Kinh
luận nhị tạng hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo
độc trì, như vương bí tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y
tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư
giả tối nghi cẩn thận". Dịch nghĩa: "Ba đời chư Phật đều nói ba tạng
Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất
gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheo gìn giữ, như tạng bí mật của
vua, hàng ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa di, bạch y mà xem
trước, thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ
nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận".
Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật Sa di: "Bất đắc đạo thính Đại Sa môn thuyết giới".
Thật ra, câu cảnh cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không
được nghe lén khi Tỷ kheo tụng giới; vì nghe lén là hành vi bất chính.
Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng thực thụ nên
không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính yếu của Đại tăng như
các việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v... Nếu người chưa thọ Cụ túc mà khoác
áo cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỷ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố
tát, tự tứ thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về
sau không được thọ Đại giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành
tiền phương tiên (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng
chúng: "Người chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?". Và khi được xác nhận
trong Tăng không có người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến
hành các pháp yết ma. Như vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có
dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ túc xem giới pháp của Tỷ kheo?
Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc
Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự,
sau đó, một Tỷ kheo phạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo. Các
Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: "Từ nay trở đi không nên
cho bạch y và Sa di tham dự bố tát" (Ngũ phần luật, Đ.22, tr.123a).
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di
không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới. Nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu
học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: "Nhược nhạo quảng lãm, tự
đương duyệt Luật tạng toàn thư" (Nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem
toàn bộ Luật tạng). Và một đoạn khác trong Luật Sa di, Ngài khuyến
khích: "Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự tri chi" (Tuy là việc của Tỷ
kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan
điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận
như trường hợp ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có
người đã luận giải, nêu ra ba lý do:
1- Nếu Sa di xem trước giới luật Tỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều,
khó khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.
2- Nếu Sa di biết giới luật Tỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới
rồi mà không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh tâm kiêu
mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.
3- Khi đã biết trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn
thiêng liêng, tâm chí thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn
không ổn. Vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là
những kẻ bạc nhược hết hay sao mà "thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối
thất?"; thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại quá kém phẩm chất,
chuyên bới lông tìm vết, hễ "thấy Tỷ kheo phạm giới liền sanh tâm khinh
rẻ?"; thứ ba, vấn đề giới tử đắc giới thể là do ba việc: "Giới sư thanh
tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới thể chí thành", chứ đâu phải nhờ
giới tử không biết trước giới luật mà đắc giới thể?
Quả thật lối lập luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giới pháp và
giới luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833) định nghĩa người xuất
gia: "Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao rộng,
hình dáng và tâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm rạng rỡ dòng
thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi". Và các bậc cổ
đức cũng đã nói: "Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà năng
kham thủ?" (Trên đời này, nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải
thoát, thì làm sao đảm đương nổi "sứ mệnh xuất trần"?).
Vả lại Luật dạy, vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người:
về hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về
tâm hồn thì phải là người hảo tâm xuất gia, có dũng khí kiên cường bất
thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca dao ta có câu
"Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu".
Đúng ra, vì nhờ xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của
giới là "phòng phi chỉ ác", là "thuyền bè đưa người qua bể khổ", nên họ
mới sinh tâm khát ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã
hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỷ kheo vẫn tuân thủ
nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm tâm cung kính, chứ làm sao dám khinh
thường? Mặt khác, các Tỷ kheo khi đã hiểu rằng mọi người đều biết những
giới luật mình đã lãnh thọ, thì càng phải nỗ lực hộ trì không dám buông
lung, vì sợ thiên hạ phê bình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các nước Nam
phương như Campuchia, Thái Lan..., mọi Phật tử đều biết giới luật của
Tỷ kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường
hay chỉ trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều
kiện và tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở
thành phố ta có những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn
thương Phật pháp. Nếu Phật tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và
tìm cách ngăn chặn hành vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn
sự trong sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các
thầy Tỷ kheo, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy
thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế. Vì trong các
giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn
cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỷ kheo hết. Đành rằng chỉ có các Tỷ kheo
thọ 250 giới, và các Tỷ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ
giới pháp của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải
tuân thủ. Đó là nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu
với thiện chí hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ
kheo mà không vi phạm bất cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội đoàn nào đó gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội
quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội
đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi
khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều
lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Đó là một việc làm hợp lý và có tinh
thần khoa học.
Vả lại, Phật giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền, là đạo
trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp nhận sự cuồng tín.
Chính Đức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền của Bà La Môn cho rằng chỉ
có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc Thánh kinh Vệ Đà. Phật còn dạy:
"Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta". Và một chỗ khác lại nói:
"Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra, chứ không phải
bàn tay nắm lại". Hoặc nói: "Phật pháp là thiết thực hiện tại, vượt
ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ". Chung quy
cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng và
tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới
Tỷ kheo; như kinh Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo không được buôn bán đổi
chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây, không
được coi ngày, xem tướng v.v... Như vậy toàn là giới cả, chứ có gì khác
đâu. Vả lại ngày nay, kinh điển, giới luật được in ấn, phát hành rộng
rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho
được.
Hơn nữa, giá như ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống
hợp với đạo lý làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị,
rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì
thử hỏi hành vi ấy là tôn kính hay bất kính đối với tổ tiên?
Ai cũng biết rằng tính chất của giới luật là "thanh lương", nghĩa là mát
mẻ, là "biệt biệt giải thoát", tức là giữ được điều nào giải thoát được
điều ấy, thế mà bảo rằng "người nào xem trước giới luật Tỷ kheo thì
phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch" thì thực không còn biết nói thế nào
nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ phần là một tác phẩm văn hóa độc
hại hay sao? Nói kiểu ấy là chỉ nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và
lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội
sẽ tốt đẹp hơn nhiều; và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta
phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Đành rằng công đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân
trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách
tuyệt đối, không được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta cũng không thể
chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Đức Phật dạy: "Khi
nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù nó
là Thánh điển".
Thử hỏi, từ khi Đức Đạo sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến
Tổ Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có
điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán (1611-1685) xuất hiện sau
Tổ Châu Hoằng gần cả thế kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người
hoang mang, thì làm sao chúng ta không bức xúc cho được?
HT. Thích Phước Sơn