Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn
Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản
đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy,
vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự
phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ giới và thọ
giới ở nước ta.
Ngày nay chúng ta đã quen với các từ tỳ kheo, đặt đầu danh hiệu nhiều vị xuất gia: Tỳ kheo Thích như vầy như vầy.
Nhưng cách đây chừng nửa thế kỷ, việc ký danh ký hiệu như vậy thật
là hiếm thấy. Các vị trưởng lão thời trước như Hòa thượng Thiện Hoa
mà trước tác của Ngài còn lưu lại rất nhiều, trong đó chỉ thấy thường
ghi “Sa-môn Thích Thiện Hoa”, chứ không không ghi “Tỳ kheo Thích
Thiên Hoa” như trong các Thông bạch của các Trưởng lão hiện tại. Điều
này tất có lý do lịch sử. Thứ nhất, đó là do bởi tinh thần thượng
tôn giới luật. Danh hiệu tỳ kheo, với đầy đủ phẩm chất như được quy định trong luật, cả đến nhiều vị thiền sư nổi tiếng cũng dám không tự nhận. Như luật Trùng trị Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu
của ngài Trí Húc đời Minh có kể chuyện: Có người hỏi Thiền sư Thọ
Xương, “Phật chế tỳ kheo không được quật địa tổn thượng thảo mộc. Nay
sao các ngài tự cày bừa, tự gieo trồng, tự gặt hái?” Đáp: “Bọn
chúng tôi chỉ cốt ngộ được tâm Phật, kham truyền ý Tổ, chỉ thị đương
cơ, khiến cho biết rõ tâm tính, thế thôi. Nếu quy cách theo Chánh
pháp, thì chỉ có xưng là ‘Cư sĩ cạo tóc’ mà thôi. Đâu dám xưng danh
mình là tỳ kheo!”
Trả lời của Thiền sư Thọ Xương thật ngụ nhiều ý nghĩa. Nhưng ở đây
chúng ta không luận bàn chi tiết. Chỉ cốt nêu lên để tháy rằng, ngay
từ xưa, tại Trung quốc, phần lớn các Thiền sư không thọ giới tỳ kheo
như ngày nay chúng ta tưởng. Thêm nữa, xã hội Trung hoa có xu hướng
tôn trọng ẩn sĩ. Nhiều người lánh đời ẩn dật, mà đức hạnh cao khiết,
nhiều đời sau, thậm chí cả đến vua chúa cũng phải kính trọng. Cho
nên, người xuất gia chỉ cốt ở phẩm hạnh cao khiết hơn đời. Thọ giới
chỉ là hình thức. Như được thấy trong câu trả lời của Thiền sư Thọ
Xương.
Thêm nữa, ngày nay chúng ta cũng quen với lối viết tiểu sử của
những vị xuất gia, trong đó lúc nào cũng thấy ghi năm xuất gia và thọ
đại giới. Điều này cũng ít thấy trong các sử truyện, nhất là sử
Thiền tại Trung quốc. Ngay như sử thiền nước ta, Thuyền uyển tập anh
chép truyện các Thiền sư cũng ít khi nói các ngài thọ giới lúc nào,
hay ở đâu. Theo tập quán như vậy, nên khi chép truyện ngài Pháp
Thuận, Hòa thượng Thanh Từ viết : “Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu,
xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ Phù Trì..” Thực
ra, đoạn này Tập Anh chỉ nói: “Nhỏ đã xuất gia, thờ thiền sư Phù Trì
chùa Long Thọ làm thầy.” Theo thầy lúc còn nhỏ, thì lúc ấy không thể
thọ đại giới được. Hòa thượng Thanh Từ viết theo quán tính.
Thế cho nên, không nên nội vàng mà kết luận “Cụ Nguyễn Du không
biết gì về đạo Phật”, lý do là nói xuất gia mà chỉ thọ năm giới. Thật
sự nàng Kiều chưa phải xuất, chỉ bị cách ly khỏi Kim Trọng, nên Hoạn
Thư mượn tiếng nâu sòng khoác lên cho nàng để mình khỏi bị mang
tiếng ghen. Chẳng có ai làm thầy, trong cái Quan Âm các nhà họ Hoạn,
làm gì có Thầy truyền giới? Chúng ta không nên tự hào là mình biết
rõ thời đại của Cụ Nguyễn Du hơn Nguyễn Du, trong thời đó, Phật giáo
được hành như thế nào, Tăng đồ sinh hoạt như thế nào. Đem sinh hoạt
người xuất gia thời ta mà gán cho thời đại Nguyễn Du, chẳng khác nào
tự nhiên cho ngài Pháp Loa hay Huyền Quang khi xuất gia theo Trúc Lâm
Đại đầu đà thì cũng học Tì ni nhật dụng thiết yếu, như các chú tiểu ngày nay tại các chùa Báo quốc hay Từ hiếu!
Nguyễn Du cho Kiều tự xuống tóc, tự xuất gia, cho thọ tam quy ngũ
giới mà chẳng có thấy Tăng truyền; vấn đề như vậy cần phải được
nghiên cứu cẩn thận, vì liên hệ đên sinh hoạt Tăng già và cư sĩ thời
Nguyễn Du. Chúng ta cũng biết rằng trước đó Ngô Thời Nhiệm và một bộ
phận lớn các đại thần của vua Quang Trung cũng theo Ngô Thời Nhiệm
làm sư, mà không nói gì đến thọ sa-di hay tỳ kheo. Ngô Thời Nhiệm
nhận là Tổ thứ tư của Thiền phái Trúc lâm.
Cho nên, hình ảnh Phật giáo mà ta thấy hôm này, với trật tự tăng
già, tổ chức sinh hoạt tu tập cho các Phật tử, không phải tự nhiên
một sớm một chiều, cũng không phải được truyền thừa y như vậy, liên
tục từ đời xa xưa cho đến ngày nay.
Có một giai đoạn vận động phục hưng Phật giáo, trong đó thật đã
trải qua không biết bao nhiêu khổ nhọc, thậm chí không chỉ nước mắt
mà cả máu cũng phải đổ. Đọc quyển Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo
của Cố Trương Lão Thích Thiện Hoa, nguyên Viện trưởng Viện hóa đạo,
Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, để thấy rõ những đoạn đường
gian khổ mà các bậc Tôn Túc trong Tăng già, cùng với các Cư sĩ, các
vị đã trải qua như thế nào.
Trong số những bậc Tôn Túc ấy, hiển hiện hình bóng của Trưởng Lão
Thích Trí Thủ, cùng với các vị khác nữa, như Thừa thiên Huế có Ngài
Đôn Hậu, chùa Linh mụ; ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có
Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ; những vị đã dày công bồi
dưỡng, hoằng truyền Luật tạng.
Học, nghiên cứu Luật, hành trì Luật, và hoằng truyền Luật, thật
không đơn giản, không dễ dàng. Tất nhiên cái học và cái hành nào cũng
có chỗ khó; với Luật, cũng có những khó khăn riêng.
Trước hết, Phật giáo khởi nguyên từ Ấn độ. Tăng già và các quy tắc
sinh hoạt của Tăng già tất cũng chịu ảnh hưởng của phong tục tập
quán, và cả đến tín ngưỡng đặc thù, của xã hội và dân tộc, chủng tộc
khác nhau tại Ấn độ. Một điều như “khẩn thổ quật địa”, trong tín
ngưỡng nhân gian của Ấn độ thời cổ, tại địa phương mà điều luật ấy
được chấp hành, điều này được hiểu rất đơn giản. Cao hơn nữa, ngày
nay người ta có thể hiểu nó qua ảnh hưởng sinh thái học. Nhưng đối
với truyền thống Trung quốc thì điều đó hơi khó hiểu, và cũng khó
thực hành. Hàn Dũ, khi đề nghị dẹp bỏ Phật giáo, trong đó có lý do
nói đến cộng đồng tăng lữ, là “bọn không cày mà có cơm ăn; không dệt
mà có áo bận”. Cộng đồng ấy chỉ là bọn ăn bám, gây hại cho xã hội.
Thành ra, châm ngôn sống thiền của ngài Bách Trượng “nhất nhật bất
tác nhất nhật bất thực” có một giá trị xã hội rất lớn đối với Phật giáo
tại Trung quốc; nhưng tại các nước nam phương như Thái lan hay Tích
lan, châm ngôn đó không áp dụng cho tăng lữ được, vì nó trái với tinh
thần của Luật Phật chế. Nhưng Trung quốc lại là một xã hội thượng
tôn pháp luật, có xu hương thủ cựu. Danh từ “pháp của Tiên vương”
thường thấy được nhắc nhở rất nhiều trong sử, khi các triều thần muốn
can gián vua chúa một điều gì. Với tinh thần đó, thì những gì được
xem là Phật chế, được truyền từ Ấn độ sang, không ai được phép sửa
đổi. Người ta thấy Tổ Bách Trượng chỉ dám viết Bách trượng thanh quy,
đề nghị những quy tắc sinh hoạt cho thiền môn thích hợp với xã hội
Trung quốc, chứ ngài không hề dám sửa một điều gì trong Luật được
truyền là do Phật chế, truyền từ Ấn độ sang. Những gì không thực hành
được, các ngài tự cho là vì “khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sinh sơ,
nhân đa giải đãi..” Vì thế không hành nổi. Nhưng vì phương tiện độ
sinh, có thể hạ thấp xuống cho hợp căn cơ thời đại. Như vậy có nghĩa
là hành trì từ thấp lên cao, chứ không phái kéo giới luật Phật chế
xuống ngang tầm thời đại, cho hợp khẩu vị thời đại.
Thủa trước, có một vị Thiền sư nhận thấy những điều trong giới bổn
tỳ kheo không còn thích hợp bèn sửa đổi. Thiền sư hỏi ý kiến học trò
của mình, như để thăm dò căn cơ thời đại cho thích hợp. Nhưng gặp
phải người học trò thủ cựu, hỏi lại Thầy: “Giới luật Phật chế, sao
Thầy dám tự tiện sửa?” Thầy đáp: “Không giữ được, thì nên sửa. Chứ để
như vậy mà làm gì?” Người học trò tỏ thái độ: “ Thầy giữ không được
thì mặc kệ Thầy. Ai giữ được, để người ta giữ. Sao Thầy lại tự tiện
sửa?”
Cả hai tinh thần, vừa thượng tôn pháp luật, vừa thủ cựu tuân theo
cựu chế của tiền nhân, cả hai khiến cho vấn đề nghiên cứu luật tại
Trung quốc rất phức tạp. Ngày nay, sự hành trì luật của nước ta cũng
chỉ phỏng theo các tông truyền luật của Trung quốc, nên khó khăn lại
càng gấp bội. Thế nhưng, như một xã hội tồn tại được ổn định do bởi
luật pháp trong sáng, được giải thích chính xác, và được áp dụng hợp
tình hợp lý. Phật giáo để cho được tồn tại và phát triển, những đệ tử
của Phật không thể chỉ nói, “tôi cốt tu tâm; còn giới luật là phụ.”
Vì sự tu tập của mỗi người có những quan hệ ảnh hưởng đến nhiều người
khác. Trong mười mục đích Phật chế luật có nói: vì mục đích khiến
cho người chưa tin Phật thì được tin; người đã tin thì tín tâm càng
tăng trưởng.
Tại Trung quốc, khi Ngài Thái Hư bắt đầu vận động cải cách Phật
giáo, nổi bật với ba mục tiêu cách mạng: “Cách mạng giáo lý. Cách
mạng giáo chế. Cách mạng giáo sản.” Trong đó mục tiêu cách mạng giáo
chế nhắm đến cải cách tinh thần bại hoại của lớp tằng lữ đương thời.
Ngài tự nêu lên hai câu làm châm ngôn lý tưởng: “Hành tại Du-già bồ
tát giới bổn. Chí tại chỉnh lí tăng già chế độ.”
Về tình trạng tăng lữ thời đó, có thể dẫn lời của Pháp Sư Tục Minh (1918 – 1966), viết trong Giới học khái thuyết:
“Cho đến thời đại gần đây, chế dộ tòng lâm thời trước bị phế bỏ
không hành nữa. Nghi thức thọ giới thì cũng chỉ như đem dê đi cúng
thần. Phẩm hạnh của tăng nhân do đó mà xuống thấp. Phật giáo suy bại
đến cực điểm, suy cho ra nguyên nhân, thì là do bởi bỏ phế việc học
giới…”
Tinh trạng nước ta có vậy hay không, để các vị cao tăng đại đức,
ẩn cư trong núi rừng vằng vẻ, bỗng đứng ra “gánh vác việc đời”. Nhưng
thực tế có thể biết chắc là các vị Tôn Túc hàng đầu trong công cuộc
vận động chấn hưng Phật giáo Việt nam chịu ảnh hưởng của ngài Thái Hư
không phải ít. Đông lực chính của công cuộc chấn hưng, theo như lời
Trưởng Lão Thiện Hoa nói trong Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo:
“Gần 100 năm về trước, quê hương Tổ quốc của chúng ta bị người Pháp
đô hộ, Dân tộc ta và những gì mang nặng dân-tộc tính, có tinh thần
quốc gia đều bị thực dân Pháp bóp chẹt. Phật-giáo Việt-Nam nằm trong
tình trạng ấy.
“Nhưng không hẹn mà nên, 50 năm về trước, các vị Tiền Bối cùng nằm
trong một thời kỳ, cùng trong một hạnh nguyện, đã khởi xướng và đẩy
mạnh Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam.”
Việc Phật giáo bấy giờ bị “thực dân bóp chẹt” không phải chỉ là
cách nói suông. Sự thực lịch vẫn còn đó: chùa Khải tường trong Nam,
được dựng bởi vua Minh Mạng; tháp Báo thiên ngoài Bắc, được dựng bởi
vua Lý Thánh tông, không phải tự nhiên biến mất, để rồi tình cờ sau
đó xuất hiện Vương cúng Thánh đường, và Nhà thờ Chúa Giu-se.
Dẫu sao, đó cũng chỉ là ma chương bên ngoài ngoài. Chính ma chướng
bên trong mới đáng nói. Chúng ta hiện không có nhiều sử liệu từ phía
nhà chùa để biết tình hình sinh hoạt tăng lữ thời ấy ra sao, trước
khi phong trào chấn hưng phát khởi. Tuy vậy, qua ca dao tục ngữ, vẫn
biết một phần. Chỉ có điều, khó xác định thời đại của những câu châm
biếm nhà chùa này.
Xã hội Việt nam trong buổi giao thời, một đằng nếp sinh hoạt tinh
thần đạo đức truyền thống bị suy thoái trầm trọng dưới sức ép tiến bộ
vật chất của phương Tây. Như nhà thơ Trần Tế Xương đã phải cất tiếng
than: “Văn minh Đông Á trời thu sạch. Này lúc cang thường đảo lộn
ru?” Trong thơ của ông cũng không hiếm bài châm biêm nhà chùa “công
đức tu hành sư có lọng”. Tuy nhiên, chưa thấy ở đâu mô tả tình trạng
bại hoại đến độ như lời tâu của Đàm Dĩ Mông đề nghị vua Trần Thành
Tông sa thải tăng đồ (Việt sử lược, dẫn bởi Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông):
“Nay tăng đồ cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng,
dựng bậy thầy trò, tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới
trường tinh xá, hoặc ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh
viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng
làm mất tục hư đạo, dần dần thành thói. Việc đó không cấm, để lâu
càng tệ thêm.” Thường thì người ta hay khoa đại hoặc cường điệu cho
vấn đề bi đát, với mục đích thuyết phục người khác nghe theo ý mình.
Như chuyện Cụ Nguyễn Hiến Lê sau đọc một quyển tiêu thuyểt mô tả tình
trạng dân nghèo bị áp bức ở quê miền Bắc, nói răng, chuyện áp bức
thì tất nhiên là có rồi, nhưng đến mức như chuyện kể, thì Cụ sống ở
Bắc cho đến lớn, biết rất nhiều chuyện các làng, chưa nghe nói đâu ác
đến như thế. Cho nên cũng không thể căn cứ vào chuyện ông Đàm Dĩ
Mông để đánh giá sinh hoạt của giới tăng lữ dưới thời vua Lý Cao Tông
được.
Nói vắn tắt, động cơ chính trong việc chấn hưng Phật giáo, như ngài Trưởng lão Thiện Hoa nói rõ.
*****
Trong bài “Tự ngôn” cho bản dịch Việt Luật Tứ phần của
Hòa thượng Đỗng Minh, có đoạn viết: “Thế hệ thứ nhất trong phả hệ
truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt nam thời trùng hưng hiện đại
bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc
nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau.
Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng chốn tòng lâm, mà đời sống phạm
hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết,
mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng
truyền Chánh pháp.”
Thế hệ thứ nhất được nói đó, trong Nam, là các Trưởng lão Hành Trụ
và Thiện Hoa, ngoài Trung có Trưởng lão Đôn Hậu và Trí Thủ. Ngoài
Bắc, tôi chỉ biết được Trưởng lão Bình Minh qua bản dịch Yết-ma chỉ nam
mà thôi. Tuy nhiên, qua các câu chuyện kể của Trưởng lão Đức Nhuận,
chùa Giác minh Saigon, tôi biết thêm một ít về Tổ Tuệ Tạng, mà truyền
thừa trực tiếp về luật là ngài Bình Minh miền Bắc và ngài Thiện Hòa
miền Nam. Tổ là một trong các bậc Tôn Túc hàng đầu khởi xướng phong
trào chấn hưng Phật giáo.
Sự xưng tán đệ nhất hay đệ nhị ở đây tùy thuộc nhận thức chủ quan,
trong ý tưởng đánh dấu khúc quanh chuyển mình của lịch sử Phật giáo
Việt nam, trong đó sự chấn chình chế độ tăng già, hoằng truyền Luật
tạng là một thạch trụ vững chắc. Việc trì luật và truyền luật là mạng
mạch liên tục của sự tồn tại Chánh pháp, nên khó có thể cắt từng
giai đoạn theo thời đại. Tuy nhiên, để có thể dễ dàng nhận thức những
gì đang chuyển biến và nhiều khi có khả năng biến dạng của truyền
thống tăng già, nên sự phân chia mốc lịch sử và thời đại mang tính
chủ quan trong phạm vi ước lệ cũng là điều cần thiết.
Các thế hệ trước, vấn đề trì luật và truyền luật như thế nào, tình
trạng Việt nam không giống ở Trung quốc, không được ghi chép đầy đủ,
dù ở mức tương đối. Vị truyền luật gần nhất trong lịch sử có thể
biết được, đó là Tổ Pháp Chuyên, bổn sư của ngài Toàn Nhật, dưới thời
Tây sơn. Nếu đi lần lên cho đến ngài Khương Tăng Hội để biết buổiit
sơ khai luật đã được truyền và trì như thế nào trên đất Việt, để biết
rõ hình thức tổ chức Phật giáo đã tồn tại như thế nào, vấn đề quá
lớn so với bài viết này, nên không thể nói bâng quơ được.
Tuy nhiên, điều không thể không lưu ý là tinh chất chính thống
trong lịch sử truyền của luật. Nghĩa là tăng già mà các thành viên là
tỳ kheo trực tiếp truyền thừa liên tục không đứt đoạn kể từ sau Phật
Niết-bàn, dù sau đó theo bước chân hoằng hóa của các Thánh tăng Phật
giáo đã lưu truyền gần khắp châu Á, từ phía tây với Iran, cho đến
viễn đông với Nhật bản.
Trong lịch sử truyền thừa tại Trung quốc, tuy truyền thuyết bắt
đầu từ Ma-đằng và Trúc Pháp-lan, từ đó nhiều người theo Phật, nhưng
chỉ thọ trì tam quy ngũ giới. Cũng có người cạo tóc, khoác mạn y,
song không ai trong đó thọ đại giới. Vì theo luật Phật chế, nếu nơi
biên địa, cho phép túc số Tăng năm tỳ kheo truyền giới cụ túc. Lúc
bấy giờ tại Trung quóc, các sa-môn nước ngoài, từ Tây vực, hay từ Ấn
độ trực tiếp đến, không khi nào hội đủ túc số năm tỳ kheo. Cho đến
vào thời Tào Ngụy, trong khoảng Gia bình (Tây lịch 249-253), bấy giờ
có Đàm-ma-ca-la (Dharrmakāla) từ Thiên trúc đến Lạc dương, dịch luật Tăng kỳ giới tâm, sau đó lại có sa-môn Đàm-đế người An tức đến trụ tại chùa Bạch mã dịch Đàm-vô-đức yết-ma. Từ đó ở Trung quốc mới có sự truyền giới tỳ kheo theo túc số thập sư.
Về ni giới cũng vậy. Cho đến đời Tấn, niên hiệu Thăng bình (357),
sa-môn Đàm-ma-kiết-đa lập giới đàn truyền giới tỳ kheo ni cho Tịnh
Kiểm và bốn cô nữa. Đây được kể là tỳ kheo ni đầu tiên tại Trung
quốc, nhưng không đủ nhị bộ tăng, mà trực tiếp truyển từ tỳ kheo
Tăng. Vấn đề đã được thảo luận, nhưng vì bấy giờ Trung quốc chưa có
ni thì không thể đủ hai bộ để truyền như luật định. Đàm-ma-kiết-đa
cho rằng giới từ Đại Tăng mà có, này Đại Tăng đủ số thì có thể
truyền.
Sau đó, vào năm Nguyên gia 6 (429), có sa-môn Cầu-na-bạt-ma
(Guṇavarma) đến Trung quốc, ni cô Huệ Quả đem vấn đề thọ giới đắc
pháp ra hỏi, ngài trả lời: không đắc, vì không đủ nhị bộ tăng. Lúc
bấy giờ tại Trung quốc có 8 vị tỳ kheo ni từ Tích lan sang, nhưng
Cầu-na cho là chưa đủ số thập sư nên chưa chịu tổ chức giới đàn. Theo
lời khẩn cầu của các ni cô bấy giơ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang đảo
Sư tử, tức Tích-lan ngày nay, thỉnh thêm cho đủ Thập ni để truyên
giới. Về sau, có thêm Thượng tọa ni Thiết-sách-la cũng bốn vị nữa từ
đảo Sư tử sang, nhưng bấy giờ Cầu-na-bạt-ma đã tịch. Giới đàn khi ấy
do Tăng-già-bạt-ma tổ chức, đủ hai bộ tăng túc số truyền giới tỳ kheo
ni. Đây gọi là chính thức tỳ kheo ni như pháp được truyền thọ tại
Trung quốc.
Điều này cho thấy vấn đề truyền giới, tuy chỉ nói là hình thức,
nhưng rất hệ trọng nên các Tổ rất thận trọng. Vì mạng mạch Tăng già
phải được kế thừa liên tục, như ngon đèn tiếp nối, không thể ở đâu đó
một nhóm người nổi lên, tự lập thành chúng, tự thọ giới và tự nhận
là Tăng già đệ tử Phật. Vấn đề cũng cho thấy sự nhiểu khê trong những
ngày đầu truyền giáo và truyền luật. Ngay tại thời Phật, chúng ta
cũng biết rằng sau khi đức Phật quy định 2 năm học giới trước khi thọ
tỳ kheo ni, nhiều vị ni đã thắc mắc về sự đắc giới của Đức Bà
Kiều-dàm-di cùng với năm trăm Xá-di, vì trước đó các vị này thành
tỳ-kheo ni mà không có ai trải qua 2 năm học giới. Đức Bà phải lên
thỉnh ý A-nan. A-nan lại phải một phen bạch lên Phật. Phật nói, tỳ
kheo ni đầu tiên đắc giới bằng bát kỉnh pháp. Từ đó về sau, phải trải
qua 2 năm học giới.
Câu chuyên tương tự cũng xảy ra tại Việt nam. Mấy chục năm trước,
có một vị Ni sư trưởng, nay đã tịch, nhân luận về giới pháp ni, bà
nói nói tôi: “Sau này học luật, chúng tôi mới biết. Nhưng trước đó
chúng tôi thọ tỳ-kheo-ni mà không ai trải qua 2 năm học giới. Không
biết có đắc giới hay không?” Tôi cũng không biêt nên nghĩ thế nào,
đắc hay không đắc. Nhưng ni chúng dưới sự dạy dỗ của các vị Ni sư
trưởng này đã đều trở thành các vị tỳ kheo ni mà giới phẩm tuyệt vời,
được mọi người kính trọng. Cho nên không ai dám “y Kinh giải nghĩa”,
để mang tội là “tam thế Phật oan.”
Đấy là điểm khó khăn và cân nhắc mà các Tổ truyền luật phải thận
trọng, chúng ta cũng hiểu những khó khăn của buổi đầu khai đạo. Vận
dụng thế nào để mạng mạch truyền thừa như ngọn đèn tiếp sáng liên
tục, gọi là “truyền đăng tục diệm”. Đó là sự vận dụng trí não sao cho
khế lý và khế cơ, thật không đơn giản.
Trong nhiều lúc giảng luận về Luật tạng, Hòa thượng Trí Thủ thường
kể cho nghe nhiều chuyện xảy ra trong thực tế tương tự, mà các ngài
nhiều khi thảo luận cả mấy tháng trời vẫn không dứt khoát. Khó khăn
một phần vì tư liệu. Do tình trạng đất nước nghèo khó, và tăng già
sơn môn thường xuyên sinh hoạt trong sự túng thiếu, nên khó có đủ
điều kiện để có được một bộ Đại tạng kinh như ngày nay, mà đa số các
Chùa đều có thỉnh về để thờ. Có được bộ luật Trùng trị Trí
Húc, hay bộ Tứ phần như thích thì thật là quý giá vô cùng đối với vị
thích nghiên cứu luật. Khó khăn này tuy vậy không phải là quá khó.
Điều khó khăn khó đả thông, là vấn đề phong tục dị biệt. Vì Luật tạng
được kết tập tại Ân-độ, mà ngay tại Trung hoa, với sự nghiên cứu và
hành trì sâu rộng thế mà nhiều chỗ còn không đả thông được. Huống chi
việc học luật của nước ta sau này chỉ có chỗ dựa duy nhât là các bộ
Luật được truyền dịch, và sớ giải, tại Trung quốc. Một vấn đề thực tế
đã xảy ra, theo kể lại của Hòa thượng.
Tại Huế, lúc bấy giờ có một mệnh phụ, chồng chết, mãn tang rồi,
xin xuất gia. Chư sơn thảo luận, khi nào thì cho thọ tỳ kheo ni?
Nguyên trong Luật Tứ phần, theo Hán văn, có quy định: “đồng nữ thập
bất, tằng giá thập nhị, các nhị tuế học giới.” Nếu theo giải thích
của Yết-ma chỉ nam, câu này có thể hiểu là: thiếu nữ chưa
chồng, đúng 18 tuổi; phụ nữ đã có chồng, sau 12 năm chồng chết; thêm 2
năm học giới sau đó cho thọ tỳ kheo ni. Theo đó, thiếu nữ chưa
chồng, tuổi tối thiểu để thọ tỳ kheo ni là 20. Đã có chồng thì tính
từ ngày chồng chết phải 12 năm sau mới cho thọ. Các vị thảo luận,
theo cách hiểu như vậy có điều không phù hợp thực tế. Thực sự, đây là
vấn đề nhạy cảm. Vì trước sự nhiệt thành, với nhất là với sự hiểu Đạo
sâu sẵc của bà mà chư Tôn Túc xác nhận, để chờ 12 năm nữa thì thiệt
thòi cho ni chúng; mà cũng bởi định luật vô thường, thế thì cũng tội
cho người nữ nhiệt tâm vì Đạo. Nhưng chữ nghĩa như vậy, giải thích
sao đây? Tất nhiên, có vị đã không tin là Luật sư Chiêu Minh, tác giá
Yết-ma chỉ nam, giải thích đúng Luật Phật. Tăng quyết định
thế nào thì tôi quên mất. Nhưng theo lời Hòa thượng, ý kiến Hòa
thượng lúc bấy giờ là cho thọ sa-di-ni rồi cho thọ thức-xoa ngay, để 2
năm sau bà thọ tỳ kheo ni cho kịp thời.
Sau đó Hòa thượng dạy tồi về lục xem trong Luật tạng Pāli, điều
này được nói như thế nào. Tôi đọc kỷ luật Pāli đoạn liên hệ, lại tham
khảo các bản dịch Anh. Các bản này đều có chú thích, nêu ý kiến
người dịch. Tôi cũng tìm thêm các tài liêu trực tiếp từ các bộ luật
khác, ngoài luật Tứ phần. Sau đó, trình lên Hòa thượng. Đây là những
buổi học luật của tôi với Hòa thượng, cùng với sự tham dự của Hòa
thượng Đỗng Minh. Tôi dẫn tài liệu, nêu ý kiến của mình. Vấn đề này
liên hệ đến túc tảo hôn của Ấn-độ. Nhân duyên được ghi rõ trong luật Tăng-kỳ
thế này: Sau khi dòng họ Thích bị tàn sát, Đức Bà Kiều-đàm dẫn các
Xá-di, đều là con cháu của các Ni trưởng trong vương tộc, về ngụ
trong tinh xá ni để bảo dưỡng. Phần lớn là bé gái, tuổi chừng 12 trở
lên. Theo luật, tỳ kheo và tỳ kheo ni không được đem vật thực của
tăng mà phân chia cho cư sỹ. Các cô bé này đều là cư sỹ, mà số lại
rất đông, do không được mang vật thực của Tăng phân chia cho, nên rất
chật vật cho Đức Bà, và cùng các tỳ kheo dòng họ Thích đã xuất gia
trước đo theo Đức bà. Vấn đề được trình lên Đức Phật để thình cầu chỉ
giáo. Nếu các cô bé này được cho thọ tỳ kheo ni, họ hợp pháp được
tăng phân chia lợi dưỡng, thế thì các Bà không phải tự khất thực vất
vả để nuôi con cháu nhỏ dại của mình. Đức Phật nhìn các cô bé, bảo
rằng: “Còn nhỏ quá.” Nghĩa là con nít quá, làm sao kham nổi giới pháp tỳ
kheo ni? Các cô bạch Phật: “Chúng con đã từng làm vợ, đã từng chịu
đựng hầu hạ chồng và mẹ chồng. Thế thì việc kham nhẫn giới tỳ kheo
ni, chắc là làm được.” Đây là gốc bởi tục tảo hôn. Con gái chừng 8
tuổi đã có thể được gã chồng. Thời tục cổ, nước nào cũng thế, do
trọng nam khinh nữ, thân phận phụ nữ, không kể lớn nhỏ, thường xuyên
bị áp bức, nhất là làm dâu. Bất cứ làm dâu khi mấy tuổi. Hầu hạ
chồng, mẹ chồng, có thể cả nhà chồng. Sức chịu đựng không phải tầm
thương. Vì thế, sau khi nghe các cô bé thình nguyện, Đức Phật quy
đinh, mà văn Hán dịch như đã dẫn. Tuy nhiên, con số chính xác về
tuổi, các luật không thống nhất. Như Tứ phần dẫn trên, nhỏ nhất là 12
tuổi thọ thức-xoa, vậy 14 tuổi là cô tỳ kheo ni bé bỏng nhất. Nhưng
có luật quy định, tuổi thọ thức-xoa thấp nhất là 14. Đây cùng là do
phong tục quy đinh tuổi hôn nhân của mỗi địa phương.
Hòa thượng tán thành quan điểm, cho rằng ý ngài trước đây cũng
nghĩ vậy, nhưng không có đầy đủ minh văn để làm bằng. Duy có điều, ở
nước ta, dù một thời cũng có tục tảo hôn, nhưng cô tỳ kheo ni 14 tuổi
thì con nít quá, khó chấp nhận.
Một lần khác, Hòa thương nói với tôi: vừa rồi có Sư bà nhiếp chúng
ở một ni viện đến trình Hòa thươngj về việc ni chúng ở đó định tác
pháp yết-ma tẩn xuất một cô tỳ kheo ni do tội ăn căp tiền, có bẳng
chứng. Số tiền đâu khoảng vài trăm, cũng đồng như vài chục ngàn bây
giờ. Hòa thượng dạy: ăn căp chừng đó, đâu nhiều gì, mà sao xử năng
thế? Sư bà thưa: Ni chùng thảo luận, vì luật chế, ăn cắp năm tiền trở
lên là bị diệt tẫn. Hòa thượng dạy, số tiên ấy là quy đinh mức tội
theo mỗi nước, thời Phật tại thế. Chỉ khi nào ngang mức tử hình, mới
gọi là thành tội diệt tẩn. Hòa thượng không cho phép chư ni tác pháp
diệt tẩn đối với cô ây, mà chỉ bắt tấc pháp sám hối đúng theo luật
quy định. May mà Ni chúng bấy giờ không xử trị oan khuất một người.
Vấn đề này sau đó cũng được thảo luận trở lại với sự tham dự của
Hòa thượng Đỗng Minh. Theo lời Hòa thượng dạy, tôi lại sao lục các
tài liêu liên hệ về quy đinh mức tội ăn căp. Với các tài liệu tôi
trình, nghe xong, Hòa thượng Đỗng Minh nêu ý kiến: Nếu xét 5 tiền là
mức tử hình để định tội diệt tẩn, chắc thực tế khó có trường hợp diệt
tẩn xảy ra. Ngoài đời, ngay cả trong thời vua chúa, chỉ khi ăn cướp
có giết người, hay trộm đồ tế khí trong tông miếu, mới bị tử hình.
Nếu đối chiếu theo mức định tội như luật ngoài đời hiện nay: thấp
nhất là tội phạt vi cảnh. Kế nữa là tội xử theo mức tiểu hình. Cao
nhất là mức của tòa đại hình. Tôi ăn cắp, nếu tương đương mức xử đại
hình thì bị diệt tẩn.
Hòa thượng đòng ý quan điểm giải thích này.
Đại loại các buổi học luật và thảo luận luật như vậy liên tục suốt
trong ba năm, với Hòa thượng chủ trì, Hòa thượng Đỗng Minh nêu ý
kiến về đề nghị những giải thích. Phần tôi thì ghi chép tổng hợp. Kết
quả tập hợp thành bộ Tứ phần hiệp chú, mà tên gọi đầy đủ là Đàm-vô-đức bộ Tứ phần luật Tỳ kheo giới bổn hiệp chú. Đó là công trình tâm huyết một đời của Hòa thượng để lại.
*****
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được
học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình
trên núi rừng với nai với khỉ, độc thiện kỳ thân. Luật, được Phật
chế, với mục đích nhiếp tăng. Vị chưa từng sống nhiều năm trong tăng,
chưa từng xử lý việc tăng, cũng khó mà hiểu hết giá trị những điều
luật.
Thủa đời Tùy bên Trung quốc, có Luật sư Hồng chuyên giảng Tứ phần.
Pháp sư Tăng Hưu nghe giảng có đến hơn 30 lần, rồi nói với đồ chúng:
“Tôi dự nghe cũng nhiều. Về kinh luận, nghe qua một lần có thể hiểu
hết. Nhưng về luật, càng nghe càng mờ mịt. Thế nên biết, lý thì có
thể hư cầu, mà sự thì khó bề thông hội.” Bởi vì, về lý thì có thể
hiểu suông, suy diễn thế nào cũng được. Cứ xem các triết gia tranh
luận ráo riêt với nhau thế kỷ này sang thê kỷ khác không bao giờ dứt,
thi đủ biết. Nhưng về sự, nếu không đi vào thực tế, thì không thể
thông được. Khi dẫn chuyện này, Hành sự sao tư trì ký còn
chua thêm: Vẽ quỷ vẽ ma thì dễ đẹp, nhưng vẽ chó vẽ ngựa thì khó mà
giống cho được. Nói vậy, vẫn có nhiều trường hợp ông thầy vẽ vời
nhiều chuyện, gọi là chế tác hay canh cải đúng theo tinh thần luật, rồi
truyền trò, lâu đời thành nếp, khó sửa. Một người học Luật tốt
nghiệp, lâu bao nhiêu năm chưa biết, nhưng có thể nổi tiếng. Tuy thế,
ông chưa bao giờ ngồi ghế chánh án, hay bồi thẩm, cũng chưa giờ làm
luật sư biện hộ cho ai; bất chợt ông được giao cho biên soạn bộ luật
hình sự. Bộ luật ấy nếu áp dụng cho các tòa xét xử, chắc có nhiều
chết oan mạng. Luật Phật hướng đến giải thoát. Người chưa giải thoát,
còn đầy dẫy tham sân, may mà không gặp cơ hội để phát tác, tự bản
thân đã chưa thể giải thoát, làm sao có thể đặt luật cho người khác
hành trì! Hòa thượng thường hay nhăc nhở: ở đời đi dạy học, nếu dạy
sai một vài bài toán, thì khổ lắm cũng chỉ trong một đời người thôi.
Nhưng hướng dẫn người sai lạc, khiến người ta muôn kiếp đọa lạc, thì
tội của mình không phải là nhỏ. Làm thầy độ người, phải cẩn thận.
Trong suốt đời chuyên trách giáo dục đào tạo tăng tài, Hòa thượng
cũng đã bao che cho nhiều học tăng phạm kỷ luật, theo lẽ phải bị trục
xuất. Những vị ấy về sau lại trở nên tinh tấn, giới hạnh thanh
khiết. Hòa thượng nói, giới luật để uốn nắn người xấu thành người
tốt, chứ không phải chỉ để trừng trị.
Tuổi trẻ tất có những ngông cuồng, nhiều khi vượt quá quy luật.
Nhân một hôm không có giờ dạy, tôi về chùa hầu Hòa thượng. Tối hôm
đó, lúc tôi đang ngồi hầu chuyện Hòa thượng thì hai ông bà Ngô Trọng
Anh cũng đến thăm. Sau một hồi chuyện trò, Bà Ngô bạch:
“Bạch Hòa thượng, con biết có mấy chú trong chùa trốn đi vô quán.
Buổi đó trời mưa, con nhìn xuống thấy hai ống quần, biết mấy chú này
trùm áo mưa đi quán.”
Hòa thượng không nói gì. Ông Anh lên tiếng:
“Bà này thật nhiều chuyện. Người ta đã sợ. nên phải lén che rồi, mà bà còn mách.”
Hòa thượng cũng không nói gì. Nhưng kể nhiều chuyện vui khác. Một
lúc sau, lại kể chuyện xưa, thời Hòa thượng còn niên thiếu. Nói là
niên thiếu, lúc bấy giờ cũng khoảng 40, hay nhiều hơn, lại thuộc hàng
lãnh đạo Phật giáo Trung phần. Nhân một buổi được Hội Phật giáo phân
công tác vào Bình định giải quyết một số vấn đề Phật sự. Cùng đi là
ngài Mật Nguyện. Hai vị đến Qui nhơn, giải quyết xong Phật sự, bèn
bàn riêng. Bình điijnh nổi tiếng là quê hương của hát bội. Các ngài tán
thưởng hát bội vì điệu bộ nghệ thuật, lại thêm văn chương thâm thúy.
Nhân dịp này, nếu bỏ qua không thưởng thức thì cũng uổng. Nhưng trong
cương lãnh đạo tinh thần đối với tăng ni và Phật tử ở đây, làm sao
có thể đường đột mà đi. Hai vị bèn quân khăn lên đầu, chỉ cốt không
ra vẽ trang trọng để người đời không lưu ý thôi, chứ vẫn khoác y phục
nhà chùa thì đi đâu cũng được nhận ra là ông thầy. Nhưng hai vị tin
rằng ở Bình định không mấy ai biết mặt mình.
Khi vào rạp, đang tìm chỗ ngồi, chẳng may gặp phải quan Tuần phủ
cũng vừa đi đến. Ông quan này trước ở Kinh thành, lại là hàng văn nho
tao nhã, nên cũng rất thân với Hòa thượng Trí Thủ. Bất chợt như
người “đào trái tha hương ngộ tri cố”, kẻ trốn nợ đi tha phương mà ở
đó lại còn gặp cố tri nhìn ra mặt, thật là không may. Trong khi chưa
biết tránh đi đâu, thì ông quan vồn vã bước đến chào hỏi:
“Ủa, chớ hai thầy, vô khi mô? đi mần chi trong ni? Nhân tiện, mời hai thầy lên ngồi với tui.”
Hóa ra, là khách quý bất đắc dĩ, hai vị theo ông quan Tuần phủ lên
ngồi hàng ghế danh dự trong rạp hát. Nghe xong câu chuyên, ông Ngô
Trọng Anh phát cười, rất tâm đắc. Ông hiểu ý Hòa thượng muốn nói gì.
Những chuyện tượng tự như vậy lớn có nhỏ có, chuyện tầm thường có,
mà chuyện tày trời cũng có, đã xảy ra suốt cuộc đời của trì luật và
truyền luật của Hòa thượng, cần phải có những phán đoàn và quyết
định, để giúp những người lở sa ngả còn có thể đứng dậy để tiếp tục
cho đến cuối con đường Đạo của mình. Ở đây tôi chỉ có thể kể vài câu
chuyện mà tự thân may mắn được nghe, được biết, để tưởng nhớ công hạnh
một đời truyền luật. Không truyền luật như vị giáo thọ ngồi trên bục
giang, mà truyền dạy ngay trong thực tế sinh hoạt hằng ngày.
Nghiêm khắc, nhưng luôn luôn sẵn sàng tha thứ, để uốn nắn dần.
Điều này đơn giản, nhưng trong thực tế, đâu tình, đâu lý; sự quyết
đoán không phải dễ. Luật để nâng đở những tâm hồn yếu đuối, không
phải để dẫm đạp những người đã té ngả, khiến cho vĩnh viễn đọa lạc.
Cho nên, khi tôn giả Bạt-đà-lị hỏi Phật vì sao có trường hợp cùng
phạm giới ngang nhau nhưng vị này được tăng xử trị nhẹ nhàng, trong khi
vị khác bị xử trị rất nặng? Phật bảo: như người có hai con mắt mà một
con đã bị hư thì cần phải giữ gìn con kia cẩn thận. Cũng vậy, người
yếu đuối nên dễ hay phạm giới. Do tinh thần yếu đuối, nếu xử trị
nặng, người ấy bất kham có thể dẫn đến đọa lạc. Với người ý chí kiên
cường, việc xử trị nặng là tôi luyện cho ý chí được bền chắc hơn.
Bên ngoài, nhìn vào luật, với nhiều cấm đoán khắt khe, chỉ thấy sự
nghiêm khắc của luật, mà không thấy được tâm từ bi bao dung rộng lớn
của luật.
*****
Vào những ngày cuối đời, Hòa thượng càng lưu tâm tha thiết với sứ
mệnh giáo dục tăng ni. Khi lần đàu tôi được thả ra khỏi trại giam,
chưa trở về chùa ngay; Hòa thượng gọi tôi đến dạy: Một ngày không thể
thiếu mặt trời. Tăng chúng cũng không thể một ngày thiếu tu, thiếu
học. Và do vậy lớp học tại chùa Già lam được Hòa thượng cưu mang ròng
rã bốn năm. Thời gian không dài lắm, nhưng một thời thử thách, và
chịu đựng, thời gian đó không phải ngắn. Tôi vẫn còn ngậm ngùi khi
hồi tưởng lại những hôm, thức dậy lúc 3 giờ rưởi sáng, đang chuẩn bị
cho buổi trà sớm xong, để lên Chánh điện lễ Phật. Bỗng thị giả bước
vào thưa: Hòa thượng dậy lúc 2 giờ sáng, đợi thầy sang uống trà. Tôi
bết Hòa thượng thường thức cho đến 12 giờ khuya mới chỉ tịnh. Có thể
suôt đếm nay Hòa thượng không ngủ. Tâm sự năm canh một bóng đèn.
Tết năm đó Hòa thượng về thăm Huế. Chùa Già-lam, Thầy Trụ trì Đức
Chơn cũng chuẩn bị đón Hòa thượng về chùa. Trước khi đưa xe ra sân ga
đón Hòa thương, Đạt Đạo đến nói với tôi: “ Mấy hôm nay Thầy Trụ trì
bận việc, quên không gởi thơ thỉnh Ôn vô. Các thầy ngoài Báo quốc
bảo, coi chừng Ôn không về Già lam. Ôn nói, chùa không ai cần đến Ôn
nữa, thì thôi. Anh đi đón Ôn cho Ôn vui.”
Tôi vui vẻ theo Đạt Đạo đi đón Hòa thượng. Hòa thượng cũng vui vẻ về chùa, không thấy có gì lạ.
Nhưng đây không phải đơn giản là chuyện vui buồn, để Hòa thượng về
chùa với Chúng hay không. Bên trong đó là tâm sự thiết tha của người
luôn luôn muốn sống, và chỉ sống, vì ích lợi cho người, vì mọi người
đang cần. Đời cần thì ta đến, đời không cần nữa thì ta đi. Có gì mà
vui hay buồn trong đây? Cho nên, năm đó, Hòa thượng làm bài thơ này:
Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đời
Buồn vui mừng giận khéo trêu người
Thân này đã hứa cùng non nước
Vinh nhục khen chê chỉ mĩm cười
Năm đó, là năm mà Hòa thượng bị đặt trước một quyết định sinh tử,
không chỉ quyết định vinh nhục của bản thân, mà quyết định liên hệ
đến vinh nhục, tồn vong của Đạo pháp. Đó là quyết định mà người xưa
nói, hoặc “lưu phương thiên cổ”, hoặc “di xú vạn niên”.
Hành xử của bậc trượng phu xuất thế, bằng tâm lượng nhỏ nhoi của
người thường, đủ thiếu vào đâu mà đàm tiếu, khen chê? Chi nhị trùng
hà tri chi? Mượn lợi Trang Tử để nói vậy: “Hai con sâu con ấy mà biết
gì?” Làm sao hai con chim sẻ nhỏ kia mà biết được chí con đại bàng
vỗ cánh trên bầu trời vạn dặm kia?
Chuyện Trang Tử, ví cho trượng phu chí lớn giữa đời. Nhưng với
những bậc “xuất trần thượng sĩ”, thì ví von ấy chỉ để ví von cho thú
vị tao nhã văn chương vậy thôi.
Nguồn: Phật Việt