Vậy mà chẳng phải vậy!
Lại nói Tu Bồ Đề kính cẩn đặt hai câu hỏi với Phật: “…làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?”
thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục
tâm bằng cách như vầy… như vầy… “Ông hãy lắng tai nghe cho kỹ đây. Ta sẽ
vì ông mà nói”. Tu Bồ Đề hớn hở: “Xin vâng, xin vâng. Con đang rất muốn
nghe!”.
Hơn
hai ngàn năm trăm năm sau, chúng ta cũng đang rất muốn nghe, cũng đang
dỏng tai lên mà nghe, bởi chưa bao giờ con người sống trong sợ hãi, lo
âu, căng thẳng như bây giờ, với chiến tranh dịch bệnh thiên tai đủ thứ!
Con người mắc đủ thứ bệnh tật mà y học dù rất tiến bộ cũng lúng túng,
bó tay… Các loại bệnh cứ xà quần, hết thứ này sanh thứ khác, bởi cái gốc
của nó không ở cái thân xác kia, nên đi đủ thứ bác sĩ cũng không khỏi
cho đến khi vớ phải một… lang băm! Y học đã phải bào chế ra nhiều thứ
thuốc, nào an thần, nào thuốc ngủ, nào giải lo (anxiolytique), thậm chí
những thứ thuốc cực mạnh để cắt đứt cơn suy nghĩ của con người, làm cho
họ rơi vào trạng thái hôn mê ngắn hạn để được thảnh thơi đôi chút, xa
rời đôi chút với những lo âu phiền muộn sợ hãi bao quanh!
Phật
dạy: Muốn hàng phục tâm ư, muốn an trụ tâm ư? Chỉ cần “diệt độ” tất cả
chúng sanh, loại nào cũng “diệt độ”, cho vào Vô dư Niết bàn sạch trơn,
nhưng rồi thật ra… chẳng có chúng sanh nào đựơc diệt độ cả!
Ối
trời! Thiệt là choáng váng! Chưa kịp trấn tĩnh, Phật đã nói tiếp: “Tại
sao vậy? Tại vì Bồ tát mà còn có tướng ta, tướng người, tướng chúng
sanh, tướng thọ giả thì… chẳng phải là Bồ tát! ”. Lúc đó hẳn một số
người trong thính chúng cũng hoang mang, thôi không dám làm Bồ tát nữa
và xin rút lui có trật tự! Chính Tu Bồ Đề cũng phải kêu lên: Con có thể
hiểu không khó những lời Phật dạy, nhưng liệu năm trăm năm sau, người ta
có thể hiều được không? Phật đã phải quở ngay: “Ông chớ nói thế!”. Bởi
Phật tin tưởng ở tương lai, người ta có thể hiểu Phật nhanh hơn, phương
tiện truyền thông tiến bộ hơn, và… đời sống con người càng… khổ đau hơn,
dù vật chất có được cải thiện mà phiền não thì cứ gia tăng! Tuy vậy,
Phật cũng nói thêm: Sau này, ai được nghe Kim Cang mà “không kinh, không
hãi, không sợ” thì người đó hẳn phải có nhiều “thiện căn”! Nửa thế kỷ
trước đây, Edward Conzé, tiến sĩ tâm lý, nhà Phật học nổi tiếng, người
đã dịch Kim Cang sang tiếng Anh, bảo bạn ông, một nhà trí thức thần học,
khi đọc bản dịch đó đã kinh ngạc kêu lên: Điên, điên rồi! Nhưng Erward
Conzé không thấy điên, lại còn khẳng định: hiệu qủa sẽ đựơc chứng minh
qua áp dụng vào đời sống hằng ngày! Nguyễn Du đọc đi đọc lại Kim Cang
cả ngàn lần, đến khi có dịp đi sứ sang Tàu, nhìn thạch đài phân kinh của
thái tử nhà Lương mới than: Chung tri vô tự thị chân kinh! (Cuối cùng
mới hiểu ra kinh không chữ mới thật là chân kinh!).. Người xưa thì cũng
đã nguyện “Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa!”. Chắc hẳn phải có điều gì đó… bí ẩn!
Phật
nói muốn hàng phục tâm thì có bao nhiêu loại chúng sinh, dù sinh từ
thai, sinh từ trứng, từ thấp, từ hóa, từ có hình hoặc không có hình, từ
có tưởng, hoặc không có tưởng, hoặc chẳng có tưởng mà cũng chẳng phải
chẳng có tưởng… đều phải “diệt độ” tất cả, cho vào… “Niết bàn” sạch
trơn! Rồi, tuy“diệt độ” vô số sô lựơng vô biên chúng sanh như vậy mà
thật ra… chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả!
Lâu nay ta vẫn nghĩ chúng sanh là beings, là êtres,
là những sinh vật- gồm có cả con người trong đó – nên “diệt độ” hết
chúng sanh thì ta ở với ai? Có sách nói phải diệt độ hết chúng sanh đi
mà đừng kể công, ấy mới là lòng quãng đại, là chí nguyện của Bồ tát. Có
sách lại bảo chúng sanh ở đây không phải là người, không phải là sinh
vật mà là những tư tưởng, những ý nghĩ, những khái niệm! Người bình
thường chúng ta nghe chữ “diệt độ” chúng sanh, rồi đưa hết vào “Niết
bàn” cũng thấy ớn! Thực ra chữ “diệt độ” ở đây không có nghĩa là tiêu
diệt mà là giúp đưa hết cả qua bờ giải thoát.
Nghĩ
cho cùng, cốt lõi có lẽ nằm ở hai chữ “chúng sanh”! Giải mã được từ
khóa này thì hy vọng mở được “Càn khôn đại nã di tâm pháp” như Vô Kỵ
dưới hầm sâu trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung! Một hôm, tôi đem
thắc mắc “chúng sanh” này hỏi một vị sư. Sư trả lời ngắn gọn: Tùy chúng duyên nhi sanh!
Rồi thôi, chẳng nói gì thêm. Với tôi, thế là đã đủ, đã rõ! Vậy mà phải
mất bao nhiêu thời gian trăn trở, kiếm tìm, suy gẫm. Tôi hiểu tại sao
các vị thiền sư thường bắt học trò giã gạo, gánh nước, bửa củi nhiều năm
mà chả chịu dạy gì, cho đến khi đủ chín muồi tự trong bản thân mình!
Cũng như người xưa đến thầy xin học thuốc, thầy coi giò coi cẳng xong
mới cho vào học, lúc đầu bắt chẻ thuốc, bào thuốc, tán thuốc, sắc thuốc…
chừng năm bảy năm trời rồi mới cho bắt mạch, kê toa, bởi lầm một chữ là
chết người. Đến khi thành tài… thầy còn gã con gái cho không chừng! Như
vậy có thể nói chúng sanh ở đây không phải là chúng sanh như ta vẫn
hiểu mà là do các “chúng “ duyên với nhau mà
“sanh” ra nên gọi là “chúng sanh” thôi! Duyên hết thì chúng sanh cũng
hết! Học Phật không được chỉ dựa vào câu chữ mà cũng không được rời câu
chữ! Ở đoạn sau của Kim Cang nói rõ: “chúng sanh tức phi chúng sanh”! Ta
làm quen cách nói “tức phi… thị danh” này trong Kim Cang! Đây là thứ
ngôn ngữ “phá chấp”, cũng gọi là “ngôn ngữ ly niệm”, nhằm giúp phá vỡ
“khái niệm” đã đóng khuôn trong vỏ não ta từ lâu. Bởi muốn giúp giải
thoát con người thì trước hết phải vựơt qua những khái niệm, những định
nghĩa cứng ngắc, chằng chịt, như lưới nhền nhện làm cho con người bị
gò bó, dính mắc, khó mà thoát ra được. Mỗi ngành học đều có những
terminology, thuật ngữ riêng của mình. Danh từ y học chẳng hạn, chỉ
người trong ngành hiểu với nhau, người ngoài không sao hiểu chính xác
đựơc, thậm chí một số từ y học không thể dịch mà phải phiên âm, phải giữ
nguyên gốc để diễn đạt đầy đủ ý nghĩa sâu xa hơn. Chính vì thế mà các
thầy thuốc thường châm… tiếng Latinh với nhau khi nói chuyện, làm cho
bệnh nhân nghe chới với không hiểu mô tê, rồi có khi diễn dịch sai, hiểu
lầm, đâm ra hoang mang.
Tùy “chúng
duyên nhi sanh” là tùy theo các duyên mà sanh ra thứ “chúng sanh” này
hay “chúng sanh” khác! Cho nên mới có “vô số vô lượng vô biên” chúng
sanh! Bản thân ta cũng là một chúng sanh vì do các “uẩn” (chúng) sắc,
thọ, tưởng, hành, thức hợp lại mà thành…. Nói cách khác, do ba mẹ mình
“duyên”… với nhau mà có mình, chớ nếu hai người “vô duyên đối diện bất
tương phùng” thì còn lâu! Đó là chưa kể ông nội “gặp gỡ” bà nội, ông
ngoại “gặp gỡ” bà ngọai. ( Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không? ND).
Cho nên mình mới có cơ hội mang gène của cả giòng họ kể cả gène tính
khí hoặc gène suyễn, tiểu đường! Hai nguyên tử H và O “duyên” với nhau
thì sanh ra thứ này hay thứ khác, nếu thêm C vào nữa thì có khi thành
dấm, có khi thành rượu! Ta mà “duyên” với rượu thì cũng lắm chúng sanh
sẽ được tạo ra! Cơn giận chẳng hạn. Vì một lời nói xúc xiểm nào đó của
ai đó có khi làm ta bừng bừng nổi giận! Lời qua tiếng lại một lúc thì
“chúng” đã “sanh” ra lắm chuyện! Từ chúng sanh “lời nói” có thể chuyển
sang chúng sanh “đấm đá”… như chơi! Cơn giận, lòng tham, nỗi buồn, sự sợ
hãi, lo âu, căng thẳng… đều là những “chúng sanh”, nó quậy phá trong
tâm ta làm cho ta bị bấn loạn, phiền não, khổ đau không ngớt! Ngay cả
những con người rất dễ thương quanh ta, có khi mới sáng sớm là tiên, là
Bồ tat, chiều đến đã biến thành Atula, dạ xoa… các thứ như chơi! Mà ta
cũng vậy dưới mắt người khác!
Có thực
“ba cái lăng nhăng nó quấy ta” chăng? Không hẳn! Gió không động, phướn
không động. Tâm ta mới động. Tâm ta mà thanh tịnh rồi thì “chấp” hết!
Cơn giận nỗi buồn gì cũng “diệt độ” xong ngay! “Chúng” nào “sanh” ra thì
ta… “diệt độ” hết, nghĩa là dẹp bỏ sạch trơn. Đến lúc mặt hồ không xao
động thì ánh trăng mới vằng vặc soi! Nhưng, còn lâu! Còn phải khổ công
rèn luyện dài dài! Không thể nóng vội được. Chữ “diệt” ở đây không có
nghĩa là tiêu diệt, mà là “dẹp bỏ” qua một bên, hay còn có nghĩa là
“không để phát sanh ra” nữa, tức là một trạng thái “vô sanh”! Tiếng Việt
ta thật hay: sanh sự thì sự sanh! Vô sanh
thì vô sự, mà vô sự thì bình an: “Bình an vô sự”! Vậy nếu ta … rèn
luyện giỏi, ta có thể “diệt độ chúng sanh” đựơc lắm chớ! Diệt độ hết
chúng sanh mà thực ra không có chúng sanh nào được diệt độ cả, bởi có
còn sanh ra nữa đâu mà diệt với độ!
Nhưng hình như thế vẫn còn chẳng phải!