DANH HIỆU:
Trên phương tiện tôn vinh và nhiệm mệnh thực tế, chức
vụ TĂNG THỐNG có từ đời Vua Đinh Tiên Hoàng (theo tài liệu; Con người
Bồ Tát, tạp chí Hải Triều Âm số 4-5, của Thạch Trung Giả).
Sau khi khai
đạo cho Vua, Khuông Việt thiền sư đã nghiễm nhiên trở thành vị TĂNG
THỐNG đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam, do Vua Đinh Tiên Hoàng sắc phong.
Năm tháng trải dài trên mười thế kỷ, chức vụ đó, có khi được hoán vị
thành hình, sự suy tôn TĂNG THỐNG được bắt đầu phục hồi. Đặc biệt trong
lúc này, việc tấn phong không do Triều đình hay Chính quyền mà do đại
diện của toàn thể TĂNG NI tín đồ Phật Giáo suy tôn.
Lúc này, vị
đệ nhất Tăng Thống của Giáo hội là Đức cố Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT.
Kế đến là Đức Đệ nhị TĂNG THỐNG Đại lão Hòa Thượng THÍCH GIÁC NHIÊN, mà
hôm nay, chúng ta đang ôn lại quảng đời của Ngài. Ngôi vị đó, kết tinh
công hạnh Phụng Đạo Cứu Đời trong dòng truyền thừa Chánh pháp.
THÂN THẾ:
Ngài
tên thật là VÕ CHÍ THÂM, sinh ngày 07 tháng 01 năm 1878, tại làng Ái
Tử, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Con của Cụ VÕ VĂN XƯNG, và Bà TRẦN
THỊ DIỀU.
ẤU THỜI:
Năm lên 7, Ngài bắt đầu theo học chữ
Nho, với tư chất thông minh, không bao lâu, Ngài đã tinh thông Nho học.
Nhờ túc duyên của nhiều đời, chí xuất trần cưu mang trong chủng tử, Ngài
đã phát tâm xuất gia Thọ giáo với Hòa Thượng TÂM TỊNH (Trú trì Chùa Tây
Thiên-Huế, lúc bấy giờ) và được ban Pháp danh là (Thượng) TRỪNG (hạ)
THỦY, Pháp tự là CHÍ THÂM, Pháp hiệu là GIÁC NHIÊN.
THỜI GIAN TU HỌC:
Sau
hai mươi ba năm tu học, Ngài chuyên tâm nghiên cứu tinh yếu của Kinh
Luật Đại thừa, đặc biệt Ngài đã sử dụng phần lớn thời gian trong việc
Thiền định. Vì thế, đạo phong của Ngài, ngày càng đượm nét Thiền sư.
Đến
năm Canh Tuất, (1895), Triều Duy Tân, Ngài cùng với Hòa Thượng TỊNH
KHIẾT (Cố Đệ nhất Tăng Thống Giáo hội PGVNTN) Thọ Tam đàn Cụ túc tại
Giới đàn Chùa Phước Lâm (Hội An). Đại giới đàn này do Ngài VĨNH GIA làm
Đàn đầu, Ngài TÂM TRUYỀN làm Yết ma và Ngài HOẰNG PHÚ làm Giáo thọ. Từ
đó, giới đức tinh nghiêm, pháp thạn thanh tịnh là kim chỉ nam trong suốt
cuộc đời hành hóa của Ngài sau này.
CÔNG NGHIỆP HOẰNG PHÁP:
Mãi
đến năm 1932, cùng các Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ (Chùa Thập Tháp, Bình
Định), GIÁC TIÊN, HT. TỊNH HẠNH, cư sĩ TÂM MINH, TRƯƠNG XƯỚNG ... Sáng
lập Hội An Nam Phật Học. Hội đã Cung thỉnh Ngài đảm nhiệm chức vụ Chứng
minh Đại Đạo sư và kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường TÂY THIÊN-HUẾ.
Năm
1934, Ngài làm Trú trì Quốc tự THÁNH DUYÊN (Túy Vân, Huế), một trong ba
Quốc tự lớn tại Thừa Thiên (Linh Mục, Thánh Duyên, Diệu Đế).
Năm
1936, Triều đình phong chức Ngài làm TĂNG CANG. Cùng năm đó, Tạp chí
VIÊN ÂM, phương tiện hoằng pháp cua Phật Giáo, do Ngài và Hòa Thượng
GIÁC TIÊN Chứng minh.
Năm 1937, do ủy nhiệm của các vị Tôn đức
Thiền gia, Ngài nhận chức Trú trì Tổ đình THUYỀN TÔN (Thừa Thiên). Tổ
đình này, thuọc phái LÂM TẾ, do Tổ LIỄU QUÁN khai sơn vào khoảng năm thứ
IV niên hiệu Vĩnh Thịnh (1708). Ngài là đời thứ VIII, dòng THIỀN LIỄU
QUÁN.
Năm 1956, Ngài được Giáo hội Phật Giáo Trung phần cung
thỉnh vào chức vụ Viện trưởng Phật học viện HẢI ĐỨC – Nha Trang (Cơ quan
đào tạo Tăng tài của Phật Giáo Trung phần).
Năm 1958-1962, Ngài
liên tiếp đảm nhận chức Chánh Hội trưởng TỒNG TRỊ SỰ HỘI PHẬT GIÁO TRUNG
PHẦN trong suốt 4 niên khóa. Trong thời gian này, với tuổi trên 80,
Ngài vẫn chu toàn nhiệm vụ, kinh lý, nhiều lần đến các Hội Phật Giáo
khắp nơi ở Cao nguyên và Trung nguyên.
Xúc động hơn nữa, cũng
chính Ngài, năm 88 tuổi, sức yếu thân gầy, trong tay chiếc gậy trúc,
Ngài không từ nan, quyết một lòng hy sinh vì Đạo, đích thân dẫn đầu cuộc
biểu tình của Tăng tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế, mở đầu phong trào
vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng Tôn giáo vào chiều ngày
14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão). Trong công cuộc vận động và đấu tranh,
Ngài đã không ngừng chung lưng đấu cật, xẻ đắng chia cay cùng với phong
trào cho đến ngày thành tựu mỹ mãn.
Một công việc Hoằng pháp
trọng yếu hơn nữa, Ngài đã nhiều lần làm Đàn đầu Hòa Thượng truyền giới
cho đồ chúng xuất gia tại gia qua các Đại Giới Đàn: Giới Đàn HỘ QUỐC tại
Phật học viện Trung phần, Chùa Hải Đức, Nha Trang (1956), Giới Đàn VẠN
HẠNH tại Chùa Từ Hiếu, Huế (1965), Giới Đàn VĨNH GIA tại Phật học viện
Phổ Đà, Đà Nẵng (1970).
Môn đồ của Ngài không nhiều, người còn kẻ
mất, đều đã góp công làm nên lịch sử Phật Giáo hiện đại, và hầu hết là
những cấp lãnh đạo của Giáo hội từ Trung ương đến các Miền, Tỉnh thuộc
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, như Thượng Tọa THIỆN SIÊU, Thượng Tọa THIỆN
MINH, Thượng Tọa THIỆN BÌNH ...
Trang trải đã quá nửa đời người,
nghịch cảnh, chướng ngại vẫn còn bủa vây Giáo hội cùng dân tộc. Tuy
nhiên, nhất thâm nhật hậu, với bản chất cố hữu “Vô ngôn bất động” của
Ngài qua Giới, Định, Tuệ, đã tạo nên một sức mạnh nội tại phi thường như
để tiếp sức cho những đứa con tinh thần, đang trên đường làm sứ mệnh
Phật giáo Việt Nam.
Rồi tin ngưng bắn được loan đi vào ngày
28/01/1973, đất nước rẽ sang một giai đoạn mới, từ đó, Giáo hội cũng bắt
đầu đối mặt với một hoàn cảnh khá phức tạp ... Không bao lâu, sau Đức
Tăng Thống của Giáo hội thị tịch (1973) – Sinh hoạt của Giáo hội trở nên
chông chênh không người lèo lái.
Trước hoàn cảnh đó, Ngài đã
nhận chức vụ Đệ nhị Tăng Thống do Đại hội Phật giáo kỳ V suy tôn vào
ngày 10 tháng 12 năm 1973, trong Chí nguyện Thiệu Long Tam Bảo, để kế
tục lãnh đạo Giáo hội. Đây là chức vụ vừa tối cao, và cũng là cuối cùng
của đời Ngài.
VẬN ĐỘNG HÒA BÌNH CHẤM DỨT CHIẾN TRANH:
Sau
ngày tân nhiệm, chiến tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt, gieo rắc chết chóc
tang thương trên khắp đất nước, nền hòa binh dân tộc đang là bóng dáng
mù khơi. Ngài đã và đang chứng kiến những chiến tích được dệt bằng máu
và nước mắt của không ai khác hơn là dân tộc Việt Nam nói chung và quần
chúng Phật tử nói riêng. Ngài đã đau khổ nổi khổ đau của chúng sinh. Cho
nên, ngoài sứ mệnh lãnh đạo Giáo hội đi đúng con đường Chánh pháp, Ngài
vẫn hằng quan tâm đến vấn đề hòa bình đất nước và sự an lạc của toàn
dân. Niềm suy tư và ước vọng này của Ngài, đã được thể hiện qua các
THÔNG ĐIỆP kêu gọi ý thức trách nhiệm của mỗi người để dập tắt chiến
tranh, đem lại hòa bình cho đất nước và sự an lạc nghiệp cho toàn dân.
Sau
ngày nước nhà được hòa bình thống nhất, sự nghiệp lãnh đạo Giáo hội và
nhiếp hóa chúng sinh của Ngài lúc này là huấn dụ Tăng Ni tinh tấn nghiêm
trì Giới luật, Ngài dạy: “Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ”. Ngài
cũng khuyên Tăng Ni hãy sống nếp sống phạm hạnh, theo tinh thần BÁCH
TRƯỢNG THANH QUY. Ngài dạy: “Tôi nay đã già rồi, hơn trăm năm qua, tôi
đã sống và đã chứng kiến bao đổi thay của đất nước thân yêu. Tôi thấy
không có gì hơn là sống nếp sống phạm hạnh. Cho nên, tôi chỉ mong hàng
Phật tử xuất gia hãy sống hoan hỷ trong nếp sống phạm hạnh, gìn giữ
Giới-Định-Tuệ để hành đạo, giúp Đời ... Với hàng Phật tử tại gia, hãy tu
tâm dưõng đức, biết thương yêu mọi người, làm tròn trách nhiệm của mình
đối với Đạo, với Đời để cùng nhau phát huy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ của
Đạo Phật và xây dựng một nước Việt Nam vinh quang giàu mạnh”. (Thông
điệp Phật Đản 2522) (1978).
NHIẾP HÓA ĐỒ CHÚNG:
Mặc dầu
công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan và phức tạp, Ngài vẫn không xao
lãng việc Nhiếp hóa đồ chúng. Ngài từng huấn dụ Tăng Ni: “Đạo Phật tồn
tại, không chỉ ở những hình thức Chùa Tháp, Lễ nghi, Kinh điển. Mặc dù
Kinh điển là chỉ nam hướng dẫn ta đến đạo quả vô thượng Bồ đề, nhưng sự
tồn tại đích thực chính là ở sự thể hiện Đạo phong. Những nếp sống gương
mẫu của các bậc Tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ
Chánh pháp, để Chánh pháp mãi mãi tồn tại với thế gian và làm lợi ích
chúng sinh ...” (Thư gửi Tăng Ni, nhân mùa An cư 1976).
Thật vậy,
mặc dầu đã 102 tuổi, nhưng nơi Ngài không hề thấy có triệu chứng thông
thường của những bậc luống tuổi. Pháp thể tuy có gầy ốm nhưng Ngài vẫn
đi đứng bình thường. Dáng đi mạnh mẽ khoan thai, oai nghiêm đỉnh đạc,
không phiền người dìu dắt, không hề nắm gậy, ngồi hàng giờ lưng không
biết đau, gối không biết mỏi. Mắt không mờ, tai không lãng, nói năng rõ
ràng không hề lẫn lộn và trí tuệ minh mẫn một cách lạ thường.
Mắt
mờ, tai lãng, gối mỏi, lưng đau, nói năng lẫn lộn, trí nhớ mất đi và đi
đâu cũng phải chống gậy, đó là những triệu chứng thường tình, có ở nơi
các bậc luống tuổi. Nhưng ở Ngài thì không. Phải chăng nhờ công hạnh tu
trì của Ngài đã làm thay đổi được những triệu chứng thường tình cua thế
nhân. Ngần ấy đức tánh đặc hữu nơi Ngài, đủ làm chúng ta kính phục và
tăng trưởng đạo tâm.
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG:
Trong dịp đầu
Xuân Kỷ Mùi khi Hòa Thượng Đôn Hậu, Chánh thư ký Viện Tăng Thống và quý
Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại đức trong Giáo hội Thừa Thiên đến Tổ đình
Thiền Tôn đãnh lễ và Chúc Thọ đầu năm (04/01 Kỷ Mùi). Hôm đó trời trở
lạnh, Ngài đang nghỉ, Hòa Thượng Đôn Hậu và Ban Đại diện Giáo hội vào
tận chỗ nghỉ. Ngài hỏi bằng một giọng nhẹ nhàng và vô cùng cảm mến: “Ai
đó?”. Sau khi được trình lại, Ngài sửa soạn định ngồi dậy, Hòa Thượng
Đôn Hậu: “Xin thỉnh Ông cứ nằm, cho phép chúng con được đãnh lễ chúc Thọ
đầu năm”. Ngài dạy: “Để tôi ngồi dậy một tý với các Thầy, nằm ri e
không phải lễ với các Thầy chừ”. Đoạn Ngài ngồi dậy nhìn quanh rồi hỏi:
“Thầy Đức Tâm mô, sao không vào cho tôi thăm với?”. Hôm đó Thầy Đức Tâm,
phó Đại diện Giáo hội Tỉnh Thừa Thiên-Huế bị bệnh, không đi được). Ngần
ấy lời lẽ, đủ thấy Ngài sáng suốt đến chừng nào.
Sau lễ Chúc
Thọ, như một vị Bồ Tát “Dự tri thời chí”, linh cảm trước được sự ra về
vĩnh viễn của mình, Ngài ân cần dạy bảo những lời đầu năm vô cùng xúc
động: “Tôi nay tuổi đã già rồi. Tôi thấy sức khỏe tôi kém nhiều. Chưa
biết chừng sự chết sẽ đến nay mai. Nay, nhân dịp đầu năm, Hòa Thượng và
các Thầy đến thăm tôi, tôi xin cám ơn và xin cầu Phật gia hộ Hòa Thượng
và các Thầy nhiều sức khỏe, cố gắng kiên nhẫn trước mọi nghịch cảnh, để
phục vụ Giáo hội, dìu dắt Tăng Ni Tín đồ tu niệm. Tôi thật không có gì
vui hơn”.
Ngờ đâu, lời huấn thị đầu Xuân và cũng là lời Di giáo
tối hậu của Đức TĂNG THỐNG. Chỉ vỏn vẹn một ngày sau, và cũng chỉ sau
vài giờ pháp thể khiếm an, Ngài dạy: “VÔ THƯỜNG THỊ THƯỜNG” rồi an nhiên
xã báo thân vào hồi 6 giờ 30 ngày 06 tháng Giêng Kỷ Mùi, 01/02/1979.
Ngài hưởng thọ 102 tuổi đời, 84 Hạ Lạp. Bảo Tháp của Ngài hiện tôn trí
tại khuôn viên Tổ Đình Thiền Tôn Huế.
Ngài ra đi, để lại mối cảm hoài vô hạn trong lòng mọi người con Phật ...