Nếu
thay đổi được thì có trái với câu nhân nào quả nấy không? Trong kinh kể
đức Phật tu hành đã thành Phật mà còn bị nạn kim thương, mã mạch, tức là
vẫn thọ quả báo như thường. Nạn kim thương là chân Ngài bị mũi kiếm đâm
lủng. Nạn mã mạch là Ngài phải ăn lúa ngựa hết ba tháng. Phật nói rõ lý
do tại ngày xưa Ngài đã từng gieo nhân khổ cho người nên bây giờ tuy đã
thành Phật nhưng cũng vẫn phải trả quả cũ. Đệ tử lớn của Ngài là
Mục-kiền-liên nổi tiếng thần thông đệ nhất, khi già đi khất thực bị một
số ngoại đạo vây đánh nhừ tử. Lúc bị đánh Ngài không dùng thần thông vì
muốn trả hết nợ cũ, sau đó đau nặng rồi tịch luôn. Nếu các ngài tu chứng
A-la-hán rồi, lẽ ra quả ngày xưa phải tiêu hết, tại sao vẫn phải trả?
Do
đó các thầy Tỳ-kheo thắc mắc hỏi Phật về việc này. Phật giải thích do
trước Ngài đã tạo nhân giết hại nên ngày nay phải bị quả như vậy. Qua
những câu trả lời đó chúng ta nghĩ sao? Nhân đã tạo phải chịu quả với
những người chưa chứng đạo thì được, nhưng với các vị đã chứng đạo thì
có người thắc mắc.
Hoặc
như trường hợp vua Kế-tân nghe lời ngoại đạo hại Tổ Sư Tử. Ông cầm cây
gươm tới trước Tổ hỏi: “Ngài bảo thân năm uẩn đều không, vậy cho tôi cái
đầu được không?” Ngài trả lời: “Thân năm uẩn đã không, sá gì cái đầu.”
Thế là ông chặt đầu Tổ. Như vậy để nói rằng trước Ngài đã có ân oán với
nhà vua trong nhiều đời, nên đến đời này Ngài phải trả. Tới Tổ Huệ Khả ở
Trung Hoa, sau khi đắc đạo truyền bá một thời gian, Ngài gặp Tăng Xán
truyền y bát rồi nói: “Ta còn một chút nợ phải trả.” Ngài đi tới xứ đó
giảng đạo, có người tâu với tri phủ Ngài nói tà thuyết, gây rối loạn
quần chúng, tri phủ liền bắt nhốt Ngài cho tới chết luôn.
Chúng
ta thấy từ Phật là vị tu hành đã hoàn toàn viên mãn rồi, đến ngài
Mục-kiền-liên đã chứng A-la-hán, tới các Tổ cũng phải trả oan khiên đời
trước. Vậy nói tu hành có thể thay đổi được nhân quả, đúng không? Đa số
nói không được, nếu đổi không được thì người ta đặt nghi vấn, như vậy tu
hành để làm gì? Đó là những nghi vấn đối với lý nhân quả thật khó hiểu.
Vì vậy hôm nay tôi phải giải những nghi vấn ấy để tất cả quí Phật tử
hiểu rõ, không còn ngờ vực thì trên đường tu mới tiến, đạt được lợi ích
cho bản thân, gia đình và xã hội.
Trong
đạo Phật nói nhân quả là nói tới sự chuyển biến luôn trôi chảy không
dừng. Cho nên từ nhân đến quả có thể thay đổi tùy theo sự chuyển biến
ấy. Hoặc thay đổi ở chiều này, hoặc thay đổi ở chiều nọ, chớ không cố
định. Nếu ai nghĩ nhân nào quả nấy cố định thì không đúng lẽ thật, phải
thấy rằng nhân quả tùy duyên, tùy điều kiện thuận nghịch, nó luôn luôn
chuyển biến. Đã là chuyển biến tức nhiên phải đổi thay chớ không thế nào
nguyên vẹn trước sau như một được, phải xác nhận nhân quả cho rõ.
Chúng
tôi dùng một ví dụ để quí vị thấy dòng chuyển biến của nhân quả. Nhân
là hạt hay cái ban đầu, quả là trái hay cái chót. Ví dụ như chúng ta đem
gieo một hạt bắp xuống đất, từ hạt bắp đó nếu đủ đất, đủ nước, đủ ánh
nắng, nó sẽ chuyển lần lần thành mầm bắp. Từ mầm bắp chuyển lần lần
thành cây bắp con, từ cây bắp con chuyển lần lần thành cây bắp lớn. Từ
cây bắp lớn dần dần thành trái. Như vậy một dòng chuyển biến từ một hạt
nhỏ lần lần thành cây, rồi có quả có trái và cuối cùng rụi mất. Chúng ta
thấy nó có dừng ở một chặng nào không? Từ nhân tới quả là một dòng
chuyển biến không ngừng. Chúng ta có thể nói hạt bắp nhất định sẽ có
trái bắp ăn không? Không hẳn. Có hạt bắp mà không xuống đất, không được
nước, ánh nắng, được săn sóc thì nó không thành trái bắp. Có hạt bắp là
có nhân, nhân đó có thể thành tựu được quả mà cũng có thể không thành
tựu được quả.
Phật
pháp có cái nhìn hết sức thật. Nhìn đời, nhìn đạo, nhìn tất cả hành
động của chúng ta, đều là một dòng thay đổi từ nhân tới quả. Trong khi
thay đổi, nó còn có những nhân phụ trợ là nhân thuận để giúp thành hình
hoặc nhân nghịch làm cho tiêu tan. Như có hạt bắp gieo xuống đất rồi,
nhưng phải là đất tốt, được nước tưới đều thì hạt bắp mới nảy mầm. Khi
nảy mầm rồi chúng ta phải săn sóc, bón phân, xem chừng sâu rầy có phá
hay không, ta tạo duyên tốt để cây bắp tăng trưởng đều mới đạt được kết
quả tốt. Nếu chúng ta để hạt bắp xuống rồi bỏ luôn, không tưới nước,
không bón phân, không chăm sóc kỹ lưỡng thì cây bắp sẽ khô khan rồi
chết, chớ không thành trái bắp được. Như vậy có nhân chưa khẳng định
được sẽ có quả, còn những điều kiện phụ trợ nữa. Phụ trợ thuận thì tăng
trưởng có kết quả. Ngược lại phụ trợ nghịch thì tiêu mòn hư mất. Đó là
điều hết sức tế nhị, nếu không hiểu quí vị sẽ dễ thối tâm trên đường tu.
Nhiều
Phật tử tin gieo nhân nào được quả nấy, thấy ai nghèo đói ủng hộ giúp
đỡ, sẵn sàng giúp đỡ những khó khổ của mọi người. Nhưng lâu lâu quí vị
gặp một tai nạn xảy ra thì buồn trách “tôi làm lành, tại sao lại gặp quả
xấu”. Điều này cần phải dè dặt, nếu gặp cảnh xấu không làm lành nữa,
chúng ta sẽ thối Bồ-đề tâm thì không có cơ hội thành tựu giác ngộ giải
thoát.
Ngày
xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang, tên là “Nhân hoa quả cỏ”. Sở
dĩ tôi viết bài này vì lúc tôi bị bệnh phổi phải lên Phương Bối am của
thầy Nhất Hạnh ở để trị bệnh và dưỡng bệnh. Lên đó tôi thích trồng một
ít hoa chung quanh thất, nên có vài Ni cô trên Đà Lạt tới thăm, mấy cô
mua giùm một ít hột hoa xuống cho. Tôi xới một thửa đất theo đúng qui
tắc của người làm vườn, rải hạt hoa xuống, mỗi ngày tưới đều đều. Tôi
đinh ninh trong bụng chừng nửa tháng hạt hoa lên đầy hết. Đúng vậy, nửa
tháng sau tôi thấy lấm tấm thật nhiều, tôi mừng quá. Tới chừng nó lên
cao một chút nhìn lại toàn là cỏ không, chẳng có cây hoa nào. Tôi ngạc
nhiên, đi quanh luống hoa xem xét kỹ lưỡng, mới phát hiện ra mấy con
kiến đi thành lằn giống như đường xe chạy. Chúng lội tứ tung trong mấy
luống hoa và ăn hết hạt hoa của tôi. Chừng đó tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình
ương hạt hoa, tưới tắm đều đặn nhưng quên chăm sóc ngừa kiến, cho nên
kiến tha hạt hoa đi hết, chừa lại hạt cỏ thôi. Mình cứ tưới, rốt cuộc
hoa đâu không thấy, chỉ thấy toàn là cỏ. Nhân đó tôi viết bài “Nhân hoa
quả cỏ”. Đó là sự thật tôi đã chiêm nghiệm.
Sự
thật đó đã làm cho tôi nghĩ ngợi nhiều. Ngày xưa đi giảng, Phật tử thắc
mắc tại sao con làm lành mà cứ gặp tai nạn. Một Phật tử kể hai vợ chồng
nọ có vài đứa con, làm ăn tương đối khá. Khi ông anh chồng vô, không
biết tại sao hai ông bà chết hết, chỉ còn lại hai đứa con. Người thím
dâu thấy thương đem về nuôi. Đó là nhân tốt. Bà nuôi lớn lên, cho đi học
đàng hoàng, nhưng tới khi hai cháu ra trường, nó đối xử với bà rất lạnh
nhạt. Bà buồn nên gặp chúng tôi, hỏi tại sao con làm tốt mà quả trả lại
xấu. Tôi không trả lời được. Lúc ấy mới kêu mấy đứa nhỏ lại hỏi: “Sao
thím tốt với tụi con mà tụi con lại xử sự như vậy?” Chúng trả lời thế
này: “Buổi đầu thím thật tốt với chúng con, chúng con mang ơn lắm. Nhưng
thưa Thầy, mỗi lần làm việc trong nhà, nặng là phần tụi con, còn nhẹ là
phần mấy em. Khi đi coi hát thím cho em con mười ngàn, còn tụi con có
năm ngàn.” Chúng kể ra đủ thứ chuyện đối xử không công bằng của người
thím dâu. Tôi thấy nhân tốt ban đầu nếu chúng ta không khéo giữ gìn, nó
sẽ mất. Đứa nhỏ biết nhưng khi còn yếu thế phải nương nhờ thì nó chịu,
khi đủ khả năng tách ra rồi, nó lơ là vì cách đối xử của người thím
không trọn vẹn thủy chung. Tốt ở ban đầu mà khoảng giữa không tốt, giống
hệt như tôi trồng hoa vậy. Có lý do chớ không phải ngẫu nhiên.
Chúng
ta thấy rằng, đối với nhân quả nếu chỉ nhìn sơ qua thì không bao giờ
thấy tường tận. Như người thím nếu thấy kỹ hành động của mình chắc không
trách cháu. Cũng như tôi không thấy kiến nên khi cỏ lên tôi ngạc nhiên.
Nếu tôi thấy kiến bò vô, tôi sẽ không ngạc nhiên. Có nhân mà không khéo
bảo vệ, gìn giữ, giúp nó tăng trưởng thì quả sẽ mất, không nhất định
thành quả. Nhân chúng ta đã gieo rồi, từ đó nó là một dòng chuyển biến
liên tục. Trong dòng chuyển biến liên tục ấy chia ra hai phần: một phần
chuyển biến theo sự tăng trưởng, một phần chuyển biến theo sự hư hoại.
Cái gì giúp cho nó chuyển biến để tăng trưởng, nhà Phật gọi là thuận
nhân hay thuận duyên. Ví dụ như hạt bắp có đủ đất tốt, có nước, có nắng
cũng như sự săn sóc sâu bọ v.v... đó là thuận nhân giúp nó tăng trưởng.
Nếu thuận nhân đủ thì bảo đảm hạt bắp sẽ tiến triển thành cây bắp, cho
ra quả bắp. Ngược lại, nó không có đủ các thuận nhân thì sẽ bị sâu bọ ăn
hoặc thiếu nước, thiếu nắng… mà chết. Nên tuy có nhân hạt bắp mà quả
bắp không bao giờ có.
Hiểu
như vậy quí Phật tử phăng ra, sẽ tìm thấy được ý nghĩa của sự tu hành.
Sự tu hành của chúng ta cũng là một dòng chuyển biến. Tại sao? Vì chúng
ta tu là tu ba nghiệp của mình, tu ở thân, ở miệng, ở ý. Thân khẩu ý
chúng ta luôn luôn khéo tu. Ví dụ Phật tử phát nguyện qui y Tam Bảo, gìn
giữ năm giới, đó là gieo nhân tốt rồi. Nhưng từ khi qui y, quí vị cứ
nghĩ mình đã qui y Tam Bảo, đã thành người hiền lành, không chịu tu sửa,
đinh ninh rằng mình qui y rồi, nhất định Phật đón về Cực Lạc, đó là sai
lầm.
Nhiều
Phật tử nghĩ rằng qui y là cốt sống được mạnh khỏe an vui, chết được
theo Phật. Nhưng trên thực tế, quí vị qui y rồi có mạnh khỏe luôn không,
nhắm mắt được theo Phật không? Như vậy qui y chỉ là nhân thôi. Từ đó
cho tới ngày trăm tuổi là một dòng chuyển biến. Phật tử qui y là nhân
lành, từ đó về sau thân miệng ý luôn luôn nghĩ lành, làm lành, nói lành
thì nhân lành mới tăng trưởng. Ngược lại chúng ta được nhân lành mà nói
dữ, nghĩ xấu, làm ác, thì nhân lành đó không tồn tại. Như vậy đừng tự
mãn mình qui y rồi là mọi việc tốt lành, được như ý. Đừng bao giờ nghĩ
như vậy.
Chúng
ta mới gieo nhân, còn phải tạo thuận duyên giúp đỡ cho nhân tăng
trưởng. Đó là ý nghĩa của sự tu. Người cứ tự mãn qui y là xong việc thì
chưa biết tu. Tôi nhắc thêm, nhiều vị có con hai ba tuổi, đem vô chùa
qui y để nó mạnh giỏi. Qui y với ý niệm cho con mạnh giỏi, chớ không
phải cho con tu. Do đó nên nhiều chùa có tập tục nuôi con nít. Thầy lên
bàn Phật nhất là bàn thờ đức Quan Âm, để một miếng vải đỏ đội trên đầu,
tụng chú thuật chi đó, kế thầy xé miếng vải nhỏ cột cho thằng bé. Như
vậy bảo đảm nó mạnh giỏi. Thành thử ý nghĩa qui y để tu hành không còn
nữa.
Chúng
ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật,
không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi
những ngờ vực. Như Phật tử hồi trước làm điều xấu ác, bây giờ tu rồi có
thể chuyển đổi được quả xấu do mình làm trước kia không? Tôi khẳng định
rằng nếu chúng ta tu chân chánh có thể chuyển đổi được, còn hết hay
không thì tùy, chớ có chuyển đổi. Tôi nói như vậy để quí vị hiểu rõ,
không phải hồi xưa mình làm cho người khác khổ trăm phần, bây giờ tu
suốt đời cũng bị trả quả khổ trăm phần như xưa. Như vậy tu làm gì? Cho
nên nhất định phải có thay đổi nhưng thay đổi thế nào, đó là vấn đề
khác.
Ở
đây để tường tận hơn, chúng tôi chỉ cho quí vị thấy ý nghĩa nhân quả mà
lâu nay chúng ta chỉ hiểu một chiều. Ví dụ có người làm được việc lành,
cứ nghĩ mình làm lành cho ai đó, mai kia sẽ được quả lành trở lại.
Nhưng nếu quả lành không đến, vị ấy đâm ra thối tâm. Như vậy là chưa
hiểu hết lý nhân quả.
Trong
nhà Phật nói nhân quả có hai trường hợp: một là tạo nhân tốt được quả
tốt, hai là tạo nhân tốt nhưng không được quả tốt. Tại sao vậy? Ví dụ
hồi xưa mình đã cư xử với người đó rất xấu, bây giờ thấy họ khó khăn
mình giúp. Hồi xưa xấu trăm phần trăm, bây giờ giúp mới bốn năm chục
phần trăm, mà nghĩ đã có ơn với người ta rồi. Khi thấy họ không thèm
biết ơn, lúc đó mình tức tại sao giúp đỡ như vậy mà không biết ơn? Nhưng
so với quá khứ mình xấu, cái tội cũ trả chưa đủ mà bây giờ đòi ơn, làm
sao chấp nhận được? Cho nên tuy giúp mà người kia vẫn chưa thỏa mãn. Nếu
hiểu được nhân quả chúng ta chỉ cười thôi, giận làm chi. Ngược lại có
những người mình giúp họ một chút thôi, mà họ rất biết ơn, rất nhớ mình.
Vì ta không nợ họ, nên giúp một chút họ cũng thấy mình tốt. Hiểu vậy,
khi giúp ai ít mà người đó nhớ ơn, muốn tìm cách đền đáp lại, chúng ta
biết mình với người đó chưa có nợ nần cũ. Còn người mình lo thôi là lo
mà họ vẫn không thèm biết ơn, cũng không có gì trách, cười thôi. Hiểu
được nhân quả như vậy quí Phật tử mới yên lòng tu. Nếu không nắm rõ lý
nhân quả, chúng ta nhìn cuộc đời rất bực bội.
Phật
tử nào tu hành khá, khi tạo nhân liền được hưởng quả. Như quí thầy quí
cô hoặc Phật tử giúp ai, không nghĩ họ phải trả ơn mình. Thấy người khổ
cứ giúp, khả năng tới đâu giúp tới đó, miễn họ bớt khổ là mình mừng, họ
vui mình vui, như thế đủ rồi, không mong cầu chi hết. Như vậy nhân mình
tạo ra là giúp người bớt khổ, được vui. Thấy người vui mình vui theo, đó
là gieo nhân gặt quả liền. Nhân quả có ngay hiện đời, không trông đợi
xa xôi. Cả ngày mình giúp người này vui, người nọ vui. Họ vui bao nhiêu
mình vui bấy nhiêu. Rõ ràng tạo nhân liền có quả. Nếu chúng ta trông chờ
đền đáp, nhiều khi người ta đáp không như mình mong muốn thì dễ bực
bội, hờn trách. Chỉ cần thấy người ta hết khổ được vui, mình vui theo đó
là quả tốt rồi.
Bởi
vậy Bồ-tát giúp tất cả chúng sanh mà không chán. Vì chúng sanh hết khổ
được vui thì Bồ-tát vui rồi, đâu có chờ đợi. Còn chúng ta giúp chúng
sanh dễ chán lắm. Tại sao? Tại mình giúp ai thì muốn người ta biết ơn và
đền ơn lại. Nếu họ không biết ơn đền ơn thì mình buồn, không muốn giúp
nữa. Bồ-tát thấy chúng sanh đang đói, đưa miếng bánh mì cho họ ăn. Ăn
xong họ cười là Bồ-tát vui rồi, khỏi cần nghĩ gì. Như vậy hai thái độ
tạo nhân quả khác nhau, một cái mong có sự thù đáp, một cái không mong
sự thù đáp dẫn tới hai kết quả khác nhau. Nhân quả không mong sự thù đáp
là nhân quả của người biết đạo sâu xa. Tạo nhân quả như thế mới là lẽ
chánh của người tu Phật.
Nhân
quả cũng có hai cách chuyển biến: thứ nhất là chuyển biến do tác động
bên ngoài, thứ hai là chuyển biến do nội tâm. Ví dụ như hồi xưa mình ở
địa vị cao, có những người phụ giúp mình ở địa vị thấp. Bấy giờ ta không
nghĩ tới cái khổ của người dưới, nên hiếp đáp làm họ khổ. Vì họ ở dưới
nên mình làm khổ, họ không dám nói, không dám tỏ thái độ oán hờn, nhưng
trong lòng ôm ấp một trăm phần trăm oán hờn. Tới lúc nào đó thay đổi,
họ có địa vị cao hơn mình, bấy giờ họ sẽ khởi niệm trả thù mình. Nhưng
rất may, khi đó mình thức tỉnh học đạo và biết tu. Nhờ thế mình hiểu
được luật nhân quả nên vui vẻ đón nhận những quả khổ do mình đã tạo ra
lúc trước, không than van oán hờn người ta. Đó là một cách chuyển nhân
quả.
Quí
vị Phật tử tụng kinh Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách” là thấy thân năm uẩn không thật, liền vượt qua tất cả khổ
ách. Thân năm uẩn không thật thì lời khinh chê, chửi mắng cũng không
thật. Hồi xưa mình khinh bỉ chửi mắng người ta một trăm phần trăm, bây
giờ họ tìm tới trả thù, cũng khinh bỉ chửi mắng mình một trăm phần trăm.
Nếu hiểu đạo, thấy thân năm uẩn không thật, khi bị chửi mắng mình thù
giận hay cười? - Cười. Ngày xưa bị mình hành phạt họ khổ sở, bây giờ họ
hành phạt mình cười không khổ, như vậy trả hay không trả? Trả hay không
trả, không thể nói khẳng định được. Nếu không trả tại sao họ chửi mắng,
hành phạt mình? Họ chửi mắng hành phạt mình là trả thù rồi. Đối với
người kia họ thấy trả, nhưng đối với mình không thấy trả gì hết. Khi mê
mình nói họ con bò, họ giận quá chừng. Bây giờ mình tỉnh, họ nói mình
con bò, mình cười vì biết người ấy nói bậy. Như vậy là trả mà như không
trả gì hết.
Người
thế gian chịu mê hay chịu tỉnh? Chịu mê. Bởi vậy Phật nói chúng sanh
đáng thương. Tất cả chúng ta đau khổ là vì mê lầm. Từ mê lầm cứ liên
miên chịu khổ những chuyện không đáng giận, không đáng buồn, không đáng
khổ. Nếu tỉnh nghe người ta nói những lời sai lời bậy mình cười thôi, có
gì buồn có gì khổ.
Nhiều
Phật tử nói, mình quấy họ chửi nhịn được, mình không quấy họ chửi làm
sao nhịn. Tôi sẽ trả lời mình không từng quấy mà họ chửi, mình thương họ
tại vì họ điên, không hiểu gì hết mới chửi như thế. Mình làm quấy người
ta chửi, mình nhận để sửa. Mình không từng làm quấy, họ chửi mình
thương họ. Như vậy có tu chưa? - Tu. Học đạo là học tỉnh giác, chớ đừng
mê. Phật tử tuy học Phật mà gặp mấy cảnh trái nghịch chịu mê hơn chịu
tỉnh. Đó là điều đáng thương.
Trường
hợp thứ hai, nếu ngày xưa mình làm người ta khổ nhiều, lẽ ra bây giờ họ
có cơ hội trả thù lại, nghĩa là làm khổ mình, nhưng trong thời gian khổ
họ đến với đạo và biết tu, nhờ thế họ thấy nếu trả qua trả lại thì tất
cả oán hờn cứ chồng chập không bao giờ hết, hiểu vậy rồi họ liền hỉ xả,
bỏ hết. Hồi xưa mình làm họ khổ, bây giờ có đủ cơ hội nhưng họ vẫn không
làm mình khổ, đó là do họ biết tu. Tâm của người nhận oán hờn biết tu
thì quả cũng bớt cho người gây oán hờn.
Chúng
ta biết tu thì ai thù oán, ta tha thứ hỉ xả. Ai tạo nhân khổ cho mình,
ta không trả lại. Cũng như mình biết tu dù người khác muốn đến trả quả
xấu, mình cũng vẫn an lành tự tại. Như vậy sự tu chuyển biến cả tâm hồn
của người tạo quả và người trả quả, hai bên đều chuyển biến tốt. Ngược
lại, nếu hai bên không biết tu thì trả đủ, hồi xưa vay một trăm phần
trăm, ngày nay trả tới hai trăm, tại vì nó lớn theo thời gian, cũng như
cho vay có lãi vậy. Như thế vay vay trả trả không cùng.
Cho
nên Phật dạy tu là phải hiểu thấu đáo đạo lý để gỡ bỏ những oán hờn,
đau khổ. Chúng ta được an vui, người khác mới an vui. Tu là đem lợi lạc
lại cho bản thân và mọi người. Nếu không biết tu, chúng ta cứ gay cấn
người này người kia, vay trả trả vay, kiếp kiếp đời đời sống trong oán
hờn thù hận, không bao giờ hết khổ đau. Đó là ý nghĩa nhân quả.
Trường
hợp khác, nhân quả có thể tiêu giảm mà không do nội tâm của người hoặc
của ta. Như ngày xưa mình hung dữ, xử sự với một kẻ khác tàn nhẫn, bây
giờ họ có thế lực muốn trả thù lại. Nhưng từ khi chúng ta thức tỉnh biết
tu, làm lành, giúp người này người nọ, chung quanh ai cũng thương, cũng
quí. Người kia tới trả thù, thì hàng xóm liền khuyên can vì thấy mình
hiền tốt. Nhờ nhiều người khuyên can, kẻ kia giận mười cũng giảm còn năm
bảy thôi. Đó cũng là nhân quả chuyển biến theo chiều giảm bớt. Nhờ tu
quả khổ của chúng ta giảm, cho nên nhân quả luôn đổi thay, không cố
định. Có khi đổi thay chiều thuận, có khi đổi thay chiều nghịch. Đứng về
mặt nhân quả, chúng ta tin chắc nhân nào dù xấu mấy, nhưng nếu chúng ta
cố gắng chuyển đổi nó cũng đổi thay đôi phần.
Như
ngài Mục-kiền-liên bị người ta đánh cho tới chết, Ngài nhớ đời trước đã
từng hại họ, bây giờ họ trả thù. Ngài chịu đòn để trả hết mối nợ cũ,
được giải thoát sanh tử, lúc đó Ngài buồn giận hay vẫn thản nhiên? Vẫn
thản nhiên, đau mà không tức, không buồn vì biết đây là chuyến chót trả
cho rồi. Như vậy trả nợ đối với Ngài là chuyện vui, trả mà không khổ.
Như Tổ Huệ Khả khi bị nhốt trong khám, Ngài nói còn chút nợ phải trả
chuyến này cho rồi.
Quí
Phật tử vay nợ của ai năm mười năm, tới bây giờ còn chút ít, nếu có
tiền nên trả hay để thiếu nợ? Có tiền trả phứt cho rảnh tay. Cho nên đem
tiền trả vui chớ không buồn giận. Vì vậy Tổ Sư Tử nói thân năm uẩn này
không thật, sá gì cái đầu. Đối với các ngài nợ cứ trả, cười trả chớ
không khổ như chúng ta. Càng học đạo quí Phật tử thấy càng vui. Bởi vì
tất cả những gì đến, chúng ta thấy tường tận rồi cười, không buồn phiền.
Người
chưa hiểu đạo khổ đủ thứ, người ta nói hơn mình một tiếng là chịu không
nổi, bị lấn lướt một chút chịu không nổi, bị khinh một chút chịu cũng
không nổi. Cái gì cũng chịu không nổi hết, riết cả lồng ngực chứa đầy
oán hờn thành ra bệnh tim, gần chết khổ sở vô cùng. Bây giờ hiểu rồi
chúng ta nhìn mọi thứ chỉ cười thôi. Quí vị thấy chúng ta giận ai chứa
trong lòng, mỗi khi đang ngủ ngon giấc, giật mình thức dậy nhớ lại
chuyện oán thù thì ngủ không được nữa. Cứ trằn trọc nhớ sao họ làm như
vậy, lăn qua trở lại mất ngủ, rồi mất ăn, đó là nhân của bệnh. Hiểu rồi
mình cười thôi, cái gì qua cho qua luôn, hơi đâu phiền giận. Như vậy
chúng ta thản nhiên tự tại, sống trong cuộc đời rất vui. Tu là như vậy,
chớ không phải qui y để được mạnh giỏi.
Nhiều
Phật tử hiểu lầm tu là mọi tai nạn qua hết. Làm sao qua hết được! Tu là
tu, còn chuyện hờn oán do mình gây ra từ trước, người ta vẫn hờn oán.
Ngày xưa mình làm cho người đó khổ quá, họ giận mình. Bây giờ biết tu
thì tâm mình an ổn thanh tịnh, nhưng người kia đâu có hết giận. Mai mốt
gặp mình, họ xả ra một lần cho đã giận, nếu chúng ta biết tu thấy những
việc ấy không có giá trị, chỉ đáng thương thôi thì mình không khổ. Như
vậy mình sẵn sàng trả nợ, nhưng trả một cách nhẹ nhàng thảnh thơi.
Tôi
thường nói cuộc đời này đã dành sẵn cho chúng ta rất nhiều điều bất như
ý. Muốn được an ổn chúng ta phải khéo tu, chỉ khéo tu mới thoát khỏi
những điều đau khổ khi gặp bất như ý, chớ đừng có cầu nguyện. Phật tử
hay cầu nguyện quá, cầu nguyện cho con hết phiền não, cho tai qua nạn
khỏi. Cầu nguyện như vậy có được không? Nhiều khi tôi xấu hổ vì chỗ này.
Phật tử tin tưởng, ai cũng muốn gởi tên cho thầy cầu an, mà thầy bệnh
phải đi bác sĩ, không tự làm an cho mình được. Thành ra tôi rất xấu hổ
không đủ sức làm cho Phật tử an. Tôi chỉ dạy giáo lý cho Phật tử hiểu,
rồi tự quí vị giải cho mình an, mình tỉnh, chớ cầu an chưa chắc được an.
Chừng nào suốt ngày suốt tháng suốt năm tôi không bệnh, không bất như ý
tôi mới dám cầu an cho Phật tử. Chớ quí thầy còn bệnh, còn gặp những
việc bất như ý thì cầu cho quí Phật tử khó quá. Đó là lẽ thật, mà lẽ
thật nói ra đôi khi mếch lòng một chút.
ho
nên tôi xin nhắc cho quí Phật tử nhớ, chúng ta đã tu là phải tỉnh giác,
thấy được lẽ thật, thấy được chân lý. Hiểu được lẽ thật rồi, mọi khó
khăn chúng ta giải quyết một cách hết sức dễ dàng. Ngày xưa người ta hay
nói do oan trái mới làm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh chị em… oan trái
trong thù hận hay thương yêu. Những đứa con trái nghịch cha mẹ lại
thương nhiều, còn mấy đứa hiếu thảo lại thương ít. Đó cũng là nhân quả,
bởi vì thương mới trả hết nợ, còn ghét trả không hết. Cha mẹ phải thương
những đứa con ngỗ nghịch, đuổi không đành để trả, trả chừng nào hết,
không đuổi nó cũng đi. Còn những đứa con có hiếu là nợ cha mẹ, nên nó
phải trả, nhiều khi cha mẹ không ngó ngàng tới nữa. Bởi vì nếu nó trả mà
cha mẹ cứ săn sóc trở lại nhiều quá thì chừng nào hết nợ? Cho nên người
nào trả mà cha mẹ không ngó ngàng nên mừng, như vậy mau hết nợ.
Hiểu
thế, gặp hoàn cảnh nghịch làm chúng ta đau khổ mình cũng cười, nợ thì
phải trả không oán trách ai hết. Người có tâm tu hành là đã có nhân
lành, quí Phật tử biết đến chùa, nghe quí thầy giảng là điều hết sức
tốt. Bởi có sẵn nhân lành nên ngày nay tìm tới chỗ lành. Như vậy từ đây
về sau quí vị phải khéo tạo những trợ nhân tốt để duyên lành của mình
mãi mãi liên tục không dứt. Có thế quí Phật tử mới sống cuộc đời an vui
tự tại, được nhiều điều tốt đẹp. Cho nên khéo tu là điều hết sức hệ
trọng, chúng ta cần phải thực hành triệt để, chớ không thể nói suông.
Càng tu càng hết khổ, càng tu càng tăng trưởng niềm vui, tăng trưởng sự
an lạc. Ai tu không được như vậy là tu chưa đúng với Phật pháp.
Để
kết thúc, tôi nhắc quí Phật tử ráng tạo duyên tốt, làm tăng trưởng nhân
lành của mình. Làm sao mỗi năm quí vị mỗi tỉnh giác sáng suốt, để trở
thành người Phật tử chân chánh, sống cuộc đời an vui hạnh phúc, tự tại
trong thế gian nhiều buồn khổ này.
HT Thích Thanh Từ