31/10/2010 09:43 (GMT+7)
Số lượt xem: 13376
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Kính lạy Thế độ Bổn sư

 

LƯU PHƯƠNG (*)

 

Thể theo yêu cầu của Huynh đệ đồng môn. Con đệ tử Lưu Phương xin mạo muội viết lên đôi dòng thô thiển gợi lại một vài kỷ niệm mãi mãi ngưng đọng trong con.. Ngưỡng vọng Bổn sư lân mẫn như sinh thời miễn chấp và gia hộ cho đệ tử tinh thần nhớ kỷ để đỡ phần sai sót.

 

Bổn sư tánh khí cương trưc, tích cực, quyết tâm, nên bất cứ lãnh vực nào hễ Bổn sư nhận trách nhiệm là hoàn thành xuất sắc. Không nễ sợ ngại ngùng, không lùi bước dù gặp gian nguy, . . .  Không bỡ ngỡ e ngại trước các thế lực hung bạo quyền hành, cậy thế của những năm 1961, 1962 về phong trào áp bức Tăng tín đồ tại Vĩnh Điện, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Những vùng ấy, cô thân yếu thế, thấp cổ bé họng, không được ai che chở, không ai can thiệp ;  Bổn sư đã tận tình vào tận nơi chốn để tìm hiểu vấn đề và làm sáng tỏ. Có những hàng chè cháo, bánh trái bán lung tung khắp chùa động vùng Non Nước, Đà Nẵng,  Bổn sư tìm cách giúp đỡ phương tiện thiết thực khả dĩ cho họ thiên di nơi khác, để nơi thờ phượng được trang nghiêm ;  Bổn sư khuyên họ không nên bày biện nơi thờ tự Phật tổ.

 

*.-  Thâm tình của Bổn sư đối với đệ tử :

 

Bổn sư thương đệ tử rất thắm thiết. Khi bị lỗi lầm, Ngài dạy dỗ, la mắng và đánh đập ;  tuy thế, hễ một đệ tử nào bệnh hoạn, chính Bổn sư tự thân đi kiếm thuốc, nếu nặng hơn thì nhờ những bác sĩ thân quen ở gần chợ Bến Ngự

 

như bác sĩ Bách, bác sĩ Nam Anh, ... là những bác sĩ giỏi thời đó. Các bác sĩ cũng đạp xe đạp gần ba, bốn tiếng đồng hồ về tận chùa để lo thuốc men cho đệ tử của Ngài.

 

Những đệ tử còn nhỏ như “Điệu Cu” tức chú Nhơn ở khuôn Dương Chánh bây giờ, Bổn sư đi xa về đều có quà chơi như con nít hiện tại vậy. Những lúc có những tuồng tích hay phim truyện như :  “Quán Thế Âm đắc đạo”, “Người mẹ mù”, “Quán Âm Thị kính”, thì Bổn sư cho đi xem để hiểu giáo lý của Phật thấm nhuần vào những tuồng tích ấy.

 

Thỉnh thoảng, một hoặc hai tháng Bổn sư dẫn cho chúng đệ tử đi vào núi tập cho hái rau, mót củi (chặt cây nhỏ, hoang dại);  rồi dẫn đến những bia ký của những lăng tẫm để biết sự tích của người nằm xuống có công trạng gì với đất nước. Trưa đến cả thầy lẫn trò ngọ trai giữa rừng núi thật là vui vẻ và đạm bạc làm sao.

 

Ba ngày Tết, Bổn sư cho đệ tử tiền để vui chơi với nhau như đổ xăm hường chẳng hạn. Có khi Bổn sư vui chung bằng cách ngồi làm cái. Bổn sư thua thì chung tiền cho đệ tử, thắng thì cười. Ngài còn khuyến khích học các nhạc cụ xưa và nay. Nhạc mới thì học với anh Võ Nam, một sinh viên trọ học Đại học Sư phạm. Nhạc cổ thì học với bác Hiến, một vị nhạc công của nội phủ. Những đệ tử xin về nhà thăm thì Sư phụ cho tiền xe đủ để đi và về. Bổn sư muốn đệ tử của Ngài không những chỉ học Nội điển mà còn tìm thầy dạy Ngoại điển nữa. Bằng chứng đã nhờ Giáo sư Tiềm lên tận chùa để dạy kèm cho Lưu Phương. Bổn sư của chúng tôi là vậy đó.

 

Năm 1948, khi Bổn sư nhận thấy đã thuộc kinh điển khá nhiều, đã thâu thập được một phần thâm áo về hai thời công phu, bốn cuốn luật tiểu ;  Ngài bèn nói với sư bà Diệu Không, là sắm pháp phục và pháp cụ để cho tôi (Lưu Phương) thọ Sa di thập giới, cho ra học lớp Sơ đẳng Phật giáo tại Phật học đường Bảo Quốc.

 

Trước khi Bổn sư tôi đi dự Phật đản ở nước ngoài, Ngài còn thưa với ôn Linh Mụ và ôn Linh Quang cho đăng đàn thọ Tỳ kheo và Bồ tát giới . Vì khi mở Đàn giới, Bổn sư không có nhà. Bổn sư tôi còn dặn dò thêm :

 

-.  Thưa hai thầy, tôi biết nó có khả năng kham thọ Đại giới. Quý thầy cứ yên tâm. Tôi có bổn phận dạy dỗ tiếp. Quý thầy yên tâm.

 

Bổn sư tôi còn tìm cách đưa tôi vào làm thị giả ôn Trí Thủ ở Viện Cao đẳng Phật giáo (Sài gòn). Trước khi đi, Ôn còn cho ba ngàn đồng (tương đương bảy chỉ vàng hiện tại).  Ngài còn bảo Ni sư Diệu Quang mua sắm nào mùng mền, áo dài, áo ngắn đủ loại và đồ (va-ly) để đựng áo quần. Sau đó, hằng tháng Bổn sư còn gởi đều đặn một ngàn đồng.

 

Vào Nam tu học chưa được bao lâu, bị ngọn gió nghiệp thế gian lôi cuốn, chính bản thân tôi phải trôi theo dòng đời. Và, cứ thế, nghiệp cứ nặng thêm và lún sâu gần như suốt cả cuộc đời ;  ấy thế, mà mỗi lần vào Sài gòn có Phật sự, Thầy cũng sai Nguyên Tâm đi tìm và đến quán Bồ đề duyên cùng được ăn cơm chung. Thật là thâm tình biết bao.

 

Kính lạy Giác linh Bổn sư,

 

Bản thân con là như thế ấy, gió nghiệp trần lao của con là như vậy đó ;  thế mà, Thầy đã không nỡ bỏ quên, bằng mọi cách khuyến tấn cho con dưới mọi hình thức trở lại con đường xưa là Phục giới trở lại. Những gì đã xảy ra và đến với cuộc đời con Thầy hoàn toàn tha thứ. Nay thì :  Con đã có cơ duyên phục giới lại, thì Thầy đã về với Phật. Thầy trò vẫn đôi đường xa cách...  Riêng tất cả những huynh đệ và chúng đệ tử đã hầu Phật, Bổn sư cũng đưa vào Thánh địa Trúc Lâm một cách trọn vẹn. Cuộc đời của Bổn sư cao đẹp làm sao ?  Và biết đến bao giờ con có lại được những gì như xưa. Con xin muôn ngàn lần sám hối và nguyện cố gắng làm được những gì mà Bổn sư đã tận tình dạy dỗ thời thơ ấu của con cho những chuổi ngày còn sót lại.

 

*.-  Thâm tình với tín đồ : 

Trong làng xóm Thuận Hòa hay Dương Xuân Thượng Một, nhà nào hữu sự ra sao, Bổn sư cũng thân hành đi bộ đến tận nơi để biết. Nếu cần giúp đỡ thì Ngài cũng hết lòng hoặc vận động bà con làng xóm cùng chung sức từ vật chất đến tinh thần.

 

Có một gia đình trong thôn Thuận Hòa gặp cảnh chết Trùng tang Liên táng (nghĩa là chết liên tục mỗi năm một người, hoặc ba tháng), gia đình họ gồm 12 người con. Đã chết đến người thứ Mười. Chết đến độ không có đủ hòm hay chiếu để quấn lại mà chôn cất. Gia đình buộc phải đưa xác thân người chết bỏ vào núi xanh, vùng núi Kim Phụng. Bổn sư động lòng, đi thâu tóm những thân xác ấy chôn cất và tìm cách chận đứng sự chết chóc nầy bằng pháp thuật Thiền đặc biệt (người đời gọi là Yễm). Vì Bổn sư có học bùa phép của pháp môn Mật chú của phái Mật tông với một vị Pháp sư ở nhà ông Lương Tế Xuyên, Đà Nẵng (Nay là Tỉnh đường của thị xã Đà Nẵng). 

 

Và gia đình đau khổ ấy được may mắn là còn sót lại một đứa con trai duy nhất thứ 13. Cậu con trai này chắc bây giờ cũng gần năm mươi tuổi.

 

Những gia đình Đồng bóng chung quanh chùa, muốn chầu văn thì phải vào thưa và xin phép Ôn. Ngài dạy :

 

-.  Hầu thì hầu ngắn gọn và đừng phung phí tiền bạc mua vàng mả, giấy tiền để đốt quá đáng ;  phải tin vào lý nhơn quả của Phật dạy.

 

Bổn sư thấy họ đang trong vòng lẩn quẩn mê tín dị đoan, Ngài không cấm cản gắt gao, nhưng Ngài cũng không cổ xúy. Ngài tìm cách đưa họ lần lần trở về Chánh đạo. Nhờ đức Từ vô thượng ấy, Ngài cảm hóa có kết quả rất đáng kể. Con em của họ vào chùa quy y. Ngài còn sai đệ tử tìm cách mở những lớp học đặc biệt để đào tạo văn hóa cho họ. Lớp con em này, ngày hai buổi phải ngồi trên mình trâu, trưa cắp sách đến trường học chữ. Giáo viên thì cho các chú, các thầy trực tiếp giảng dạy. Có những giáo viên nhờ Phật tử điều khiển thì Ngài vận động hùn nhau trả thù lao cho những giáo viên nầy. Chính, giáo sư Lê Văn Lợi, Ngô Văn Nhật, . . . cũng đóng góp tối đa cho chương trình trả học phí ấy một thời gian khá dài. Ngôi trường biến từ Sơ cấp đến Tiểu học và có tên là trường Tiểu học Bồ đề Câu Na La. Trường này sống đến ngày 30 tháng Tư - 1975 thì chấm dứt. Ngôi trường cũng đi theo mây khói. Nay chỉ còn một cái nền xi-măng trơ trọi, hoang tàn.

 

Ôi !  cuộc đời cao đẹp, phi phàm của Bổn sư, đệ tử với trí óc hẹp hòi, với vốn văn chương cạn cợt, . . . không đủ sức để nói lên hết được những gì con muốn nói ;  cũng không đủ sức để viết lại những gì mà con đã có phước báo sống bên cạnh Bổn sư trong những ngày hành điệu cho đến lúc vấp ngã theo nghiệp chướng sâu dày vừa qua.

 

Con xin muôn lần tạ tội, muôn lần sám hối và cầu mong Bổn sư chứng dám và tha thứ cho con.

 

Nam mô Hoan hỷ tạng Bồ tát Ma ha tát.

 

Viết tại Huế, ngày cuối mùa VuLan Đinh hợi,

                                                                                             Kính bái,

 

Đệ tử LƯU PHƯƠNG

 

 

          (*)  Lưu Phương là vị đệ tử đầu tay của Ôn Mật Hiển. Vì duyên nghiệp nên đã trôi theo dòng đời khá dài gần như cả cuộc đời. Nay được chư Tôn đức phục giới lại. Chúng tôi liên lạc được và ngõ ý viết đôi dòng đến với Ôn. Bài nay tác giả viết hai phần. Phần A nói về Thân thế của Ôn Mật Hiển, chúng tôi thấy trùng lặp với bài Tiểu sử và Hành trạng của Ngài, nên đành không đưa vào tập Tưởng niệm này. Chỉ ghi lại phần B, như đề bài trên đây. Kính xin tác giả hoan hỷ.

 

 


Âm lịch

Ảnh đẹp