SỐ 3
BA CẢM THỌ (tam thọ)
Cảm thọ tức là cảm giác, là trạng thái hay kinh nghiệm tâm lí phát sinh khi nội thân tiếp xúc với ngoại cảnh. Duy Thức Học phân biệt có ba loại cảm thọ:
1. Cảm thọ khó chịu (khổ thọ): những cảm giác khó chịu, buồn phiền, đau khổ sinh ra khi ta tiếp xúc với những hoàn cảnh ngang trái, những bạo hành đày đọa.
2. Cảm thọ dễ chịu (lạc thọ): những cảm giác dễ chịu, vui thích, sung sướng sinh ra khi ta tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận lợi, hợp ý, thích thú.
3. Cảm thọ trung tính (xả thọ – bất khổ bất lạc thọ): những cảm giác trung hòa, không dễ chịu cũng không khó chịu, không đau khổ cũng không vui sướng, hoặc không có cảm giác nào cả.
BA CẢNH (tam cảnh)
“Cảnh” ở đây là chỉ cho đối tượng của nhận thức; vì vậy nó có liên hệ mật thiết với “lượng” là hình thái của nhận thức. (Xin xem mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở sau.) Những tên khác của “cảnh” là trần, tướng, tướng phần, sở duyên – tất cả đều có nghĩa là đối tượng của nhận thức. Cảnh có 3 loại:
1. TÁNH CẢNH: là tự thân hay thật tướng của sự vật(1). Ở đây, sự vật hiện hữu trong đúng bản tính chân thật của chúng, không bị bóp méo, xuyên tạc hay cắt vụn bởi sự phân biệt, so sánh, suy luận hay phán đoán của nhận thức. Có 2 loại tánh cảnh:
a) Vô chất tánh cảnh: là bản thể chân thực của thực tại, cũng tức là chân như hay pháp thân. Cảnh giới này không thể đạt tới bằng các thức, mà chỉ có thể bằng tuệ giác – tức trí tuệ giác ngộ, là loại nhận thức trực tiếp, không phân biệt. (Loại trí tuệ này khi đã phát sinh thì không còn rơi vào chỗ nhận thức sai lạc nữa, cho nên nó còn được gọi là “trí vô lậu” hay “trí bát nhã”.)
b) Hữu chất tánh cảnh: là tướng trạng của vạn pháp phát hiện từ vô chất tánh cảnh. Sự phát hiện của chúng tùy thuận theo luật tương quan duyên khởi. Trong khi vô chất tánh cảnh ở trên chỉ làm đối tượng cho tuệ giác thì hữu chất tánh cảnh ở đây lại là đối tượng của “chân hiện lượng”. (Xin xem mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở sau.)
2. ĐỚI CHẤT CẢNH: chính là những ý tượng được cấu tạo từ hữu chất tánh cảnh để làm đối tượng cho bảy thức (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý và mạt-na thức), nhưng quan trọng hơn hết là ý thức. Nói cách khác, thức đã căn cứ trên thế giới hữu chất tánh cảnh (tức là tướng trạng của vạn pháp) để tạo nên thế giới đới chất cảnh (tức là các ý tượng) và nhận thức thế giới này như là thế giới tánh cảnh.
3. ĐỘC ẢNH CẢNH: là thế giới ảnh tượng do ý thức tái tạo hoặc sáng tạo khi nó hoạt động độc lập, không có sự cộng tác của 5 thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân thức) - nghĩa là khi không có cảm giác. Vì vậy, độc ảnh cảnh chỉ làm đối tượng cho ý thức mà thôi. Đó là thế giới của hồi tưởng, tưởng tượng và mộng mị.
Có 2 loại độc ảnh cảnh:
a) Hữu chất độc ảnh cảnh: là những ảnh tượng của tri giác và ý tượng (đới chất cảnh) đã từng là đối tượng của ý thức, được ý thức tái tạo để rồi lại lấy đó làm đối tượng cho chính nó. Những ảnh tượng này biểu hiện một cách trung thành hay đôi khi có thay đổi chút ít đối với những tri giác và ý tượng cũ. Chẳng hạn, khi ta hồi tưởng lại cái giờ phút hãi hùng trên biển cả khi chiếc ghe máy của ta bị giặc cướp hoành hành trong chuyến vượt biên mười mấy năm về trước, thì những hình ảnh đang lần lượt diễn lại trong trí nhớ của ta lúc này chính là thế giới của hữu chất độc ảnh cảnh.
b) Vô chất độc ảnh cảnh: là những ảnh tượng hoàn toàn do ý thức tạo dựng ra. Chẳng hạn, khi ta mơ tưởng về một cuộc sống huy hoàng cho chính ta trong tương lai, hoặc tưởng tượng về đời sống của một giống người ở tận một tinh cầu xa xôi nào đó, tất cả những hình ảnh tưởng tượng “viển vông” ấy đều là vô chất độc ảnh cảnh.
(1) Các danh từ thực tại, sự vật, vạn pháp, vạn hữu, vạn vật, vạn sự vạn vật, đều cùng mang một ý nghĩa như nhau.
BA CÕI (tam giới)
Ba cõi cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy rằng, tất cả mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính), nhưng vì bị các kiến chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không tự phát hiện và thắp sáng được khả năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn mãi trong ba cõi. Còn ở trong ba cõi là còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị giác ngộ thì mới được giải thoát ra khỏi ba cõi – tức là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Ba cõi đó là:
1. Cõi Dục (Dục giới). “Dục” là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì đam mê theo các “thú vui” về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống, chạm xúc và dâm dục cho nên luôn luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và khổ đau. Các loài chúng sinh trong cõi Dục này gồm có: Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Trong 5 loài này thì loài Người có tâm ý phát triển cao hơn hết, là cảnh giới có khổ đau và hạnh phúc lẫn lộn. Bởi vậy, các vị Bồ-tát thường chọn sinh vào thế giới loài Người, nơi có nhiều hoàn cảnh thuận lợi, để phụng sự chúng sinh và tu tập các pháp môn cần thiết sau cùng để thành tựu quả Phật. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi Dục này còn có 6 cõi Trời, tuy hưởng được nhiều phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ, và trí tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có hình sắc, nhưng phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường không thể trông thấy được. Họ đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam, nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con người. Sáu cõi trời của cõi Dục (Lục-Dục thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứ-vương, Đao-lợi (cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại.
2. Cõi Sắc (Sắc giới). “Sắc” là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của các vị Phạm Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện v.v..., nhưng rất vi tế, đẹp đẽ, tinh diệu. Các vị trời ở đây không có tướng nam nữ, không có tham dục như ở cõi Dục, chỉ sống trong thiền định. Tùy theo mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được chia làm 4 bậc, gồm 18 cõi Trời:
a) Cõi Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy tùng của các vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị Phạm Thiên), Đại-phạm (các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất trong cõi Sơ-thiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác nhau, nhưng cách suy nghĩ thì đều giống nhau, và trong tám thức thì không còn có tị thức và thiệt thức hoạt động.
b) Cõi Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị Phạm Thiên có chút ít ánh sáng), Vô-lượng-quang (các vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng), Quang-âm (các vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh sáng. Các vị Phạm Thiên ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì khác nhau, và trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm giác đều không còn hoạt động.
c) Cõi Tam-thiền (Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào quang nhỏ), Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có hào quang không xao động). Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh, cả thân và tâm của các vị Phạm Thiên đều hoàn toàn giống nhau.
d) Cõi Tứ-thiền (Tứ thiền thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng), Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng phước báo rộng lớn), Vô-phiền (hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh), Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ), Thiện-hiện (hoàn toàn tự tại), Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng), Vô-tưởng (không còn tư tưởng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống trong cảnh giới thiền định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm thức cảm giác mà cả ý thức cũng không còn hoạt động nữa.
3. Cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới). Cõi này hoàn toàn không còn có vật chất, hình thể, cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng, mà chỉ thuần có nghiệp thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm diệu. Đây là cõi cao nhất trong ba cõi, gồm có 4 cõi Trời:
a) Cõi Không-gian vô-biên (Không vô biên xứ thiên): Cảnh giới của các vị trời chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.
b) Cõi Tâm-thức vô-biên (Thức vô biên xứ thiên): Cõi chỉ thấy có tâm thức vô biên, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là thức vô biên xứ định.
c) Cõi Vô-sở-hữu (Vô sở hữu xứ thiên): Cõi này không còn có bất cứ một hiện tượng gì, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là vô sở hữu xứ định.
d) Cõi Phi-tưởng phi-phi-tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên): Cõi này không có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
Trong sách Đức Phật và Phật Pháp (Phạm Kim Khánh dịch), hoà thượng Narada Maha Thera có nói: “Nên ghi nhận rằng đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lí thuyết về vũ trụ. Dầu những cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lí của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin một điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với sự suy luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lí trí hữu hạn của ta không thể quan niệm được, thì điều ấy cũng không phải hoàn toàn là chính đáng.”
BA CON DẤU (tam ấn - tam pháp ấn)
Con dấu dùng để chứng nhận một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin tưởng. Vậy từ ngữ “con dấu” (ấn) ở đây có nghĩa là chân lí, là điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi bậc Giác Ngộ (Phật) mà người học trò của Phật phải tin tưởng, phải thường quán niệm để có được một nhận thức sáng tỏ về thực tại. Tất cả giáo lí nào phát biểu đúng với nội dung ba con dấu này đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức không phù hợp với ba con dấu này đều là sai lạc, tà ngụy.
A) Trong các kinh luận, ba con dấu thường được nói tới là:
1. Tất cả mọi sự vật đều biến đổi không ngừng (chư hành vô thường).
2. Tất cả mọi sự vật đều không có bản ngã chân thật (chư pháp vô ngã).
3. Bản thể của vạn hữu là vô phân biệt, lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm (niết bàn tịch tịnh).
Con dấu 1 và con dấu 2 (vô thường và vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn hữu, và con dấu 3 (niết bàn) nói lên bản thể của vạn hữu.
B) Mặt khác, theo kinh Pháp Ấn thì ba con dấu này như sau:
1. Không. Bản thể của mọi sự vật là không. “Không” ở đây có nghĩa là mọi sự vật đều hiện hữu theo nguyên lí duyên sinh, không có tự ngã.
2. Vô tướng. Vì là không cho nên bản thể của vạn hữu là vô niệm – tức là không thể dùng nhận thức phân biệt và khái niệm để nhận biết, mà phải dùng trí bình đẳng, vô phân biệt mới thấy rõ được.
3. Vô tác (cũng gọi là vô nguyện, hay vô khởi). Trong nhận thức bình đẳng, vô phân biệt (tức trí tuệ giác ngộ) đó, sẽ không còn có sự phân biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể chứng đắc và đối tượng chứng đắc; không có tạo tác; không có sinh khởi; không có sự mong cầu cũng không có cái gì để mong cầu.
“Không - vô tướng - vô tác” là ba giai đoạn liên tục, toàn vẹn của công phu thiền quán. Đó là giáo lí căn bản của Phật giáo, Kinh Pháp Ấn nói: “Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào cảnh giới giải thoát, là giáo lí căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi, về của chư Phật.”
BA CON ĐƯỜNG (hay BA CỖ XE – tam thừa)
Kinh Pháp Hoa nói: “Thật ra chỉ có một con đường (nhất thừa), nhưng chư Phật tùy căn cơ mà dùng phương tiện, nói có ba con đường (tam thừa)...”
1. Con đường nhỏ (hay cỗ xe nhỏ – tiểu thừa) tức là con đường Thanh-văn (Thanh-văn thừa).
2. Con đường vừa (hay cỗ xe vừa – trung thừa) tức là con đường Duyên-giác (Duyên-giác thừa).
3. Con đường lớn (hay cỗ xe lớn – đại thừa) tức là con đường Bồ-tát (Bồ-tát thừa).
GHI CHÚ: Xin xem lại mục “Hai Con Đường” ở trước.
BA CỬA GIẢI THOÁT (tam giải thoát môn)
Do ba cửa (môn) này mà hành giả đạt tới được cảnh giới giải thoát, tự tại, an lạc. Ba cửa đó là không, vô tướng và vô tác. (Xin xem lại mục “Ba Con Dấu” vừa trình bày ở trên.)
BA ĐỨC (tam đức)
1. Chỉ cho 3 đức tướng của cảnh giới đại niết bàn là: pháp thân đức (thể tánh chân như xưa nay vốn có của thực tại vạn hữu), bát nhã đức (trí tuệ giác ngộ) và giải thoát đức (thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não).
2. Chỉ cho 3 đức tướng của quả vị Phật là: trí đức (trí tuệ giác ngộ quán sát thấy rõ thật tướng của vũ trụ vạn hữu), đoạn đức (diệt trừ tận gốc mọi phiền não hoặc nghiệp) và ân đức (công ơn cứu độ chúng sinh).
BA ĐƯỜNG (tam đồ)
Chữ “đồ” nguyên có nghĩa là dơ nhớp, lầm than. Bởi vậy, “ba đường” (tam đồ) cũng tức là “ba đường dữ” (tam ác đạo, tam ác thú), là thuật ngữ Phật học, đặc biệt dùng để chỉ cho ba cảnh giới Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh.
1. Đường Địa-ngục (Địa-ngục đạo) gọi là đường Lửa (hỏa đồ), tương đương với tâm sân hận (một trong ba thứ phiền não căn bản được gọi là “tam độc”). Những chúng sinh không có tâm từ bi, thường ôm lòng sân hận, sẽ sinh vào các cảnh giới Địa-ngục, phải chịu các hình cụ nóng bức như chảo dầu sôi, nước đồng sôi, roi sắt nướng đỏ, giường lửa, chó lửa v.v...
2. Đường Ngạ-quỉ (Ngạ-quỉ đạo) gọi là đường Dao (đao đồ), tương đương với tâm xan tham (một trong “ba độc”). Những chúng sinh không có tâm bố thí giúp đỡ, thường ôm lòng tham lam keo kiệt, sẽ sinh vào cảnh giới Ngạ-quỉ, thường bị dao gậy đuổi đánh.
3. Đường Súc-sinh (Súc-sinh đạo) gọi là đường Máu (huyết đồ), tương đương với tâm ngu si (một trong “ba độc”). Những chúng sinh tâm niệm ngu si, không có trí sáng suốt, không rõ đạo lí, sẽ sinh vào cảnh giới Súc-sinh, các loài tàn hại, uống máu ăn thịt lẫn nhau.
BA HIỀN (tam hiền)
Ba-hiền là một trong năm địa vị (ngũ vị) trên quá trình tu chứng của các hành giả tiểu thừa cũng như đại thừa. Trong Phật học, hạng người chưa từng biết tu tập, vô minh còn dầy, tạo nhiều nghiệp ác, gọi là “phàm phu”; hạng người bắt đầu biết tu tập, có chút ít trí tuệ, trừ dần nghiệp ác, dứt dần phiền não, tạo nhiều nghiệp thiện, điều phục tâm ý, tinh tấn tiến tới trước, gọi là “hiền”; khi bước vào quả Dự-lưu (đối với hàng tiểu thừa), hay bậc Sơ-địa (đối với hàng Bồ-tát đại thừa) trở lên, thì gọi là “thánh”. Vậy, Ba-hiền là địa vị trung gian giữa phàm phu và thánh nhân. Lại nữa, hành giả ở địa vị Ba-hiền, tuy cao hơn phàm phu, nhưng vẫn còn ở trong vòng ba cõi, vẫn còn chấp tướng, còn “hướng ngoại” để tìm cầu chân lí; vì vậy, Ba-hiền cũng được gọi là “Ngoại-phàm” (phàm phu hướng ngoại). Trong quá trình tu tập, ở tiểu thừa cũng như ở đại thừa, địa vị Ba-hiền được xác lập rõ ràng; hành giả có thể theo đó mà tự soi xét, để thấy mình tu tập có tiến bộ hay không.
Ba-hiền tức địa vị của 3 bậc Hiền, là địa vị đầu tiên của người tu hành trong Phật pháp; có hai loại, của tiểu thừa và của đại thừa:
A. Địa vị Ba-hiền của tiểu thừa:
Tên của mỗi bậc Hiền ở địa vị này cũng tức là tên pháp môn tu tập của hành giả ở bậc ấy.
1. Bậc Năm phép quán ngưng loạn tưởng (Ngũ đình tâm quán): Dùng “năm phép quán ngưng loạn tưởng” (xin xem mục “Năm Phép Quán” ở sau) để chế phục các tâm tham, sân, si, ngã kiến, và tán loạn.
2. Bậc Quán niệm tướng riêng (Biệt tướng niệm trụ): Dùng phép quán “bốn lĩnh vực quán niệm” (xin xem mục “Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm” ở sau), quán chiếu từng tướng riêng như thân thể là bất tịnh, cảm thọ là đau khổ, tâm thức là vô thường, và vạn pháp là vô ngã.
3. Bậc Quán niệm tướng chung (Tổng tướng niệm trụ): Cũng dùng phép quán “bốn lĩnh vực quán niệm” ấy, nhưng quán chiếu tổng quát các tướng đều cùng chung là bất tịnh, khổ, vô thường, và vô ngã. Ví dụ: Khi quán chiếu “thân thể là bất tịnh”, thì đồng thời cũng quán chiếu “thân thể là đau khổ, là vô thường, là vô ngã”; khi quán chiếu về tính chất “bất tịnh”, thì cả thân thể, cảm thọ, tâm thức và vạn pháp đều là “bất tịnh”(1).
Trong ba bậc trên thì bậc Ngũ đình tâm quán sẽ thành tựu về phương diện “chỉ” (dừng lại); còn hai bậc Biệt tướng niệm trụ và Tổng tướng niệm trụ sẽ thành tựu về phương diện “quán” (quán chiếu).
A. Địa vị Ba-hiền của đại thừa:
Địa vị Ba-hiền của đại thừa tức là giai đoạn mà các hành giả tu tập Bồ-tát hạnh phải trải qua trước khi tiến lên cấp Mười-địa, vì vậy, địa vị này cũng còn được gọi là “Bồ-tát Địa-tiền”; gồm ba cấp từ thấp lên cao có tên là Mười-trụ, Mười-hạnh và Mười-hồi-hướng (xin xem các mục “Mười Trụ”, “Mười Hạnh”, “Mười Hồi Hướng” ở sau).
(1) Từ “bất tịnh” vừa được hiểu theo nghĩa hẹp, là không sạch sẽ, dơ bẩn; vừa được hiểu theo nghĩa rộng, là giả dối, không chân thật, vô thường, đầy phiền não cấu nhiễm.
BA HÌNH THÁI NHẬN THỨC (tam lượng)
“Lượng” là hình thái hay phương cách nhận thức, có 3 loại:
1. Nhận thức trực tiếp (hiện lượng): nhận thức đối tượng một cách trực tiếp, thuần túy cảm giác, không có suy luận, diễn dịch, so sánh hay phán đoán. Đây là phương cách nhận thức của năm thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân thức), đôi khi có sự cộng tác của thức thứ sáu là ý thức – nhưng vẫn là trực tiếp, không có suy luận hay phán đoán.
Hình thái nhận thức này có khi đúng và có khi sai. Khi đúng thì gọi là chân hiện lượng, khi sai thì gọi là tợ hiện lượng. (“Tợ” nghĩa là trông giống như cái đó chứ không phải chính thực là cái đó.)
2. Nhận thức so sánh (tỉ lượng): nhận thức mang tính cách suy luận, diễn dịch, so sánh, hay phán đoán. Đây là phương cách nhận thức của thức thứ sáu – ý thức, có khi đúng và cũng có khi sai. Khi đúng thì gọi là chân tỉ lượng, khi sai thì gọi là tợ tỉ lượng.
3. Nhận thức sai lầm (phi lượng): Thực ra, không có riêng một hình thái nhận thức độc lập nào gọi là “phi lượng”. Cho nên, phi lượng chẳng qua chỉ là “tợ hiện lượng” và “tợ tỉ lượng” ở trên vừa nói – tức là nhận thức sai lầm, trông giống như cái đó chứ không phải chính là bản thân cái đó. Duy Thức Học cho rằng, thức thứ bảy (mạt-na) luôn luôn nhận thức sai lầm về sự tồn tại của một bản ngã chân thật, bất biến, cho nên hình thái nhận thức của nó luôn luôn là phi lượng.
BA KHỔ (tam khổ)
Khổ là một thứ cảm thọ (cảm giác), là trạng thái đau đớn, khó chịu, bất như ý khi thân tâm bị bức bách. Y vào tính chất, khổ được chia làm ba loại:
1) Những hoàn cảnh trái ngang, những điều bất như ý, những sự bách hại, v.v... gây ra những cảm giác khó chịu, đau đớn, buồn phiền nơi thân tâm con người; cái khổ đó gọi là “khổ khổ”.
2) Những hoàn cảnh thuận lợi, những điều như ý có đem lại niềm vui cho con người. Nhưng đó chỉ là niềm vui tạm bợ. Khi niềm vui đã tàn thì lại sinh tiếc nuối, khổ đau; cái khổ đó gọi là “hoại khổ”.
3) Mọi vật trong vũ trụ vốn không có tính chất khổ, vui; tâm ý con người cũng có lúc không cảm thấy khổ hay vui; nhưng vì do nhân duyên sinh, nên chúng vô thường, biến đổi, sinh diệt, trôi chảy không ngừng, gây ra đau khổ, phiền muộn một cách âm thầm, vi tế, thâm sâu, mà con người không tỉnh giác nên không nhận biết; cái khổ đó gọi là “hành khổ”.
BA KÌ (tam kì)
Ba kì tức là ba a tăng kì kiếp, nghĩa là ba vô số kiếp; là thời gian tu hành của một vị Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến ngày thành Phật. Bồ-tát Địa-tiền tu tập trải qua bốn mươi bậc (gồm mười Tín, mười Trụ, mười Hạnh và mười Hồi-hướng) thì hoàn tất a tăng kì thứ nhất (sơ a tăng kì); Bồ-tát Địa-thượng, từ bậc Sơ-địa cho đến khi đạt được bậc Thất-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ hai (nhị a tăng kì); từ bậc Bát-địa cho đến bậc Thập-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ ba (tam a tăng kì).
BA LẦN CHUYỂN PHÁP LUÂN (tam chuyển pháp luân)
Pháp số này có hai ý nghĩa:
A. Chỉ cho đức Thế Tôn nói pháp Tứ Đế lần đầu tiên tại vườn Nai sau khi Ngài thành đạo, để độ cho năm vị sa môn nhóm Kiều Trần Như. Khi nói pháp Tứ Đế này, đức Phật đã nói đi nói lại ba lần, với ba chủ ý khác nhau, gọi là “tam chuyển pháp luân”:
1. Thị chuyển. Đầu tiên, với chủ ý khai thị cho thấy, đức Phật đã dạy: “Đây là khổ. Đây là nguyên nhân của khổ. Đây là cảnh giới tịch diệt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt.”
2. Khuyến chuyển. Sau đó, với chủ ý khuyên tu tập, đức Phật dạy tiếp: “Đây là khổ, quí vị nên nhận biết. Đây là nguyên nhân của khổ, quí vị nên đoạn trừ. Đây là cảnh giới tịch diệt, quí vị nên chứng đạt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt, quí vị nên tu tập.”
3. Chứng chuyển. Cuối cùng, với chủ ý xác minh để gây tin tưởng, đức Phật dạy tiếp: “Đây là khổ, Như Lai đã thấy rõ. Đây là nguyên nhân của khổ, Như Lai đã đoạn trừ. Đây là cảnh giới tịch diệt, Như Lai đã chứng đạt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt, Như Lai đã tu tập.”
B. Tông Tam Luận (Trung-quốc) đã chia toàn bộ giáo thuyết của đức Phật trong suốt cuộc đời hóa độ 45 năm của Ngài làm ba phần, với 3 chủ ý khác nhau, gọi là “tam chuyển pháp luân”:
1. Căn bản pháp luân. Trước tiên, ngay sau khi thành đạo, ở cội cây bồ đề, đức Phật đã trực tiếp nói giáo pháp căn bản nhất thừa cho hàng Bồ-tát lớn, trình bày cảnh giới giác ngộ mà Ngài vừa thực chứng; – đó là giáo nghĩa hàm chứa trong kinh Hoa Nghiêm, – gọi là “căn bản pháp luân”.
2. Chi mạt pháp luân. Nhưng giáo pháp nhất thừa ấy quá cao sâu mầu nhiệm, con người độn căn phước mỏng không thể nào lĩnh hội được, cho nên, tiếp theo đó, trong suốt thời gian dài gần 40 năm (nếu kể thời gian hóa độ là 45 năm), đức Phật đã phải tùy theo cơ trí của đại chúng mà nói giáo pháp tam thừa (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát), tức là Ngài đã phương tiện đem giáo pháp nhất thừa mà chia chẻ ra thành ngành ngọn, gọi là “chi mạt pháp luân”.
3. Nhiếp mạt qui bản pháp luân. Nhờ dùng nhiều phương tiện mà đức Phật đã đưa được vô số chúng sinh vào con đường giác ngộ giải thoát; cuối cùng, khi thấy cơ trí của phần đông đại chúng đều đã thăng tiến, thuần thục, có thể thọ nhận giáo pháp vi diệu, Ngài đã dùng những năm còn lại của cuộc đời hóa độ, thu nhiếp hết giáo pháp phương tiện của ba thừa mà qui kết về giáo pháp căn bản nhất thừa; – đó là giáo nghĩa hàm chứa trong các kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, – gọi là “nhiếp mạt qui bản pháp luân”.
BA LOẠI TỊNH NHỤC (tam chủng tịnh nhục)
Chữ “tịnh” ở đây có nghĩa là không cố ý giết, không bảo người khác giết, và không chấp nhận khi biết người khác vì mình mà giết sinh vật để lấy thịt. Theo kinh điển đại thừa, ăn thịt là trái phạm tinh thần từ bi của người tu hành, cho nên có qui điều cấm chỉ ăn thịt. Nhưng trong kinh luật tiểu thừa thì quyền nghi cho phép các thầy tì kheo, có thể ăn ba loại thịt, được gọi là “tịnh nhục”, mà không bị phạm giới; đó là:
1. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), mình không thấy (bất kiến) người ta vì mình mà cố ý giết sinh vật cho mình ăn.
2. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), mình không nghe nói (bất văn) người ta vì mình mà giết sinh vật cho mình ăn.
3. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), không có điều gì làm cho mình nghi ngờ (bất nghi) là người ta vì mình mà giết sinh vật cho mình ăn.
Ngoài ra, thịt của sinh vật tự nó chết, hoặc thịt sinh vật bị các loài thú khác ăn còn thừa, cũng được gọi là “tịnh nhục”; và nếu kể thêm hai thứ thịt này thì có “năm loại tịnh nhục” (ngũ tịnh nhục).
Trái lại với các trường hợp trên thì thuộc loại “thịt bất tịnh” (bất tịnh nhục), tuyệt đối không được ăn.
BA MINH (tam minh)
Các bậc thánh khi chứng đến quả Phật, thì dứt trừ tận tuyệt vô minh si ám, trí sáng tối thượng hiển lộ, thấy biết thấu suốt 3 sự việc hoàn toàn vô ngại, gọi là “ba minh”:
1. Túc mạng minh: trí sáng thấy biết thấu suốt tướng trạng của mình và tất cả chúng sinh từ một đời cho đến hàng trăm, ngàn, vạn, ức đời ở thời quá khứ.
2. Thiên nhãn minh: trí sáng thấy biết thấu suốt các tướng trạng sinh tử của tất cả chúng sinh, chết nơi này chuyển sinh nơi kia, chết nơi kia chuyển sinh nơi này; hoặc do nhân duyên xấu ác mà tạo nghiệp xấu ác, sau khi chết phải sinh vào các cảnh giới đau khổ; hoặc do nhân duyên thiện lành mà tạo nghiệp thiện lành, sau khi chết được sinh về các cảnh giới an vui v.v...
3. Lậu tận minh: trí sáng thấy biết rõ ràng mình đã chân thật chứng ngộ chân lí, đã giải thoát hoàn toàn cái tâm lậu hoặc, đã diệt trừ tận gốc rễ tất cả phiền não vô minh.
BA MÔN HỌC GIẢI THOÁT (tam học - tam vô lậu học)
Mục đích của người tu học Phật là đạt tới thành quả giác ngộ, an lạc và giải thoát cho chính mình và cho cả mọi người. Mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi nào hành giả thể nghiệm trọn vẹn 3 phép học là Giới, Định và Tuệ.
1. Giới, hay giới luật, trên căn bản nó có nghĩa là răn cấm và ngăn ngừa, tức là cấm đoán làm các điều xấu về thân, khẩu và ý, để ngăn ngừa những hậu quả tai hại, xấu xa. Nhưng đó mới chỉ là ý nghĩa tiêu cực của nó. Trên phương diện tích cực, giới còn có nghĩa là sự thể hiện nếp sống tỉnh thức, thường trực đặt tâm ý trong chánh niệm, thực hiện các hành động cụ thể, chính đáng, nhằm xây dựng sự sống, đem lại lợi ích và an lạc cho muôn loài.
Theo cả hai ý nghĩa trên thì giới đích thực là chất liệu sinh hoạt tâm linh căn bản của người tu học Phật. Nó có công năng chuyển hóa bản thân cho chính hành giả và tạo không khí hòa điệu giữa hành giả với môi trường sống chung quanh. Vì vậy mà Kinh Niết Bàn nói: “Giới là những pháp lành nâng chịu cho hành giả một cách vững vàng, chắc chắn, như những bậc thang bằng đá...”; hoặc: “Hành giả nên hành trì giới luật cho bền vững, coi đó như cái phao nổi dùng bơi qua biển cả.” Kinh Di Giáo cũng dạy: “Này quí vị khất sĩ! Sau khi Như Lai diệt độ, quí vị hãy quí trọng và tôn kính giới luật, như ở nơi tối tăm mà thấy được ánh sáng, như người nghèo mà gặp được của báu. Phải xem giới luật chính là thầy của quí vị, không khác gì Như Lai còn trụ thế.”
Giới thường là những điều luật do Phật chế ra – gọi là “chế giới” – cho các chúng tại gia (5 giới), sa di (10 giới), tì kheo (250 giới), tì kheo ni (348 giới), và bồ-tát (34 giới cho chúng tại gia và 58 giới cho chúng xuất gia). Nếu hành trì nghiêm túc các “chế giới” này thì hành giả sẽ có được một tác phong đứng đắn, một tư cách cao thượng, một tâm niệm trong sáng, ngay thẳng, đáng làm gương mẫu và chỗ nương tựa hoàn toàn tin cậy cho mọi người. Đó là ý nghĩa của giới điều gọi là “nhiếp luật nghi” (nghiêm trì giới hạnh), một trong 3 nhóm giới tổng quát của đại thừa (tam tụ tịnh giới) mà người tu học theo hạnh Bồ-tát cần phải hành trì.
Hai giới điều khác của “tam tụ tịnh giới” là “nhiếp thiện pháp” (làm mọi điều lành) và “nhiêu ích hữu tình” (làm lợi ích cho tất cả chúng sinh). Khác với loại “chế giới” ở trên, “tam tụ tịnh giới” là những giới luật đích thực – gọi là “tự tính giới” – của những hành giả phát tâm tu hạnh Bồ-tát mà mọi ý tưởng, ngôn ngữ và hành động đều nhằm đem lại lợi ích và an lạc cho tất cả chúng sinh.
2. Định, là sự tập trung tâm ý bằng cách sống trọn vẹn trong chánh niệm. Con người thường bị hoàn cảnh chi phối, tâm ý luôn luôn bị phân tán, cho nên cứ mải sống trong loạn động, quên lãng, đến nỗi nhiều khi không còn nhận biết mình là ai, đang làm gì, ở đâu! Bởi vậy, sự tu “giới” như trên vừa nói, sẽ giúp cho hành giả tỉnh thức, tâm ý được thắp sáng, các vọng niệm sẽ bị tiêu trừ. Hành giả sẽ thường xuyên có ý thức sáng tỏ về mình, biết mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì. Sự quán niệm thường xuyên ấy sẽ làm cho sức mạnh của tâm linh được tập trung và phát triển: đó gọi là định lực.
3. Tuệ, hay trí tuệ giác ngộ, là sự nhận thức sáng tỏ về thực tại, là sự chứng ngộ chân lí của vạn hữu. Tuệ đạt được là nhờ có định lực, và đó là mục đích tối hậu của người tu học Phật.
Giới - Định - Tuệ là trình tự của giác ngộ: do Giới sinh Định, do Định phát Tuệ. Vậy, muốn đạt được trí tuệ giác ngộ thì phải tu tập thiền định; muốn có được định lực thì phải nghiêm trì giới luật. Không những là trình tự của giác ngộ, mà Giới - Định - Tuệ còn là ba yếu tố tương duyên và bất khả phân li của giác ngộ. Một vị hành giả đã đạt được tuệ giác thì không thể nào là không có giới hạnh và định lực; đã nghiêm trì giới hạnh thì cùng lúc cũng đã có định lực và trí tuệ; khi có đầy đủ định lực thì chắc chắn là giới hạnh và trí tuệ cũng viên mãn. Như thế tức là trong Giới có đầy đủ Định và Tuệ; trong Định có đầy đủ Giới và Tuệ; trong Tuệ có đầy đủ Giới và Định. Hay nói khác đi, tu Giới là đồng thời cũng tu Định và Tuệ; tu Định là đồng thời cũng tu Giới và Tuệ; và tu Tuệ là đồng thời cũng tu Giới và Định. Có một yếu tố là có đủ cả ba yếu tố; thiếu một yếu tố là không có quả vị giác ngộ.
Có thể nói, Giới - Định - Tuệ là nội dung căn bản và tổng quát nhất của tất cả các pháp môn để đưa hành giả đến đạo quả giác ngộ, giải thoát.
BA NGHIỆP (tam nghiệp)
“Nghiệp” là hành động. Tất cả mọi hành động do chúng ta tạo ra được gọi là nghiệp nhân, và kết quả do những hành động ấy đem lại được gọi là nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo. Hành động được chia làm 3 loại:
1. Hành động của thân thể (thân nghiệp), gồm những động tác đi, đứng, nằm, ngồi và tất cả những động tác khác của tay, chân và thân thể (kể cả ăn uống, đụng chạm v.v...).
2. Hành động của miệng lưỡi (khẩu nghiệp), gồm mọi lời nói và âm thanh do miệng lưỡi phát ra.
3. Hành động của tâm ý (ý nghiệp), gồm mọi tư tưởng phát sinh từ tâm ý.
Tính chất của cả ba loại hành động này có khi là thiện (giúp ích), có khi là ác (phá hoại), và cũng có khi là vô kí (trung tính, không thiện cũng không ác).
BA NGÔI BÁU (Tam Bảo)
Với người Phật tử thì chỉ có Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu, ba viên ngọc quí nhất trên đời.
1. PHẬT. Phật là bậc đã đạt được thành quả giác ngộ trọn vẹn, là người có nếp sống tỉnh thức thường trực, và là người đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
Đức Thích Ca Mâu Ni, vị khai sáng ra đạo Phật cách đây 26 thế kỉ, trước hết là một con người, nhưng đó là một người đã phát huy đầy đủ khả năng giác ngộ (Phật tính) để đạt đến địa vị của một đức Phật. Ngài đã giác ngộ chân lí của cuộc sống (tự giác); rồi đem chân lí ấy truyền bá, chỉ dạy, giúp cho mọi người cùng được giác ngộ (giác tha); và như vậy tức là sự nghiệp giác ngộ của Ngài đã được thành tựu trọn vẹn (giác hạnh viên mãn).
Khả năng giác ngộ của Phật gồm có ba đức:
a) Đức TRÍ: là khả năng trí tuệ đưa đến sự giác ngộ cùng tột đối với tất cả những hiện tượng riêng biệt cùng tính cách duyên sinh của vạn hữu.
b) Đức BI: là tình thương rộng lớn thúc đẩy cho việc hóa độ một cách bình đẳng và bao quát tất cả mọi người, mọi loài, khiến cho bỏ ác làm lành, chuyển mê thành ngộ, dứt đau khổ được an vui.
c) Đức DŨNG: là ý chí mạnh mẽ để diệt trừ tất cả những động lực tiềm tàng ở bên trong cũng như những hiện tượng phát hiện ra bên ngoài của các phiền não tham, sân, si – tức là những nọc độc ghê gớm nhất gây ra tham tàn, thù hận, lừa đảo, mù quáng, giết chóc v.v... DŨNG cũng là ý chí mạnh mẽ, nhờ đó mà trí tuệ và tình thương được sử dụng triệt để trong công cuộc độ sinh, khiến cho những cực khổ, gian nguy, cám dỗ, chướng ngại đều bị khắc phục.
2. PHÁP. Pháp là đạo tỉnh thức, là con đường của tình thương, hiểu biết và cởi mở. Con đường ấy đã do đức Phật mở lối, chỉ dạy. Phật đã chứng ngộ và truyền dạy những giáo lí thích hợp với những điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế, chính trị và xã hội của thời đại Ngài. Rồi trong quá trình phát triển của đạo Phật, nhiều hệ thống cấp tiến như Thiền, Duy Thức, Tịnh Độ, v.v... được xuất hiện. Những hệ thống giáo lí này cũng dung hợp những điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế, chính trị và xã hội của con người đương thời, và ở bất cứ nơi nào chúng được truyền tới. Bởi vậy, giáo lí của Phật đã được gọi là giáo lí khế cơ. Điều đó chứng tỏ rằng giáo lí của đạo Phật không phải là một thứ giáo lí bảo thủ, giáo điều, cứng ngắc, đóng khung, mà trái lại, nó luôn luôn cởi mở, khai phóng và tiến bộ để mở rộng chân trời tương lai. Tuy cởi mở, khai phóng, tiến bộ, nhưng những hệ thống giáo lí của đạo Phật trải qua bao đời, ở mọi nơi chốn, vẫn không bị lạc gốc, vẫn luôn luôn phù hợp với chân lí, vẫn giữ đúng các đặc tính căn bản, và tiếp nối được truyền thống từ bi, trí tuệ, hùng lực, bình đẳng và giải thoát nguyên thỉ của đạo Phật; cho nên giáo lí của Phật còn được gọi là giáo lí khế lí.
3. TĂNG. Tăng là đại chúng, là đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Tăng bao gồm tất cả những đoàn thể đang tu học, hành trì hoặc hướng dẫn người khác tu học theo giáo pháp của Phật. Họ nguyện cùng nhau làm kẻ đồng hành trên con đường của hiểu biết, tình thương và cởi mở – tức là con đường giác ngộ. Đó là đoàn thể của các vị Bồ-tát; đoàn thể của những vị xuất gia; đoàn thể của những người cư sĩ tại gia.
Lại nữa, trong cái ý nghĩa là đoàn thể, TĂNG cũng còn bao hàm cái ý nghĩa hòa hợp – tức là mọi người trong đoàn thể ấy phải cùng nhau công nhận và tôn trọng những nguyên tắc sống hòa hợp để ai ai cũng hưởng được cái không khí hòa thuận, thoải mái, an lạc. Có như thế thì sự tu học và hoằng dương đạo pháp mới có kết quả tốt đẹp.
Theo lịch sử thì sau khi chứng đắc đạo quả giác ngộ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến vườn Nai (Lộc-uyển) dạy bài pháp đầu tiên (chuyển pháp luân) về đạo lí Bốn Sự Thật (tứ đế) để khai ngộ cho năm người bạn đồng tu của Ngài lúc trước. Năm vị này do sa môn Kiều Trần Như lãnh đạo, đã được Phật thâu nhận làm đệ tử xuất gia đầu tiên và làm thành tăng đoàn đầu tiên của Ngài. Chính lúc đó mà Ba Ngôi Báu (Tam Bảo) lần đầu tiên xuất hiện ở thế gian này.
Nhưng theo cái nhìn siêu lịch sử thì trong khoảng không gian vô biên và thời gian vô tận, không phải chỉ có một đức Phật mà có vô lượng vô số đức Phật; mỗi đức Phật lại có đủ ba thân (pháp thân, báo thân, hóa thân), cho nên số lượng chư Phật trong mười phương không thể nào dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Nhất (Phật Bảo). Giáo pháp của Phật cũng không phải chỉ có Bốn Sự Thật, Mười Hai Nhân Duyên, hay Sáu Phép Qua Bờ (lục độ), mà thật rộng lớn như biển cả (pháp hải) – thường được diễn tả bằng con số “tám vạn bốn ngàn pháp môn” (nghĩa là rất nhiều pháp môn). Không phải chỉ có đức Thích Ca Mâu Ni nói ra giáo pháp ấy mà vô lượng vô số Phật trong mười phương cũng đều nói giáo pháp như vậy; cho nên sự rộng lớn của Phật pháp cũng không thể dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Hai (Pháp Bảo). Đoàn thể của những người tu học, nguyện cùng nhau làm kẻ đồng hành trên đường giác ngộ cũng có rất nhiều: đoàn thể của các chúng Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa- di, Sa-di-ni, Cư-sĩ v.v... Một đức Phật làm giáo chủ của một giáo hội gồm có các chúng như vậy, thì vô lượng vô số chư Phật trong mười phương cũng vậy; cho nên số lượng các tăng thân cũng không thể nào dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Ba (Tăng Bảo). Như vậy thì sự hiện hữu của Ba Ngôi Báu không phải chỉ hạn hẹp ở một quốc độ, một thời kì, mà ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trải khắp quá khứ, hiện tại, vị lai; không chỗ nào, không thời nào mà không có sự hiện hữu của Ba Ngôi Báu.
Thực ra thì sự phân biệt có ba ngôi báu khác nhau như trên chỉ nói lên được sự thật tương đối mà thôi. Người tu học Phật pháp – nhất là tu theo pháp môn thiền quán – cần phải thường xuyên quán chiếu để thấy rằng PHẬT, PHÁP, TĂNG chỉ là một. Tất cả mọi loài đều có khả năng giác ngộ (Phật tính), vậy Phật và chúng sinh (Tăng) là một. Phật pháp không thể tách rời vũ trụ vạn hữu mà có. Giác ngộ là giác ngộ cái chân lí của vũ trụ vạn hữu. Nhưng người giác ngộ và chân lí cũng không thể tách rời nhau, vì cả hai không phải là hai sự kiện độc lập với nhau, mà chỉ là một. Cho nên có Phật tức là có Pháp và Tăng; có Pháp tức là có Phật và Tăng; có Tăng thì cùng lúc cũng có Phật và có Pháp. Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật, Pháp và Tăng không có gì khác biệt”. Vậy thì Ba Ngôi Báu không phải tìm cầu ở nơi xa xôi nào mà vốn đã có đầy đủ trong tự thân của mỗi người. Nhưng muốn thấy (thực chứng) được điều đó, người tu học phải thường xuyên sống trong tỉnh thức và tinh cần trong công phu thiền quán. Trong nếp sống quên lãng, buông trôi sẽ không thấy được gì cả.
Dù sao thì hình tướng vẫn rất cần thiết cho người mới nhập vào nếp sống tu học. Hình tướng là phương tiện dẫn dắt bước đầu để Phật tử chúng ta đi dần vào nếp sống tỉnh thức. Do đó, một niệm Phật đường, một ngôi chùa, hay một tu viện sẽ trở nên rất hữu ích cho chúng ta; vì ở những nơi đó luôn luôn có đầy đủ biểu tượng của Ba Ngôi Báu: Phật được biểu hiện qua các ảnh, tượng; Pháp được chứa đựng trong ba tạng kinh điển, các sách báo, câu đối, bích chương v.v...; và Tăng là các chúng xuất gia và tại gia đang tu học và thực hiện mọi công tác Phật sự có ích lợi cho chúng sinh.
BA NHÓM TỊNH GIỚI (tam tụ tịnh giới)
Đây là giới pháp đại thừa của hàng Bồ-tát.
1. Nhiếp luật nghi giới (cũng gọi là tự tánh giới). Đây là thuộc về phương diện “dứt ác” (chỉ ác), bao hàm tất cả các loại giới luật nhằm ngăn chận và đoạn trừ tất cả tội lỗi, ác nghiệp. Tùy theo là tại gia hay xuất gia mà thọ trì 5 giới, 10 giới, cụ túc giới v.v... Các loại giới luật này là nhân làm cho pháp thân hiển lộ. Pháp thân vốn tự thanh tịnh, nhưng lâu nay do bị ác nghiệp che lấp nên không hiển lộ được; nay nhờ hành trì giới luật, đoạn lìa các ác nghiệp, thì công thành đức hiện.
2. Nhiếp thiện pháp giới. Đây là thuộc về phương diện “làm lành” (tu thiện), bao hàm tất cả giới hạnh của Bồ-tát đạo, tu tập mọi nghiệp thiện về thân, ngữ, ý và hồi hướng về quả vị Vô-thượng Bồ-đề. Bồ-tát luôn luôn chuyên cần tinh tấn, cúng dường Tam Bảo, tâm không buông lung, giữ gìn và bảo hộ sáu căn, hành trì sáu pháp qua bờ; nếu lỡ vi phạm điều giới nào thì theo đúng pháp chí thành sám hối, nuôi lớn căn lành. Các hạnh lành này cùng với các hành vi “dứt ác” ở trên, là nhân duyên để làm nên báo thân Phật.
3. Nhiếp chúng sinh giới (cũng gọi là nhiêu ích hữu tình giới). Đây là về phương diện “làm lợi ích cho chúng sinh” (lợi sinh) của Bồ-tát, đem lòng từ bi làm mọi việc đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, một cách bình đẳng, không phân biệt.
Ba nhóm tịnh giới trên đây, hai giới xuất gia và tại gia phát tâm đại thừa, tu hạnh Bồ-tát, đều có thể thọ trì; chỉ riêng về nhóm thứ nhất, nhiếp luật nghi giới, chúng nào thì phải thọ loại giới luật căn bản (như 5 giới cho cư sĩ tại gia, cụ túc giới cho tì kheo xuất gia v.v...) của chúng ấy trước khi cùng thọ trì chung ba nhóm tịnh giới (chỉ ác, tu thiện, lợi sinh).
BA NỌC ĐỘC (tam độc)
Đây là ba loại phiền não gốc rễ luôn luôn đeo dính và thúc đẩy chúng sinh tạo ra vô vàn tội lỗi, gây đau khổ triền miên cho chính mình, cho xã hội, và cho cả mọi loài. Bởi vậy, người tu học xem chúng như là những nọc độc nguy hiểm, chuyên tàn phá căn thân huệ mạng mình, để lúc nào cũng tỉnh giác, ngăn chận, không để bị chúng lôi cuốn, sai sử. Ba loại nọc độc đó là:
1. Tham: tâm tham muốn mọi thứ dục vọng.
2. Sân: tâm sân hận đối với những hoàn cảnh không thuận ý.
3. Si: tâm ngu muội do bị vô minh che phủ, không thấy rõ được đâu là chánh, đâu là tà, điều gì là tốt, điều gì là xấu, thế nào là xây dựng, thế nào là phá hoại v.v...
Ba loại phiền não trên, không những là ba loại nọc độc, mà chúng còn làm nền tảng để sinh khởi mọi pháp bất thiện, cho nên chúng cũng được gọi là “ba căn bất thiện” (tam bất thiện căn).
BA NƠI QUAY VỀ NƯƠNG TỰA (tam qui - tam qui y)
Sở dĩ có sự quay về là vì từ trước chúng ta đã bị bao nhiêu thứ mê hoặc làm cho sai đường, lạc lối. Chúng ta đã quen nếp sống quên lãng, tâm trí cứ luôn bị níu kéo về những hình ảnh quá khứ hoặc buông trôi theo những ảo tưởng tương lai. Vì vậy, “quay về” có nghĩa là ý thức phải được thắp sáng, từ bỏ nếp sống buông trôi, quên lãng, để sống trong tỉnh thức, nhìn rõ chân lí của thực tại vạn hữu. Muốn quay về thì phải có chỗ để quay về; và cái chỗ để quay về đó cũng đồng thời là nơi cho chúng ta nương tựa để sống. Có ba căn cứ vô cùng vững chắc để cho chúng ta quay về và nương tựa: đó là Ba Ngôi Báu (Tam Bảo) vừa được trình bày ở trên.
1. Quay về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
2. Quay về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
3. Quay về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Nhưng, như trong mục “Ba Ngôi Báu” ở trên đã nói, Phật - Pháp - Tăng vốn có đầy đủ nơi tự thân của mỗi người, vì vậy, quay về và nương tựa ở đây không có gì khác hơn là quay về và nương tựa nơi chính tự tính giác ngộ của chúng ta.
BA PHÉP QUÁN (tam quán)
(Xin xem mục “Một Tâm Ba Phép Quán” ở trước.)
BA PHÉP TAM MUỘI (tam tam muội)
Chữ “tam muội” nghĩa là “định”. Ba chân lí không, vô tướng, vô nguyện do tu tập thiền định mà đạt được, nên gọi là “ba phép tam muội”. Đó cũng là ba cánh cửa đưa hành giả vào cảnh giới giải thoát, an lạc, tự tại, nên cũng được gọi là ba cửa giải thoát (tam giải thoát môn – xin xem lại mục “Ba Cửa Giải Thoát” ở trên).
BA TẠNG (tam tạng)
Chữ “tạng” nghĩa là cái kho chứa; ở đây có ý nói là cái kho chứa giữ tất cả giáo pháp cần phải biết – tức thâu gồm tất cả thánh điển của Phật giáo. Tất cả thánh điển này được chia làm ba loại, mỗi loại là một cái kho; có ba cái kho, cho nên gọi là “ba tạng”: đó là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận.
1. Tạng KINH (Tu-đa-la tạng): bao gồm tất cả yếu nghĩa giáo thuyết của đức Phật. Kinh, nói đủ là “Khế Kinh”. Chữ “khế” nghĩa là phù hợp, khế hợp. Tất cả những lời dạy của đức Phật vừa khế hợp với chân lí của vũ trụ (khế lí), vừa khế hợp với từng loại căn cơ của chúng sinh (khế cơ), cho nên gọi là “Khế Kinh” – nói tắt là “Kinh”.
2. Tạng LUẬT (Tì-nại-da tạng): bao gồm tất cả những qui điều, phép tắc sinh hoạt áp dụng cho toàn thể giáo đoàn (xuất gia lẫn tại gia), do đức Phật chế định. Ý nghĩa của chữ “luật” là điều phục. Tất cả những luật nghi do đức Phật chế định có thể đối trị những ác nghiệp của chúng sinh, điều phục tâm tính của chúng sinh, cho nên gọi là “Luật”.
3. Tạng LUẬN (A-tì-đạt-ma tạng): bao gồm tất cả những lời bàn luận, lí giải, làm cho tỏ rõ ý nghĩa kinh điển, xác minh tánh tướng của vạn pháp. Từ những giáo thuyết nguyên thỉ của đức Phật, các vị Bồ-tát và các bậc Thánh tăng dùng trí tuệ thù thắng của mình để giải thích, nghị luận, phân tích, hệ thống hóa, làm tỏ rõ ý tứ cô đọng trong Kinh Luật, làm nổi bật các yếu nghĩa, giải đáp các nghi hoặc, v.v... đều gọi là “Luận”.
Nói đến “Ba Tạng” là nói đến phần nội dung của giáo điển; nhưng muốn nói đến sự tu tập để tiến đến giác ngộ giải thoát thì phải nói đến “Ba Pháp Học” (Tam Học hay Tam Vô Lậu Học) là Giới, Định và Tuệ. Nếu xét kĩ, chúng ta sẽ thấy rõ, tự thân ba tạng Kinh Luật Luận đã nói lên đầy đủ cả lí (lí thuyết) và sự (thực hành) của ba pháp học Giới Định Tuệ. Tất cả những gì Phật dạy trong KINH đều nhằm để nhiếp niệm, an tâm, định ý, cho nên KINH tạng chính là cái kho bảo vật của ĐỊNH học. Tất cả những luật nghi do Phật chế định đều nhằm phòng hộ thân miệng ý, ngăn ngừa các hành động tội lỗi, cho nên LUẬT tạng chính là cái kho bảo vật của GIỚI học. Tất cả những minh giải, biện luận, phân tích, giải hoặc, v.v... đối với kinh điển, đều nhằm phát triển trí tuệ đến chỗ siêu việt để thành tựu đạo quả giác ngộ, cho nên LUẬN tạng chính là cái kho bảo vật của TUỆ học. Như vậy là Kinh tạng thông với Định học; Luật tạng thông với Giới học; và Luận tạng thông với Tuệ học. Nhưng đó chỉ là cái nhìn giới hạn, thực ra, với cái nhìn thấu đáo, thì trong tạng Kinh không những chứa đựng đầy đủ tinh yếu của Định học, mà còn chứa đựng tất cả những yếu nghĩa của Giới và Tuệ học. Cho nên có thể nói, Kinh tạng đã bao hàm cả ba pháp học Giới, Định và Tuệ; trong khi đó, Luật tạng bao hàm cả Giới và Định học, còn Luận tạng thì chỉ bao hàm Tuệ học mà thôi.
Các vị cao tăng tinh thông cả ba tạng Kinh Luật Luận thì được tôn xưng là “tam tạng pháp sư”. Tôn hiệu này vốn đã được Phật giáo Ấn-độ dùng từ lâu, để chỉ cho những vị cao tăng thông hiểu cả ba tạng và thuyết giảng cho đồ chúng. Phật giáo Trung-quốc dùng tôn hiệu ấy để chuyên gọi các vị cao tăng tinh thông ba tạng và tùng sự phiên dịch Kinh Luật Luận từ Phạn văn ra Hán văn. Đặc biệt, chỉ một mình pháp sư Huyền Trang ở đời Đường đã được người đời gọi là “Đường Tam Tạng” (tức là chỉ có tên triều đại ghép với từ “tam tạng”, là thành tên ngài Huyền Trang). Ngoài ra, những vị cao tăng chỉ chuyên về Kinh tạng thì gọi là “kinh sư”; chỉ chuyên về Luật tạng thì gọi là “luật sư”; chỉ chuyên về Luận tạng thì gọi là “luận sư”.
Ba tạng Kinh Luật Luận được hình thành sơ khởi trong kì kết tập kinh điển lần thứ nhất, 3 tháng sau ngày Phật nhập diệt. Bởi vậy, ở buổi đầu, nói đến “Ba Tạng” là nói đến thánh điển của Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái, cũng tức là “ba tạng giáo” của tiểu thừa. Về sau, khi Phật giáo đại thừa phát triển, thì Ba Tạng được phân làm hai loại: Ba Tạng hạ thừa (Thanh-văn thừa) và Ba Tạng thượng thừa (Bồ-tát thừa) – hợp tất cả lại thành ra “Sáu Tạng”. Ngày nay, Ba Tạng hiện lưu hành gồm có hai hệ: 1) Tạng Bắc-truyền, điển hình là Hán Tạng, bao gồm tất cả các Kinh, Luật và Luận của đại thừa lẫn tiểu thừa, và được gọi là “Đại Tạng Kinh”; 2) Tạng Nam-truyền, điển hình là Tạng Ba-li, chỉ gồm có Kinh, Luật và Luận của tiểu thừa.
Lại nữa, từ “Ba Tạng” cũng còn được dùng để chỉ cho ba loại giáo pháp Phật nói cho ba thừa: thừa Thanh-văn thì có tạng Thanh-văn (Thanh Văn Tạng); thừa Duyên-giác thì có tạng Duyên-giác (Duyên Giác Tạng); và thừa Bồ-tát thì có tạng Bồ-tát (Bồ Tát Tạng). Nhưng thông thường, hễ nói tới “Ba Tạng” thì ai cũng hiểu đó là ba tạng Kinh, Luật và Luận, gồm thâu tất cả giáo điển đạo Phật. Ngoài ba tạng đó ra, Đại Chúng bộ còn thêm Tạp-tập tạng, làm thành bốn tạng; Độc Tử bộ thì thêm Cấm-chú tạng, cũng làm thành bốn tạng; Pháp Tạng bộ thêm Cấm-chú tạng và Bồ-tát tạng để lập nên năm tạng; Nhất Thuyết bộ lại thêm Tạp-tập tạng và Cấm-chú tạng, luận Thành Thật thì thêm Tạp-tập tạng và Bồ-tát tạng, kinh Lục Ba La Mật thêm Bát-nhã ba-la-mật tạng và Đà-la-ni tạng, cũng đều lập nên năm tạng.
BA THÂN (tam thân)
Tất cả chư Phật đều có đầy đủ 3 thân:
1. Pháp thân: thân chân thật, thường trú, không biến đổi, không bị giới hạn bởi không-thời-gian, không thể nắm bắt được bằng tri thức và khái niệm, không bị sinh lão bệnh tử chi phối. Pháp thân cũng tức là chân như, là pháp tính, là bản thể. Theo truyền sử thì liền sau khi thành đạo và trước khi rời gốc cây bồ đề, đức Thích Ca Mâu Ni, với chính pháp thân này, đã cùng với chư vị Đại Bồ-tát đã chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm.
Tông Pháp Tướng còn gọi pháp thân Phật là thân tự tính.
2. Báo thân: hiện thân chúng sinh của Phật. Thân này giả hợp, vô thường, bị sinh lão bệnh tử chi phối như bao nhiêu thân chúng sinh khác. Đó là cái nhục thân của đức Thích Ca Mâu Ni từ khi nhập thai và sinh ra là thái tử Tất Đạt Đa ở thành Ca-tì-la-vệ, có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp; lớn lên lập gia đình, xuất gia tu khổ hạnh; rồi thành đạo, thuyết pháp độ sinh; và cuối cùng nhập diệt tại thành Câu-thi-na.
Tông Pháp Tướng còn gọi báo thân Phật là thân thọ dụng.
3. Hóa thân: cũng gọi là ứng thân hay ứng hóa thân, là thân hóa hiện của đức Phật. Do tâm nguyện cứu độ chúng sinh một cách bình đẳng và bao la, chư Phật thường tùy duyên mà ứng hiện làm nhiều loại thân khác nhau của các loài chúng sinh khác nhau để dễ dàng hóa độ. Kinh Hoa Nghiêm (phẩm 33) nói: “Khắp cả hư không, ở mỗi một chỗ bằng đầu sợi lông đều có vô lượng vô số cõi Phật; ở mỗi một cõi Phật như vậy, trong mỗi một niệm, Phật ứng hiện vô số hóa thân nhiều như bụi để chuyển pháp luân...”.
Tông Pháp Tướng còn gọi hóa thân Phật là thân biến hóa.
BA THỨ KHÔNG THỂ HẾT (tam bất khả tận)
1. Kinh pháp không thể hết (kinh pháp bất khả tận). Kinh pháp do đức Như Lai nói ra là tùy theo căn cơ không đồng đều của chúng sinh, hoặc nói sâu rộng, hoặc nói giản lược; tuy dùng một âm thanh diễn nói mà phổ biến cả mười phương, cho nên nói là “kinh pháp không thể hết”.
2. Ý nghĩa của văn tự không thể hết (văn tự chi nghĩa bất khả tận). Kinh giáo do đức Như Lai nói ra, nghĩa lí thâm diệu, rộng khắp mười phương, dài suốt ba đời; lớn thì không có cái gì là không bao trùm, nhỏ thì không vật mảy may nào bị sót lọt; nếu là kẻ căn cơ thấp kém, trí biết cạn cợt, thì không thể nào nhìn thấy chỗ áo diệu ấy được, cho nên nói là “ý nghĩa của văn tự không thể hết”.
3. Lời giáo huấn không thể hết (sở tuyên huấn hối bất khả tận). Những lời dạy bảo của đức Như Lai nói cho chúng sinh, hoặc pháp môn đại thừa, hoặc pháp môn tiểu thừa, tùy từng giống loài mà hiện hành để giáo hóa cùng khắp, làm lợi ích vô lượng, cho nên nói là “lời giáo huấn không thể hết”.
BA TÍNH (tam tánh)
Tính chất của nhận thức gồm có 3 loại:
1. Tính thiện (thiện): những nhận thức chân chính khiến tạo ra các nghiệp nhân tốt, phù hợp với chân lí, có công năng dẫn tới giác ngộ và giải thoát.
2. Tính ác (ác): những nhận thức sai lạc khiến tạo nên các nghiệp nhân xấu, có công năng dẫn tới vô minh và sinh tử luân hồi.
3. Tính vô kí (vô kí): những nhận thức không thiện mà cũng không ác, không có công năng dẫn tới giải thoát hay sinh tử luân hồi.
Không những chỉ có nhận thức, mà tất cả mọi lời nói, cử chỉ và hành động – nói chung là ba nghiệp – của con người cũng đều thể hiện tính chất của một trong ba tính ấy.
Vấn đề “tiêu chuẩn thiện ác” thật rất quan trọng đối với việc tu học. Chúng ta có thể đọc thêm sách Đạo Phật Ngày Nay (Chương X) của Nhất Hạnh để có được một hiểu biết rõ ràng, cụ thể và chính xác về vấn đề này.
BA TỊNH NGHIỆP (tam chủng tịnh nghiệp)
Từ “tịnh nghiệp” ở đây có nghĩa là những hành động làm nguyên nhân để được sinh về cõi Tịnh-độ. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, người tu học Phật muốn được vãng sinh về cõi Cực-lạc của đức Phật A Di Đà, ngoài công phu niệm Phật, phải thường xuyên tu tập ba nghiệp sau đây:
1. Hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ, phụng sự các bậc sư trưởng, nuôi lớn tâm từ bi không giết hại chúng sinh, tu tập 10 nghiệp lành thập thiện nghiệp.
2. Thọ trì “tam qui”, giữ gìn trọn vẹn giới luật, oai nghi tề chỉnh đoan trang.
3. Phát tâm bồ đề, tin sâu sắc lí nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến khích người khác tu hành tinh tấn.
BA TRÍ (tam trí)
Ba trí tức là ba trình độ của trí tuệ. Có nhiều danh số về “ba trí”:
A. Theo luận Đại Trí Độ, ba trí gồm có:
1. Nhất thiết trí: Trí tuệ của các hàng Thanh-văn và Duyên-giác, thấy rõ tổng tướng của tất cả các pháp là không, vô thường, vô ngã.
2. Đạo chủng trí: Trí tuệ của hàng Bồ-tát, thấy rõ biệt tướng của tất cả các pháp, mỗi mỗi đều có tính chất đặc thù khác nhau.
3. Nhất thiết chủng trí: Trí tuệ trọn vẹn của Phật, thông đạt cả thông tướng lẫn biệt tướng.
Tông Thiên Thai thì cho rằng, ba trí trên là do ba phép quán không, giả và trung mà có; tức là: nhất thiết trí là do không quán mà có, đạo chủng trí là do giả quán mà có, và nhất thiết chủng trí là do trung quán mà có. Tông này lại y theo ý nghĩa của ba phép quán không, giả, trung mà lập ra hai loại “ba trí” khác nhau: 1) Ba trí biệt tướng: Các vị Bồ-tát theo thứ tự tu tập ba phép quán riêng biệt để thành tựu nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí, thấy rõ Phật tánh, thường trú trong cảnh giới niết bàn. 2) Ba trí nhất tâm: Không theo thứ tự như trên, mà dung thông ba chân lí vào một cảnh, chỉ trong một niệm mà có đủ ba phép quán, cho nên cũng chỉ trong một niệm mà chứng đắc cả ba trí, không có thứ tự trước sau.
B. Ba trí cũng là thanh tịnh trí, nhất thiết trí và vô ngại trí.
1. Thanh tịnh trí là trí tuệ tuyệt đối của chư Phật, do quán chiếu chân lí tuyệt đối, đoạn trừ tất cả các tập khí phiền não, giải thoát mọi thứ chướng ngại, hoàn toàn không còn ô nhiễm.
2. Nhất thiết trí là trí tuệ theo thế tục của chư Phật, biết rõ tất cả pháp tướng, như: tất cả thời, tất cả cõi, tất cả sự việc, tất cả chủng loại.
3. Vô ngại trí cũng là trí tuệ theo thế tục của chư Phật, tức là, đối với bốn loại “tất cả pháp tướng” (thời, cõi, sự việc, chủng loại) ở trên, hễ khởi niệm là biết rõ ngay, không nhờ phương tiện, không cần suy nghĩ, không có gì làm trở ngại được.
Cả ba loại trí tuệ trên đều thuộc về nhất thiết chủng trí.
C. Ba trí cũng là thế gian trí, xuất thế gian trí và xuất thế gian thượng thượng trí.
1. Thế gian trí là trí tuệ của phàm phu và ngoại đạo, đối với vạn pháp luôn luôn khởi niệm phân biệt, chấp có chấp không, cho nên không thể nào giải thoát khỏi thế gian.
2. Xuất thế gian trí là trí tuệ của hàng Thanh-văn và Duyên-giác, do tu tập bốn sự thật và mười hai nhân duyên mà thoát li thế gian, nhưng vì còn đắm vào tướng chung mọi người và tướng riêng mình, nên còn thấy có sinh tử để chán ghét và có niết bàn để mong cầu.
3. Xuất thế gian thượng thượng trí là trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát lớn, thấy rõ vạn pháp là tịch tịnh, không sinh không diệt, vượt hẳn các hàng Thanh-văn và Duyên-giác.
D. Ba trí cũng là ngoại trí, nội trí và chân trí.
1. Ngoại trí là trí tuệ phân biệt rõ ràng sáu căn sáu trần, thông suốt cổ kim, rành rẽ việc đời.
2. Nội trí là trí tuệ diệt trừ phiền não vô minh, làm cho tâm ý được vắng lặng.
3. Chân trí là trí tuệ thấy rõ thể tính vốn vắng lặng của vạn vật, không còn phân biệt có dơ có sạch.
Đ. Ba trí cũng là hạ trí, trung trí và thượng trí.
1. Hạ trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Thanh-văn.
2. Trung trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Duyên-giác.
3. Thượng trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Bồ-tát và chư Phật.
BA TRƯỜNG HỢP KHÔNG THỂ THỰC HIỆN (tam bất năng)
Trong công cuộc hoằng pháp độ sinh, có ba trường hợp mà ngay cả đức Phật cũng không thể thực hiện được tâm nguyện của mình:
1. Không thể cải biến định nghiệp (bất năng miễn định nghiệp). Phật là bậc đầy đủ trí tuệ, hoàn toàn không còn tâm chấp trước đối với tất cả mọi hiện tượng; tuy vậy, đối với kết quả chiêu cảm bởi các định nghiệp thiện ác, Ngài cũng không có cách gì có thể chuyển đổi làm cho khác đi được.
2. Không thể độ kẻ vô duyên (bất năng độ vô duyên). Đức Phật biết rõ căn tánh của tất cả chúng sinh, biết rõ mọi sự vật vô cùng tận, hóa độ khắp chúng sinh; tuy vậy, đối với các chúng sinh không có cơ duyên, Ngài cũng không có cách gì hóa độ được.
3. Không thể làm cho hết thế giới chúng sinh (bất năng tận sinh giới). Tuy đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh ở thế gian, nhưng thế giới của chúng sinh thì vô tận, Ngài không thể làm cho hết chúng sinh được.
BA TUỆ (tam tuệ)
1. Trí tuệ do nghe mà có (văn tuệ). Người tu học Phật, do được nghe giáo pháp từ ba tạng thánh điển, hoặc từ các bậc thiện hữu tri thức, mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Thanh-văn thừa.
2. Trí tuệ do suy tư về những điều nghe thấy mà có (tư tuệ). Người tu học Phật, do suy tư về những đạo lí đã được nghe, hoặc được thấy, mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Duyên-giác thừa.
3. Trí tuệ do tu tập mà có (tu tuệ). Người tu học Phật, do tinh cần tu tập mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Bồ-tát thừa.
Thật ra, ba loại trí tuệ trên đây là một toàn bộ của quá trình đoạn diệt phiền não chứng đắc niết bàn. Văn tuệ là nhân. Chúng sinh nếu chuyên cần thọ trì đọc tụng, nghiên cứu và quảng bá kinh điển, thì chắc chắn trí tuệ sẽ phát sinh; y nơi văn tuệ này mà phát sinh tư tuệ; y nơi tư tuệ này mà phát sinh tu tuệ. Quá trình này cũng giống như một cái cây, do từ hạt giống mà nẩy sinh ra mầm; do mầm mà sinh ra thân cây; từ thân cây mà sinh ra cành lá hoa trái. Xét về tác dụng, thì văn tuệ và tư tuệ chỉ đóng vai trò làm trợ duyên để cho tu tuệ phát sinh; chính tu tuệ mới có đầy đủ khả năng đoạn diệt phiền não và chứng đắc niết bàn.
BA TỰ TÍNH (tam tự tính)
“Tự tính” của thực tại (vạn pháp) tức là bản chất, chân tướng của thực tại. Tự tính đó là đối tượng của nhận thức. Vì không sáng suốt, không tỉnh thức, chúng ta luôn luôn có những nhận thức sai lạc về thực tại. Cho nên người tu học Phật cần phải quán chiếu thường xuyên nhằm “điều chỉnh” nhận thức để có được một cái thấy đúng đắn, cái thấy giác ngộ về chân tướng của thực tại. Khi nghiên cứu về chân tướng của thực tại, các nhà duy thức học đã phân tích có ba tự tính như sau:
1. Tự tính biến kế sở chấp. Tự tính này vạn pháp vốn không tự có, nhưng chính vì sự sai lầm của nhận thức mà thực tại phải mang lấy cái tự tính đó. Tại vì chúng ta quan niệm vạn pháp có sinh, có diệt, có thành, có bại, có thêm, có bớt, có dơ, có sạch, cái này khác cái kia, cái kia không phải cái này, cái kia tốt, cái nọ xấu v.v..., cho nên vạn pháp mới phải mang lấy những tính chất như vậy. Khi ta đang buồn thì ta nhìn cảnh vật cũng thấy buồn; cảnh vật buồn không phải là vì nó vốn có bản chất buồn, mà chính là vì nó phải mang lấy cái tâm trạng buồn của ta lúc ấy. Bởi vậy, khi còn bị vô minh che phủ, bản chất của nhận thức về thực tại của ta vốn là biến kế chấp (tức là vọng tưởng phân biệt), đã tạo ra cho thực tại những tính chất mà chúng không tự có. Cái tự tính của vạn pháp vốn do nhận thức ngu muội của chúng ta tạo ra cho chúng đó, các nhà duy thức học gọi là tự tính biến kế sở chấp.
2. Tự tính y tha khởi. “Y tha khởi” tức là nương vào cái khác mà có. Đây mới là tự tính của thực tại. Tự tính này phát hiện được là do công trình tu học và quán chiếu lâu dài về các tính chất vô thường, vô ngã và nhân duyên của vạn pháp nhằm “điều chỉnh” những nhận thức sai lạc (biến kế chấp) của chúng ta. Theo tự tính này thì mọi sự vật đều nhờ nhau và nương nhau mà sinh thành, tồn tại và hủy diệt. Không có hiện tượng nào hiện hữu độc lập với những hiện tượng khác. Kinh A Hàm nói: “Cái này có thì cái kia có; cái này không thì cái kia không; cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì cái kia diệt.” Nếu chúng ta quán chiếu và thấy được tự tính y tha khởi này của sự vật, thì chúng ta đã có khả năng chuyển hóa vô minh thành tuệ giác.
3. Tự tính viên thành thật. “Viên thành thật” là tính chất viên mãn, thành tựu và chân thật của vạn hữu. Đó chính là bản thân, thể tính, hay chân tướng của thực tại; cũng được gọi là pháp tính hay chân như. Tự tính viên thành thật ngược lại với tự tính biến kế sở chấp – vì nó không do tâm ý tạo tác ra, cho nên nó đích thực là tự tính của vạn pháp, trong đó không có sinh diệt, không có thành bại, không có thêm bớt, không có dơ sạch v.v... Bản thân (hay thể tính) của vạn hữu không thể nhận thức bằng khái niệm, không thể diễn tả bằng ngôn từ. Vạn pháp hiện hữu như thế đó, trong cách thức của chúng, không qua trung gian nhận thức phân biệt. Chỉ khi nào quán chiếu và thấy được tự tính y tha khởi của thực tại thì người tu học mới diệt trừ được mọi sai lạc của nhận thức (biến kế chấp) về thực tại, và lúc đó tự tính viên thành thật của thực tại mới hoàn toàn hiển lộ.
BA VẦNG (tam luân)
“Ba vầng” là ba thành phần làm nên một toàn bộ của một hạnh tu. Từ này được đặc biệt dùng cho sáu pháp qua bờ (lục độ). Ba vầng của pháp bố thí là người cho, người thọ nhận, và vật đem cho; của pháp trì giới là người giữ giới, giới được giữ, và sự phạm hay không phạm giới; của pháp nhẫn nhục là người chịu nhẫn, đối tượng phải chịu nhẫn, và sự động hay không động tâm; của pháp tinh tấn là người tinh tấn, đối tượng cần tinh tấn để đạt đến, và tính siêng năng hay lười biếng; của pháp thiền định là người thiền định, cảnh giới của thiền định, và sự có hoặc không có thiền vị; của pháp trí tuệ là người có trí tuệ, bản tánh của vạn pháp, và tướng trạng của vạn pháp.
BA VẦNG THANH TỊNH (tam luân thanh tịnh)
Khi tu tập sáu pháp qua bờ, dù ở bất cứ pháp nào, hành giả chỉ biết một mực tu tập mà không để tâm chấp trước vào ba vầng, không mong cầu phước báo hữu lậu, gọi là ba vầng thanh tịnh. Ví dụ, khi tu hạnh bố thí, hành giả nên bố thí một cách vô tâm, không để ý rằng mình chính là người bố thí, người kia là người thọ nhận vật bố thí của mình, và của cải (nhiều ít, tốt xấu v.v...) này chính là do mình đem cho người. Nếu để ý tới mình là người đem cho thì sinh lòng tự đắc; để ý tới người thọ nhận thì sinh lòng thương hại hoặc khinh mạn; để ý đến của cải đem cho thì sinh tâm phân biệt, so đo, đôi khi còn hối tiếc, và như thế tức là tâm đã bị nhiễm ô; ngay cả khi bố thí một cách vô tâm mà lại mong cầu mai sau sẽ được phước, được đền ơn, được gặp quả báo tốt, v.v... thì tâm vẫn bị nhiễm ô, gọi là “ba vầng không thanh tịnh” (tam luân bất tịnh), chẳng được phước báo gì, hoặc chỉ được chút ít phước báo hữu lậu ở thế gian mà thôi. Hành giả thực hiện hạnh bố thí với tâm hoàn toàn vô tư như trên, thể hội tánh tướng của ba vầng đều không, không vướng mắc cũng không mong cầu, gọi là “ba vầng thanh tịnh”; đó chính là bố thí ba la mật (hay bố thí độ).
BA VIÊN NGỌC QUÍ (Tam Bảo)
Ba Viên Ngọc Quí cũng tức là Ba Ngôi Báu (xin xem mục “BaNgôi Báu” ở trước).
BA VÔ TÍNH (tam vô tính)
Tuy tự tính y tha khởi có thể giúp phá vỡ được tính cách “biến kế sở chấp” của sự vật, nhưng dù sao thì nó vẫn chỉ được xem là một phương tiện, vì vẫn còn là một khái niệm về sự vật, và cuối cùng cũng phải bị quét sạch thì chân tướng của thực tại mới hoàn toàn được hiển lộ. Vì lí do đó, sau khi thuyết minh “ba tự tính” của đối tượng nhận thức, Duy Thức Học lại thành lập thuyết “ba vô tính” nhằm triệt tiêu hết mọi khái niệm:
1. Tướng vô tính. Tuy biến kế sở chấp là tự tính của thực tại nhưng đó cũng chỉ là một khái niệm về sự vật mà thôi, không phải đích thực là chân tướng của thực tại. Thực tại là thực tại, không phải là biến kế sở chấp, cũng không phải là không biến kế sở chấp.
2. Sinh vô tính (hay vô tự nhiên tính). Y tha khởi là tự tính của thực tại, nhưng đó cũng chỉ là một khái niệm về sự vật. Sự vật là nhân duyên sinh (y tha khởi), và nhân duyên sinh không có thực tính. Bởi vậy, thực tại là thực tại, không phải là y tha khởi, cũng không phải là không y tha khởi.
3. Thắng nghĩa vô tính (hay pháp vô tính). “Thắng nghĩa” có nghĩa là tuyệt đối, là tên gọi khác của tự tính viên thành thật. Viên thành thật cũng tức là chân như, là thực tính của vạn pháp. Dù vậy, cuối cùng thì khái niệm này cũng phải được lìa bỏ; vì với tuệ giác vô niệm, thực tại là thực tại, không phải là viên thành thật, cũng không phải là không viên thành thật.
Như vậy, “vô tính” mới chính thực là “tự tính”, và thực tại trong trường hợp này chỉ hiển lộ dưới tuệ giác vô niệm, vì với bất cứ một khái niệm nào – dù đó là khái niệm “viên thành thật” – thực tại cũng chỉ là một mảnh cắt xén (biến kế) của vọng tưởng phân biệt, của tà kiến.
SỐ 3
BA CẢM THỌ (tam thọ)
Cảm thọ tức là cảm giác, là trạng thái hay kinh nghiệm tâm lí phát sinh khi nội thân tiếp xúc với ngoại cảnh. Duy Thức Học phân biệt có ba loại cảm thọ:
1. Cảm thọ khó chịu (khổ thọ): những cảm giác khó chịu, buồn phiền, đau khổ sinh ra khi ta tiếp xúc với những hoàn cảnh ngang trái, những bạo hành đày đọa.
2. Cảm thọ dễ chịu (lạc thọ): những cảm giác dễ chịu, vui thích, sung sướng sinh ra khi ta tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận lợi, hợp ý, thích thú.
3. Cảm thọ trung tính (xả thọ – bất khổ bất lạc thọ): những cảm giác trung hòa, không dễ chịu cũng không khó chịu, không đau khổ cũng không vui sướng, hoặc không có cảm giác nào cả.
BA CẢNH (tam cảnh)
“Cảnh” ở đây là chỉ cho đối tượng của nhận thức; vì vậy nó có liên hệ mật thiết với “lượng” là hình thái của nhận thức. (Xin xem mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở sau.) Những tên khác của “cảnh” là trần, tướng, tướng phần, sở duyên – tất cả đều có nghĩa là đối tượng của nhận thức. Cảnh có 3 loại:
1. TÁNH CẢNH: là tự thân hay thật tướng của sự vật(1). Ở đây, sự vật hiện hữu trong đúng bản tính chân thật của chúng, không bị bóp méo, xuyên tạc hay cắt vụn bởi sự phân biệt, so sánh, suy luận hay phán đoán của nhận thức. Có 2 loại tánh cảnh:
a) Vô chất tánh cảnh: là bản thể chân thực của thực tại, cũng tức là chân như hay pháp thân. Cảnh giới này không thể đạt tới bằng các thức, mà chỉ có thể bằng tuệ giác – tức trí tuệ giác ngộ, là loại nhận thức trực tiếp, không phân biệt. (Loại trí tuệ này khi đã phát sinh thì không còn rơi vào chỗ nhận thức sai lạc nữa, cho nên nó còn được gọi là “trí vô lậu” hay “trí bát nhã”.)
b) Hữu chất tánh cảnh: là tướng trạng của vạn pháp phát hiện từ vô chất tánh cảnh. Sự phát hiện của chúng tùy thuận theo luật tương quan duyên khởi. Trong khi vô chất tánh cảnh ở trên chỉ làm đối tượng cho tuệ giác thì hữu chất tánh cảnh ở đây lại là đối tượng của “chân hiện lượng”. (Xin xem mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở sau.)
2. ĐỚI CHẤT CẢNH: chính là những ý tượng được cấu tạo từ hữu chất tánh cảnh để làm đối tượng cho bảy thức (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý và mạt-na thức), nhưng quan trọng hơn hết là ý thức. Nói cách khác, thức đã căn cứ trên thế giới hữu chất tánh cảnh (tức là tướng trạng của vạn pháp) để tạo nên thế giới đới chất cảnh (tức là các ý tượng) và nhận thức thế giới này như là thế giới tánh cảnh.
3. ĐỘC ẢNH CẢNH: là thế giới ảnh tượng do ý thức tái tạo hoặc sáng tạo khi nó hoạt động độc lập, không có sự cộng tác của 5 thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân thức) - nghĩa là khi không có cảm giác. Vì vậy, độc ảnh cảnh chỉ làm đối tượng cho ý thức mà thôi. Đó là thế giới của hồi tưởng, tưởng tượng và mộng mị.
Có 2 loại độc ảnh cảnh:
a) Hữu chất độc ảnh cảnh: là những ảnh tượng của tri giác và ý tượng (đới chất cảnh) đã từng là đối tượng của ý thức, được ý thức tái tạo để rồi lại lấy đó làm đối tượng cho chính nó. Những ảnh tượng này biểu hiện một cách trung thành hay đôi khi có thay đổi chút ít đối với những tri giác và ý tượng cũ. Chẳng hạn, khi ta hồi tưởng lại cái giờ phút hãi hùng trên biển cả khi chiếc ghe máy của ta bị giặc cướp hoành hành trong chuyến vượt biên mười mấy năm về trước, thì những hình ảnh đang lần lượt diễn lại trong trí nhớ của ta lúc này chính là thế giới của hữu chất độc ảnh cảnh.
b) Vô chất độc ảnh cảnh: là những ảnh tượng hoàn toàn do ý thức tạo dựng ra. Chẳng hạn, khi ta mơ tưởng về một cuộc sống huy hoàng cho chính ta trong tương lai, hoặc tưởng tượng về đời sống của một giống người ở tận một tinh cầu xa xôi nào đó, tất cả những hình ảnh tưởng tượng “viển vông” ấy đều là vô chất độc ảnh cảnh.
(1) Các danh từ thực tại, sự vật, vạn pháp, vạn hữu, vạn vật, vạn sự vạn vật, đều cùng mang một ý nghĩa như nhau.
BA CÕI (tam giới)
Ba cõi cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy rằng, tất cả mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính), nhưng vì bị các kiến chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không tự phát hiện và thắp sáng được khả năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn mãi trong ba cõi. Còn ở trong ba cõi là còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị giác ngộ thì mới được giải thoát ra khỏi ba cõi – tức là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Ba cõi đó là:
1. Cõi Dục (Dục giới). “Dục” là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì đam mê theo các “thú vui” về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống, chạm xúc và dâm dục cho nên luôn luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và khổ đau. Các loài chúng sinh trong cõi Dục này gồm có: Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Trong 5 loài này thì loài Người có tâm ý phát triển cao hơn hết, là cảnh giới có khổ đau và hạnh phúc lẫn lộn. Bởi vậy, các vị Bồ-tát thường chọn sinh vào thế giới loài Người, nơi có nhiều hoàn cảnh thuận lợi, để phụng sự chúng sinh và tu tập các pháp môn cần thiết sau cùng để thành tựu quả Phật. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi Dục này còn có 6 cõi Trời, tuy hưởng được nhiều phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ, và trí tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có hình sắc, nhưng phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường không thể trông thấy được. Họ đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam, nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con người. Sáu cõi trời của cõi Dục (Lục-Dục thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứ-vương, Đao-lợi (cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại.
2. Cõi Sắc (Sắc giới). “Sắc” là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của các vị Phạm Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện v.v..., nhưng rất vi tế, đẹp đẽ, tinh diệu. Các vị trời ở đây không có tướng nam nữ, không có tham dục như ở cõi Dục, chỉ sống trong thiền định. Tùy theo mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được chia làm 4 bậc, gồm 18 cõi Trời:
a) Cõi Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy tùng của các vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị Phạm Thiên), Đại-phạm (các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất trong cõi Sơ-thiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác nhau, nhưng cách suy nghĩ thì đều giống nhau, và trong tám thức thì không còn có tị thức và thiệt thức hoạt động.
b) Cõi Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị Phạm Thiên có chút ít ánh sáng), Vô-lượng-quang (các vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng), Quang-âm (các vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh sáng. Các vị Phạm Thiên ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì khác nhau, và trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm giác đều không còn hoạt động.
c) Cõi Tam-thiền (Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào quang nhỏ), Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có hào quang không xao động). Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh, cả thân và tâm của các vị Phạm Thiên đều hoàn toàn giống nhau.
d) Cõi Tứ-thiền (Tứ thiền thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng), Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng phước báo rộng lớn), Vô-phiền (hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh), Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ), Thiện-hiện (hoàn toàn tự tại), Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng), Vô-tưởng (không còn tư tưởng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống trong cảnh giới thiền định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm thức cảm giác mà cả ý thức cũng không còn hoạt động nữa.
3. Cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới). Cõi này hoàn toàn không còn có vật chất, hình thể, cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng, mà chỉ thuần có nghiệp thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm diệu. Đây là cõi cao nhất trong ba cõi, gồm có 4 cõi Trời:
a) Cõi Không-gian vô-biên (Không vô biên xứ thiên): Cảnh giới của các vị trời chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.
b) Cõi Tâm-thức vô-biên (Thức vô biên xứ thiên): Cõi chỉ thấy có tâm thức vô biên, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là thức vô biên xứ định.
c) Cõi Vô-sở-hữu (Vô sở hữu xứ thiên): Cõi này không còn có bất cứ một hiện tượng gì, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là vô sở hữu xứ định.
d) Cõi Phi-tưởng phi-phi-tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên): Cõi này không có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
Trong sách Đức Phật và Phật Pháp (Phạm Kim Khánh dịch), hoà thượng Narada Maha Thera có nói: “Nên ghi nhận rằng đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lí thuyết về vũ trụ. Dầu những cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lí của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin một điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với sự suy luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lí trí hữu hạn của ta không thể quan niệm được, thì điều ấy cũng không phải hoàn toàn là chính đáng.”
BA CON DẤU (tam ấn - tam pháp ấn)
Con dấu dùng để chứng nhận một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin tưởng. Vậy từ ngữ “con dấu” (ấn) ở đây có nghĩa là chân lí, là điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi bậc Giác Ngộ (Phật) mà người học trò của Phật phải tin tưởng, phải thường quán niệm để có được một nhận thức sáng tỏ về thực tại. Tất cả giáo lí nào phát biểu đúng với nội dung ba con dấu này đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức không phù hợp với ba con dấu này đều là sai lạc, tà ngụy.
A) Trong các kinh luận, ba con dấu thường được nói tới là:
1. Tất cả mọi sự vật đều biến đổi không ngừng (chư hành vô thường).
2. Tất cả mọi sự vật đều không có bản ngã chân thật (chư pháp vô ngã).
3. Bản thể của vạn hữu là vô phân biệt, lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm (niết bàn tịch tịnh).
Con dấu 1 và con dấu 2 (vô thường và vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn hữu, và con dấu 3 (niết bàn) nói lên bản thể của vạn hữu.
B) Mặt khác, theo kinh Pháp Ấn thì ba con dấu này như sau:
1. Không. Bản thể của mọi sự vật là không. “Không” ở đây có nghĩa là mọi sự vật đều hiện hữu theo nguyên lí duyên sinh, không có tự ngã.
2. Vô tướng. Vì là không cho nên bản thể của vạn hữu là vô niệm – tức là không thể dùng nhận thức phân biệt và khái niệm để nhận biết, mà phải dùng trí bình đẳng, vô phân biệt mới thấy rõ được.
3. Vô tác (cũng gọi là vô nguyện, hay vô khởi). Trong nhận thức bình đẳng, vô phân biệt (tức trí tuệ giác ngộ) đó, sẽ không còn có sự phân biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể chứng đắc và đối tượng chứng đắc; không có tạo tác; không có sinh khởi; không có sự mong cầu cũng không có cái gì để mong cầu.
“Không - vô tướng - vô tác” là ba giai đoạn liên tục, toàn vẹn của công phu thiền quán. Đó là giáo lí căn bản của Phật giáo, Kinh Pháp Ấn nói: “Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào cảnh giới giải thoát, là giáo lí căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi, về của chư Phật.”
BA CON ĐƯỜNG (hay BA CỖ XE – tam thừa)
Kinh Pháp Hoa nói: “Thật ra chỉ có một con đường (nhất thừa), nhưng chư Phật tùy căn cơ mà dùng phương tiện, nói có ba con đường (tam thừa)...”
1. Con đường nhỏ (hay cỗ xe nhỏ – tiểu thừa) tức là con đường Thanh-văn (Thanh-văn thừa).
2. Con đường vừa (hay cỗ xe vừa – trung thừa) tức là con đường Duyên-giác (Duyên-giác thừa).
3. Con đường lớn (hay cỗ xe lớn – đại thừa) tức là con đường Bồ-tát (Bồ-tát thừa).
GHI CHÚ: Xin xem lại mục “Hai Con Đường” ở trước.
BA CỬA GIẢI THOÁT (tam giải thoát môn)
Do ba cửa (môn) này mà hành giả đạt tới được cảnh giới giải thoát, tự tại, an lạc. Ba cửa đó là không, vô tướng và vô tác. (Xin xem lại mục “Ba Con Dấu” vừa trình bày ở trên.)
BA ĐỨC (tam đức)
1. Chỉ cho 3 đức tướng của cảnh giới đại niết bàn là: pháp thân đức (thể tánh chân như xưa nay vốn có của thực tại vạn hữu), bát nhã đức (trí tuệ giác ngộ) và giải thoát đức (thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não).
2. Chỉ cho 3 đức tướng của quả vị Phật là: trí đức (trí tuệ giác ngộ quán sát thấy rõ thật tướng của vũ trụ vạn hữu), đoạn đức (diệt trừ tận gốc mọi phiền não hoặc nghiệp) và ân đức (công ơn cứu độ chúng sinh).
BA ĐƯỜNG (tam đồ)
Chữ “đồ” nguyên có nghĩa là dơ nhớp, lầm than. Bởi vậy, “ba đường” (tam đồ) cũng tức là “ba đường dữ” (tam ác đạo, tam ác thú), là thuật ngữ Phật học, đặc biệt dùng để chỉ cho ba cảnh giới Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh.
1. Đường Địa-ngục (Địa-ngục đạo) gọi là đường Lửa (hỏa đồ), tương đương với tâm sân hận (một trong ba thứ phiền não căn bản được gọi là “tam độc”). Những chúng sinh không có tâm từ bi, thường ôm lòng sân hận, sẽ sinh vào các cảnh giới Địa-ngục, phải chịu các hình cụ nóng bức như chảo dầu sôi, nước đồng sôi, roi sắt nướng đỏ, giường lửa, chó lửa v.v...
2. Đường Ngạ-quỉ (Ngạ-quỉ đạo) gọi là đường Dao (đao đồ), tương đương với tâm xan tham (một trong “ba độc”). Những chúng sinh không có tâm bố thí giúp đỡ, thường ôm lòng tham lam keo kiệt, sẽ sinh vào cảnh giới Ngạ-quỉ, thường bị dao gậy đuổi đánh.
3. Đường Súc-sinh (Súc-sinh đạo) gọi là đường Máu (huyết đồ), tương đương với tâm ngu si (một trong “ba độc”). Những chúng sinh tâm niệm ngu si, không có trí sáng suốt, không rõ đạo lí, sẽ sinh vào cảnh giới Súc-sinh, các loài tàn hại, uống máu ăn thịt lẫn nhau.
BA HIỀN (tam hiền)
Ba-hiền là một trong năm địa vị (ngũ vị) trên quá trình tu chứng của các hành giả tiểu thừa cũng như đại thừa. Trong Phật học, hạng người chưa từng biết tu tập, vô minh còn dầy, tạo nhiều nghiệp ác, gọi là “phàm phu”; hạng người bắt đầu biết tu tập, có chút ít trí tuệ, trừ dần nghiệp ác, dứt dần phiền não, tạo nhiều nghiệp thiện, điều phục tâm ý, tinh tấn tiến tới trước, gọi là “hiền”; khi bước vào quả Dự-lưu (đối với hàng tiểu thừa), hay bậc Sơ-địa (đối với hàng Bồ-tát đại thừa) trở lên, thì gọi là “thánh”. Vậy, Ba-hiền là địa vị trung gian giữa phàm phu và thánh nhân. Lại nữa, hành giả ở địa vị Ba-hiền, tuy cao hơn phàm phu, nhưng vẫn còn ở trong vòng ba cõi, vẫn còn chấp tướng, còn “hướng ngoại” để tìm cầu chân lí; vì vậy, Ba-hiền cũng được gọi là “Ngoại-phàm” (phàm phu hướng ngoại). Trong quá trình tu tập, ở tiểu thừa cũng như ở đại thừa, địa vị Ba-hiền được xác lập rõ ràng; hành giả có thể theo đó mà tự soi xét, để thấy mình tu tập có tiến bộ hay không.
Ba-hiền tức địa vị của 3 bậc Hiền, là địa vị đầu tiên của người tu hành trong Phật pháp; có hai loại, của tiểu thừa và của đại thừa:
A. Địa vị Ba-hiền của tiểu thừa:
Tên của mỗi bậc Hiền ở địa vị này cũng tức là tên pháp môn tu tập của hành giả ở bậc ấy.
1. Bậc Năm phép quán ngưng loạn tưởng (Ngũ đình tâm quán): Dùng “năm phép quán ngưng loạn tưởng” (xin xem mục “Năm Phép Quán” ở sau) để chế phục các tâm tham, sân, si, ngã kiến, và tán loạn.
2. Bậc Quán niệm tướng riêng (Biệt tướng niệm trụ): Dùng phép quán “bốn lĩnh vực quán niệm” (xin xem mục “Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm” ở sau), quán chiếu từng tướng riêng như thân thể là bất tịnh, cảm thọ là đau khổ, tâm thức là vô thường, và vạn pháp là vô ngã.
3. Bậc Quán niệm tướng chung (Tổng tướng niệm trụ): Cũng dùng phép quán “bốn lĩnh vực quán niệm” ấy, nhưng quán chiếu tổng quát các tướng đều cùng chung là bất tịnh, khổ, vô thường, và vô ngã. Ví dụ: Khi quán chiếu “thân thể là bất tịnh”, thì đồng thời cũng quán chiếu “thân thể là đau khổ, là vô thường, là vô ngã”; khi quán chiếu về tính chất “bất tịnh”, thì cả thân thể, cảm thọ, tâm thức và vạn pháp đều là “bất tịnh”(1).
Trong ba bậc trên thì bậc Ngũ đình tâm quán sẽ thành tựu về phương diện “chỉ” (dừng lại); còn hai bậc Biệt tướng niệm trụ và Tổng tướng niệm trụ sẽ thành tựu về phương diện “quán” (quán chiếu).
A. Địa vị Ba-hiền của đại thừa:
Địa vị Ba-hiền của đại thừa tức là giai đoạn mà các hành giả tu tập Bồ-tát hạnh phải trải qua trước khi tiến lên cấp Mười-địa, vì vậy, địa vị này cũng còn được gọi là “Bồ-tát Địa-tiền”; gồm ba cấp từ thấp lên cao có tên là Mười-trụ, Mười-hạnh và Mười-hồi-hướng (xin xem các mục “Mười Trụ”, “Mười Hạnh”, “Mười Hồi Hướng” ở sau).
(1) Từ “bất tịnh” vừa được hiểu theo nghĩa hẹp, là không sạch sẽ, dơ bẩn; vừa được hiểu theo nghĩa rộng, là giả dối, không chân thật, vô thường, đầy phiền não cấu nhiễm.
BA HÌNH THÁI NHẬN THỨC (tam lượng)
“Lượng” là hình thái hay phương cách nhận thức, có 3 loại:
1. Nhận thức trực tiếp (hiện lượng): nhận thức đối tượng một cách trực tiếp, thuần túy cảm giác, không có suy luận, diễn dịch, so sánh hay phán đoán. Đây là phương cách nhận thức của năm thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân thức), đôi khi có sự cộng tác của thức thứ sáu là ý thức – nhưng vẫn là trực tiếp, không có suy luận hay phán đoán.
Hình thái nhận thức này có khi đúng và có khi sai. Khi đúng thì gọi là chân hiện lượng, khi sai thì gọi là tợ hiện lượng. (“Tợ” nghĩa là trông giống như cái đó chứ không phải chính thực là cái đó.)
2. Nhận thức so sánh (tỉ lượng): nhận thức mang tính cách suy luận, diễn dịch, so sánh, hay phán đoán. Đây là phương cách nhận thức của thức thứ sáu – ý thức, có khi đúng và cũng có khi sai. Khi đúng thì gọi là chân tỉ lượng, khi sai thì gọi là tợ tỉ lượng.
3. Nhận thức sai lầm (phi lượng): Thực ra, không có riêng một hình thái nhận thức độc lập nào gọi là “phi lượng”. Cho nên, phi lượng chẳng qua chỉ là “tợ hiện lượng” và “tợ tỉ lượng” ở trên vừa nói – tức là nhận thức sai lầm, trông giống như cái đó chứ không phải chính là bản thân cái đó. Duy Thức Học cho rằng, thức thứ bảy (mạt-na) luôn luôn nhận thức sai lầm về sự tồn tại của một bản ngã chân thật, bất biến, cho nên hình thái nhận thức của nó luôn luôn là phi lượng.
BA KHỔ (tam khổ)
Khổ là một thứ cảm thọ (cảm giác), là trạng thái đau đớn, khó chịu, bất như ý khi thân tâm bị bức bách. Y vào tính chất, khổ được chia làm ba loại:
1) Những hoàn cảnh trái ngang, những điều bất như ý, những sự bách hại, v.v... gây ra những cảm giác khó chịu, đau đớn, buồn phiền nơi thân tâm con người; cái khổ đó gọi là “khổ khổ”.
2) Những hoàn cảnh thuận lợi, những điều như ý có đem lại niềm vui cho con người. Nhưng đó chỉ là niềm vui tạm bợ. Khi niềm vui đã tàn thì lại sinh tiếc nuối, khổ đau; cái khổ đó gọi là “hoại khổ”.
3) Mọi vật trong vũ trụ vốn không có tính chất khổ, vui; tâm ý con người cũng có lúc không cảm thấy khổ hay vui; nhưng vì do nhân duyên sinh, nên chúng vô thường, biến đổi, sinh diệt, trôi chảy không ngừng, gây ra đau khổ, phiền muộn một cách âm thầm, vi tế, thâm sâu, mà con người không tỉnh giác nên không nhận biết; cái khổ đó gọi là “hành khổ”.
BA KÌ (tam kì)
Ba kì tức là ba a tăng kì kiếp, nghĩa là ba vô số kiếp; là thời gian tu hành của một vị Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến ngày thành Phật. Bồ-tát Địa-tiền tu tập trải qua bốn mươi bậc (gồm mười Tín, mười Trụ, mười Hạnh và mười Hồi-hướng) thì hoàn tất a tăng kì thứ nhất (sơ a tăng kì); Bồ-tát Địa-thượng, từ bậc Sơ-địa cho đến khi đạt được bậc Thất-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ hai (nhị a tăng kì); từ bậc Bát-địa cho đến bậc Thập-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ ba (tam a tăng kì).
BA LẦN CHUYỂN PHÁP LUÂN (tam chuyển pháp luân)
Pháp số này có hai ý nghĩa:
A. Chỉ cho đức Thế Tôn nói pháp Tứ Đế lần đầu tiên tại vườn Nai sau khi Ngài thành đạo, để độ cho năm vị sa môn nhóm Kiều Trần Như. Khi nói pháp Tứ Đế này, đức Phật đã nói đi nói lại ba lần, với ba chủ ý khác nhau, gọi là “tam chuyển pháp luân”:
1. Thị chuyển. Đầu tiên, với chủ ý khai thị cho thấy, đức Phật đã dạy: “Đây là khổ. Đây là nguyên nhân của khổ. Đây là cảnh giới tịch diệt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt.”
2. Khuyến chuyển. Sau đó, với chủ ý khuyên tu tập, đức Phật dạy tiếp: “Đây là khổ, quí vị nên nhận biết. Đây là nguyên nhân của khổ, quí vị nên đoạn trừ. Đây là cảnh giới tịch diệt, quí vị nên chứng đạt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt, quí vị nên tu tập.”
3. Chứng chuyển. Cuối cùng, với chủ ý xác minh để gây tin tưởng, đức Phật dạy tiếp: “Đây là khổ, Như Lai đã thấy rõ. Đây là nguyên nhân của khổ, Như Lai đã đoạn trừ. Đây là cảnh giới tịch diệt, Như Lai đã chứng đạt. Đây là các pháp môn tu tập để chứng đạt cảnh giới tịch diệt, Như Lai đã tu tập.”
B. Tông Tam Luận (Trung-quốc) đã chia toàn bộ giáo thuyết của đức Phật trong suốt cuộc đời hóa độ 45 năm của Ngài làm ba phần, với 3 chủ ý khác nhau, gọi là “tam chuyển pháp luân”:
1. Căn bản pháp luân. Trước tiên, ngay sau khi thành đạo, ở cội cây bồ đề, đức Phật đã trực tiếp nói giáo pháp căn bản nhất thừa cho hàng Bồ-tát lớn, trình bày cảnh giới giác ngộ mà Ngài vừa thực chứng; – đó là giáo nghĩa hàm chứa trong kinh Hoa Nghiêm, – gọi là “căn bản pháp luân”.
2. Chi mạt pháp luân. Nhưng giáo pháp nhất thừa ấy quá cao sâu mầu nhiệm, con người độn căn phước mỏng không thể nào lĩnh hội được, cho nên, tiếp theo đó, trong suốt thời gian dài gần 40 năm (nếu kể thời gian hóa độ là 45 năm), đức Phật đã phải tùy theo cơ trí của đại chúng mà nói giáo pháp tam thừa (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát), tức là Ngài đã phương tiện đem giáo pháp nhất thừa mà chia chẻ ra thành ngành ngọn, gọi là “chi mạt pháp luân”.
3. Nhiếp mạt qui bản pháp luân. Nhờ dùng nhiều phương tiện mà đức Phật đã đưa được vô số chúng sinh vào con đường giác ngộ giải thoát; cuối cùng, khi thấy cơ trí của phần đông đại chúng đều đã thăng tiến, thuần thục, có thể thọ nhận giáo pháp vi diệu, Ngài đã dùng những năm còn lại của cuộc đời hóa độ, thu nhiếp hết giáo pháp phương tiện của ba thừa mà qui kết về giáo pháp căn bản nhất thừa; – đó là giáo nghĩa hàm chứa trong các kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, – gọi là “nhiếp mạt qui bản pháp luân”.
BA LOẠI TỊNH NHỤC (tam chủng tịnh nhục)
Chữ “tịnh” ở đây có nghĩa là không cố ý giết, không bảo người khác giết, và không chấp nhận khi biết người khác vì mình mà giết sinh vật để lấy thịt. Theo kinh điển đại thừa, ăn thịt là trái phạm tinh thần từ bi của người tu hành, cho nên có qui điều cấm chỉ ăn thịt. Nhưng trong kinh luật tiểu thừa thì quyền nghi cho phép các thầy tì kheo, có thể ăn ba loại thịt, được gọi là “tịnh nhục”, mà không bị phạm giới; đó là:
1. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), mình không thấy (bất kiến) người ta vì mình mà cố ý giết sinh vật cho mình ăn.
2. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), mình không nghe nói (bất văn) người ta vì mình mà giết sinh vật cho mình ăn.
3. Không phải vì mình mà giết (bất vị ngã sát), không có điều gì làm cho mình nghi ngờ (bất nghi) là người ta vì mình mà giết sinh vật cho mình ăn.
Ngoài ra, thịt của sinh vật tự nó chết, hoặc thịt sinh vật bị các loài thú khác ăn còn thừa, cũng được gọi là “tịnh nhục”; và nếu kể thêm hai thứ thịt này thì có “năm loại tịnh nhục” (ngũ tịnh nhục).
Trái lại với các trường hợp trên thì thuộc loại “thịt bất tịnh” (bất tịnh nhục), tuyệt đối không được ăn.
BA MINH (tam minh)
Các bậc thánh khi chứng đến quả Phật, thì dứt trừ tận tuyệt vô minh si ám, trí sáng tối thượng hiển lộ, thấy biết thấu suốt 3 sự việc hoàn toàn vô ngại, gọi là “ba minh”:
1. Túc mạng minh: trí sáng thấy biết thấu suốt tướng trạng của mình và tất cả chúng sinh từ một đời cho đến hàng trăm, ngàn, vạn, ức đời ở thời quá khứ.
2. Thiên nhãn minh: trí sáng thấy biết thấu suốt các tướng trạng sinh tử của tất cả chúng sinh, chết nơi này chuyển sinh nơi kia, chết nơi kia chuyển sinh nơi này; hoặc do nhân duyên xấu ác mà tạo nghiệp xấu ác, sau khi chết phải sinh vào các cảnh giới đau khổ; hoặc do nhân duyên thiện lành mà tạo nghiệp thiện lành, sau khi chết được sinh về các cảnh giới an vui v.v...
3. Lậu tận minh: trí sáng thấy biết rõ ràng mình đã chân thật chứng ngộ chân lí, đã giải thoát hoàn toàn cái tâm lậu hoặc, đã diệt trừ tận gốc rễ tất cả phiền não vô minh.
BA MÔN HỌC GIẢI THOÁT (tam học - tam vô lậu học)
Mục đích của người tu học Phật là đạt tới thành quả giác ngộ, an lạc và giải thoát cho chính mình và cho cả mọi người. Mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi nào hành giả thể nghiệm trọn vẹn 3 phép học là Giới, Định và Tuệ.
1. Giới, hay giới luật, trên căn bản nó có nghĩa là răn cấm và ngăn ngừa, tức là cấm đoán làm các điều xấu về thân, khẩu và ý, để ngăn ngừa những hậu quả tai hại, xấu xa. Nhưng đó mới chỉ là ý nghĩa tiêu cực của nó. Trên phương diện tích cực, giới còn có nghĩa là sự thể hiện nếp sống tỉnh thức, thường trực đặt tâm ý trong chánh niệm, thực hiện các hành động cụ thể, chính đáng, nhằm xây dựng sự sống, đem lại lợi ích và an lạc cho muôn loài.
Theo cả hai ý nghĩa trên thì giới đích thực là chất liệu sinh hoạt tâm linh căn bản của người tu học Phật. Nó có công năng chuyển hóa bản thân cho chính hành giả và tạo không khí hòa điệu giữa hành giả với môi trường sống chung quanh. Vì vậy mà Kinh Niết Bàn nói: “Giới là những pháp lành nâng chịu cho hành giả một cách vững vàng, chắc chắn, như những bậc thang bằng đá...”; hoặc: “Hành giả nên hành trì giới luật cho bền vững, coi đó như cái phao nổi dùng bơi qua biển cả.” Kinh Di Giáo cũng dạy: “Này quí vị khất sĩ! Sau khi Như Lai diệt độ, quí vị hãy quí trọng và tôn kính giới luật, như ở nơi tối tăm mà thấy được ánh sáng, như người nghèo mà gặp được của báu. Phải xem giới luật chính là thầy của quí vị, không khác gì Như Lai còn trụ thế.”
Giới thường là những điều luật do Phật chế ra – gọi là “chế giới” – cho các chúng tại gia (5 giới), sa di (10 giới), tì kheo (250 giới), tì kheo ni (348 giới), và bồ-tát (34 giới cho chúng tại gia và 58 giới cho chúng xuất gia). Nếu hành trì nghiêm túc các “chế giới” này thì hành giả sẽ có được một tác phong đứng đắn, một tư cách cao thượng, một tâm niệm trong sáng, ngay thẳng, đáng làm gương mẫu và chỗ nương tựa hoàn toàn tin cậy cho mọi người. Đó là ý nghĩa của giới điều gọi là “nhiếp luật nghi” (nghiêm trì giới hạnh), một trong 3 nhóm giới tổng quát của đại thừa (tam tụ tịnh giới) mà người tu học theo hạnh Bồ-tát cần phải hành trì.
Hai giới điều khác của “tam tụ tịnh giới” là “nhiếp thiện pháp” (làm mọi điều lành) và “nhiêu ích hữu tình” (làm lợi ích cho tất cả chúng sinh). Khác với loại “chế giới” ở trên, “tam tụ tịnh giới” là những giới luật đích thực – gọi là “tự tính giới” – của những hành giả phát tâm tu hạnh Bồ-tát mà mọi ý tưởng, ngôn ngữ và hành động đều nhằm đem lại lợi ích và an lạc cho tất cả chúng sinh.
2. Định, là sự tập trung tâm ý bằng cách sống trọn vẹn trong chánh niệm. Con người thường bị hoàn cảnh chi phối, tâm ý luôn luôn bị phân tán, cho nên cứ mải sống trong loạn động, quên lãng, đến nỗi nhiều khi không còn nhận biết mình là ai, đang làm gì, ở đâu! Bởi vậy, sự tu “giới” như trên vừa nói, sẽ giúp cho hành giả tỉnh thức, tâm ý được thắp sáng, các vọng niệm sẽ bị tiêu trừ. Hành giả sẽ thường xuyên có ý thức sáng tỏ về mình, biết mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì. Sự quán niệm thường xuyên ấy sẽ làm cho sức mạnh của tâm linh được tập trung và phát triển: đó gọi là định lực.
3. Tuệ, hay trí tuệ giác ngộ, là sự nhận thức sáng tỏ về thực tại, là sự chứng ngộ chân lí của vạn hữu. Tuệ đạt được là nhờ có định lực, và đó là mục đích tối hậu của người tu học Phật.
Giới - Định - Tuệ là trình tự của giác ngộ: do Giới sinh Định, do Định phát Tuệ. Vậy, muốn đạt được trí tuệ giác ngộ thì phải tu tập thiền định; muốn có được định lực thì phải nghiêm trì giới luật. Không những là trình tự của giác ngộ, mà Giới - Định - Tuệ còn là ba yếu tố tương duyên và bất khả phân li của giác ngộ. Một vị hành giả đã đạt được tuệ giác thì không thể nào là không có giới hạnh và định lực; đã nghiêm trì giới hạnh thì cùng lúc cũng đã có định lực và trí tuệ; khi có đầy đủ định lực thì chắc chắn là giới hạnh và trí tuệ cũng viên mãn. Như thế tức là trong Giới có đầy đủ Định và Tuệ; trong Định có đầy đủ Giới và Tuệ; trong Tuệ có đầy đủ Giới và Định. Hay nói khác đi, tu Giới là đồng thời cũng tu Định và Tuệ; tu Định là đồng thời cũng tu Giới và Tuệ; và tu Tuệ là đồng thời cũng tu Giới và Định. Có một yếu tố là có đủ cả ba yếu tố; thiếu một yếu tố là không có quả vị giác ngộ.
Có thể nói, Giới - Định - Tuệ là nội dung căn bản và tổng quát nhất của tất cả các pháp môn để đưa hành giả đến đạo quả giác ngộ, giải thoát.
BA NGHIỆP (tam nghiệp)
“Nghiệp” là hành động. Tất cả mọi hành động do chúng ta tạo ra được gọi là nghiệp nhân, và kết quả do những hành động ấy đem lại được gọi là nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo. Hành động được chia làm 3 loại:
1. Hành động của thân thể (thân nghiệp), gồm những động tác đi, đứng, nằm, ngồi và tất cả những động tác khác của tay, chân và thân thể (kể cả ăn uống, đụng chạm v.v...).
2. Hành động của miệng lưỡi (khẩu nghiệp), gồm mọi lời nói và âm thanh do miệng lưỡi phát ra.
3. Hành động của tâm ý (ý nghiệp), gồm mọi tư tưởng phát sinh từ tâm ý.
Tính chất của cả ba loại hành động này có khi là thiện (giúp ích), có khi là ác (phá hoại), và cũng có khi là vô kí (trung tính, không thiện cũng không ác).
BA NGÔI BÁU (Tam Bảo)
Với người Phật tử thì chỉ có Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu, ba viên ngọc quí nhất trên đời.
1. PHẬT. Phật là bậc đã đạt được thành quả giác ngộ trọn vẹn, là người có nếp sống tỉnh thức thường trực, và là người đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
Đức Thích Ca Mâu Ni, vị khai sáng ra đạo Phật cách đây 26 thế kỉ, trước hết là một con người, nhưng đó là một người đã phát huy đầy đủ khả năng giác ngộ (Phật tính) để đạt đến địa vị của một đức Phật. Ngài đã giác ngộ chân lí của cuộc sống (tự giác); rồi đem chân lí ấy truyền bá, chỉ dạy, giúp cho mọi người cùng được giác ngộ (giác tha); và như vậy tức là sự nghiệp giác ngộ của Ngài đã được thành tựu trọn vẹn (giác hạnh viên mãn).
Khả năng giác ngộ của Phật gồm có ba đức:
a) Đức TRÍ: là khả năng trí tuệ đưa đến sự giác ngộ cùng tột đối với tất cả những hiện tượng riêng biệt cùng tính cách duyên sinh của vạn hữu.
b) Đức BI: là tình thương rộng lớn thúc đẩy cho việc hóa độ một cách bình đẳng và bao quát tất cả mọi người, mọi loài, khiến cho bỏ ác làm lành, chuyển mê thành ngộ, dứt đau khổ được an vui.
c) Đức DŨNG: là ý chí mạnh mẽ để diệt trừ tất cả những động lực tiềm tàng ở bên trong cũng như những hiện tượng phát hiện ra bên ngoài của các phiền não tham, sân, si – tức là những nọc độc ghê gớm nhất gây ra tham tàn, thù hận, lừa đảo, mù quáng, giết chóc v.v... DŨNG cũng là ý chí mạnh mẽ, nhờ đó mà trí tuệ và tình thương được sử dụng triệt để trong công cuộc độ sinh, khiến cho những cực khổ, gian nguy, cám dỗ, chướng ngại đều bị khắc phục.
2. PHÁP. Pháp là đạo tỉnh thức, là con đường của tình thương, hiểu biết và cởi mở. Con đường ấy đã do đức Phật mở lối, chỉ dạy. Phật đã chứng ngộ và truyền dạy những giáo lí thích hợp với những điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế, chính trị và xã hội của thời đại Ngài. Rồi trong quá trình phát triển của đạo Phật, nhiều hệ thống cấp tiến như Thiền, Duy Thức, Tịnh Độ, v.v... được xuất hiện. Những hệ thống giáo lí này cũng dung hợp những điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế, chính trị và xã hội của con người đương thời, và ở bất cứ nơi nào chúng được truyền tới. Bởi vậy, giáo lí của Phật đã được gọi là giáo lí khế cơ. Điều đó chứng tỏ rằng giáo lí của đạo Phật không phải là một thứ giáo lí bảo thủ, giáo điều, cứng ngắc, đóng khung, mà trái lại, nó luôn luôn cởi mở, khai phóng và tiến bộ để mở rộng chân trời tương lai. Tuy cởi mở, khai phóng, tiến bộ, nhưng những hệ thống giáo lí của đạo Phật trải qua bao đời, ở mọi nơi chốn, vẫn không bị lạc gốc, vẫn luôn luôn phù hợp với chân lí, vẫn giữ đúng các đặc tính căn bản, và tiếp nối được truyền thống từ bi, trí tuệ, hùng lực, bình đẳng và giải thoát nguyên thỉ của đạo Phật; cho nên giáo lí của Phật còn được gọi là giáo lí khế lí.
3. TĂNG. Tăng là đại chúng, là đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Tăng bao gồm tất cả những đoàn thể đang tu học, hành trì hoặc hướng dẫn người khác tu học theo giáo pháp của Phật. Họ nguyện cùng nhau làm kẻ đồng hành trên con đường của hiểu biết, tình thương và cởi mở – tức là con đường giác ngộ. Đó là đoàn thể của các vị Bồ-tát; đoàn thể của những vị xuất gia; đoàn thể của những người cư sĩ tại gia.
Lại nữa, trong cái ý nghĩa là đoàn thể, TĂNG cũng còn bao hàm cái ý nghĩa hòa hợp – tức là mọi người trong đoàn thể ấy phải cùng nhau công nhận và tôn trọng những nguyên tắc sống hòa hợp để ai ai cũng hưởng được cái không khí hòa thuận, thoải mái, an lạc. Có như thế thì sự tu học và hoằng dương đạo pháp mới có kết quả tốt đẹp.
Theo lịch sử thì sau khi chứng đắc đạo quả giác ngộ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến vườn Nai (Lộc-uyển) dạy bài pháp đầu tiên (chuyển pháp luân) về đạo lí Bốn Sự Thật (tứ đế) để khai ngộ cho năm người bạn đồng tu của Ngài lúc trước. Năm vị này do sa môn Kiều Trần Như lãnh đạo, đã được Phật thâu nhận làm đệ tử xuất gia đầu tiên và làm thành tăng đoàn đầu tiên của Ngài. Chính lúc đó mà Ba Ngôi Báu (Tam Bảo) lần đầu tiên xuất hiện ở thế gian này.
Nhưng theo cái nhìn siêu lịch sử thì trong khoảng không gian vô biên và thời gian vô tận, không phải chỉ có một đức Phật mà có vô lượng vô số đức Phật; mỗi đức Phật lại có đủ ba thân (pháp thân, báo thân, hóa thân), cho nên số lượng chư Phật trong mười phương không thể nào dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Nhất (Phật Bảo). Giáo pháp của Phật cũng không phải chỉ có Bốn Sự Thật, Mười Hai Nhân Duyên, hay Sáu Phép Qua Bờ (lục độ), mà thật rộng lớn như biển cả (pháp hải) – thường được diễn tả bằng con số “tám vạn bốn ngàn pháp môn” (nghĩa là rất nhiều pháp môn). Không phải chỉ có đức Thích Ca Mâu Ni nói ra giáo pháp ấy mà vô lượng vô số Phật trong mười phương cũng đều nói giáo pháp như vậy; cho nên sự rộng lớn của Phật pháp cũng không thể dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Hai (Pháp Bảo). Đoàn thể của những người tu học, nguyện cùng nhau làm kẻ đồng hành trên đường giác ngộ cũng có rất nhiều: đoàn thể của các chúng Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa- di, Sa-di-ni, Cư-sĩ v.v... Một đức Phật làm giáo chủ của một giáo hội gồm có các chúng như vậy, thì vô lượng vô số chư Phật trong mười phương cũng vậy; cho nên số lượng các tăng thân cũng không thể nào dùng trí tưởng của con người mà biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Ba (Tăng Bảo). Như vậy thì sự hiện hữu của Ba Ngôi Báu không phải chỉ hạn hẹp ở một quốc độ, một thời kì, mà ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trải khắp quá khứ, hiện tại, vị lai; không chỗ nào, không thời nào mà không có sự hiện hữu của Ba Ngôi Báu.
Thực ra thì sự phân biệt có ba ngôi báu khác nhau như trên chỉ nói lên được sự thật tương đối mà thôi. Người tu học Phật pháp – nhất là tu theo pháp môn thiền quán – cần phải thường xuyên quán chiếu để thấy rằng PHẬT, PHÁP, TĂNG chỉ là một. Tất cả mọi loài đều có khả năng giác ngộ (Phật tính), vậy Phật và chúng sinh (Tăng) là một. Phật pháp không thể tách rời vũ trụ vạn hữu mà có. Giác ngộ là giác ngộ cái chân lí của vũ trụ vạn hữu. Nhưng người giác ngộ và chân lí cũng không thể tách rời nhau, vì cả hai không phải là hai sự kiện độc lập với nhau, mà chỉ là một. Cho nên có Phật tức là có Pháp và Tăng; có Pháp tức là có Phật và Tăng; có Tăng thì cùng lúc cũng có Phật và có Pháp. Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật, Pháp và Tăng không có gì khác biệt”. Vậy thì Ba Ngôi Báu không phải tìm cầu ở nơi xa xôi nào mà vốn đã có đầy đủ trong tự thân của mỗi người. Nhưng muốn thấy (thực chứng) được điều đó, người tu học phải thường xuyên sống trong tỉnh thức và tinh cần trong công phu thiền quán. Trong nếp sống quên lãng, buông trôi sẽ không thấy được gì cả.
Dù sao thì hình tướng vẫn rất cần thiết cho người mới nhập vào nếp sống tu học. Hình tướng là phương tiện dẫn dắt bước đầu để Phật tử chúng ta đi dần vào nếp sống tỉnh thức. Do đó, một niệm Phật đường, một ngôi chùa, hay một tu viện sẽ trở nên rất hữu ích cho chúng ta; vì ở những nơi đó luôn luôn có đầy đủ biểu tượng của Ba Ngôi Báu: Phật được biểu hiện qua các ảnh, tượng; Pháp được chứa đựng trong ba tạng kinh điển, các sách báo, câu đối, bích chương v.v...; và Tăng là các chúng xuất gia và tại gia đang tu học và thực hiện mọi công tác Phật sự có ích lợi cho chúng sinh.
BA NHÓM TỊNH GIỚI (tam tụ tịnh giới)
Đây là giới pháp đại thừa của hàng Bồ-tát.
1. Nhiếp luật nghi giới (cũng gọi là tự tánh giới). Đây là thuộc về phương diện “dứt ác” (chỉ ác), bao hàm tất cả các loại giới luật nhằm ngăn chận và đoạn trừ tất cả tội lỗi, ác nghiệp. Tùy theo là tại gia hay xuất gia mà thọ trì 5 giới, 10 giới, cụ túc giới v.v... Các loại giới luật này là nhân làm cho pháp thân hiển lộ. Pháp thân vốn tự thanh tịnh, nhưng lâu nay do bị ác nghiệp che lấp nên không hiển lộ được; nay nhờ hành trì giới luật, đoạn lìa các ác nghiệp, thì công thành đức hiện.
2. Nhiếp thiện pháp giới. Đây là thuộc về phương diện “làm lành” (tu thiện), bao hàm tất cả giới hạnh của Bồ-tát đạo, tu tập mọi nghiệp thiện về thân, ngữ, ý và hồi hướng về quả vị Vô-thượng Bồ-đề. Bồ-tát luôn luôn chuyên cần tinh tấn, cúng dường Tam Bảo, tâm không buông lung, giữ gìn và bảo hộ sáu căn, hành trì sáu pháp qua bờ; nếu lỡ vi phạm điều giới nào thì theo đúng pháp chí thành sám hối, nuôi lớn căn lành. Các hạnh lành này cùng với các hành vi “dứt ác” ở trên, là nhân duyên để làm nên báo thân Phật.
3. Nhiếp chúng sinh giới (cũng gọi là nhiêu ích hữu tình giới). Đây là về phương diện “làm lợi ích cho chúng sinh” (lợi sinh) của Bồ-tát, đem lòng từ bi làm mọi việc đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, một cách bình đẳng, không phân biệt.
Ba nhóm tịnh giới trên đây, hai giới xuất gia và tại gia phát tâm đại thừa, tu hạnh Bồ-tát, đều có thể thọ trì; chỉ riêng về nhóm thứ nhất, nhiếp luật nghi giới, chúng nào thì phải thọ loại giới luật căn bản (như 5 giới cho cư sĩ tại gia, cụ túc giới cho tì kheo xuất gia v.v...) của chúng ấy trước khi cùng thọ trì chung ba nhóm tịnh giới (chỉ ác, tu thiện, lợi sinh).
BA NỌC ĐỘC (tam độc)
Đây là ba loại phiền não gốc rễ luôn luôn đeo dính và thúc đẩy chúng sinh tạo ra vô vàn tội lỗi, gây đau khổ triền miên cho chính mình, cho xã hội, và cho cả mọi loài. Bởi vậy, người tu học xem chúng như là những nọc độc nguy hiểm, chuyên tàn phá căn thân huệ mạng mình, để lúc nào cũng tỉnh giác, ngăn chận, không để bị chúng lôi cuốn, sai sử. Ba loại nọc độc đó là:
1. Tham: tâm tham muốn mọi thứ dục vọng.
2. Sân: tâm sân hận đối với những hoàn cảnh không thuận ý.
3. Si: tâm ngu muội do bị vô minh che phủ, không thấy rõ được đâu là chánh, đâu là tà, điều gì là tốt, điều gì là xấu, thế nào là xây dựng, thế nào là phá hoại v.v...
Ba loại phiền não trên, không những là ba loại nọc độc, mà chúng còn làm nền tảng để sinh khởi mọi pháp bất thiện, cho nên chúng cũng được gọi là “ba căn bất thiện” (tam bất thiện căn).
BA NƠI QUAY VỀ NƯƠNG TỰA (tam qui - tam qui y)
Sở dĩ có sự quay về là vì từ trước chúng ta đã bị bao nhiêu thứ mê hoặc làm cho sai đường, lạc lối. Chúng ta đã quen nếp sống quên lãng, tâm trí cứ luôn bị níu kéo về những hình ảnh quá khứ hoặc buông trôi theo những ảo tưởng tương lai. Vì vậy, “quay về” có nghĩa là ý thức phải được thắp sáng, từ bỏ nếp sống buông trôi, quên lãng, để sống trong tỉnh thức, nhìn rõ chân lí của thực tại vạn hữu. Muốn quay về thì phải có chỗ để quay về; và cái chỗ để quay về đó cũng đồng thời là nơi cho chúng ta nương tựa để sống. Có ba căn cứ vô cùng vững chắc để cho chúng ta quay về và nương tựa: đó là Ba Ngôi Báu (Tam Bảo) vừa được trình bày ở trên.
1. Quay về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
2. Quay về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
3. Quay về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Nhưng, như trong mục “Ba Ngôi Báu” ở trên đã nói, Phật - Pháp - Tăng vốn có đầy đủ nơi tự thân của mỗi người, vì vậy, quay về và nương tựa ở đây không có gì khác hơn là quay về và nương tựa nơi chính tự tính giác ngộ của chúng ta.
BA PHÉP QUÁN (tam quán)
(Xin xem mục “Một Tâm Ba Phép Quán” ở trước.)
BA PHÉP TAM MUỘI (tam tam muội)
Chữ “tam muội” nghĩa là “định”. Ba chân lí không, vô tướng, vô nguyện do tu tập thiền định mà đạt được, nên gọi là “ba phép tam muội”. Đó cũng là ba cánh cửa đưa hành giả vào cảnh giới giải thoát, an lạc, tự tại, nên cũng được gọi là ba cửa giải thoát (tam giải thoát môn – xin xem lại mục “Ba Cửa Giải Thoát” ở trên).
BA TẠNG (tam tạng)
Chữ “tạng” nghĩa là cái kho chứa; ở đây có ý nói là cái kho chứa giữ tất cả giáo pháp cần phải biết – tức thâu gồm tất cả thánh điển của Phật giáo. Tất cả thánh điển này được chia làm ba loại, mỗi loại là một cái kho; có ba cái kho, cho nên gọi là “ba tạng”: đó là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận.
1. Tạng KINH (Tu-đa-la tạng): bao gồm tất cả yếu nghĩa giáo thuyết của đức Phật. Kinh, nói đủ là “Khế Kinh”. Chữ “khế” nghĩa là phù hợp, khế hợp. Tất cả những lời dạy của đức Phật vừa khế hợp với chân lí của vũ trụ (khế lí), vừa khế hợp với từng loại căn cơ của chúng sinh (khế cơ), cho nên gọi là “Khế Kinh” – nói tắt là “Kinh”.
2. Tạng LUẬT (Tì-nại-da tạng): bao gồm tất cả những qui điều, phép tắc sinh hoạt áp dụng cho toàn thể giáo đoàn (xuất gia lẫn tại gia), do đức Phật chế định. Ý nghĩa của chữ “luật” là điều phục. Tất cả những luật nghi do đức Phật chế định có thể đối trị những ác nghiệp của chúng sinh, điều phục tâm tính của chúng sinh, cho nên gọi là “Luật”.
3. Tạng LUẬN (A-tì-đạt-ma tạng): bao gồm tất cả những lời bàn luận, lí giải, làm cho tỏ rõ ý nghĩa kinh điển, xác minh tánh tướng của vạn pháp. Từ những giáo thuyết nguyên thỉ của đức Phật, các vị Bồ-tát và các bậc Thánh tăng dùng trí tuệ thù thắng của mình để giải thích, nghị luận, phân tích, hệ thống hóa, làm tỏ rõ ý tứ cô đọng trong Kinh Luật, làm nổi bật các yếu nghĩa, giải đáp các nghi hoặc, v.v... đều gọi là “Luận”.
Nói đến “Ba Tạng” là nói đến phần nội dung của giáo điển; nhưng muốn nói đến sự tu tập để tiến đến giác ngộ giải thoát thì phải nói đến “Ba Pháp Học” (Tam Học hay Tam Vô Lậu Học) là Giới, Định và Tuệ. Nếu xét kĩ, chúng ta sẽ thấy rõ, tự thân ba tạng Kinh Luật Luận đã nói lên đầy đủ cả lí (lí thuyết) và sự (thực hành) của ba pháp học Giới Định Tuệ. Tất cả những gì Phật dạy trong KINH đều nhằm để nhiếp niệm, an tâm, định ý, cho nên KINH tạng chính là cái kho bảo vật của ĐỊNH học. Tất cả những luật nghi do Phật chế định đều nhằm phòng hộ thân miệng ý, ngăn ngừa các hành động tội lỗi, cho nên LUẬT tạng chính là cái kho bảo vật của GIỚI học. Tất cả những minh giải, biện luận, phân tích, giải hoặc, v.v... đối với kinh điển, đều nhằm phát triển trí tuệ đến chỗ siêu việt để thành tựu đạo quả giác ngộ, cho nên LUẬN tạng chính là cái kho bảo vật của TUỆ học. Như vậy là Kinh tạng thông với Định học; Luật tạng thông với Giới học; và Luận tạng thông với Tuệ học. Nhưng đó chỉ là cái nhìn giới hạn, thực ra, với cái nhìn thấu đáo, thì trong tạng Kinh không những chứa đựng đầy đủ tinh yếu của Định học, mà còn chứa đựng tất cả những yếu nghĩa của Giới và Tuệ học. Cho nên có thể nói, Kinh tạng đã bao hàm cả ba pháp học Giới, Định và Tuệ; trong khi đó, Luật tạng bao hàm cả Giới và Định học, còn Luận tạng thì chỉ bao hàm Tuệ học mà thôi.
Các vị cao tăng tinh thông cả ba tạng Kinh Luật Luận thì được tôn xưng là “tam tạng pháp sư”. Tôn hiệu này vốn đã được Phật giáo Ấn-độ dùng từ lâu, để chỉ cho những vị cao tăng thông hiểu cả ba tạng và thuyết giảng cho đồ chúng. Phật giáo Trung-quốc dùng tôn hiệu ấy để chuyên gọi các vị cao tăng tinh thông ba tạng và tùng sự phiên dịch Kinh Luật Luận từ Phạn văn ra Hán văn. Đặc biệt, chỉ một mình pháp sư Huyền Trang ở đời Đường đã được người đời gọi là “Đường Tam Tạng” (tức là chỉ có tên triều đại ghép với từ “tam tạng”, là thành tên ngài Huyền Trang). Ngoài ra, những vị cao tăng chỉ chuyên về Kinh tạng thì gọi là “kinh sư”; chỉ chuyên về Luật tạng thì gọi là “luật sư”; chỉ chuyên về Luận tạng thì gọi là “luận sư”.
Ba tạng Kinh Luật Luận được hình thành sơ khởi trong kì kết tập kinh điển lần thứ nhất, 3 tháng sau ngày Phật nhập diệt. Bởi vậy, ở buổi đầu, nói đến “Ba Tạng” là nói đến thánh điển của Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái, cũng tức là “ba tạng giáo” của tiểu thừa. Về sau, khi Phật giáo đại thừa phát triển, thì Ba Tạng được phân làm hai loại: Ba Tạng hạ thừa (Thanh-văn thừa) và Ba Tạng thượng thừa (Bồ-tát thừa) – hợp tất cả lại thành ra “Sáu Tạng”. Ngày nay, Ba Tạng hiện lưu hành gồm có hai hệ: 1) Tạng Bắc-truyền, điển hình là Hán Tạng, bao gồm tất cả các Kinh, Luật và Luận của đại thừa lẫn tiểu thừa, và được gọi là “Đại Tạng Kinh”; 2) Tạng Nam-truyền, điển hình là Tạng Ba-li, chỉ gồm có Kinh, Luật và Luận của tiểu thừa.
Lại nữa, từ “Ba Tạng” cũng còn được dùng để chỉ cho ba loại giáo pháp Phật nói cho ba thừa: thừa Thanh-văn thì có tạng Thanh-văn (Thanh Văn Tạng); thừa Duyên-giác thì có tạng Duyên-giác (Duyên Giác Tạng); và thừa Bồ-tát thì có tạng Bồ-tát (Bồ Tát Tạng). Nhưng thông thường, hễ nói tới “Ba Tạng” thì ai cũng hiểu đó là ba tạng Kinh, Luật và Luận, gồm thâu tất cả giáo điển đạo Phật. Ngoài ba tạng đó ra, Đại Chúng bộ còn thêm Tạp-tập tạng, làm thành bốn tạng; Độc Tử bộ thì thêm Cấm-chú tạng, cũng làm thành bốn tạng; Pháp Tạng bộ thêm Cấm-chú tạng và Bồ-tát tạng để lập nên năm tạng; Nhất Thuyết bộ lại thêm Tạp-tập tạng và Cấm-chú tạng, luận Thành Thật thì thêm Tạp-tập tạng và Bồ-tát tạng, kinh Lục Ba La Mật thêm Bát-nhã ba-la-mật tạng và Đà-la-ni tạng, cũng đều lập nên năm tạng.
BA THÂN (tam thân)
Tất cả chư Phật đều có đầy đủ 3 thân:
1. Pháp thân: thân chân thật, thường trú, không biến đổi, không bị giới hạn bởi không-thời-gian, không thể nắm bắt được bằng tri thức và khái niệm, không bị sinh lão bệnh tử chi phối. Pháp thân cũng tức là chân như, là pháp tính, là bản thể. Theo truyền sử thì liền sau khi thành đạo và trước khi rời gốc cây bồ đề, đức Thích Ca Mâu Ni, với chính pháp thân này, đã cùng với chư vị Đại Bồ-tát đã chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm.
Tông Pháp Tướng còn gọi pháp thân Phật là thân tự tính.
2. Báo thân: hiện thân chúng sinh của Phật. Thân này giả hợp, vô thường, bị sinh lão bệnh tử chi phối như bao nhiêu thân chúng sinh khác. Đó là cái nhục thân của đức Thích Ca Mâu Ni từ khi nhập thai và sinh ra là thái tử Tất Đạt Đa ở thành Ca-tì-la-vệ, có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp; lớn lên lập gia đình, xuất gia tu khổ hạnh; rồi thành đạo, thuyết pháp độ sinh; và cuối cùng nhập diệt tại thành Câu-thi-na.
Tông Pháp Tướng còn gọi báo thân Phật là thân thọ dụng.
3. Hóa thân: cũng gọi là ứng thân hay ứng hóa thân, là thân hóa hiện của đức Phật. Do tâm nguyện cứu độ chúng sinh một cách bình đẳng và bao la, chư Phật thường tùy duyên mà ứng hiện làm nhiều loại thân khác nhau của các loài chúng sinh khác nhau để dễ dàng hóa độ. Kinh Hoa Nghiêm (phẩm 33) nói: “Khắp cả hư không, ở mỗi một chỗ bằng đầu sợi lông đều có vô lượng vô số cõi Phật; ở mỗi một cõi Phật như vậy, trong mỗi một niệm, Phật ứng hiện vô số hóa thân nhiều như bụi để chuyển pháp luân...”.
Tông Pháp Tướng còn gọi hóa thân Phật là thân biến hóa.
BA THỨ KHÔNG THỂ HẾT (tam bất khả tận)
1. Kinh pháp không thể hết (kinh pháp bất khả tận). Kinh pháp do đức Như Lai nói ra là tùy theo căn cơ không đồng đều của chúng sinh, hoặc nói sâu rộng, hoặc nói giản lược; tuy dùng một âm thanh diễn nói mà phổ biến cả mười phương, cho nên nói là “kinh pháp không thể hết”.
2. Ý nghĩa của văn tự không thể hết (văn tự chi nghĩa bất khả tận). Kinh giáo do đức Như Lai nói ra, nghĩa lí thâm diệu, rộng khắp mười phương, dài suốt ba đời; lớn thì không có cái gì là không bao trùm, nhỏ thì không vật mảy may nào bị sót lọt; nếu là kẻ căn cơ thấp kém, trí biết cạn cợt, thì không thể nào nhìn thấy chỗ áo diệu ấy được, cho nên nói là “ý nghĩa của văn tự không thể hết”.
3. Lời giáo huấn không thể hết (sở tuyên huấn hối bất khả tận). Những lời dạy bảo của đức Như Lai nói cho chúng sinh, hoặc pháp môn đại thừa, hoặc pháp môn tiểu thừa, tùy từng giống loài mà hiện hành để giáo hóa cùng khắp, làm lợi ích vô lượng, cho nên nói là “lời giáo huấn không thể hết”.
BA TÍNH (tam tánh)
Tính chất của nhận thức gồm có 3 loại:
1. Tính thiện (thiện): những nhận thức chân chính khiến tạo ra các nghiệp nhân tốt, phù hợp với chân lí, có công năng dẫn tới giác ngộ và giải thoát.
2. Tính ác (ác): những nhận thức sai lạc khiến tạo nên các nghiệp nhân xấu, có công năng dẫn tới vô minh và sinh tử luân hồi.
3. Tính vô kí (vô kí): những nhận thức không thiện mà cũng không ác, không có công năng dẫn tới giải thoát hay sinh tử luân hồi.
Không những chỉ có nhận thức, mà tất cả mọi lời nói, cử chỉ và hành động – nói chung là ba nghiệp – của con người cũng đều thể hiện tính chất của một trong ba tính ấy.
Vấn đề “tiêu chuẩn thiện ác” thật rất quan trọng đối với việc tu học. Chúng ta có thể đọc thêm sách Đạo Phật Ngày Nay (Chương X) của Nhất Hạnh để có được một hiểu biết rõ ràng, cụ thể và chính xác về vấn đề này.
BA TỊNH NGHIỆP (tam chủng tịnh nghiệp)
Từ “tịnh nghiệp” ở đây có nghĩa là những hành động làm nguyên nhân để được sinh về cõi Tịnh-độ. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, người tu học Phật muốn được vãng sinh về cõi Cực-lạc của đức Phật A Di Đà, ngoài công phu niệm Phật, phải thường xuyên tu tập ba nghiệp sau đây:
1. Hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ, phụng sự các bậc sư trưởng, nuôi lớn tâm từ bi không giết hại chúng sinh, tu tập 10 nghiệp lành thập thiện nghiệp.
2. Thọ trì “tam qui”, giữ gìn trọn vẹn giới luật, oai nghi tề chỉnh đoan trang.
3. Phát tâm bồ đề, tin sâu sắc lí nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến khích người khác tu hành tinh tấn.
BA TRÍ (tam trí)
Ba trí tức là ba trình độ của trí tuệ. Có nhiều danh số về “ba trí”:
A. Theo luận Đại Trí Độ, ba trí gồm có:
1. Nhất thiết trí: Trí tuệ của các hàng Thanh-văn và Duyên-giác, thấy rõ tổng tướng của tất cả các pháp là không, vô thường, vô ngã.
2. Đạo chủng trí: Trí tuệ của hàng Bồ-tát, thấy rõ biệt tướng của tất cả các pháp, mỗi mỗi đều có tính chất đặc thù khác nhau.
3. Nhất thiết chủng trí: Trí tuệ trọn vẹn của Phật, thông đạt cả thông tướng lẫn biệt tướng.
Tông Thiên Thai thì cho rằng, ba trí trên là do ba phép quán không, giả và trung mà có; tức là: nhất thiết trí là do không quán mà có, đạo chủng trí là do giả quán mà có, và nhất thiết chủng trí là do trung quán mà có. Tông này lại y theo ý nghĩa của ba phép quán không, giả, trung mà lập ra hai loại “ba trí” khác nhau: 1) Ba trí biệt tướng: Các vị Bồ-tát theo thứ tự tu tập ba phép quán riêng biệt để thành tựu nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí, thấy rõ Phật tánh, thường trú trong cảnh giới niết bàn. 2) Ba trí nhất tâm: Không theo thứ tự như trên, mà dung thông ba chân lí vào một cảnh, chỉ trong một niệm mà có đủ ba phép quán, cho nên cũng chỉ trong một niệm mà chứng đắc cả ba trí, không có thứ tự trước sau.
B. Ba trí cũng là thanh tịnh trí, nhất thiết trí và vô ngại trí.
1. Thanh tịnh trí là trí tuệ tuyệt đối của chư Phật, do quán chiếu chân lí tuyệt đối, đoạn trừ tất cả các tập khí phiền não, giải thoát mọi thứ chướng ngại, hoàn toàn không còn ô nhiễm.
2. Nhất thiết trí là trí tuệ theo thế tục của chư Phật, biết rõ tất cả pháp tướng, như: tất cả thời, tất cả cõi, tất cả sự việc, tất cả chủng loại.
3. Vô ngại trí cũng là trí tuệ theo thế tục của chư Phật, tức là, đối với bốn loại “tất cả pháp tướng” (thời, cõi, sự việc, chủng loại) ở trên, hễ khởi niệm là biết rõ ngay, không nhờ phương tiện, không cần suy nghĩ, không có gì làm trở ngại được.
Cả ba loại trí tuệ trên đều thuộc về nhất thiết chủng trí.
C. Ba trí cũng là thế gian trí, xuất thế gian trí và xuất thế gian thượng thượng trí.
1. Thế gian trí là trí tuệ của phàm phu và ngoại đạo, đối với vạn pháp luôn luôn khởi niệm phân biệt, chấp có chấp không, cho nên không thể nào giải thoát khỏi thế gian.
2. Xuất thế gian trí là trí tuệ của hàng Thanh-văn và Duyên-giác, do tu tập bốn sự thật và mười hai nhân duyên mà thoát li thế gian, nhưng vì còn đắm vào tướng chung mọi người và tướng riêng mình, nên còn thấy có sinh tử để chán ghét và có niết bàn để mong cầu.
3. Xuất thế gian thượng thượng trí là trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát lớn, thấy rõ vạn pháp là tịch tịnh, không sinh không diệt, vượt hẳn các hàng Thanh-văn và Duyên-giác.
D. Ba trí cũng là ngoại trí, nội trí và chân trí.
1. Ngoại trí là trí tuệ phân biệt rõ ràng sáu căn sáu trần, thông suốt cổ kim, rành rẽ việc đời.
2. Nội trí là trí tuệ diệt trừ phiền não vô minh, làm cho tâm ý được vắng lặng.
3. Chân trí là trí tuệ thấy rõ thể tính vốn vắng lặng của vạn vật, không còn phân biệt có dơ có sạch.
Đ. Ba trí cũng là hạ trí, trung trí và thượng trí.
1. Hạ trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Thanh-văn.
2. Trung trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Duyên-giác.
3. Thượng trí là trí tuệ có thể chứng đắc giác ngộ của hàng Bồ-tát và chư Phật.
BA TRƯỜNG HỢP KHÔNG THỂ THỰC HIỆN (tam bất năng)
Trong công cuộc hoằng pháp độ sinh, có ba trường hợp mà ngay cả đức Phật cũng không thể thực hiện được tâm nguyện của mình:
1. Không thể cải biến định nghiệp (bất năng miễn định nghiệp). Phật là bậc đầy đủ trí tuệ, hoàn toàn không còn tâm chấp trước đối với tất cả mọi hiện tượng; tuy vậy, đối với kết quả chiêu cảm bởi các định nghiệp thiện ác, Ngài cũng không có cách gì có thể chuyển đổi làm cho khác đi được.
2. Không thể độ kẻ vô duyên (bất năng độ vô duyên). Đức Phật biết rõ căn tánh của tất cả chúng sinh, biết rõ mọi sự vật vô cùng tận, hóa độ khắp chúng sinh; tuy vậy, đối với các chúng sinh không có cơ duyên, Ngài cũng không có cách gì hóa độ được.
3. Không thể làm cho hết thế giới chúng sinh (bất năng tận sinh giới). Tuy đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh ở thế gian, nhưng thế giới của chúng sinh thì vô tận, Ngài không thể làm cho hết chúng sinh được.
BA TUỆ (tam tuệ)
1. Trí tuệ do nghe mà có (văn tuệ). Người tu học Phật, do được nghe giáo pháp từ ba tạng thánh điển, hoặc từ các bậc thiện hữu tri thức, mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Thanh-văn thừa.
2. Trí tuệ do suy tư về những điều nghe thấy mà có (tư tuệ). Người tu học Phật, do suy tư về những đạo lí đã được nghe, hoặc được thấy, mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Duyên-giác thừa.
3. Trí tuệ do tu tập mà có (tu tuệ). Người tu học Phật, do tinh cần tu tập mà phát sinh trí tuệ vô lậu. Đặc biệt, đây là trường hợp thành tựu của các hành giả Bồ-tát thừa.
Thật ra, ba loại trí tuệ trên đây là một toàn bộ của quá trình đoạn diệt phiền não chứng đắc niết bàn. Văn tuệ là nhân. Chúng sinh nếu chuyên cần thọ trì đọc tụng, nghiên cứu và quảng bá kinh điển, thì chắc chắn trí tuệ sẽ phát sinh; y nơi văn tuệ này mà phát sinh tư tuệ; y nơi tư tuệ này mà phát sinh tu tuệ. Quá trình này cũng giống như một cái cây, do từ hạt giống mà nẩy sinh ra mầm; do mầm mà sinh ra thân cây; từ thân cây mà sinh ra cành lá hoa trái. Xét về tác dụng, thì văn tuệ và tư tuệ chỉ đóng vai trò làm trợ duyên để cho tu tuệ phát sinh; chính tu tuệ mới có đầy đủ khả năng đoạn diệt phiền não và chứng đắc niết bàn.
BA TỰ TÍNH (tam tự tính)
“Tự tính” của thực tại (vạn pháp) tức là bản chất, chân tướng của thực tại. Tự tính đó là đối tượng của nhận thức. Vì không sáng suốt, không tỉnh thức, chúng ta luôn luôn có những nhận thức sai lạc về thực tại. Cho nên người tu học Phật cần phải quán chiếu thường xuyên nhằm “điều chỉnh” nhận thức để có được một cái thấy đúng đắn, cái thấy giác ngộ về chân tướng của thực tại. Khi nghiên cứu về chân tướng của thực tại, các nhà duy thức học đã phân tích có ba tự tính như sau:
1. Tự tính biến kế sở chấp. Tự tính này vạn pháp vốn không tự có, nhưng chính vì sự sai lầm của nhận thức mà thực tại phải mang lấy cái tự tính đó. Tại vì chúng ta quan niệm vạn pháp có sinh, có diệt, có thành, có bại, có thêm, có bớt, có dơ, có sạch, cái này khác cái kia, cái kia không phải cái này, cái kia tốt, cái nọ xấu v.v..., cho nên vạn pháp mới phải mang lấy những tính chất như vậy. Khi ta đang buồn thì ta nhìn cảnh vật cũng thấy buồn; cảnh vật buồn không phải là vì nó vốn có bản chất buồn, mà chính là vì nó phải mang lấy cái tâm trạng buồn của ta lúc ấy. Bởi vậy, khi còn bị vô minh che phủ, bản chất của nhận thức về thực tại của ta vốn là biến kế chấp (tức là vọng tưởng phân biệt), đã tạo ra cho thực tại những tính chất mà chúng không tự có. Cái tự tính của vạn pháp vốn do nhận thức ngu muội của chúng ta tạo ra cho chúng đó, các nhà duy thức học gọi là tự tính biến kế sở chấp.
2. Tự tính y tha khởi. “Y tha khởi” tức là nương vào cái khác mà có. Đây mới là tự tính của thực tại. Tự tính này phát hiện được là do công trình tu học và quán chiếu lâu dài về các tính chất vô thường, vô ngã và nhân duyên của vạn pháp nhằm “điều chỉnh” những nhận thức sai lạc (biến kế chấp) của chúng ta. Theo tự tính này thì mọi sự vật đều nhờ nhau và nương nhau mà sinh thành, tồn tại và hủy diệt. Không có hiện tượng nào hiện hữu độc lập với những hiện tượng khác. Kinh A Hàm nói: “Cái này có thì cái kia có; cái này không thì cái kia không; cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì cái kia diệt.” Nếu chúng ta quán chiếu và thấy được tự tính y tha khởi này của sự vật, thì chúng ta đã có khả năng chuyển hóa vô minh thành tuệ giác.
3. Tự tính viên thành thật. “Viên thành thật” là tính chất viên mãn, thành tựu và chân thật của vạn hữu. Đó chính là bản thân, thể tính, hay chân tướng của thực tại; cũng được gọi là pháp tính hay chân như. Tự tính viên thành thật ngược lại với tự tính biến kế sở chấp – vì nó không do tâm ý tạo tác ra, cho nên nó đích thực là tự tính của vạn pháp, trong đó không có sinh diệt, không có thành bại, không có thêm bớt, không có dơ sạch v.v... Bản thân (hay thể tính) của vạn hữu không thể nhận thức bằng khái niệm, không thể diễn tả bằng ngôn từ. Vạn pháp hiện hữu như thế đó, trong cách thức của chúng, không qua trung gian nhận thức phân biệt. Chỉ khi nào quán chiếu và thấy được tự tính y tha khởi của thực tại thì người tu học mới diệt trừ được mọi sai lạc của nhận thức (biến kế chấp) về thực tại, và lúc đó tự tính viên thành thật của thực tại mới hoàn toàn hiển lộ.
BA VẦNG (tam luân)
“Ba vầng” là ba thành phần làm nên một toàn bộ của một hạnh tu. Từ này được đặc biệt dùng cho sáu pháp qua bờ (lục độ). Ba vầng của pháp bố thí là người cho, người thọ nhận, và vật đem cho; của pháp trì giới là người giữ giới, giới được giữ, và sự phạm hay không phạm giới; của pháp nhẫn nhục là người chịu nhẫn, đối tượng phải chịu nhẫn, và sự động hay không động tâm; của pháp tinh tấn là người tinh tấn, đối tượng cần tinh tấn để đạt đến, và tính siêng năng hay lười biếng; của pháp thiền định là người thiền định, cảnh giới của thiền định, và sự có hoặc không có thiền vị; của pháp trí tuệ là người có trí tuệ, bản tánh của vạn pháp, và tướng trạng của vạn pháp.
BA VẦNG THANH TỊNH (tam luân thanh tịnh)
Khi tu tập sáu pháp qua bờ, dù ở bất cứ pháp nào, hành giả chỉ biết một mực tu tập mà không để tâm chấp trước vào ba vầng, không mong cầu phước báo hữu lậu, gọi là ba vầng thanh tịnh. Ví dụ, khi tu hạnh bố thí, hành giả nên bố thí một cách vô tâm, không để ý rằng mình chính là người bố thí, người kia là người thọ nhận vật bố thí của mình, và của cải (nhiều ít, tốt xấu v.v...) này chính là do mình đem cho người. Nếu để ý tới mình là người đem cho thì sinh lòng tự đắc; để ý tới người thọ nhận thì sinh lòng thương hại hoặc khinh mạn; để ý đến của cải đem cho thì sinh tâm phân biệt, so đo, đôi khi còn hối tiếc, và như thế tức là tâm đã bị nhiễm ô; ngay cả khi bố thí một cách vô tâm mà lại mong cầu mai sau sẽ được phước, được đền ơn, được gặp quả báo tốt, v.v... thì tâm vẫn bị nhiễm ô, gọi là “ba vầng không thanh tịnh” (tam luân bất tịnh), chẳng được phước báo gì, hoặc chỉ được chút ít phước báo hữu lậu ở thế gian mà thôi. Hành giả thực hiện hạnh bố thí với tâm hoàn toàn vô tư như trên, thể hội tánh tướng của ba vầng đều không, không vướng mắc cũng không mong cầu, gọi là “ba vầng thanh tịnh”; đó chính là bố thí ba la mật (hay bố thí độ).
BA VIÊN NGỌC QUÍ (Tam Bảo)
Ba Viên Ngọc Quí cũng tức là Ba Ngôi Báu (xin xem mục “BaNgôi Báu” ở trước).
BA VÔ TÍNH (tam vô tính)
Tuy tự tính y tha khởi có thể giúp phá vỡ được tính cách “biến kế sở chấp” của sự vật, nhưng dù sao thì nó vẫn chỉ được xem là một phương tiện, vì vẫn còn là một khái niệm về sự vật, và cuối cùng cũng phải bị quét sạch thì chân tướng của thực tại mới hoàn toàn được hiển lộ. Vì lí do đó, sau khi thuyết minh “ba tự tính” của đối tượng nhận thức, Duy Thức Học lại thành lập thuyết “ba vô tính” nhằm triệt tiêu hết mọi khái niệm:
1. Tướng vô tính. Tuy biến kế sở chấp là tự tính của thực tại nhưng đó cũng chỉ là một khái niệm về sự vật mà thôi, không phải đích thực là chân tướng của thực tại. Thực tại là thực tại, không phải là biến kế sở chấp, cũng không phải là không biến kế sở chấp.
2. Sinh vô tính (hay vô tự nhiên tính). Y tha khởi là tự tính của thực tại, nhưng đó cũng chỉ là một khái niệm về sự vật. Sự vật là nhân duyên sinh (y tha khởi), và nhân duyên sinh không có thực tính. Bởi vậy, thực tại là thực tại, không phải là y tha khởi, cũng không phải là không y tha khởi.
3. Thắng nghĩa vô tính (hay pháp vô tính). “Thắng nghĩa” có nghĩa là tuyệt đối, là tên gọi khác của tự tính viên thành thật. Viên thành thật cũng tức là chân như, là thực tính của vạn pháp. Dù vậy, cuối cùng thì khái niệm này cũng phải được lìa bỏ; vì với tuệ giác vô niệm, thực tại là thực tại, không phải là viên thành thật, cũng không phải là không viên thành thật.
Như vậy, “vô tính” mới chính thực là “tự tính”, và thực tại trong trường hợp này chỉ hiển lộ dưới tuệ giác vô niệm, vì với bất cứ một khái niệm nào – dù đó là khái niệm “viên thành thật” – thực tại cũng chỉ là một mảnh cắt xén (biến kế) của vọng tưởng phân biệt, của tà kiến.