I. THÂN THẾ
Hòa Thượng Thích Đỗng Quán thế danh Đỗ
Châu Đức sinh năm Bính Dần (1926) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh,
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Hoà thượng sinh trưởng trong gia đình có
truyền thồng nhiều đời thâm tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch,
thân mẫu là cụ bà Trần thị Tú. Thân sinh Hoà thượng có 5 người con, hai
trai ba gái, hai người con trai xuất gia và trở thành một trong những
danh tăng có nhiều đóng góp cho Phật giáo Miền trung và cả nước đó là
Hoà thượng Thích Đỗng Quán và Hoà thượng Thích Đỗng Minh.
Tuy gia đình Hoà thượng sống ở nông
thôn, nhưng song thân của Ngài rất chú trọng đến giáo dục và học hành
của con cái, nên từ thuở thiếu thời Hoà thượng đã được song thân cho
theo học chữ Hán với các nhà nho tại địa phương đồng thời theo học Tiểu
học. Hoà thượng đã đậu Tiểu học năm 1940.
II. XUẤT GIA HỌC ĐẠO.
Tuy tuổi nhỏ nhưng nhờ túc duyên từ
trước do vậy Hoà thượng sớm nhận thức cuộc đời là vô thường, thế gian
tạm bợ cho nên tâm nguyện xuất gia lúc nào cũng hun đúc trong lòng. Ngày
rằm tháng 8 năm 1941, Ngài đến chùa Khánh Vân, thôn Văn Quang, xã Phước
Quang xin tập sự sống đời sống xuất gia với cố Hoà thượng Chơn Quang
(là chú ruột).
- Năm 1942 cố Đại lão Hoà thượng Thích
Trí Thắng đưa Ngài vào chùa Thiền Lâm, Phan Rang. Nơi đây Ngài lạy Đại
lão Hoà thượng Thích Huyền Tân làm Bổn sư và được cho pháp danh : Thị
Quảng, tự Hạnh Nhơn, hiệu Đỗng Quán, Hoà thượng là vị đệ tử xuất gia đầu
tiên của Ngài Huyền Tân.
- Năm 1943, sau khi xuất gia một năm, vì
sự nghiệp hoằng dương phật pháp, đào tạo tăng tài nên Hoà thượng Bổn sư
gửi ngài về Bình Định theo học lớp phật pháp tại Tổ đình Long Khánh,
Quy Nhơn.
- Từ năm 1946 đến năm 1953, Hoà thượng
tu học tại chùa Hưng Long theo học chương trình Trung học tại trường Thị
Nại ở Biểu Chánh, cũng trong thời gian này Hoà thượng cùng một số huynh
đệ trong tỉnh Bình Định tiến hành một số công việc phật sự.
- Năm 1950 vâng lời Đại lão Hoà thượng
Thích Giác Tánh, Hoà thượng cùng một số chư tăng trẻ Bình Định thành lập
chúng Lục Hòa tại chùa Tịnh Liên, do Hoà thượng Giác Tánh lãnh đạo.
Sau ngày phân chia đất nước 1954. Từ năm
Giáp ngọ 1954 đến năm Mậu tuất 1957, Hoà thượng cùng một số pháp hữu
như: Hoà thượng Thích Đồng Thiện, Hoà thượng Thích Tâm Hiện, Hoà thượng
Thích Liễu Không, Hoà thượng Thích Từ Hạnh, Hoà thượng Thiện Nhơn, Hoà
thượng Thích Tâm Lâm …. theo học lớp Trung đẳng phật học tại Tăng học
đường Trung Việt do Tổng Hội Phật giáo Trung phần tổ chức tại chùa Long
Sơn, Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, do Hoà thượng Thích Huyền Quang làm Giám
đốc.
- Năm 1957 Hoà thượng thọ Tỉ kheo tại
Đại giới đàn chùa Long Sơn Nha Trang do Đại lão Hoà thượng Thích Giác
Nhiên làm đường đầu. Cũng trong thời gian này Hoà thượng được Hội phật
giáo Trung phần đề cử đi thuyết giảng phật pháp tại các tỉnh: Lâm Đồng,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi Hoà thượng là một trong số
các vị giảng sư xuất sắc đương thời.
Do nhu cầu phát triển chung của giáo dục
Phật giáo, từ năm 1957 Phật học đường Long Sơn Nha Trang và Phật học
đường Báo Quốc Huế hợp nhất thành Phật Hộc Viện Trung Phần, đặt tại chùa
Hải Đức, Nha Trang, nơi đào tạo tăng tài cho cả nước.
III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO
1. Công tác hoằng dương chánh pháp.
Năm 1958 sau khi học xong khóa học tại
Tăng học đương Long Sơn Nha Trang, Hoà thượng cùng các pháp hữu trở về
Bình Định cùng khởi xướng chương trình giáo dục và đào tạo tăng tài
trong tỉnh.
- Vì sự nghiệp hoằng dương phật pháp,
báo phật ân đức Hoà thượng cùng một số Chư Tôn đức tỉnh Bình Định khởi
xướng thành lập Tu viên Nguyên Thiều và được sự hưởng ứng tham gia của
hầu hết Chư Tôn thiền đức trong tỉnh. Ngày 15 tháng 8 năm Mậu tuất
(27-9-1958) Tu Viện Nguyên Thiều được thành lập, Hoà thượng là một trong
12 thành viên sáng lập gồm quý Hoà thượng : Hoà thượng Thích Giác Tánh,
Hoà thượng Thích Tâm Hoàn, Hoà thượng Thích Huyền Quang, Hoà thượng
Thích Bảo An, Hoà thượng Thích Quang Ngọc, Hoà thượng Thích Minh Quang,
Hoà thượng Thích Bửu Quang, Hoà thượng Thích Đồng Thiện, Hoà thượng
Thích Đỗng Quán, Hoà thượng Thích Liễu Không, Hoà thượng Thích Thiện
Nhơn, Hoà thượng Thích Như Bửu, đồng thời Hoà thượng cũng là thành viên
Ban quản trị Tu viện trong những ngày đầu thành lập.
- Cuối năm 1963, Hội đồng quản trị Tu
viện Nguyên Thiều quyết định thành lập trường Bồ đề Nghĩa Thục xây dựng
tại đồi Tháp Bạc (trước Tu viện Nguyên Thiều). Sau vì chiến tranh trường
Bồ đề Nghĩa Thục được dời về Thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước, lấy
tên là Trường Trung học tư thục Bồ đề Nguyên Thiều Diêu Trì, Ban quản
trị nhất trí đề cử Hoà thượng làm Giám đốc.
2. Dịch thuật và biên soạn.
Mặc dù đang bận nhiều công tác phật sự
Hoà thượng vẫn dành thời gian tham cứu phật pháp, đặc biệt Hoà thượng
rất đắc ý với môn Duy thức học, Hoà thượng đã trước tác quyển: Khái quát
về nhân minh nhập chánh lý luận, ngoài ra Hoà thượng còn bỏ nhiều công
sức sưu tầm, nghiên cứu lịch sử Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Hoà thượng đã biên soạn và dịch một số tác phẩm như sau :
- Những tự viện khai sáng, tái thiết, hoằng dương theo
hệ phái Lâm Tế Chúc đã được truy tầm.
- Nhân minh luận giáo khoa.
- Kinh Kim Cang giáo khoa.
- Lược sử các Tổ đình.
- Tiểu sử Danh tăng.
Đồng thời Hoà thượng còn cộng tác với Ban biên tập Tiểu sử Danh tăng Việt nam thế kỷ 20.
3. Xiển dương Môn phái.
Thuở sinh thời, Hoà thượng thường rất ưu
tư về Tông môn Hệ phái nhất là Thiền phái Chúc Thánh do Tổ sư Minh Hải
Pháp Bảo khai sáng tại Việt nam và truyền thừa khắp Miền nam. Thời gian
trước năm 1975 dù có rất nhiều công việc phật sự cần phải làm, Hoà
thượng đã thu thập tài liệu về Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh …
Từ năm 2000 Hoà thượng dành nhiều thời
gian đi thăm viếng khắp các tỉnh miền trung và miền nam, vận động Chư
tôn đức trong môn phái Lâm Tế Chúc Thánh thành lập Ban điều hành của
Môn phái. Sau nhiều năm kiên trì vận động, đến năm Ban điều hành lâm
thời được hình thành và Hoà thượng được mời làm Trưởng ban điều hành lâm
thời cho đến ngày viên tịch.
Ngày 17-12-2004 (1.11.Giáp Thân) ngày kỷ
niệm Tổ khai sơn viên tịch, Hoà thượng được Môn phái Chúc Thánh suy cử
làm Trưởng ban trùng tu Tổ đình Chúc Thánh tại thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam.
4. Xây dựng và trùng tu.
- Năm 1958 Tu Viện Nguyên Thiều được thành lập, Hoà thượng là người có nhiều đóng góp to lớn cho công tác xây dựng Tu viện.
- Cuối năm 1963 xây dựng trường Trung học tư thục Bồ Đề Nguyên Thiều, tại thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước.
- Năm 1971, Hoà thượng khởi công tái
thiết chùa Sắc tứ Tịnh Liên do Đại lão Hoà thượng Cao Minh khai sơn. Tại
thôn Liêm Trực, Thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Năm 1972 Môn phái đề cử Hoà thượng đảm
nhận chức vụ Trú trì chùa Sắc tứ Thiên Hòa, thôn Tri Thiện, xã Phước
Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sau khi nhận trú trì Hoà thượng
dự kiến và chuẩn bị đại trùng tu chùa, trong khi chuẩn bị các mặt cho
việc trùng tu thì gặp phải giai đoạn xã hội thời cuộc thay đổi, kinh kế
ngày một khó khăn, do vậy ý định trùng tu phải tạm thời dừng lại… Mãi
đến năm 2000 khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, kinh kế dần dần ổn
định công việc trùng tu mới bắt đầu tiến hành, tuy nhiên chùa thuộc
vùng nông thôn, đồng bào phật tử tại địa phương ít và kinh tế hạn cuộc
nên việc trùng tu phải kéo dài nhiều năm chùa Thiên Hòa mới được khang
trang như ngày hôm nay.
Suốt thời gian tu học, hành đạo, Hoà
thượng đã ở nhiều nơi nhưng có lẽ chùa Thiên Hòa là nơi Hoà thượng dừng
chân lâu nhất, đồng thời chùa Thiên Hòa được như ngày hôm nay có sự đóng
góp lớn lao của Hoà thượng .
- Để ghi nhận và tán dương những đóng
góp của ngài với Đạo pháp và Giáo hội. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc
nhiệm kỳ V, 2002–2007 ngài đã được Đại hội Tấn phong lên hàng giáo phẩm
Hoà thượng.
5. Nhiếp hóa đồ chúng.
Trong công cuộc truyền đăng tục diệm Hoà
thượng đã hóa độ chúng đệ tử xuất gia và tại gia khá nhiều, đồng thời
Hoà thượng làm chỗ nương tựa tinh thần cho hàng phật tử xa gần nhất là
nhân dân ở thôn Tri Thiện.
Hoà thượng có một đặc tính là hay chu du
thăm viếng nhiều nơi, từ miền Nam miền Trung cho đến miền Bắc, từ thành
thị cho đến nông thôn, từ miền trung du cho đến miền núi, Hoà thượng
thăm viếng bất kể nơi đâu từ ngôi Tổ đình to lớn cho đến ngôi chùa nhỏ
bé ở tận xa xôi, không phân biệt Sơn môn, hệ phái, không so sánh vị đó
là Hoà thượng, Thượng tọa hay người thủ tự hương khói cho chùa, dù tăng,
ny hay cư sĩ phật tử, dù người đó là một vị cao tăng hay vì thiếu duyên
đã hoàn tục. Hoà thượng thường tâm sự với các huynh đệ : Nếu đầy đủ
nhân duyên tôi muốn được đi nhiều nước để tìm hiểu thêm về các nước
khác.
IV. THỜI GIAN VIÊN TỊCH.
1. Định luật vô thường
Hơn tám mươi năm hoằng pháp lợi sinh,
tựa như một cỗ xe đến thời kỳ hư hoại, và cũng là quy luật tất yếu của
kiếp người, sanh lão bệnh tử, Hòa thượng đã lâm bệnh, mặc dù được Môn
phái, cũng như môn đồ pháp quyến và các y, bác sỹ bệnh viện Chợ Rẫy
thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định tận tình chăm
sóc chữa trị, nhưng tuổi cao sức yếu Hòa thượng đã thuận thế vô thường,
thâu thần viên tịch vào lúc 14h 30 ngày 26 tháng Giêng năm Kỷ sửu (nhằm
ngày 20 tháng 02 năm 2009) tại Sắc tứ Tổ đình Thiên Hòa, thôn Tri
Thiện, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Trụ thế 84 năm,
53 hạ lạp.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hoà thượng có
nhiều đóng góp thiết thực cho Phật giáo Việt nam và Phật giáo Bình Định
nói riêng trong nhiều lĩnh vực, nhất là phương diện kiến tạo cơ sở giáo
dục cũng như kiến thiết, trùng tu nhiều ngôi chùa làm nơi sinh hoạt, tu
học cho nhiều thế hệ tăng ny, phật tử. Đặc biệt Hoà thượng rất linh
hoạt trong ứng đối và xây dựng, nhất là xây dựng chùa chiền và các công
trình cổ kính. Sinh tiền Hòa thượng tính tình thẳn thắn, ít khi chịu quy
lụy bất cứ ai. Cuộc đời của Hoà thượng là tấm gương sáng là bài học lớn
cho hậu thế.
Suốt cuộc đời của Hòa thượng từ lúc xuất
gia tu học đến lúc viên tịch, lúc nào cũng nghĩ đến Đạo pháp và Dân
tộc, nhất là luôn nghĩ đến việc đào tạo tăng tài, Hòa thượng đã cưu
mang, giúp đỡ tạo mọi thuận duyên cho nhiều tăng ny trên đường tu học,
hành đạo, bằng khả năng của mình Hoà thượng đã có những đóng góp thiết
thực cho đạo pháp, luôn mong muốn đạo pháp cửu trụ ở cõi ta bà.
Theo định luật vô thường Hòa thượng đã
xã bỏ báo thân nơi cõi Ta bà, nhưng pháp thân của Hòa thượng mãi còn ở
thế gian này, trong đệ tử xuất gia và tại gia của Hoà thượng và luôn
tiếp nối hạnh nguyện lợi tha, hoằng dương đạo pháp lợi lạc chúng sanh.
Nam Mô Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhị
Thế, Thành Viên Sáng Lập Tu Viện Nguyên Thiều, Trùng Tu Tịnh Liên, Thiên
Hòa Tự, húy Thượng Thị hạ Quảng, tự Hạnh Nhơn, hiệu Đỗng Quán Hoà
thượng Tôn Sư chứng giám.
MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN
Soạn theo ghi chép của Sư Ông
Cùng tham khảo các tư liệu khác