Ngài là con trai thứ ba trong gia đình có bốn người con
(hai chị và một em trai). Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Bình (tự Hồng)
sinh năm 1882, và bà Lê Thị Kế sinh năm 1886. (Song thân và chị em ngài
đều đã qua đời).
Thân
phụ và thân mẫu ngài đều là Phật tử thuần thành, lại là gia đình Nho
giáo thuần lương, nên ngài được giáo dục trên tinh thần giáo lý Phật Đà,
sớm hình thành nơi ngài những đức tính bi dũng Xuất trần thượng sĩ. Nhà
ngài ở gần chùa Phước Sơn, nên thuở ấu thời ngài thường được song thân
đưa đến chùa viếng thăm, tụng kinh, lễ Phật tại ngôi chùa này. Với tư
chất thông minh sẵn có, ngay từ nhỏ ngài đã thuộc các kinh Nhật tụng và
những nghi thức thiền môn. Thời gian này ngài cũng theo học các lớp phổ
thông.
II. Thời kỳ xuất gia tu học:
+
Vốn có túc duyên từ nhiều đời, lại được giáo dục trong môi trường tốt,
chí xuất trần đã sẵn, năm lên 14 tuổi ngài phát tâm Bồ đề, lập chí
nguyện xuất gia. Ngài xin song thân xuất gia tu học tại chùa Phước Sơn
huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Bổn sư đầu tiên độ ngài lúc ấy là Hoà
Thượng Như Phước, tự Giải Mộng, hiệu Tường Quang trụ trì chùa Phước Sơn,
ngài qui y với pháp danh là Thị Hớn.
+
Năm 1943, lúc ngài 19 tuổi, sau năm năm tu học, ngài được Hoà Thượng
Tường Quang cho thọ giới Sa Di tại giới đàn Tổ đình Thiên Đức, Tuy
Phước, Bình Định do Hoà Thượng Thích Huệ Chiếu làm Đường Đầu.
+
Vốn bẩm tính thông minh, lại có một đạo phong uy nghiêm ngay từ khi còn
nhỏ tuổi, nên ngài được hoà thượng Tường Quang rất thương mến. Nhận
thấy khả năng thông tuệ của ngài sẽ tiến xa hơn, cao hơn trên đường tu
học, nên Hoà Thượng khuyên ngài vào Tuy Phước Bình Định, nơi có nhiều
bậc Long Tượng trong tòng lâm Phật pháp để cầu sự thọ giáo, tu học.
+
Ba năm sau, năm ngài 21 tuổi, vâng theo lời chỉ dạy của HT. Tường
Quang, ngài đảnh lễ vị Hoà thượng ân sư khả kính, từ giả chùa Phước Sơn
thân thương, và khăn gói lên đường vào miền đất Tổ Tuy Phước, Bình Định
để tầm sư học đạo.
+
Năm 1946, với túc duyên sư đồ từ trước, ngài đã đến tổ đình Thiên Đức,
xã Phước Hưng, Tuy Phước, Bình Định, cầu HT. thượng Huệ, hạ Chiếu làm
Bổn sư. HT. Huệ Chiếu hoan hỷ nhận ngài làm đệ tử, và ban cho pháp danh
là Nguyên Uyên tự Chí Đạt, hiệu Giác Ngộ. (HT. Giác Tánh lúc bấy giờ là
sư huynh, HT. Thiện Nhơn, Thiện Duyên, Quảng Xả, v.v… là đệ tử của HT.
Giác Tánh).
+
Năm 1952, ngài thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát tại Đại giới đàn tổ đình
Thiên Bình, Xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Đại Giới Đàn
này, HT. Huệ Chiếu làm Đường Đầu, HT Tâm Đạt, viện chủ tổ đình Thiên
Bình làm Hoá chủ và Giáo thọ, HT. Phúc Hộ làm Yết Ma A Xà Lê… Tại Đại
giới đàn này, ngài được chọn làm Thủ Sa Di đứng đầu trong số các giới
tử, lúc bấy giờ ngài vừa tròn 28 tuổi.
III. Thời Kỳ Hành Đạo
+
Năm 1953, ngài được Giáo hội phật giáo tỉnh Bình Định bầu làm Chánh thư
kí Phật giáo trong mặt trận Liên Việt, và làm Uỷ viên Mặt trận Liên
việt, kiêm nhiệm chức vụ Hội Đồng Nhân Dân xã Phước Hưng, lo các mặt
hoạt động đạo đức trong sinh hoạt của cộng đồng Phật tử và nhân dân.
Nhưng trọng tâm của ngài là hướng dẫn tín đồ tu học theo chánh pháp.
+
Năm 1954, với nhu cầu Phật sự, cộng đồng Phật tử chùa Thiên Trúc cung
thỉnh ngài trụ trì chùa Thiên Trúc, thôn Bình Lâm, xã Phước Hoà, Tuy
Phước, Bình Định. Trong thời gian này, ngài hướng dẫn Phật tử tu học,
đồng thời đào tạo Tăng chúng xuất gia, chúng đệ tử được ngài thế độ tại
chùa này như: TT. Thích Quảng Cố, TT. Thích Quảng Bửu, TT. Thích Quảng
Hoa (TT. Tâm Tường), TT. Thích Quảng Hiện (đã viên tịch), v.v…
+
Trụ trì chùa Thiên Trúc được hai năm, năm 1957, ngài giao chùa cho đệ
tử là TT. Thích Quảng Cố trông nôm để lên đường ra Huế tham gia các lớp
nghiên cứu Phật học tại Học viện Báo Quốc. Viện trưởng học viện Báo Quốc
lúc bấy giờ là HT. Thích Trí Thủ.
+
Sau bốn năm nghiên cứu, tu học tại Học viện Báo Quốc, năm 1961, ngài
trở về chùa Thiên Trúc tiếp tục sứ mệnh tiếp Tăng độ chúng, hướng dẫn
mọi người tu học. Đến năm 1963, ban Tăng sự tỉnh hội Phật giáo Bình Định
(tổ đình Long Khánh, thành phố Qui Nhơn) mời ngài về tham gia công tác
Phật sự cho tỉnh giáo hội Phật giáo Bình Định.
+
Qua thời gian công tác Phật sự một năm tại Tỉnh giáo hội TP. Qui Nhơn,
năm 1964 Trung ương Giáo hội Phật giáo quyết định bổ nhiệm ngài trụ trì
chùa Pháp Lâm Đà Nẵng, hướng dẫn đồng bào Phật tử tại đây tu học.
+
Mãn nhiệm kì 2 năm Phật sự tại TP. Đà Nẵng, năm 1966, Ban trị sự Phật
giáo tỉnh Bình Định mời ngài về Tổ Đình Long Khánh để tham gia công tác
giáo dục, đào tạo tăng tài, kiêm chức vụ Đặc uỷ Văn hoá Phật giáo Bình
Định.
+
Năm 1966-1970, ngài làm giáo thọ tại các trường Bồ Đề chùa Long Khánh,
trường Bồ Đề Nguyên Thiều, trường Phật học Nguyên Thiều. (Ngài cùng quí
HT. Thích Huyền Quang, HT. Thích Giác Tánh, HT. Thích Tâm Hoàn, HT.
Thích Đồng Thiện, HT. Thích Bảo An, HT. Thích Thiện Nhơn, HT. Thích Ngọc
Lộ, HT. Thích Đổng Quán đồng sáng lập Tu Viện Nguyên Thiều và trường
Trung cấp Phật học Nguyên Thiều.)
+
Năm 1970, ngài được chư Tăng Tổ đình Thập Tháp mời tham gia công tác
giáo dục về chuyên khoa Phật học và làm Giám học của Phật học viện Phước
Huệ trong hai năm.
+
Năm 1972, Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo quyết định cử ngài nhận lãnh
trách nhiệm hoằng pháp Cao nguyên, bổ nhiệm ngài về trụ trì chùa Tỉnh
Hội (chùa Bửu Thắng), Pleiku, tỉnh Gia Lai.
+
Ngày 08 tháng 03 năm 1972, ngài chính thức nhận nhiệm vụ trụ trì chùa
Bửu Thắng (chùa Tỉnh Hội). Ngài bắt tay vào việc đầu tiên là chỉnh đốn
thiền môn, trang nghiêm tổ đình, hướng dẫn đạo tràng tu học.
IV. Nhiếp Hoá Đồ Chúng - Tổ Ấn Trùng Quang
Chùa
Bửu Thắng là trung tâm hành đạo của Tỉnh hội Phật giáo Gia Lai, có Văn
phòng Hành chính Ban đại diện Phật giáo Tỉnh hội - Văn phòng Ban hướng
dẫn Gia đình Phật tử tỉnh Gia Lai. Lúc này, ngài đảm nhận trách nhiệm
trú trì, đồng thời, tham gia mọi công tác Phật sự của tỉnh nhà.
Sau
tháng 4/1975 đất nước giải phóng, địa bàn hành chánh tỉnh Gia Lai sáng
lập thêm tỉnh Kon Tum và tỉnh Phú Bổn, do vậy mọi hoạt động của Giáo hội
nói chung, cũng như của ngài nói riêng ngày càng nhiều, đòi hỏi thật
nhiều hy sinh và dấn thân phụng sự.
Chùa
Tỉnh Hội vừa là trung tâm sinh hoạt Phật giáo của tỉnh Gia Lai, đồng
thời là trung tâm của hai tỉnh: Kon Tum và Phú Bổn. Ngài là bậc Cao tăng
trụ trì chùa Tỉnh Hội, nên trách nhiệm Phật sự của ngài đối với Giáo
hội và quần chúng ngày càng lớn lao hơn.
Suốt
những thập niên 80 của thế kỉ 20, tình hình kinh tế khó khăn chung,
ngài cũng theo di huấn Tổ Lâm Tế “nhứt nhật bất tác, nhứt nhật bất thực:
Sáng bổ củi, làm vườn, chiều tối kệ kinh, dạy bảo đồ chúng… Chùa Bửu
Thắng là trung tâm An cư Kiết hạ của chư Tăng toàn tỉnh. Nên hằng năm
ngài ra sức chăm lo nơi ăn, chỗ nghỉ… cho chư Tăng trong 3 tháng An cư
Kiết hạ, công việc đơn giản nhưng không kém phần gian nan.
Đối
với Gia đình phật tử, ngài nhắc nhở các anh chị trưởng phải biết hi
sinh thời gian công việc, lo dạy dỗ các em tu học không để đánh mất nền
văn hoá cao đẹp, cố gắng giữ gìn nền đạo đức của tổ tiên. Ngài cũng nhắc
nhở các vị trụ trì, các ban Hộ tự, Bổn tự quan tâm giúp đỡ Gia đình
Phật tử để tiếp nối hậu lai, báo Phật ân đức.
Để
ghi nhận và tán dương những đóng góp của ngài với Đạo pháp và Giáo hội,
tại Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ V, 2002–2007 ngài được Đại hội
Tấn phong lên hàng Giáo phẩm Hoà Thượng. Cũng tại Đại hội này, ngài
được suy tôn vào Hội Đồng Chứng Minh TW Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Đối
với Phật giáo tỉnh Gia Lai, ngài đã có những đóng góp tích cực cho Phật
giáo tỉnh nhà, nhất là giai đoạn sau ngày thống nhất đất nước. Tại Đại
hội Phật giảo tỉnh Gia Lai nhiệm kỳ II (2002–2007) và nhiệm kỳ III
(2007-2012), ngài được cung thỉnh Cố vấn, chứng minh Ban Trị Sự Phật
Giáo tỉnh.
Gần
40 năm đảm nhiệm chức vụ Trú trì tổ đình Bửu Thắng, vì tuổi cao, sức
yếu ngài đã đề cử Thượng toạ Thích Tâm Tường thay thế ngài làm trú trì
chùa Bửu Thắng. Tại cuộc họp mở rộng ngày 23-9-2006 giữa Ban Trị Sự tỉnh
Gia Lai cùng Ban hộ tự và toàn thể phật tử chùa Bửu Thắng, toàn thể
Tăng Ni, Phật tử đã nhất tâm cung thỉnh ngài giữ chức Viện chủ chùa Bửu
Thắng và ngài đã hoan hỷ nhận lời. Suốt cuộc đời tu học, hành đạo của
ngài ở nhiều nơi, nhưng có lẽ chùa Bửu Thắng và đất Gia Lai là nơi ngài
dừng chân lâu nhất.
Điểm
nổi bật của ngài là suốt cuộc đời tu tập và hoằng dương Chánh pháp là
ngài luôn đề cao và nghiêm trì giới luật, là tấm gương sáng ngời trong
việc hành trì Phật pháp. Ngài cũng khuyến khích, sách tấn tăng ni, nhất
là thế hệ tăng ni trẻ thực hành Phật pháp, gìn giữ mạng mạch của Phật
giáo, đồng thời khuyên chư Tăng nên tập trung về một nơi để An cư Kiết
hạ hằng năm để thúc liễm thân tâm, trau giồi giới định tuệ. Quả thật,
ngài là cây đại thọ cho ngôi nhà Phật pháp, là bóng đại bồ đề che mát
cho hậu lai.
Trên bước đường thừa hành Phật sự từ Bình Định, đến Đà Nẵng, rồi Gia Lai, ngài luôn lấy tâm nguyện: “tùy duyên phổ hóa”.
Ngài đã đóng góp nhiều cho công việc trùng tu các chùa: Thiên Trúc
(Bình Định), Pháp Lâm (Đà Nẵng), Bửu Thắng (Gia Lai), v.v… những nơi đi
qua, ngài đều để lại những dấu ấn khá sâu lắng.
Trong
cuộc đời hoằng pháp độ sanh, Hoà thượng đã truyền trao đuốc tuệ cho
nhiều đệ tử xuất gia và tại gia. Những đệ tử xuất gia của ngài như: TT.
Thích Quảng Cố, TT. Thích Quảng Bửu, TT. Thích Quảng Hoa (Thích Tâm
Tường), TT. Thích Quảng Hiện, Đại đức Thích Quảng Phát, Nhuận Nhàn,
Quảng Phước, Quảng Trang, Đức Thi, Quảng Từ v.v… Ngài cũng quy y và trao
truyền năm giới cho hàng ngàn đệ tử tại gia ở Bình Định, Đà Nẳng và Gia
Lai nhất là ở thành phố Pleiku.
V. Viên Tịch
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô.”
Vạn pháp đều vô thường, đúng theo chân lý Phật dạy, với 86 năm hiện hữu
trên cuộc đời, thân xác hữu hình như ngôi nhà trải qua thời gian dài sử
dụng đến thời kỳ hư hoại. Như Bồ tát Duy Ma thị hiện tật bệnh để hoá độ
chúng sanh, những năm cuối cuộc đời, thân xác ngài mang nhiều trọng
bệnh. Dù các hiếu tử của ngài đã nhiệt tâm chữa trị, nhưng thuận thế vô
thường, ngài đã thâu thần thị tịch trong không khí thiêng liêng, với âm
vang của lời kinh kệ, cùng tiếng niệm Phật siêu thoát của hàng đệ tử
xuất gia và tại gia. Ngài viên tịch vào lúc 10 giờ kém 10 ngày 19 tháng
11 năm 2010 (giờ tỵ, ngày 14, tháng 10, năm Canh Dần) tại tổ đình Bửu
Thắng, số 4A, đường Sư Vạn Hạnh, phường Hội Thương, thành phố Pleiku,
tỉnh Gia Lai, thế thọ 86 tuổi, hạ lạp 59 năm.
Gần
60 năm tận tụy hết lòng phục vụ Đạo pháp, Giáo hội, nghiêm trì giới
luật, khơi thông mạng mạch, thắp sáng nguồn thiền, những đóng góp của
ngài cho đạo pháp và quê hương thật đáng cao quí, không sao kể hết, làm
rạng danh cho ngôi nhà Phật giáo, xứng danh: “Tòng lâm thạch trụ” của
rừng thiền.
Hôm
nay, mặc Hoà Thượng đã đi vào cõi Niết-bàn bất sinh, bất diệt, nhưng
gương sáng ngời trí tuệ, giới hạnh và tinh thần phục vụ Đạo pháp, Dân
tộc suốt cuộc đời của ngài vẫn còn mãi với GHPGVN, với Phật tử Phố núi , với tổ đình Bửu Thắng thân thương. Quả thật: “Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn vương hương.”
Nam
Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ Thập Tứ Thế, húy thượng Nguyên hạ Uyên, tự
Chí Đạt, hiệu Giác Ngộ Bổn Sư Hoà thượng Giác Linh thuỳ từ chứng giám.
Môn đồ pháp quyến kính bái