô thường”, và phân biệt có hai loại:
1. Khoảnh khắc vô thường (sát na vô thường), là trạng thái sinh diệt, biến chuyển đang xảy ra liên tục trong từng giây phút của sự sống, không lúc nào gián đoạn.
2. Kiếp sống vô thường (nhất kì vô thường), là sự chuyển đổi từ một giai đoạn sinh mệnh này sang một giai đoạn sinh mệnh khác.














Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp