1. Thân thế, dòng dõi
Hòa Thượng Thích Trí Minh, pháp
hiệu là Huệ Ðịnh, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy
do Bổn Sư của ngài đặt. Riêng pháp hiệu Trí
Minh là Pháp Sư thượng Trí hạ Tịnh, vốn là
hòa thượng của chùa Vạn Ðức ban cho. Thế
danh của Hòa Thượng là Ðặng Lợi, tự
Ngọc Chấn, sinh năm 1921 tại xã Phước Bình,
huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Ðịnh.
Phụ thân của Hòa Thượng là cụ
Ðặng Hiển, tự Quang Minh, lúc trẻ là xã
trưởng, một chức vụ cao cấp trong làng.
Ðến lúc về già, được các hương chức
và nhân dân trong vùng suy tôn lên chức Thủ Sắc. Theo
tục lệ miền Trung, người được suy
tôn lên chức vị Thủ Sắc phải là người
có đức hạnh, cao niên, và gia tộc phải thuộc
thành phần nghiêm chính và liêm khiết, để đại
diện dân chúng phụng thờ các vị Thần, Thánh trong
lành, danh từ địa phương gọi là các “sắc
thần”, cho nên chức vụ này gọi là Thủ Sắc.
Mẫu thân Hòa Thượng nhũ danh
là Nguyễn thị Hà, tự Trinh Thuận, cũng là
một bậc nữ lưu đoan chính. Hòa Thượng là
con thứ bảy trong gia đình (Ngài là con trai út, sau Ngài là
người em gái út).
2. Cuộc đời
Cuộc đời tu hành của Hòa
Thượng có thể tóm lược thành các giai
đoạn sau đây:
a. Xuất gia
Năm 18 tuổi, Hòa Thượng
xuất gia tại chùa Sắc Tứ Long Khánh, thị xã Quy
Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Bổn Sư của Hòa
Thượng là Ðại Lão Hòa Thượng thượng
Chánh hạ Nhơn, bạn thân của Tổ Phước
Huệ chùa Thập Tháp, thành Bình Ðịnh, thầy của
Hoàng Thái Hậu - mẹ hoàng đế Bảo Ðại. Khi
ở ngôi già-lam này, Hòa Thượng làm thị giả cho
Bổn Sư của ngài suốt ba năm và học giáo lý
Phật pháp. Trong thời gian này, ngoài phần học giáo lý
Phật pháp và hai thời khóa tụng hằng ngày, Ngài
chỉ học thuộc lòng bốn quyển Luật
Trường Hàng, chờ đợi có lúc tổ chức
Giới Ðàn khóa luật để thọ giới Sa Di.
Năm 1942, tại chùa Hưng Khánh,
phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, có mở
Giới Ðàn, Hòa Thượng đã thọ giới Sa Di
tại đây.
b. Thời
kỳ tu học Phật pháp
Thời kỳ này bắt đầu
từ năm 1942 đến 1950. Ròng rã suốt 9 năm, Hòa
Thượng đã trải qua 5 ngôi Phật Học
Viện, suốt từ giải đất miền Trung
“đất cày lên sỏi đá”, vào đến tận
miền Nam “ruộng đồng thẳng cánh cò bay”. Với
tinh thần tinh tấn dõng mãnh, Hòa Thượng đã
quyết lòng tiến bước trên con đường
học đạo.
Năm 1946, Hòa Thượng về tu
học tại Phật Học Viện Phật Quang,
quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, cũng tại nơi
này, Hòa Thượng cùng cố viện trưởng
viện Hóa Ðạo là Thích Thiện Hoa và một số
chư Tăng khác đến chùa Kim Huê, tỉnh Sa Ðéc,
đảnh lễ cung thỉnh Ðại Lão Hòa Thượng
Viện Chủ Kim Huê khai đàn thí giới. Cố Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa và Ngài thọ giới Tỳ
Kheo và Bồ Tát tại đây. Những ngôi Phật học
viện ngài đã trải qua trong thời kỳ này là:
- Lưỡng Xuyên Phật Học
Viện thuộc tỉnh Trà Vinh.
- Phật Quang học viện thuộc
quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ.
- Liên Hải Phật Học Viện,
thuộc xã Bình Trị Ðông, huyện Bình Chánh, tỉnh Gia
Ðịnh (nay là chùa Vạn Phước).
- Báo Quốc Phật Học Viện,
tỉnh Thừa Thiên.
- Từ Ðàm Phật Học Viện,
tỉnh Thừa Thiên.
c. Hành
Phật sự
Năm 1950, cả 3 Phật học
viện Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang (tức chùa
Ấn Quang ngày nay) hợp nhất tại chùa Sùng Ðức.
Hòa Thượng về đây để cùng làm công tác
Phật sự với chư Tăng, gồm có cố Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa, giám đốc Phật
Học Viện Ấn Quang, Thượng Tọa Huyền
Dung, Thượng Tọa Quảng Minh.
d. Thời
gian chuyên tu
Bắt đầu từ năm 1952 cho
đến nay, Hòa Thượng đã hoàn toàn dứt bặt
mọi ngoại duyên, cam nhận cuộc đời ẩn
tích mai danh, chuyên tu tịnh nghiệp. Suốt gần 42
năm, tấm áo cà sa đã trải qua không biết bao nhiêu
nỗi thăng trầm gian khổ của con
đường tu hành.
Hòa Thượng đã rày đây mai
đó, khi thì vào thâm sơn cùng cốc, lúc lại về
chốn làng mạc hoang vắng tiêu sơ. Cuộc
đời tu hành phiêu bạt, nối tiếp suốt giòng
thời gian âm thầm lặng lẽ. Ngài khước
từ mọi danh vọng, chức vị mà lẽ ra,
với cương vị một cao tăng đạo pháp,
đức hạnh kiêm toàn như Ngài thừa sức
nắm giữ.
Hòa Thượng chỉ tha thiết
với hoài bão duy nhất là đem tất cả tâm lực
hướng về đấng Từ Phụ A Di Ðà, cầu
mong khi xả báo thân, Ngài sẽ được vãng sanh
về nước An Dưỡng. Hòa Thượng muốn
chứng minh cho mọi người thấy sự mầu
nhiệm nơi lời hạnh nguyện bất diệt
của đức Từ Phụ A Di Ðà, đồng
thời, cũng muốn nêu tấm gương trong
sạch, thanh cao của một vị Bồ Tát. Với lòng
từ bi vô lượng, Ngài muốn tất cả
đệ tử của Ngài, cũng như Phật tử
gần xa, noi theo tấm gương tu hành, bất chấp
mọi gian lao, không nài bao thử thách của kẻ đã
quyết chí đi theo con đường giải thoát
của chư Phật.
Ðức hạnh cao quý của Hòa
Thượng, bất cứ đồ đệ hay
Phật tử nào được phước duyên kề
cận đều không thể nào phủ nhận Ngài là
vị chân tu, đã sống một cuộc đời
hết sức thanh bần, giản dị: Một tịnh
thất đơn sơ, chỉ với đôi mái lá chan hòa
mưa nắng, bốn bức vách ghép bằng những thân
cây còn nguyên dạng, thật thô sơ. Manh áo hoại sắc
bạc màu in dấu ấn thời gian qua những mảnh
vá trên đôi vai mỗi ngày một còng xuống, theo tuổi
hạc tháng năm chồng chất. Lòng khát khao giải
thoát với niềm tin sâu dày đối với Phật
pháp, thể hiện một cách sâu sắc qua lời cầu
xin Tam Bảo chứng minh gia hộ, khi Ngài tự thuật
cuộc đời mình:
“Nam mô Thập Phương
Thường Trụ Tam Bảo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Từ
Phụ A Di Ðà Phật.
Cúi xin mười phương Tam
Bảo, Bổn Sư Thích Ca, Từ Phụ A Di Ðà Phật
bất xả từ bi, chứng minh gia hộ con: Bồ Tát
giới tỳ kheo Thích Trí Minh, thừa từ lực
của Tam Bảo và Bổn Sư Thích Ca, Từ Phụ A Di
Ðà Phật, tự thuật sơ lược cuộc
đời con. Những lời tự thuật này chỉ
xin tóm lược một phần trong trăm phần
khoảng đời từ thuở còn ở thế tục
cho đến nay đã quá thất tuần”.
Ý nguyện tha thiết được
vãng sanh của Ngài đã thể hiện rõ ràng khi giải
thích về Pháp danh của mình:
“Pháp hiệu của tôi chính là Huệ
Ðịnh, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy là do Bổn Sư
của tôi ban cho, còn pháp hiệu Trí Minh là do Pháp Sư
thượng Trí hạ Tịnh ban cho. Vì khi tùng học
với Pháp Sư tại Phật học viện Phật
Quang (Cần Thơ), tôi nhận thấy Pháp Sư là một
bậc tài đức kiêm toàn, nên tôi cầu Ngài làm Y Chỉ
Sư cho tôi, nhưng Ngài từ khước và chỉ
nguyện kết làm huynh đệ, trong lúc sống
đồng tu hành, đồng làm Phật sự, khi xả
báo thân này, đồng vãng sanh Cực Lạc thế
giới, nên Ngài tặng tôi pháp hiệu Trí Minh”.
Ngoài tấm lòng tha thiết, ý nguyện
quyết tâm trực chỉ Tây Phương, Hòa
Thượng còn là một vị tu hành gìn giữ giới
hạnh thật nghiêm túc, luôn thể hiện một phong
thái từ ái, khiêm nhường. Có thể nói, suốt
thời gian ngày cũng như đêm, Ngài không sót một
thời khóa tu hành nào, nếu không muốn nói, Ngài tận
dụng hết cả thời gian của mình để
chuyên tu Tịnh nghiệp.
Trong lúc hoàn cảnh Ngài thật
đơn độc, sức khỏe ở vào giai
đoạn suy thoái trầm trọng. Tu cho mình, Ngài không bao
giờ quên tất cả chúng sanh đang chìm đắm
trong biển trầm luân sanh tử, nhất là vào thời
điểm Phật pháp đang ở vào giai đoạn
mạt pháp, Hòa Thượng càng quan tâm sâu sắc, lo
lắng tận cùng cho cơ nghiệp Phật giáo, dù Hòa
Thượng không trực tiếp tham gia các hoạt
động của giáo hội.
Mục tiêu chính yếu của Ngài là xây
dựng những nhân tố hoàn thiện, hoàn lương
trong giới đệ tử của Ngài, cũng như
tất cả Phật tử hai chúng xuất gia và tại
gia. Hòa Thượng nhận thấy tình trạng suy thoát
của Phật giáo đồ đang ngày càng nguy ngập,
chánh pháp của Như Lai ngày càng không được
xiển dương đúng mức, nhất là Giới Luật
của Phật, một nền tảng duy nhất và căn
bản cho những người muốn thực hiện
sự giải thoát chân chính, đã không được
giới Phật tử ngày nay xem trọng.
Nỗi lo
âu trước hiểm họa diệt vong của nhân
loại cùng sự suy tàn của Phật giáo đã khiến
Hòa Thượng quên đi tuổi già mắt mờ, tai
yếu, thân thể đau ốm triền miên; Ngài đã
dồn hết tâm lực để phiên dịch bộ sách
“Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” do Pháp
Sư Thích Diễn Bồi, một cao tăng của Trung
Quốc thuyết giảng. Suốt thời gian phiên
dịch, với bao công trình gian khổ, bao thử thách cam
go, Ngài đã chiến thắng tuổi già, chiến
thắng ma bệnh, vượt mọi thử thách,
để hoàn thành bộ sách trong hoàn cảnh hết
sức khó khăn nghiệt ngã: chỗ ở không ổn
định, không người hầu cận chăm sóc chu
đáo.
Chúng ta hãy nghe lời tâm sự chân thành,
đầy xúc cảm của Thầy khi nói về thời
gian chuyên tu của mình, với một tinh thần hết
sức khiêm nhường khả kính:
“Nói đến chuyên tu, nơi đây
lòng tôi hổ thẹn muôn phần. Tại sao thế? Vì ý
nghĩa chuyên tu là bặt dứt muôn duyên, và có người
hỗ trợ để có thể nhất tâm tu niệm cho
được thành tựu một pháp môn nào. Chẳng
hạn như pháp môn Thiền hay Niệm Phật. Nhưng
ngược lại, tôi luôn bị muôn duyên ràng buộc, làm
cho thân tâm không an. Vì trong thời gian cộng tác với
chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, để làm
các Phật sự nói trên, báo thân của tôi mang nhiều
tật bệnh, nên đối với các Phật sự tôi
hoàn toàn bất lực. Lòng quá buồn đau, tôi tìm chỗ
ẩn tu, cầu sớm được xả bỏ báo
thân để về quê hương Cực Lạc. Ý
muốn dù như thế, nhưng sự thực hành là
cả một vấn đề trăm ngàn phần khó
khăn. Vì hoàn cảnh tôi cô thân đơn độc, linh
đinh rày đây mai đó, lại không người giúp
đỡ.
Thế nên, trong suốt thời gian
từ năm 1952 đến năm 1994 là 42 năm, trong
thời gian ấy, dù mang danh Viện Chủ ngôi già-lam Mai
Sơn, xã Bình Trị Ðông, huyện Bình Chánh, nhưng sự
thật là việc chùa tôi hoàn toàn không biết đến, vì
mải rày đây mai đó… Thân tôi chẳng khác nào chiếc
lục bình lênh đênh trên sông lớn… nhất là trong lúc
dịch bộ kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới Giảng
Ký” này. Về nội chướng thì thân bệnh khổ
triền miên, đôi mắt lại bị cườm, nên
không thấy rõ. Còn về ngoại chướng thì thôi không
thể nói… Tuy nhiên, tôi rất cảm động hồng ân
Tam Bảo đã minh gia, nên bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát
Giới Bổn Giảng Ký đã được thành
tựu. Và dù chịu nhiều gian truân khổ sở,
nhưng bản thân tôi vẫn cố vững bước
trên con đường giải thoát và tiếp tục
cuộc hành trình…”
Với những dòng sơ lược
về tiểu sử của Hòa Thượng, người
viết bài này chỉ là một đệ tử tại gia
của Thầy. Nhưng với tấm lòng ngưỡng
mộ tấm gương tu hành cao quý, cũng như lòng
tận tụy hy sinh vì đạo pháp của Thầy, chúng
tôi ước mong những lời dịch thuật vàng
ngọc của Hòa Thượng qua bộ kinh “Phạm Võng
Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” sẽ được
sự tiếp nhận trong tinh thần tôn kính, tha thiết
và ân cần của những Phật tử hữu duyên
với Phật pháp, hữu duyên với Thầy, một lòng
chuyên nhất, đem tất cả tâm tư, chí nguyện
hướng về con đường giải thoát chân
chính.
Chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện
hồng ân Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật
tử, những vị nhiệt tâm vì đạo pháp, có
đầy đủ thiện duyên lãnh hội và tuân hành
triệt để những lời pháp vô giá, để
không phụ lòng từ bi của chư Phật, của Pháp
Sư Diễn Bồi, người trực tiếp
giảng các giới của bộ kinh này, và nhất là
đối với Hòa Thượng Thích Trí Minh, vị
thầy tôn kính, đã dầy công phiên dịch từ Hán
văn sang Việt văn, bằng những lời lẽ
đầy cố gắng, để phù hợp với trình
độ của mọi giới Phật tử.
Lẽ tất nhiên, chúng tôi nghĩ
rằng bản dịch này không thể nào đáp ứng yêu
cầu của mọi tầng lớp Phật tử
với nhiều trình độ khác nhau: những
người bình dân sở học còn hạn chế, cũng
như đối với quý học giả kiến thức
uyên thâm, văn từ điêu luyện. Dịch giả đã
cố gắng hết sức mình trong công việc phiên
dịch này, một công trình đòi hỏi nhiều thời
gian và công sức, mà với điều kiện sức
khỏe yếu kém, dịch giả khó lòng khắc phục.
Ngoài ra, công việc phiên dịch nếu
muốn hoàn hảo, đòi hỏi dịch giả phải
là người có trình độ chuyên môn thật cao,
kiến thức về ngôn ngữ thật rộng. Ðôi lúc
cần phải có điều kiện tìm hiểu sâu về
đặc điểm của nền văn hóa các dân
tộc, nơi nguyên tác được hình thành, cũng
như nơi sử dụng ngôn ngữ mà dịch giả
đang phiên dịch. Như thế mới có thể
chuyển dịch toàn bộ tư tưởng của nguyên
tác, đồng thời vẫn tạo cho người
đọc cảm giác gần gũi, mà qua bản dịch,
độc giả không còn cảm thấy ranh giới
giữa các ngôn ngữ. Nói như vậy để mong
tất cả quý độc giả, cùng chư Phật
tử cảm thông cho tấm lòng Hòa Thượng. Ngài
chỉ có một hoài bão duy nhất là muốn chấn
hưng lại cơ đồ Phật giáo đang bị
lung lay tận gốc, trước tình trạng giới
luật không được các tín đồ Phật giáo tôn
trọng và tuân hành nghiêm túc như hiện nay.
Ngài muốn cho bánh xe pháp lưu
chuyển đến mọi nơi; dòng pháp nhũ của
Phật rót vào tận tâm hồn những chúng sanh còn mải
chìm đắm trong đêm dài tăm tối, dẫy
đầy giết chóc, tràn ngập đau thương.
Chung quy cũng là vì ánh đạo vàng của Phật không
còn được rạng ngời trong lòng chúng sanh hiện
đại, những con người chỉ biết mải
miết đeo đuổi mộng mưu bá đồ vương,
lao mình vào biển lửa chiến tranh, để mong tìm
cầu hạnh phúc trong vật chất xa hoa hoặc bóng
hình lợi danh hư ảo.
Bằng tất cả sức lực
tồn tại trong tấm thân già nua mà phút vô thường
không bao giờ hẹn trước, Hòa Thượng đã
dồn hết vào công trình dịch thuật này.Thầy
đã hy sinh quá nhiều cho đạo pháp, tận lực vì
chúng sinh, nỗ lực kết lại chiếc bè pháp
để đưa rước khách hữu duyên. Trong
những tháng năm còn lại của cuộc đời,
Ngài vẫn không nguôi lòng từ mẫn đối với
chúng ta, luôn giúp toàn thể chúng sinh cơ hội trở
về quê hương vĩnh cửu. Ðó chính là nước
Cực Lạc thanh lương, giải thoát của
đức Từ Phụ A Di Ðà.
Thành tâm cảm thán:
THƯỢNG
đức ngàn thu rực ánh vàng,
TỌA Thiền,
niệm Phật hướng Tây Bang,
TRÍ lành tận lực
phiên kinh báu,
MINH tuệ dốc
lòng độ chúng sanh,
THANH tịnh tâm thành
dương Phật pháp.
TU hành chí quyết
đáo Tây Phương.
TỊNH am vùi lấp
mùi chung đỉnh
NGHIỆP đạo
hoằng khai rạng Thích Tràng.
Mùa Thu Giáp Tuất, 1994
Ðệ tử cẩn bút
Liên Hoa
Phàm lệ của dịch giả:
Lệ Ngôn
1. “Phạm Võng Bồ Tát Giới
Bổn Giảng Ký”: Ðề mục bộ kinh này có chín
chữ. Bảy chữ trước ở đây xin gác qua,
vì trong phần giải thích đề mục kinh, và
đề mục phẩm có nói rõ, nên ở đây chỉ
nói qua hai chữ “giảng ký”. Giảng là do Pháp Sư
Diễn Bồi y trong Bồ Tát Giới Bổn, tức là
năm mươi tám giới (58) gồm có 10 giới
trọng (10) và bốn mươi tám giới khinh (48) (Ở
đây chỉ nói qua 58 giới, là thuộc về phần
giới tướng, còn phần trước và sau, không nói,
vì không cần).
Năm mươi tám giới (58) này
chính là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã nghe
đức Lô Xá Na giảng ở thế giới Liên Hoa Ðài
Tạng, Khi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hạ sanh
nơi cõi Diêm Phù Ðề này đã tụng lại. 10 giới
trọng, 48 giới khinh này dù đã từ Phạn văn
phiên dịch thành Hán Văn, nhưng không dễ gì hiểu
cho tường tận được. Nên Pháp Sư y trong
Tam Tạng thánh giáo và chỗ chánh tri chánh kiến của
mình tu học mà giảng giải kinh văn một cách rành
rẽ, rõ ràng, để cho hai chúng Phật tử xuất
gia cũng như tại gia, những vị đã thọ
giới Bồ Tát, hiểu rõ mà hành trì. Sau khi giảng, có
đệ tử của Pháp Sư ghi lại, nên mệnh
danh là Giảng Ký.
2. Bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát
Giới Bổn Giảng Ký này gồm có hai phần:
- Kinh văn
- Lời giảng
Trong khi tôi phiên dịch từ Hán văn
ra Việt văn thì chỉ phiên dịch phần của Pháp
Sư giảng. Còn phần kinh văn thì hoàn toàn y theo
bản giới bổn Việt văn của Hòa
Thượng Vạn Ðức (Pháp Sư Thích Trí Tịnh)
đã phiên dịch. Tôi không phiên dịch lại. Tuy nhiên
cũng có những chỗ cần thay đổi vì muốn
cho phù hợp với phần giảng giải của Pháp
Sư. Những chỗ ấy có mở và đóng ngoặc
đơn (...); xin chư thượng đức cũng
như quý Phật tử tại gia thọ Bồ Tát
giới, khi đọc thì rõ.
Về lý do tôi không dịch lại
phần kinh văn, có hai nguyên nhân:
- Bản dịch của Hòa
Thượng Vạn Ðức đã lưu hành từ lâu. Trong
giới Phật tử thọ Bồ Tát Giới, xuất
gia cũng như tại gia, thọ trì, tụng kinh khi làm
lễ Bố Tát trong mỗi nửa tháng đã thuần thục.
Vì thế, tôi phiên dịch lại cũng thành thừa.
- Bản dịch của Hòa
Thượng chẳng những lưu hành từ lâu, lại
được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt công
nhận là bản dịch xứng đáng và có giá trị.
Ðiều ấy như trong quyển kinh Phạm Võng
lược giảng nghi thức tụng giới Bồ Tát
thuyết minh như sau:
“Trong đây nói ngài Cưu Ma La Thập
dịch từ văn Phạn ra văn Hán, hồi
đời nhà Dao Tần. Trong mục lục của
Tạng thì để rõ là có những vị nhuận bút,
vị nào chép văn, vị nào dịch nghĩa. Như
vậy có nghĩa là kinh này chắc chắn là có bổn chánh
bằng văn Phạn, đã kết tập từ xưa,
truyền qua Tàu, rồi ngài Cưu Ma La Thập mới
dịch ra văn Hán. Và từ nơi quyển chánh văn
chữ Hán, tôi dịch ra quyển chữ Việt đây.
Trước khi tôi dịch ra bổn
này, ở Việt Nam, cũng có vài vị Thượng
Tọa đã dịch. Nhưng các vị trong Giáo Hội
Tăng Già Nam Việt thấy rằng cần phải có
bản dịch chỉnh đốn hơn để cho
chư Tăng cũng như các vị cư sĩ thọ
giới Bồ Tát có bổn để tụng, để
bố-tát, cho nên yêu cầu tôi dịch; thành ra mới có
bổn này. Lúc đó, Hòa Thượng Huệ Quang đang làm
Pháp Chủ trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Sau khi phiên dịch xong, tôi đệ
trình lên giáo hội, và giáo hội đã triệu tập
một ban để kiểm duyệt. Sau đó, giáo hội
đã nhận định bản dịch của tôi có
phần giá trị xứng đáng, có thể lưu hành, giúp
cho hàng tăng giới cũng như tại gia thọ
Bồ Tát Giới, có thể thọ trì và tụng niệm”.
Vì lẽ đó, tôi nói rằng bản
dịch này do Hòa Thượng Huệ Quang, Pháp Chủ Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt, chứng minh.
3. Khi đọc những bộ kinh,
luật, luận; nếu co phần chú giải, phải luôn
nắm vững phần chánh văn mới dễ lãnh
hội. Dù phần giải thích ngắn hay dài đến
đâu, cũng chỉ nhằm vào chánh văn mà giải
thích, không bao giờ ra ngoài ý chánh văn. Ðọc bộ
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này
cũng vậy, quý đại sĩ phải luôn ghi nhớ
chánh văn của giới bổn.
Sự giải thích kinh văn bộ
Giảng Ký này có hai cách:
- Trước nêu kinh văn rồi sau
mới giải thích. Phần này rất dễ phân biệt
lời giải thích với kinh văn.
- Ðem kinh văn xen trong phần giải
thích, để làm sáng tỏ phần Phật dạy.
Lối này hơi khó hiểu, và quý đại sĩ nào không
đọc bổn Hán văn, đối với lời
giải thích khó mà phân biệt. Vì thế, khi dịch
phần giải thích lối này, với những chữ hay
những câu thuộc phần kinh văn đều có mở
và đóng ngoặc kép “...” để quý đại sĩ
phân biệt được kinh văn, không phải lời
chú giải.
4. Về sự xếp đặt kinh
văn của bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới
Bổn Giảng Ký này, trước tiên nêu đề mục
của mỗi giới và kinh văn, rồi sau mới
giải thích.
Khi giải thích cũng thế, nghĩa
là trước giải thích đề mục, sau mới
giải thích kinh văn. Về phần giải thích
đề mục của mỗi giới không nhứt
định. Có giới giảng rất rộng từ 2
đến 3 trang, có giới giảng ít hơn. Nên biết
dù nhiều hay ít, các phần giảng này cũng chỉ
ở trong phạm vi đề mục, không quan hệ gì
đến kinh văn.
Xong phần đề mục của
mỗi giới, đến phần giảng kinh văn, các
phần này luôn được mở đầu bằng câu
“Ðức Phật đối với đại chúng dạy
rằng: “...” Khi đọc cứ lưu ý như vậy,
thì khỏi có sự lộn xộn giữa đề
mục và kinh văn.
5. Bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát
Giới Bổn Giảng Ký này chỉ bắt đầu
giải thích từ câu: “Nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật
tùng sơ hiện Liên Hoa Ðài Tạng Thế Giới...”
(Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc
sơ khởi, hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Ðài
Tạng), chứ không y theo trong bộ Giới Bổn
tụng giới mỗi nửa tháng, trước tiên
bắt đầu từ câu: “Nhĩ thời Lô Xá Na Phật
vị thử đại chúng, lược khai bá thiên
hằng hà sa bất khả thuyết pháp môn trung tâm
địa như mao đầu hử”. Sự việc
ấy trong phần giải thích có nói rõ nguyên nhân.
Lời Pháp
Sư Diễn Bồi nhân dịp khai giảng kinh Phạm
Võng
Kính thưa quý vị Pháp sư!
Quý ni sư!
Quý cư sĩ và thiện tín!
Hôm nay, nhằm tháng Giêng, Phật
lịch 2512, tôi ở đây vì quý vị giảng kinh Kim
Cương. Ðáng lẽ quyển kinh đã được
giảng xong sớm, nhưng vì Bồ Ðề Lan Nhã là
đạo tràng hoằng hóa, quý vị cao tăng
thường đến rất đông để thỉnh
cầu khai thị. Vì muốn các vị không phải nhọc
công tham phỏng, hành cước các nơi, mà vẫn có
thể thâu hoạch được những lời chỉ
giáo hữu ích của quý thiện tri thức, cho nên tôi
phải đình giảng kinh Kim Cương một cách
bất ngờ, mãi đến kỳ A Di Ðà Phật thất
năm rồi, mới kết thúc được toàn
bộ. Thế là trước sau, khóa giảng kéo dài gần
trọn hai năm.
Giảng kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La
Mật xong, bổn ý của tôi là định tiếp
tục giảng phẩm pHổ Hiền Hạnh Nguyện
trong kinh Hoa Nghiêm. Nhưng vì có nhiều vị muốn nghe
kinh Phạm Võng, để đối với Bồ Tát
giới có chỗ liễu giải rõ ràng. Vì thế, Phổ
Hiền Hạnh Nguyện phẩm phải bị đình
lại, và chỉ khai giảng vào chiều thứ Bảy
mỗi tuần tại Bát Nhã giảng đường.
Còn nơi Bồ Ðề Lan Nhã này, tôi
tuyên thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Ðịa Phẩm
để thỏa mãn ý nguyện của quý vị. Và do
sự giảng kinh Phạm Võng Bồ Tát Tâm Ðịa này,
sẽ kích thích quý vị phát tâm Bồ Ðề, thực hành
Bồ Tát đạo, đồng hướng về
quả tối cao vô thượng Bồ Ðề.
Ðồng thời, lần giảng kinh
Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn này, lại còn có
một điểm thâm ý đặc biệt bên trong. Ðó là
đối với kinh Kim Cang đã giảng trước
đây, tư tưởng lý luận của kinh ấy
thuộc về lý Không. Nếu không hiểu được
Không lý thì quả là nguy hiểm vô cùng.
Tổ Long Thọ có dạy: “Tín
giới vô cơ, vọng tưởng ức thủ
nhất không, thị vị tà không” - (người tu hành lòng
tin đối với giới pháp không có nền tảng, vọng
tưởng ức đoán, chấp thủ một khía
cạnh Không, là thiên không, như vậy chính là tà không).
Nên biết lý chân không Bát Nhã là tức
không, tức giả, tức trung. Nếu thiên chấp
một bên không, ấy thuộc về ngoan không, thì nguy
hiểm vô cùng.
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh
Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù
rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ
ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
Do đó, giới hạnh của Phật tử phải
nghiêm trì, không nên xem thường và cũng chính là để
giúp trừ khử cái tệ hại “vọng tưởng
ức đoán, chấp thủ một bên không” như Tổ
đã dạy.
Cho nên quý vị nào nghe qua kinh Kim
Cương, lại nghe tiếp kinh Phạm Võng Bồ Tát
Giới Bổn này, tôi tin chắc rằng quý vị ấy
sẽ được sự thọ dụng vĩ
đại!
Chương I:
Tiền đề khái thuyết (những điều khái
quát đầu tiên)
A. Giới
học vi Phật pháp đích căn bổn (Giới học là
căn bản trọng yếu của Phật pháp).
Giới luật
học của Phật giáo trong hai phái Nam, Bắc truyền
có những điểm bất đồng rõ rệt:
- Về Phật giáo Nam
Truyền chỉ có giới học của Thanh Văn, hoàn
toàn không có giới học của Bồ Tát, đối
với giới này, thất chúng Phật tử mỗi chúng
đều thọ riêng.
- Trái lại, về Phật giáo
Bắc Truyền chẳng những có giới học
của Thanh Văn, lại có giới học của Bồ
Tát, trong đó Tam Tụ Tịnh Giới của giới
Bồ Tát thì thất chúng Phật tử đều chung
thọ.
Phật giáo Bắc tông hay Nam
tông đối với giới luật học, dù có
điểm bất đồng như vậy, nhưng
đều nhận chân giới học là căn bổn
của Phật pháp. Cho nên bất luận Phật giáo
đồ Nam Tông hay Bắc Tông, đối với giới
pháp mình đã bẩm thọ, hoàn toàn không được xem
thường. Vì sao vậy? Vì học Phật, cần
lấy Giới Luật làm cơ sở đầu tiên.
Một hành giả có chí hướng cầu Phật pháp,
nếu không nghiêm trì tánh giới pháp Phật đã chế
lập một cách hoàn chỉnh, thì người ấy
vẫn y nhiên đứng ở ngoài cửa mà chưa
được vào trong nhà, cũng không được lên
chốn lầu cao của Phật Pháp.
Thế nên căn cứ vào
Tiểu Thừa mà thuyết minh: “Giới thị chánh
thuận giải thoát chi bổn”, nghĩa là: Giới pháp là
căn bản chính, thuận theo con đường giải
thoát. Căn cứ vào Ðại Thừa mà thuyết minh:
“Giới vi vô thượng Bồ Ðề chi bổn”, có
nghĩa: giới là cội gốc của quả Vô
Thượng Bồ Ðề. Vì lý do ấy, lẽ đương
nhiên, muốn được chân chính giải thoát và
chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ
Ðề, vẫn còn phải nương nơi trí tuệ vô
lậu, mà cơ sở tối sơ, phải nói là Giới
Học.
Tại sao vậy? Bởi
nhờ sự hạn chế của Giới Học,
khiến cho tâm niệm của hành giả tuyệt
đối không được dong ruổi theo ngoại cảnh,
nhờ đó mà nội tâm dần dần được an
tịnh. Bấy giờ, từ trong tâm cảnh an
định, trí huệ vô lậu sẽ được khai
phát. Sau đó, lại phải vận dụng huệ
kiếm Bát Nhã chặt đứt dây vô minh từ vô thỉ,
mới được lên ngồi giường giải
thoát, mới được an tọa trên tòa Bồ Ðề.
Nên kinh dạy: “Nhơn Giới
sanh Ðịnh, tùng Ðịnh phát Huệ”, nghĩa là: nhờ
giữ Giới mà được Ðịnh tâm, từ
định tâm khai phát trí huệ. Ðích thực là một
tuần tự bất di, bất dịch, không ai có thể
vượt bực được.
Do đó, có thể thấy rõ Trí Huệ
ở tầng tối cao, cố nhiên là trọng yếu, và
Giới Luật tuy ở tầng nền tảng thấp
nhất, nhưng lại càng trọng yếu hơn. Nếu
như Giới Luật ở tầng nền tảng không
được củng cố thì Thiền Ðịnh ở
tầng giữa, Trí Huệ ở tầng cao đều
không thể xuất hiện trong tâm của hành giả.
Giờ đây, tôi (Pháp Sư giảng
giới) xin thỉnh vấn một điều: Mục
đích chính của quý vị (chỉ chung giới Phật
tử xuất gia và tại gia) học Phật, có phải
muốn được giải thoát không?
Nếu như thừa nhận là
phải, thì quý vị đối với Giới Học
cần phải giữ gìn nghiêm cẩn, nhiên hậu mới
có thể được giải thoát theo đúng chỗ quý
vị mong cầu.
Có phải mục đích chính của
quý vị học Phật là muốn chứng quả vị
Bồ Ðề vô thượng không?
Quả như quý vị thừa
nhận là phải, thì đối với Giới Học,
quý vị cần phải thủ trì nghiêm cẩn, nhiên
hậu, mới có thể được chứng quả Vô
Thượng Bồ Ðề, theo chỗ mong muốn của
mình.
Giả như không phải như
thế, nghĩa là đối với Giới Học, quý
vị có chỗ khuyết phạm, thì chẳng những
đối với thắng lợi xuất thế, không
thể mong được kết quả, mà chính với
công đức cõi Nhơn Thiên, quý vị cũng vẫn vô
phần. Thế nên, chư Phật mười phương
ba đời xuất hiện ở thế gian, không vị
Phật nào không cực lực suy tôn giới pháp một cách
cẩn trọng. Lịch đại Tổ Sư Tây Thiên
cũng như Ðông Ðộ, không Ngài nào chẳng đem
giới pháp ân cần giáo hóa hậu sanh.
Nên kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp
thuyết minh: “Nhứt thiết chúng sanh, sơ nhập Tam
Bảo hải, dĩ Tín vi bổn. Trụ tại Phật
gia, dĩ Giới vi bổn”. Nghĩa là tất cả chúng
sanh khi mới vào trong bể Tam Bảo, phải dùng lòng tin
sâu dày làm gốc. Khi đã an trú trong nhà Phật, thì dùng
Giới làm cội gốc.
Tại sao vậy? Vì Giới là khởi
điểm để hướng thượng,
hướng thiện, hướng quang minh, hướng lên
đường giải thoát. Thế nên không cho phép hành
giả bất luận xuất gia hay tại gia có một
chút xem thường.
Vì thế, khi đức Bổn Sư
sắp tịch diệt, do tâm Ðại Bi, Ngài đinh ninh
dạy các đệ tử: “Sau khi ta diệt độ, các
ông phải nhất tâm tôn kính Giới Luật, phải xem
Giới Luật như thầy của các ông”.
Ở đây, không khỏi có
người hỏi rằng: Tại sao giới pháp lại
có tính trọng yếu như thế?
Giải đáp điều này, xin
dẫn lời thuyết minh trong kinh Ðại Niết Bàn
như sau:
- Giới là thềm thang của tất
cả pháp lành, cũng là cội gốc của tất
cả thiện pháp; như quả đại địa là
cội gốc của tất cả thảo mộc phát
sanh.
- Giới là một đấng
đạo sư tối cao của các thiện căn; là
vị thương chủ dẫn dắt đàn
thương nhân.
- Giới là thắng tràng của
tất cả các thiện pháp; như thắng tràng của
Thiên Ðế Thích.
- Giới có công năng
đoạn trừ vĩnh viễn tất cả ác
nghiệp và tam ác đạo; như các dược thảo
có công năng trị liệu tất cả các thứ ác bịnh.
- Giới là tư lương
trên đường hiểm sanh tử, giới là chiếc
áo giáp đồng, là cây gậy thần trừ diệt ác
tặc kiết sử.
- Giới là một thần chú tối
linh, diệt trừ rắn độc phiền não. Giới
là cây cầu để qua khỏi hạnh nghiệp tội
ác.
Kinh văn quá minh bạch,
không cần phải nói thêm nhiều. Căn cứ theo
đó, có thể khẳng định rằng: Bất
luận tu tập thiện nghiệp hay đoạn trừ
ác pháp; bất luận mong thoát ly khổ não hay cầu
được giải thoát an lạc; bất luận
đoạn phiền não nghi hoặc hay chứng chơn
thường, đối với giới pháp, đều
phải có tánh cách quyết định. Nếu không có
Giới thì tất cả việc nói trên đều không
thành tựu.
Như
thế tại sao có thể nói là Giới không trọng
yếu? Lại vì sao có thể đối với giới
pháp dám sanh tâm khinh thường?
Kinh Ðại Bát Niết Bàn nói:
“Muốn thấy đuợc Phật tánh, chứng Ðại
Niết Bàn, quyết định phải có tâm thâm tín, kính
trọng, tu trì tịnh giới. Nếu người nào
thọ trì kinh này mà hủy phạm tịnh giới,
người ấy là quyến thuộc của ma, không
phải là đệ tử của ta. Ta cũng không cho
người ấy thọ trì, đọc tụng kinh này”.
Ðối với việc thọ trì,
đọc tụng kinh điển Ðại Thừa, hành
giả thu hoạch được công đức vĩ
đại. Hơn nữa, công đức thọ trì kinh
điển Ðại Thừa mà hành giả thu hoạch
được, nếu so với người đem
thất bảo bố thí, thì gấp bội hơn không
biết mấy lần. Ðiều ấy cứ xem trong kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật thì rõ.
Lại nữa, việc thọ trì,
đọc tụng kinh điển Ðại Thừa, ở
các kinh Ðại Thừa đồng nhất trí tán thán, nên
thông thường hàng Phật tử đa số
đều thọ trì, đọc tụng kinh điển
Ðại Thừa. Nhưng y chiếu theo lời Phật
dạy trong kinh Niết Bàn dẫn trên, thì thọ trì kinh
điển, cố nhiên là điều tốt, nhưng
phải dùng thân tâm thanh tịnh mà thọ trì.
Nói rõ hơn, là phải lấy việc
tu trì tịnh giới mà đọc tụng. Nếu chỉ
thọ trì kinh điển mà không xem trọng tịnh
giới của Như Lai, thậm chí hủy phạm
tịnh giới thì đức Phật không nhận
người này là Phật tử chơn chánh, mà là quyến
thuộc của ma vương. Ðức Phật chẳng
những không do vì việc người ấy thọ trì kinh
Niết Bàn mà hoan hỷ, lại còn không cho người
ấy thọ trì kinh này.
Chúng ta hãy suy tưởng thái độ
của Phật, thì biết rằng thọ trì tịnh
giới là trọng yếu biết dường nào! Sao
lại có thể không vâng giữ một cách nghiêm cẩn?
Trong kinh Nguyệt Ðăng Tam Muội,
lại dạy rõ về điểm trọng yếu của
Giới Pháp như vầy:
Tuy hữu sắc
tộc cập đa văn
Nhược vô
giới trí do cầm thú,
Tuy xử ty hạ
thiểu văn kiến,
Năng trì tịnh
giới danh thắng sĩ.
Dịch:
Dù có sắc tộc và
đa văn,
Nếu không giới
trí như cầm thú,
Tuy hạng tầm
thường, ít kiến văn,
Nghiêm trì tịnh
giới là thắng sĩ.
Xin giải thích rõ bài kệ trên như
sau:
Một cá nhân ở đời, sự
cao thấp về địa vị không phải căn
cứ vào chủng tộc tôn quý, cũng không phải vì
họ có sắc tướng đoan nghiêm, hay nhằm vào
sự bác học đa văn của họ, mà hoàn toàn
căn cứ nơi đức hạnh của người
ấy cao thượng hay không. Thông thường, nói theo
thế tục là đức hạnh, trong Phật pháp
gọi là tịnh giới. Dù là một người thông
thường hay một hành giả tu học Phật pháp,
giới hạnh đích xác là vô cùng trọng yếu.
Vì thế, nếu không có giới
hạnh và trí huệ, dù chủng tộc người ấy
cao quý đến mức nào, sắc tướng đoan
nghiêm đến mức nào, học vấn quảng bác
đến đâu, căn cứ vào quan niệm Phật pháp
mà xét, thì kẻ ấy so với cầm thú nào khác gì mấy.
Ngược lại, nếu tu trì tịnh giới làm
một con người có đạo đức cao
thượng, dù ở vào địa vị thật thấp
kém, dù kiến văn cạn hẹp, hiếm hoi, nhưng
vẫn có thể được suy tôn là bậc thắng
sĩ trên thế gian. Giá trị của con người
đó, mọi người đều cung kính tôn trọng.
Cho nên, giới hạnh là căn bản làm người.
Hành giả tu học Phật pháp,
đặc biệt là người xuất gia tu Ðại
Thừa, cần phải làm cho ngôi Tam Bảo không
đoạn tuyệt, Chánh Pháp được cửu
trụ ở thế gian.
Khi đức Phật còn tại
thế, đầu tiên Ngài chế định Giới
Luật, đem pháp giới nhiếp phục chúng Tăng.
Bản hoài của Ðức Phật chính là mong muốn làm sao
cho Tăng đoàn hòa vui thanh tịnh. Tăng đoàn cần
phải gánh vác trách nhiệm trọng đại ấy.
Nhưng trách nhiệm trọng đại ấy có gánh vác
được hay không, điều trọng yếu không gì
khác hơn là hành giả có tu trì tịnh giới hay không?
Nếu như mọi Phật tử
xuất gia đều nghiêm trì pháp giới thanh tịnh,
thực hành pháp Lục Hòa Kính, thì mới có thể làm cho ngôi
Tam Bảo không đoạn tuyệt, Chánh Pháp
được cửu trụ mãi nơi thế gian. Nên trong
kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Thọ trì oai nghi giới pháp
được đầy đủ, thực hành pháp
Lục Hòa Kính, khéo léo ngự trị đại chúng, tâm
không lo buồn, hối hận, thuận theo chánh pháp của
Phật, không trái lời Phật dạy. Thế nên có
thể làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt và chánh
pháp do đó được cửu trụ trong thế gian”.
Hành giả Ðại Thừa lấy việc cầu
Phật Quả làm mục đích tối cao, mà thành Phật
nhất định sẽ được tướng
phước báo của bậc đại nhân, tức là ba
mươi hai hảo tướng của đức
Phật. Nhưng nguyên nhân được ba mươi hai
tướng, không phải do nhân duyên sai biệt nào khác, chính
là do ở nơi tu trì tịnh giới mà được.
Nếu không theo đúng phép tu trì tịnh giới, chẳng
những không được ba mươi hai tướng
phước báo của bậc đại nhân, mà đến
cả cái thân người hạ tiện cũng không
thể có được.
Trong
Ðại Trí Ðộ Luận cũng từng thuyết minh:
“Nếu người nào muốn cầu sự lợi ích
vĩ đại, quyết phải nghiêm trì tịnh giới
như yêu quý của báu, như ái hộ thân mạng. Tại
sao thế? Vì giới pháp là nơi cư trú của tất
cả pháp lành”.
Trong kinh luận nói lên sự lợi ích
vĩ đại, đương nhiên là chỉ cho quả
vị Vô Thượng Bồ Ðề. Cho nên chẳng
những chư hành giả Thanh Văn thừa cần
phải nghiêm cẩn vâng giữ giới pháp, mà chính bậc
Bồ Tát Ðại Thừa càng cần phải vâng giữ
nghiêm mật hơn.
Giới là cội gốc xuất sanh
tất cả pháp lành công đức và cũng là cội
gốc đắc Niết Bàn, chứng Bồ Ðề. Nên
Giới là chỗ chung cùng đồng vâng giữ của
hành giả trong ngũ thừa.
Chúng ta nếu không muốn đi trên con
đường Phật Pháp thì thôi, nếu như muốn
đi trên con đường Phật pháp, thì cần
phải theo đúng như pháp, giữ gìn tịnh giới
cho nghiêm cẩn.
Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp dạy:
“Tiến nhập Phật gia, dĩ Giới vi bổn”.
Nghĩa là khi mới bước vào nhà Phật, phải lấy
Giới Pháp làm cội gốc. Do đó, không cho phép bất
cứ một hành giả nào tu học Phật pháp mà còn có
chỗ vi phạm giới luật.
Bộ Giới Học Yếu Thuật
dạy rõ: “Từ chỗ thiển cận mà nói thì Giới
Học của Phật pháp là quy luật, luân lý, đạo
đức của nhân sinh, là chuẩn tắc của con
người, sở dĩ gọi là con người. Nếu
đi vào chỗ thâm sâu mà giảng, giới pháp của
Như Lai là đào tạo nhân cách cho đến chỗ viên
mãn, cứu cánh Phật Quả”.
Người tu hành học Phật pháp
từ khi phát tâm đối với Tam Bảo, bước
vào cửa Phật, mãi đến lúc hoàn thành Phật
quả, đều có thể nói là có giới tướng
trong suốt giai đoạn xa xôi ấy (thông thường
trong kinh Phật dạy một người từ khi mới
phát Bồ Ðề tâm, cho đến lúc viên thành Phật
quả, phải qua hằng hà sa số kiếp, chính là
chỉ cho giai đoạn xa xôi ấy). Thế nên, nghiêm trì
tịnh giới đầy đủ thật là hạng
mục (1) hành đạo. Ngừời tu trong Phật giáo
Ðại Thừa cần phải có đủ, không thì không
thể đạt đến mục đích dự kỳ
của hành giả ngũ thừa. Do đó, có thể
thấy rằng dù giới học có những sai biệt,
nhưng thật sự rất là nhất quán.
Ðại Thừa Phật giáo phải
lấy sự phát tâm Bồ Ðề làm căn bản. Tức
là lấy tâm Bồ Ðề làm giới thể của Ðại
Thừa Bồ Tát Giới. Nếu như không phát tâm Bồ
Ðề thì dù có nghiêm trì tịnh giới, cũng chỉ là
giới của thế tục.
Cho nên Hoằng Nhứt Luật Sư
dạy: “Ngũ giới, bát giới tuy thuộc Tiểu
thừa, nhưng hàng Phật tử muốn bẩm thọ
giới phẩm ấy, cần phát tâm đại Bồ
Ðề, không nên độc thiện nhứt thân, nghĩa là
chuyên tu thiện pháp để cầu giải thoát cho riêng
bản thân mình, riêng thụ hưởng cảnh tịch
diệt. Dù rằng, Khai, Giá, Trì, Phạm không khác với
Thanh Văn, nhưng sự phát tâm khởi hạnh
đồng với đại sĩ, mong tất cả thanh
tín nên cố gắng”.
(thanh tín: thiện nam tín nữ)
Ðây là lời khích lệ của
Hoằng Nhứt Luật Sư, hy vọng rằng mỗi
Phật tử đều nên thực hành Bồ Tát Ðại
Thừa. Thực là lời dạy có giá trị, mỗi
Phật tử học Phật phải nên xem trọng!
Chí hướng Ðại Thừa cốt
ở lợi tha, nếu không phát tâm Bồ Ðề thì không
thể nào mang sự lợi ích phổ biến rộng rãi
cho khắp chúng sanh. Cho nên, Bồ Tát vì muốn lợi ích
chúng sanh, nếu có thể không rời Bồ Ðề
nguyện, thì mới gọi là tịnh giới đầy
đủ vậy!
B. Thinh
Văn Giới dữ Bồ Tát Giới dị đồng (Ðiểm dị
đồng của giới Thanh Văn và Bồ Tát)
Hành giả
tu học Phật pháp, căn cứ theo kinh từ
trước đến nay, phân làm 2 loại: Hàng Thanh Văn
thì phát tâm chán lìa và hàng Bồ Tát thì phát tâm Bồ Ðề.
Bất luận chỗ phát tâm của hành giả thuộc
Ðại Thừa hay Tiểu Thừa (Thanh Văn thuộc
Tiểu Thừa, Bồ Tát thuộc Ðại Thừa) khác nhau
như thế nào, nhưng cả hai vẫn đồng có
giới hạnh riêng để tự tu trì.
Sự sai biệt của hai hạng
hành giả nói trên như thế nào?
Ðây là một vấn đề chúng ta
cần phải thấu triệt. Quan niệm thông
thường cho Biệt Giải Thoát Giới của
thất chúng Phật tử thuộc về giới hạnh
tu trì của hàng Thanh Văn; Tam Tụ Tịnh Giới là
giới hạnh tu trì của hàng Bồ Tát. Ðứng về
mặt đại thể, đây là biểu thị sự
sai biệt giữa hai giới Thanh Văn và Bồ Tát.
Nhưng nói một cách quả quyết, nghiêm cẩn và
tường tận hơn, thì điểm dị
đồng giữa hai giới Thanh Văn và Bồ Tát
lại phải căn cứ vào nhiều phương
tiện để luận đàm. Các phương diện
đó bao gồm tám chủng loại sau đây:
1. Thông
Giới dữ Biệt Giới (thông giới và biệt giới)
* Thanh
Văn giới thuộc về Biệt Giới: những
giới mà thất chúng Phật tử từng hạng
bẩm thọ riêng, như:
- Ngũ Giới là Giới của các
Phật tử tại gia bẩm thọ.
- Thập Giới là Giới của
Phật tử xuất gia sa-di, sa-di-ni.
- Sáu học pháp là Giới của
Thức-xoa-ma-na.
- Cụ Túc Giới là Giới của
tỳ kheo, tỳ-kheo-ni.
Ðệ tử Phật sở dĩ
được phân làm thất chúng là do nơi sự
bẩm thọ giới pháp bất đồng phát sinh ra.
Chiếu theo chỗ thọ giới pháp khác nhau của
thất chúng Phật tử mà phân biệt, thì chẳng
những có từng lớp cạn sâu trong từng giới,
mà còn phân ra những giới dành cho nam, nữ Phật
tử riêng thọ. Ðiều này do bởi chính Ðức
Phật chế ra khi còn tại thế, chế lập
đầu tiên. Ngài vì muốn thích ứng với hoàn
cảnh xã hội cũng như tâm cơ sanh chúng
đương thời, nên chế giới ngăn cấm
Phật tử không được hành động như
thế này hay thế khác.
* Bồ Tát
Giới thuộc về Thông Giới: Bất cứ
Phật tử nào có tín tâm đối với Phật
đều có thể thọ. Chỉ đặc biệt là
phải có một điều kiện duy nhất: phải
phát tâm Bồ Ðề, bất luận tại gia hay xuất
gia; già, trẻ, lớn, nhỏ, nam, nữ v.v... Ðó là
điểm cốt yếu cho những ai muốn bẩm
thọ Bồ Tát Giới.
- Như người nào trước kia
thọ Ngũ Giới, về sau phát tâm Bồ Ðề
thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Ưu Bà
Tắc hoặc Bồ Tát Ưu Bà Di.
- Như người trước kia
thọ Thập Giới, về sau phát tâm Bồ Ðề
thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Sa Di
hoặc Bồ Tát Sa Di Ni.
- Như người trước kia
thọ Cụ Túc Giới, về sau phát tâm Bồ Ðề
thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Tỳ Kheo
hoặc Bồ Tát Tỳ Kheo Ni.
Căn cứ vào việc mọi hành
giả theo Phật pháp, khi đã phát tâm Bồ Ðề,
đều có thể thọ Bồ Tát Giới, nên gọi là
Thông Giới.
2. Nhiếp
Luật Nghi Giới dữ Tam Tụ Tịnh Giới (Nhiếp Luật
Nghi Giới và Tam Tụ Tịnh Giới)
* Thanh Văn Giới mà thất chúng
Phật tử riêng thọ, thông thường gọi là
Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Công dụng duy nhất của
giới này cốt ở sự “phòng phi chỉ ác” (phòng
ngừa tất cả những việc sai quấy mà
ngăn dứt tất cả tội ác), cho nên đều dạy
chúng ta những sự việc nào không nên làm. Hành giả
nếu đúng như pháp tuân giữ, sẽ riêng
được giải thoát. Cho nên Nhiếp Luật Nghi
Giới còn được gọi là Biệt Giải Thoát
Giới.
* Ngoài Nhiếp Luật Nghi Giới, hành
giả Thanh Văn còn có Ðịnh Cộng Giới và Ðạo
Cộng Giới (còn gọi là Tịnh Lự Luật Nghi và
Vô Lậu Luật Nghi).
- Biệt Giải Thoát Giới chứng
đắc từ nơi sự bẩm thọ, trong khi
Ðịnh Cộng Giới và Ðạo Cộng Giới không
phải do nơi bẩm thọ mà chứng đắc. Ðây
là sự khác biệt của ba loại giới nói trên.
- Biệt Giải Thoát Giới thuộc
về thi-la của cõi Dục Giới.
- Ðịnh Cộng Giới thuộc
về thi-la của cõi Sắc và Vô Sắc Giới.
Dù có sự sai biệt như vậy,
nhưng đồng thuộc về nghiệp hữu
lậu trong tam giới. Ðạo Cộng Giới thuộc
về thi-la vô lậu, không thuộc về nghiệp trong tam
giới. Ðịnh Cộng Giới và Ðạo Cộng Giới
dù có những đặc điểm riêng, nhưng cùng
đồng tôn chỉ khuyên răn xa lìa tội ác. Cả hai
giới này đều gọi là “tùy tâm chuyển giới”
(giới tùy theo tâm mà chuyển biến).
Khi tâm của hành giả ở trong
trạng thái Ðịnh, tương ứng với cảnh
Ðịnh, hoặc lúc tâm tương ứng với Vô Lậu
Thánh Ðạo; khi ấy, hai nghiệp thân, ngữ của hành
giả tùy thuận theo sự tương ứng đó mà
phát sanh tác dụng “phòng phi chỉ ác” một cách tự
nhiên.
Tác dụng này là do khi hành giả ở
trong Ðịnh và Vô Lậu Ðạo mà phát sanh. Dù có công hiệu
như vậy, nhưng phỏng sử một khi xuất
định, hoặc giả khi tâm duyên theo cảnh khác thì
tác dụng “phòng phi chỉ ác” cũng tùy theo đó mà mất
đi lập tức.
Cho nên Ðịnh Cộng Giới, Ðạo
Cộng Giới và cả Biệt Giải Thoát Giới
(luật nghi do bẩm thọ mà chứng đắc) bị
chuyển biến suốt đời. Ðây lại có thêm
một điểm tương đồng giữa ba
giới.
Ngoài Nhiếp Luật Nghi Giới,
Ðại Thừa Bồ Tát Giới lại còn có Nhiếp
Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới.
- Nhiếp
Thiện Pháp Giới: hành giả thọ giới Bồ
Tát không phải chỉ không được làm tất
cả những điều ác là đủ; vì như vậy
mới chỉ thể hiện ở mặt tiêu cực. Hành
giả còn phải cố gắng tu tập các thiện pháp.
Ðây mới chính là thể hiện mặt tích cực.
Ấn Thuận Ðại Sư có dạy:
“Người học Bồ Tát đạo để mong
cầu thành Phật quả, không phải có một việc
là xa lìa và không làm các pháp nhiễm ô, rồi cho là xong
chuyện. Nói thí dụ như một khu vườn
chẳng những cần phải dọn dẹp, nhổ và
phát cỏ cho sạch sẽ; lại còn cần trồng
những thực vật hữu dụng. Cho nên Bồ Tát
cần phải học rộng tất cả những
Phật pháp, viên thành tất cả công đức, thì
mới có thể thực hiện được sự tích
cực phi thường”.
Dù hành giả Thanh Văn bẩm thọ
Luật Nghi Giới, không phải là hoàn toàn không cần tu
tập tất cả thiện pháp, nhưng vẫn không
giống với sự rộng học tất cả
Phật pháp của hành giả Bồ Tát.
- Nhiêu Ích
Hữu Tình Giới: biểu thị sự việc hành giả Bồ Tát
lấy việc hóa độ chúng sanh làm chủ đích. Vì
Bồ Tát phát tâm hóa độ chúng sanh, nếu không thực
hành việc độ sanh thì đâu thể gọi là Bồ
Tát?
Bồ Tát đã lấy việc
nhiếp hóa chúng sanh làm căn bản, lẽ
đương nhiên chính bản thân mình phải làm mô
phạm cho chúng sanh. Nếu như bản thân Bồ Tát không
tu giới hạnh, thử hỏi thì làm sao được
sự tín nhiệm của chúng sanh?
Cho nên nếu lấy sự hóa
độ chúng sanh làm hạnh nguyện thì cần nghiêm
giữ giới pháp không được vi phạm.
Có người cho giới Thanh Văn là
quá nghiêm cẩn, mỗi chút mỗi vi phạm. Vì thế
rất khó giữ gìn cho trọn vẹn, nhưng giới
Bồ Tát trái lại rất khoan dung; vả lại,
đại sĩ không câu chấp tiểu tiết. Bấy
giờ mọi người đua nhau nguyện tu học
Ðại Thừa Bồ Tát, đều tự cho mình là hành
giả đã an trụ trong Bồ Tát hạnh. Khi làm
những điều bất hợp pháp, bị người
khác chỉ trích là luật nghi không hoàn chỉnh, lại
lấy cớ ta đây là Bồ Tát để đáp lại
kẻ chỉ trích mình, không biết đó chính là
điều tuyệt đối sai lầm.
Chân chánh và thẳng thắn mà nói,
Bồ Tát nếu muốn làm sư phạm cho nhơn thiên,
điều kiện trước nhất cần thọ trì
là Nhiếp Luật Nghi Giới. Vì Nhiếp Luật Nghi
Giới chẳng những là cội gốc của Nhiếp
Thiện Pháp Giới mà còn là cơ thạch cho Nhiêu Ích
Hữu Tình Giới (cơ là nền tảng, thạch là
đá; nghĩa là nền tảng xây bằng đá,
mượn để thí dụ cho Nhiếp Luật Nghi
Giới là một nền tảng rất cứng chắc
cho Nhiêu Ích Hữu Tình và Nhiếp Thiện Pháp Giới).
Bồ Tát nếu không khéo hộ
Nhiếp Luật Nghi Giới, thì chẳng những với
Nhiếp Thiện Pháp Giới không thể sanh khởi, mà
luôn cả Nhiêu Ích Hữu Tình Giới cũng hoàn toàn không
thực hiện được. Vì thế, hành giả
Bồ Tát đối với Tam Tụ Tịnh Giới,
cần phải xem trọng ngang nhau. Có như thế,
mới thể hiện rõ điểm đặc sắc
của Ðại Thừa Bồ Tát Giới.
3. Tùng
sư thọ giới dữ bất tùng sư thọ
giới
(thọ giới nơi thầy và không thọ giới
nơi thầy)
Thọ giới mà đắc giới có
một pháp thức nhất định, nhưng giới
Thanh Văn và Bồ Tát đều có chỗ bất
đồng. Thất chúng Phật tử Thanh Văn thừa
muốn thọ giới, đại thể mà nói,
đều phải có thầy truyền trao giới pháp.
Như chúng tại gia thọ trì Ngũ
Giới, phải thọ từ nơi một đại
đức xuất gia. Ðiều này trong nhiều kinh
điển và luận Câu Xá đều nói như vậy.
Trường hợp nhất định không tìm không có
sư tôn truyền thọ giới pháp, có thể đặc
biệt cho phép tự phát nguyện bẩm thọ. Việc
này trong Luật Tứ Phần và Ðại Trí Ðộ Luận
quy định như vậy. Ðây chẳng qua là phương
tiện ngoại ngạch, bất đắc dĩ.
Như thế, nếu gặp
trường hợp có sư tôn truyền trao giới pháp,
thì tuyệt đối không được áp dụng
ngoại lệ tự phát nguyện bẩm thọ. Ðến
như chúng tại gia thọ Bát Quan Trai Giới, cũng
phải ở trước ngũ chúng xuất gia mà bẩm
thọ, lại còn phải tìm một vị giới sư
suốt đời không ăn phi thời làm thầy
truyền giới.
Trường hợp không thể tìm
được vị sư tôn như thế, Phật
tử có thể ở trước hình tượng
Phật, Bồ Tát tự phát thệ thọ giới.
Ðối với chúng xuất gia thọ
giới Sa Di và Sa Di Ni, phải có hai thứ giới sư
truyền giới. Trường hợp đặc biệt
thọ giới Cụ Túc, phải có đủ tam sư
thất chứng. Ðây là nghi thức tối quan trọng.
Vấn đề từ Thập Sư
thọ giới Cụ Túc dành cho những nơi Phật pháp
thịnh hành, Tăng chúng đông đảo. Trái lại,
đối với những vùng biên địa hẻo lánh,
Tăng chúng không đông, không có phương tiện quy
tụ đầy đủ Thập Sư truyền
giới, có thể giảm bớt phân nửa, chỉ
cần 5 vị: bốn vị làm chúng Tăng, một
vị làm Yết Ma sư tác pháp để truyền trao
giới phẩm. Ðây là chánh thuyết của Tỳ Bà Sa
Luận, Chánh Lý Luật v.v... Ðức Ðạo Tuyên Luật
Sư cũng căn cứ theo thuyết này.
Tóm lại:
Giới Thanh Văn quyết
định phải thọ giới pháp từ nơi
thầy với các nghi thức quy định bắt
buộc.
Về giới Bồ Tát, phần nghi
thức được quy định như thế nào?
Ðiều này trong kinh Bồ Tát Bổn
Nghiệp Anh Lạc dạy rõ có 3 phẩm thọ giới:
thượng, trung, và hạ phẩm.
- Thượng phẩm: Từ nơi
Ðức Phật mà thọ giới. Ðiều kiện này
rất khó thực hiện. Trong kinh Phật dạy:
“Một là giới tử lúc thọ giới, ở trước
chư Phật, Bồ Tát mà bẩm thọ. Ðây thực
sự là Thượng Phẩm Giới”.
- Trung phẩm: Từ nơi những
đệ tử của Phật mà bẩm thọ. Trong kinh
Phật dạy: “Hai là sau khi Phật, Bồ Tát nhập
diệt. Trong vòng một ngàn dặm, nếu có vị Bồ
Tát nào đã thọ giới trước thì phải
thỉnh làm Pháp Sư, dạy bảo, truyền trao giới
pháp cho mình. Trước tiên, phải thành kính đảnh
lễ dưới chân Pháp Sư, thứ đến tác
bạch như vầy: ‘Kính thỉnh tôn giả làm thầy
truyền trao giới pháp cho con’. Giới tử đắc
giới ấy gọi là Trung Phẩm giới”.
- Hạ phẩm: Sự thọ giới
trong trường hợp không gặp Phật xuất
thế, hoặc đã nhập diệt, trong vòng ngàn dặm
cũng không có đệ tử của Phật để làm
thầy truyền giới, Phật tử có thể ở
trước hình tượng Phật bẩm thọ. Trong
kinh Phật dạy: “Ba là sau khi Phật, Bồ Tát nhập
diệt, trong vòng nghìn dặm, không có Pháp Sư làm thầy
truyền trao giới pháp thì nên ở trước hình
tượng Phật, Bồ Tát, hồ quỳ chắp tay tự
thệ nguyện thọ giới. Nên tác bạch như
vầy: Ðệ tử... kính bạch thập phương
chư Phật và đại địa Bồ Tát, con
nguyện thệ học tất cả giới của
tất cả Bồ Tát. Ðây là hạ phẩm giới”.
Ấn Thuận Luật Sư thuyết
minh: “Trường hợp thậm chí không có hình
tượng Phật để tự thọ giới thì y
cứ theo trong kinh Phổ Hiền Quán dạy: Giới
tử có thể quán tưởng đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật làm hòa thượng, Ðại Trí Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát làm Yết Ma A Xà Lê, Di Lặc
Bồ Tát làm Giáo Thọ A Xà Lê, vẫn có thể thọ
giới được”.
Theo kinh Phạm Võng này chỉ có hai cách
thọ giới:
- Tự thệ thọ giới:
Ðây là trường hợp trong vòng mấy ngàn dặm, không
có Pháp Sư truyền trao giới pháp. Giới điều
thứ 23 trong 48 giới khinh, tuyên thuyết minh bạch
như vầy: “Dục dĩ hảo tâm thọ Bồ Tát
Giới thời, ư Phật, Bồ Tát hình tượng
tiền, tự thệ thọ giới, đương
dĩ thất nhật, Phật tiền sám hối,
đắc kiến hảo tướng tiện đắc
giới. Nhược bất đắc hảo
tướng, ưng nhị thất, tam thất, nãi chí
nhất niên, yếu đắc hảo tướng. Ðắc
hảo tướng dĩ, tiện đắc Phật,
Bồ Tát hình tượng tiền thọ giới.
Nhược bất đắc hảo tướng, tuy
Phật tượng tiền thọ giới, bất danh
đắc giới”.
(Nếu Phật tử sau khi Phật
nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới
Bồ Tát, thì đối trước tượng Phật
cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ
giới. Nên ở trước tượng Phật và
tượng Bồ Tát, sám hối trong bảy ngày. Nếu
thấy được hảo tướng là đắc
giới. Nếu chưa thấy được hảo
tướng thì sám hối 14 ngày, 21 ngày hay đến cả
năm, cầu cho được thấy hảo
tướng. Khi được thấy hảo
tướng rồi, thời được đối
trước tượng Phật, Bồ Tát mà thọ
giới. Như chưa thấy hảo tướng,
thời dầu có đối trước tượng
Phật thọ giới, vẫn không gọi là đắc
giới).
- Từ thầy thọ giới:
Ðây là trường hợp có thể thỉnh
được vị Pháp Sư truyền trao giới pháp.
Cũng theo giới điều hai mươi ba dạy
tiếp rằng: “Nhược tiên thọ Bồ Tát giới
Pháp Sư tiền thọ giới thời, bất tu yếu
kiến hảo tướng. Hà dĩ cố? Thị Pháp
Sư chư sư tương thọ cố, bất tu
hảo tướng. Thị dĩ Pháp Sư tiền thọ
giới thời tức đắc giới, dĩ sanh chí
trọng tâm cố tiện đắc giới”.
(Nếu khi đối trước
vị Pháp Sư đã thọ giới Bồ Tát thì không
cần thấy hảo tướng. Vì sao vậy? Vì vị Pháp
Sư là chư sư truyền giới cho nhau, nên không
cần hảo tướng. Hễ đối trước
vị Pháp Sư ấy mà thọ giới liền
đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên
đắc giới).
Với hai trường hợp thọ
giới đã nói rõ ở trên, Ấn Thuận Luật Sư
trịnh trọng dạy như vầy: “Nếu không có
Phật xuất thế, cũng không có đệ tử
Phật, thì có thể ở trước tượng
Phật hoặc quán tưởng Phật mà thọ giới,
nhưng nếu có đệ tử Phật thì vẫn
cần phải từ nơi đệ tử của
Phật mà bẩm thọ giới mới là thích hợp”.
4. Thanh
Văn Giới thị tân đắc dữ Bồ Tát
giới thị huân phát (Giới Thanh Văn thuộc về tân
đắc và giới Bồ Tát thuộc về huân phát)
Giới pháp Thanh Văn xuất gia hay
tại gia đều phải trải qua nghi thức
thọ giới mới đắc giới thể. Giới
thể này trước vốn không có mà khi thọ giới
mới được, nên gọi là “tân đắc”.
Cũng chính vì tính chất mới được này nên có
thể có hai tình trạng xảy ra nơi Phật tử
thọ giới là “đắc giới”, rồi lại có
thể “thất giới”. Hai tình trạng có thể dẫn
đến sự thất giới là:
- Phạm
căn bản trọng giới (vi phạm những
giới cấm quan trọng): Bất luận hình
tướng bên ngoài thể hiện giống hệt một
Phật tử chân chính đến mức độ nào (Phật
tử ở đây bao gồm hai chúng), nếu giới
thể đã bị mất thì người Phật tử
đó đã mất hẳn đặc chất của
người Phật tử.
- Nhất
kỳ sanh mạng kết thúc (thời gian mạng
sống đã đến lúc chấm dứt): Nguyên vì
giới thể Thanh Văn thuộc về “tận hình
thọ”, nghĩa là khi thời gian thọ mạng của
người thọ giới tồn tại, giới thể
tất nhiên theo sanh mạng mà chuyển sanh. Một khi sanh
mạng băng hoại, giới thể tự nhiên cũng
theo đó mà tiêu mất. Như vậy, có đắc
giới tất nhiên sẽ có thất giới.
Với quan điểm này, Ấn
Thuận Ðại Sư thuyết minh: “Các học giả Thanh
Văn có người cho giới thể là Vô Biểu
Sắc, hoặc có người cho là Bất Tương
Ưng Hành Pháp”.
Gần đây, quý sư trong giới
xuất gia thuộc hệ phái Ðại Thừa, cho là công
năng tự tâm sở trong tâm tương tục, cũng
thuộc về “tân huân”. Quan niệm như thế có
phần không đúng. Vì Ðại Thừa Bồ Tát Giới là
pháp sẵn đủ của tự tâm, là pháp sẵn có,
không phải sau khi thọ giới mới có được
giới pháp đó.
Trong kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh
Lạc có thuyết minh: “Giới phẩm của tất
cả hàng Bồ Tát, bất luận phàm hay thánh, đều
lấy tự tâm làm thể, vì tâm vô tận nên giới
thể cũng vô tận”.
Phần văn trường hàng mở
đầu kinh này cũng nêu rõ: “Quang minh kim cương
bửu giới thị nhứt thiết Phật bổn
nguyên, nhứt thiết Bồ Tát bổn nguyên, phật tánh
chủng tử. Nhứt thiết chúng sanh giai hữu
Phật tánh. Nhứt thiết ý thức sắc tâm thị
tình, thị tâm, giai nhập Phật tánh giới trung”.
Nghĩa là: “Giới pháp kim cương
quang minh quý báu này chính là bổn nguyên của tất cả
chư Phật, bổn nguyên của tất cả Bồ
Tát, cũng là chủng tử của Phật tánh. Tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả ý
thức sắc tâm, là tình, là tâm, đều vào trong phạm
vi Phật tánh”.
Bồ Tát Giới là pháp sẵn
đủ trong tâm của tất cả chúng sanh. Chẳng
những không cần đợi duyên chế lập, mà còn có
sẵn công năng “phòng phi chỉ ác”, công năng “từ bi
lợi vật”, công năng “vô biên công đức thanh
tịnh định huệ” v.v... Nhưng sở dĩ
phải thọ giới trở lại trong hiện tại,
chẳng qua là làm cho giới đức sẵn đủ
ấy huân phát và tăng trưởng mạnh mẽ.
Giới Phật tánh thường trụ lấy tâm làm
giới thể, nên sau khi phát tâm thọ giới, chẳng
những trong đời hiện tại không bị mất
giới, mà khi sanh mạng kết thúc, giới thể
cũng vẫn tồn tại.
Bồ Tát Giới là giới tột cùng
đời vị lai, nếu Phật tử thọ trì không
thất giới thì mãi mãi cho đến khi chứng quả
Vô Thượng Bồ Ðề, giới thể đều
tương tục, không gián đoạn. Dẫu sau khi sanh
mạng kết thúc, tái sanh trở lại không ghi nhớ
được việc mình đã thọ giới ở
đời quá khứ. Nếu hiện tại phát tâm thọ
giới trở lại, trường hợp này gọi là
duyên tăng thượng, tuyệt đối không
được gọi là “tân đắc”. Ðến như
trong đời hiện tại, giả sử phạm
trọng giới, dù cũng có thể gọi là thất
giới, nhưng nếu đúng theo pháp sám hối, thì có
thể thọ giới trở lại.
Cho nên kinh nói: “Giới Bồ Tát có pháp
thọ mà không có pháp xả; có phạm nhưng không mất
giới, vì là giới thể cùng tột đến
đời vị lai vậy”. Ðiều này Ấn Thuận
Luật Sư nhấn mạnh như sau: “Bồ Tát từ
khi mới phát tâm nhẫn lại, giới đức trong
tự tâm mỗi ngày dần tăng trưởng. Hiện
tại trở lại thọ giới, cũng chẳng qua
là nương theo ngoại duyên để huân phát, làm cho
sự huân trưởng ấy được thành thục
mà thôi”.
Cho nên giới Bồ Tát đúng như
trong kinh này thuyết minh: “Thị chư Phật chi bổn
nguyên, hành Bồ Tát đạo chi căn bổn, thị
đại chúng chư Phật tử chi căn bổn”
(Nghĩa là: “Tâm địa đại giới này là bổn
nguyên của chư Phật, là căn bản của
người hành đạo Bồ Tát, là căn bản
của đại chúng Phật tử”).
Bất luận là chúng sanh ở trong hình thái nào,
chỉ cần hiểu rõ lời Pháp Sư thuyết
giới, đều được phép thọ giới.
5. Thanh
Văn Giới bất khả văn độc dữ
Bồ Tát Giới khả dĩ văn độc (Giới Thanh Văn
không được đọc và nghe, trong khi giới
Bồ Tát có thể nghe hoặc đọc)
Giới Tỳ Kheo Thanh Văn y cứ
theo luật Phật chế định, có quan hệ
điều văn của Ngũ Thiên, Thất Tụ, nên
hàng Phật tử tại gia chưa thọ giới Cụ
Túc, tuyệt đối không được phép xem giới,
đọc giới và nghe giới.
Việc này trong Luật Văn có
dạy rõ ràng: “Một lúc nọ, chúng Tăng làm lễ
Bố-tát, có người lén nghe tụng giới, bị
Hộ Pháp Thiện Thần đánh đuổi”. Nhưng
đối với giới Ðại Thừa Bồ Tát khi
chưa thọ giới, tuy không được tham dự
bố-tát, tụng giới, nhưng nghe giảng ý nghĩa
của giới pháp hay xem, đọc, hoặc nghiên cứu
ý nghĩa của giới bổn thì có thể
được, không bị cấm chỉ tuyệt
đối.
Vì thế, sau khi tôi tuyên bố giảng
kinh Phạm Võng, có những Phật tử hỏi: - Con
chưa thọ Bồ Tát Giới, Pháp Sư có thể cho con
tham dự được không? Tôi trả lời: - Ðương
nhiên là được.
Nhưng nếu khi giảng giới tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, dù quý vị nào có tâm thành khẩn muốn nghe,
tôi cũng không chấp thuận. Còn giảng kinh Ðại
Thừa Phạm Võng Bồ Tát Giới, tôi rất mong
muốn quý vị đến nghe thật đông, càng
đông càng tốt. Chẳng những không vi phạm
giới luật mà còn có nhiều lợi ích. Vì do sự nghe
giảng ấy, quý vị sẽ được kích phát tâm
Bồ Ðề và huân phát Phật Tánh vốn đã có sẵn
trong mỗi quý vị.
6. Thanh
Văn đích giới điều dữ Bồ Tát đích
giới điều (Giới điều của Thanh Văn và giới
điều của Bồ Tát)
Giới điều của thất
chúng Phật tử Thanh Văn thừa đều khác
biệt, không giống nhau như:
- Ngũ Giới của hàng Phật
tử nam, nữ tại gia.
- Thập Giới của Phật
tử xuất gia: sa-di, sa-di-ni.
- Và những giới điều
tối cực nghiêm cẩn, chu mật của hàng
tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
Thông thường giới tỳ-kheo
gồm 250 giới, nhưng trong Luật Tăng Kỳ thì
chỉ có 218 giới, luật của Nhứt Thiết
Hữu Bộ xưa truyền lại cho là 260 giới.
Về số mục, điều văn của hai bộ
Luật nói trên có nhiều điểm bất đồng,
nhưng phần đại thể vẫn giống nhau.
Có đoạn thuyết minh rõ như vầy:
Giới tỳ-kheo phần đại lược thì có hai
trăm năm mươi giới, phần trung bình thì ba ngàn
oai nghi, tám vạn tế hạnh. Giới tỳ-kheo-ni
phần đại lược gồm ba trăm bốn
mươi tám giới, phần trung bình gồm tám vạn
oai nghi, mười hai vạn tế hạnh.
Nếu nói rộng ra thì giới của
tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni đều là vô lượng vô biên
vì tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni lúc thọ giới đều
được pháp giới vô lượng vô biên, số
lượng đồng với cảnh hư không khắp
pháp giới, không một pháp nào không trọn vẹn,
đầy đủ, nên mệnh danh là giới Cụ Túc.
Còn như giới Bồ Tát thì:
- Kinh Phạm Võng quy định là
mười giới trọng và bốn mươi tám
giới khinh.
- Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói là sáu
giới trọng, hai mươi tám giới khinh.
- Kinh Du Già Bồ Tát Giới nói là
bốn giới trọng, năm mươi mốt giới
khinh.
Lại có nhiều kinh khác như kinh
Bồ Tát Thiện Giới, kinh Bồ Tát Ðịa Trì v.v...
giảng nói các giới nhiều ít rất khác nhau, nhưng
về phần căn bản trọng giới vẫn giống
nhau.
Vì sự kiện ấy, Ấn
Thuận Luật Sư nhấn mạnh: “Thông thường
thọ giới là bẩm thọ mỗi một giới
điều như trong kinh văn đã dạy. Nhưng
kỳ thật, thọ giới là phát khởi công năng
“phòng phi chỉ ác” trong nội tâm, quyết không chỉ thu
hẹp trong giới hạn của điều văn. Vì
thế, hàng Phật tử bất luận xuất gia hay
tại gia, xin đừng ngộ nhận những gì trong
Giới Luật không đề cập đến thì quý
Phật tử đều hành động được”.
Tại sao vậy? Ðơn cử
giới uống rượu, tất cả hàng Phật
tử từ cư sĩ đến tỳ-kheo đều
phải thọ trì nghiêm cẩn. Nhưng trong Luật không
quy định việc cấm hút thuốc, cũng không
cấm chỉ các loại độc phẩm như nha phiến,
hải lạc nhơn (một loại thuộc ma túy) v.v...
Do đó, có người cho rằng Ðức Phật không có
chế giới cấm hút thuốc thì cứ việc hút
không tổn hại gì. Thật là sai lầm! Họ không
biết rằng, khi Ðức Phật còn tại thế, không
có những ác tập (tập quán xấu) về độc
phẩm như hút thuốc, nghiện nha phiến v.v... cho
nên đức Phật không chế giới này.
Căn cứ vào việc Ðức
Phật cấm uống rượu vì rất có hại cho
thân tâm mà nói thì những thức độc phẩm kia
đương nhiên cũng phải cấm chỉ, không
được hút. Việc chế định bằng
văn tự rõ ràng của Giới Luật chẳng qua
chỉ thích ứng theo thời cơ mà chọn lấy
những thứ trọng yếu để nêu lên làm quy
lệ mà thôi.
Ðến như Bồ Tát giới trong các
kinh giải nói nhiều ít không đồng, cũng là do
nơi ý nghĩa ấy. Do vậy, chúng ta đối với
Giới Luật của Ðức Như Lai đã chế
định, cần phải vận dụng một cách linh
động, hoạt bát, không nên chấp nhặt một khía
cạnh, rồi cho rằng: “Những gì Ðức Phật
không cấm ngăn thì bây giờ cũng không cần ngăn
cấm, những gì Ðức Phật đã chế chỉ
cũng không cần canh cải”. Cần phải có sự
thích nghi với thời gian, địa phương. Nên
nhận chân những gì không nên làm thì không nên cố ý làm,
để tránh những ảnh hưởng xấu trong
mọi cảm quan xã hội đối với Phật giáo.
Quan niệm của các hạng nhân sĩ trong xã
hội đặc biệt chú trọng là: “Phật giáo
đồ phải có đức hạnh”; cho nên hàng Phật
tử, nhất là chúng xuất gia, cần phải tuân
thủ giới hạnh thật nghiêm cẩn.
7. Thanh
Văn đãi duyên chế dữ Bồ Tát Giới bất
đãi duyên chế (Giới Thanh Văn đợi đúng thời duyên
Ðức Phật mới chế lập, còn giới Bồ Tát
không cần đợi thời duyên):
Về phương diện ngôn từ
giáo hóa chúng sanh, chẳng những duy có Ðức Phật là
người có thể tuyên thuyết, mà còn có năm hạng
người có thể tuyên thuyết. Về vấn
đề chế giới (chế định Giới Luật
khinh, trọng), duy chỉ có Ðức Phật chế lập,
ngoài ra không ai có thể chế lập được. Cho
nên giới Thanh Văn và giới Bồ Tát đều do
Ðức Phật đích thân chế định.
Tuy rằng tất cả đều
từ Ðức Phật chế định, nhưng pháp
thức chế lập có điểm bất đồng.
Như trường hợp giới Thanh Văn cần
đợi đủ nhân duyên mới chế lập,
nghĩa là: nhân vì có những sự phạm giới của
tín đồ, Phật mới tùy theo hình thức và mức
độ tội trạng mà chế giới, để
răn dạy đệ tử về sau không
được tái phạm. Nếu vi phạm ở mức
độ không thể dung thứ, cần phải trị
phạt nghiêm khắc.
Trái lại, Bồ Tát Giới không
như vậy! Nghĩa là, không cần phải đợi có
thật phạm giới mới chế định Giới
Luật mà Ðức Như Lai nhứt thời đốn
chế (nghĩa là: Khi Ðức Như Lai thành Ðạo,
liền chế định giới Bồ Tát ngay lúc đó).
Văn trường hàng nối tiếp
sau phần văn kệ tụng mở đầu kinh này
thuyết minh: “Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật sơ
tọa Bồ Ðề thọ hạ, thành Vô Thượng
Chánh Giác, dĩ sơ kiết Bồ Tát Ba-la-đề
mộc-xoa” (Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật mới
thành đạo Vô Thượng Chánh Giác, Ngài ngồi
dưới gốc Bồ Ðề, bắt đầu
kiết giới Bồ Tát ba-la-đề mộc-xoa).
Kinh văn nói rõ Ðức Phật vừa
thành Vô Thượng Chánh Giác thì bắt đầu kiết
giới Bồ Tát. Ðó chẳng phải là một chứng
minh rất rõ về việc đốn chế hay sao?
Tại sao giới Bồ Tát nhứt
thời đốn chế, mà không đợi nhân duyên
phạm giới?
Theo lý mà giải, việc ấy có quan
hệ với cơ nghi chúng sanh. Vì Bồ Tát là đại
căn cơ, không cần những vấn đề nhỏ
nhặt thế nọ, thế kia; cho nên Ðức Phật
dụng pháp đốn chế. Còn Thanh Văn là tiểu
căn cơ, nếu không đợi nhân duyên riêng biệt mà
chế lập, thì họ sẽ khó tiếp thọ, nên
Ðức Phật phải dụng pháp biệt chế.
Về phương diện sự
tướng mà nói, chư Cổ Ðức nêu ra ba lý do:
- Bồ Tát đủ tín tâm sâu
nhiệm: Vừa nghe đức Như Lai chế Ðại
Thừa giới liền tiếp thọ, không trái nghịch
và cũng không cảm thấy có bất cứ sự kinh
lạ nào. Trái lại, tín tâm của Thanh Văn còn nông
cạn. Nếu Ðức Như Lai đồng một lúc vì
họ đốn chế, họ sẽ không thể nào
thừa nhận được. Lại còn cảm thấy
rất khó khăn trong việc tu học Phật pháp,
thậm chí thối thất dũng khí hành đạo!
- Bồ Tát phải đi khắp
nơi hóa độ chúng sanh nên không thể từng giây phút
theo hầu bên Phật. Khi gặp những sự tình không
đúng giới pháp, không thể tức khắc bẩm
bạch lên Ðức Phật để cầu Ðức
Phật giải quyết, hay phán đoán điều ấy
có hợp giới pháp hay không. Cho nên giới Bồ Tát
phải nhất thời đốn chế. Trong khi Thanh
Văn là chúng thường tùy của Phật, luôn hầu
cận bên Phật. Mỗi khi có những sự kiện trái
với đức hạnh, lập tức chư vị có
thể bạch Phật để Ngài quyết đoán. Cho
nên giới Thanh Văn cần phải đợi có
trường hợp phạm giới mới chế lập.
- Giới Bồ Tát đã chế
lập trong kinh này thật sự phát khởi từ nơi
Ðức Phật Lô Xá Na. Ðức Lô Xá Na vì Diệu Hải
Vương Tử muốn thọ Bồ Tát Giới, và
chư Ðại Sĩ đương thời hiện
diện ở pháp tòa, nên đã tuyên thuyết, chế
lập 10 giới trọng, 48 giới khinh này.
Ðó là những nguyên do giới Bồ Tát nhất
thời đốn chế; giới Thanh Văn thì căn
cứ vào từng trường hợp phạm giới
của đệ tử mà Ðức Phật tùy chế, nói rõ
hơn là đợi có nhân duyên mới chế giới.
Tóm lại:
- Giới Bồ Tát căn cứ vào Lý
Thiện mà chế lập, gọi là giới “Phật tánh
thường trụ”.
- Giới Thanh Văn căn cứ vào
Sự Thiện mà chế lập, gọi là “hộ thế
cơ hiềm giới” (hỗ trợ tâm niệm, chấn
chỉnh nhân cách người tu hành để tránh sự
sanh tâm báng bổ của người thế gian).
- Giới BồTát chủ đích là
trở về Bản Tánh.
- Giới Thanh Văn cốt yếu
tránh xa sự chê bai, dị nghị của thế nhân.
Ðây là sự bất đồng về y
chỉ trong sự chế lập giới pháp của
Ðại Thừa và Tiểu Thừa vậy.
8. Thanh
Văn dữ Bồ Tát thọ giới ưng hữu
đích tư chất (giảng về tư chất thọ
giới cần thiết của Thanh Văn và Bồ Tát)
Thọ Luật Nghi Giới của Thanh
Văn thừa chẳng những có những quy luật
nghiêm mật và không phải bất cứ người nào
cũng đều được thọ giới. Nhất
là việc thọ giới của hàng đệ tử
xuất gia thì vấn đề tư chất của
những vị ấy càng được chú trọng một
cách nghiêm cẩn đặc biệt.
- Chẳng hạn những người
bản thân có những thứ bệnh bạch lại
(hủi, cùi, lác trắng), ung thư, điên loạn v.v...
- Hoặc là sáu căn không toàn vẹn
(như người một mắt, sứt môi...), tàn
tật, xấu xí.
- Hoặc là người hoàng môn nhị
hình (2).
- Hoặc là người làm nô bộc
cho người (trừ trường hợp
được chủ nhân ưng thuận thì không thuộc
phạm vi hạn chế).
- Hoặc là phi nhơn và súc sanh v.v...
Những hạng người kể
trên, chẳng những không đủ tư cách thọ
giới Tỳ-kheo mà luôn cả tư cách để thọ
giới Sa-di cũng không được. Trái lại,
giới Bồ Tát không có những hạn chế nghiêm
khắc như vậy.
Trong kinh Anh Lạc giảng dạy:
“Lục đạo chúng sanh thọ đắc giới,
đản giải ngữ đắc giới bất
thất” (Tất cả chúng sanh trong lục đạo
đều được thọ giới, chỉ cần
hiểu được lời nói của Pháp Sư thì
đắc giới không mất).
Trong phần văn tụng của kinh
này cũng thuyết minh:
Nhứt thiết
hữu tâm dã,
Giai ưng nhiếp
Phật giới.
Dịch:
Tất cả
những người có tâm thức,
Ðều nên nhiếp
thọ Giới Luật.
Cũng trong kinh này, văn trường
hàng lại nói rõ hơn: “Nếu người thọ
giới Bồ Tát này, không luận là quốc vương,
thái tử, các quan chức hay tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, không
luận là chư thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là
hàng thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ hay hàng nô
tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ thần,
thần Kim Cương hay loài súc sanh, nhẫn đến
kẻ biến hóa, hễ ai nhận hiểu được
lời truyền giới của Pháp Sư thời
đều được thọ giới và đều
gọi là thanh tịnh thứ nhất”.
Y chiếu theo Ðại Thừa Giới
Kinh thuyết minh thì bất cứ loại chúng sanh nào trong
lục đạo, bất luận tư chất thế
nào, chỉ cần hiểu được lời nói
của Pháp Sư thuyết giới, đều có tư cách
để thọ giới của Phật, không giảm
biệt những căn cơ nào.
Trường hợp này so với
những quy định thọ giới Tỳ Kheo bên Thanh
Văn thừa, đích thực là khoan dung hơn nhiều.
Thọ luật nghi giới bên Thanh Văn, chẳng
những kẻ hoàng môn, nhị hình ở trong cõi Nam
Thiệm Bộ Châu không thể thành tựu luật nghi, mà
chính những người chánh thường (sáu căn
đầy đủ), thân tướng đoan nghiêm ở
Bắc Câu Lô Châu cũng không thể thọ Biệt Giải
Thoát Giới, vì đời sống của những
người ở châu ấy quá sung mãn, nên không thể
thọ Biệt Giải Thoát Giới (giới Thanh Văn).
Tư cách thọ giới Bồ Tát dù
nói là rất phóng khoáng, chỉ cần những loại chúng
sanh hiểu được lời của Pháp Sư
truyền giới thì đều được thọ
giới. Nhưng cần phải có chủng tánh Bồ Tát,
phát tâm Bồ Ðề, có tâm hạnh thù thắng, mới có
thể cảm được tịnh giới Bồ Tát.
C. Phạm
Võng Giới Kinh đích truyền lai ngã quốc (kinh Phạm Võng chính
thức truyền đến nước của tác giả)
Trong phạm vi những khu vực Ðại Thừa
Phật giáo lưu hành, tất cả Phật tử
đều phải thọ Luật Nghi giới. Riêng hai chúng
xuất gia tỳ kheo và tỳ kheo ni tuyệt đối
phải thọ giới Bồ Tát. Những hành giả khác
trong ngũ chúng, nếu ai phát Bồ Ðề tâm thọ
giới Bồ Tát, đều có thể thọ Tâm Ðịa đại
giới này. Hơn nữa, từ trước đến
nay, các Phật tử đều y theo kinh Phạm Võng này
để thọ giới Bồ Tát. Cho đến gần
đây, Thái Hư đại sư đề xướng
giảng giải kinh Ưu Bà Tắc Giới, mới có
sự phân biệt trong việc truyền trao giới Bồ
Tát:
- Hàng Phật tử tại gia thọ
giới Bồ Tát thì y theo kinh Ưu Bà Tắc, thọ sáu
giới trọng, hai mươi giới khinh.
- Chúng Phật tử xuất gia,
thọ giới Bồ Tát thì y theo kinh Phạm Võng thọ
mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh.
Phạm Võng Giới Kinh nhờ đó
lưu hành rất rộng ở Trung Quốc, và
được chư đại đức nhiều
thời đại rất mực tôn trọng. Nhưng vì
vấn đề văn tự truyền dịch cũng
như lịch sử truyền dịch thiếu sự minh
bạch, kỹ lưỡng nên về sau không ít học
giả nghi kinh Phạm Võng là ngụy tạo. Do đó
sự hoằng thông kinh Phạm Võng bị ảnh hưởng
rất lớn. Vì lý do ấy, bây giờ nên giải thích
thế nào về vấn đề truyền nhập kinh
Phạm Võng sang Trung Quốc?
Trước khi nói về vấn
đề truyền dịch kinh này, tôi thiết nghĩ
trước tiên, nên thuyết minh về:
* Sự
truyền dịch Bồ Tát Luật tạng
Theo tương truyền của chư
thượng đức cổ đại: Vào triều nhà
Lương, ngài Chơn Ðế tam tạng Pháp Sư lúc
sắp đến Trung Hoa hoằng truyền Phật pháp,
ngài từng suy nghĩ phải mang Bồ Tát Luật
Tạng theo.
Nhưng lúc ngài vừa đem bộ
Luật Tạng lên thuyền thì thuyền sắp bị
đắm xuống biển. Mọi người trong
thuyền lúc bấy giờ đều kinh sợ, cho
rằng vì đồ vật quá nhiều, nên vội vã
lấy bớt ra. Nhưng dù bớt ra bao nhiêu, thuyền
vẫn cứ như sắp đắm.
Ðến cuối cùng khi lấy Bồ Tát
Luật tạng đem ra thì thuyền nhẹ tênh
lướt sóng, không còn hiện tượng sắp chìm
đắm nữa. Chơn Ðế tam tạng mục kích
sự kiện này, lòng ngài buồn vô hạn, không thể
dằn được, Ngài than rằng: “Giới Luật
Bồ Tát vô duyên với đất Hán như thế ư!”
Nếu như truyền thuyết trên là
sự thật, thì chẳng những Chơn Ðế tam
tạng có cảm tưởng đáng buồn, mà chính chúng
ta hiện tại cũng có cảm giác bi thống vô
hạn. Do đó nên biết sự lưu truyền Bồ
Tát Giới không phải là dễ!
Lại có một truyền thuyết
nữa như sau:
Ngài Ðàm Vô Sấm tam tạng Pháp Sư
đến Trung Hoa. Lúc ngài ở tại châu Tây Lương,
hoằng truyền Phật pháp, có quý sa môn Pháp Tấn v.v...
từng hết lòng thỉnh cầu Ðàm Vô Sấm tam tạng
truyền trao giới pháp Bồ Tát và khao khát
được ngài phiên dịch Bồ Tát Giới Bổn
để nương theo đó mà trì tụng, phụng hành.
Nhưng Ðàm Vô Sấm tam tạng chẳng những không
tiếp nhận lời thỉnh cầu của chư sa môn
Pháp Tấn, lại còn thốt ra những lời hàm
chứa nhiều ý khinh miệt: “Thử quốc nhơn
đẳng tánh đa giảo hoạt, hựu vô
cương tiết, khởi hữu kham vi Bồ Tát lợi
khí” (Nghĩa là: Những người trong nước này
đa số là hạng người tâm tánh giả dối,
quỷ quyệt, không có tánh cương trực khí tiết,
làm sao có thể kham nhẫn thực hành pháp khí của
Bồ Tát đạo!)
Thế nên mặc cho quý sa môn Pháp
Tấn khổ lụy cầu khẩn thế nào,
trước sau Ðàm Vô Sấm tam tạng vẫn quyết
không bằng lòng truyền trao Bồ Tát giới cho các
vị này. Chư sa môn Pháp Tấn không còn cách nào hơn,
chỉ đem tâm tối cực thành kính, khẩn thiết
ở trước tượng Phật ai khẩn, lập thệ
thỉnh cầu pháp giới.
Do nơi tinh thần thành khẩn
của quý ngài đã đến mức cùng tột, nên
vừa đúng một tuần, các Ngài mộng thấy
đức Di Lặc Bồ Tát đích thân vì các ngài
truyền trao giới pháp. Sau khi truyền giới Bồ Tát
xong, đức Di Lặc lại đem bộ Bồ Tát Giới
Bổn trao cho quý sa-môn. Các ngài ghi nhớ đọc tụng
rất rõ ràng.
Sau khi tỉnh mộng, các ngài
đặc biệt đến ra mắt Ðàm Vô Sấm tam
tạng. Khi Ðàm Vô Sấm vừa trông thấy tướng
mạo khác hẳn với trước đây của các
ngài, Pháp Sư biết đó là những bậc pháp khí
Ðại Thừa nên vô cùng hân hoan bảo rằng: “Hán
độ diệc hữu nhơn hĩ!” (Ðất Hán cũng
có người đủ pháp khí Ðại Thừa). Ngài không
đợi sự cầu thỉnh của quý sa môn, tự
động dịch quyển giới bổn ra Hán tự.
Thật là một sự trùng hợp
không thể nghĩ bàn, vì quyển giới bổn của
Ngài Ðàm Vô Sấm phiên dịch so với văn nghĩa
của quyển Giới Bổn mà đức Di Lặc trao
cho quý sa môn trong giấc mộng rốt ráo giống hệt
nhau.
Bộ Ðịa Trì Giới Bổn
hiện đang lưu hành trong kinh tạng gọi là Bồ
Tát Ðịa Trì Kinh. Thật ra, Bồ Tát Ðịa Trì Kinh là tên
phiên dịch khác của Du Già Luận Bồ Tát Tâm Ðịa.
Nhưng chỉ có điều là giới bổn của
Huyền Trang Pháp Sư phiên dịch, sự tường
lược có chút sai khác mà thôi.
Trên đây là nói về sự liên quan
giữa các Ðại Thừa Giới Bổn. Ở Ấn
Ðộ vẫn sẵn có Bồ Tát Quảng Luật, nhưng
vì chưa truyền đến Trung Quốc, nên Ðại
Thừa Bồ Tát Luật Nghi ở Trung Quốc không hoàn
bị bằng luật nghi của Thanh Văn thừa.
Năm bộ luật của Thanh
Văn Thừa:
- Ðàm Vô Ðức.
- Tất Bà Ðạ.
- Ca Diếp Di.
- Sa Di Tắc.
- Bà Ta Phú Ða.
Muốn biết rõ phải tham khảo
trong Ðại Luật Tỳ Kheo sớm đã truyền
đến Trung Quốc từ trước. Những
mối quan hệ này, thiết tưởng không cần nói
nhiều. Phần chủ yếu cần đề cập
chi tiết và rõ ràng là sự phiên dịch của kinh
Phạm Võng khi được truyền đến Ðông
Ðộ.
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới
Bổn từ trước đến nay đều nói
Huyền Trang Pháp Sư phiên dịch. Sự việc này
được các nhà chép kinh đồng ghi nhận,
dường như không có điều gì nghi hoặc,
nếu không muốn nói là rất thâm tín.
Nhưng căn cứ vào Pháp Kinh Sở
Biên Soạn Chi Chúng Kinh Mục Lục (bộ sách ghi chép
mục lục các kinh), thì vào triều đại nhà Tùy, niên
hiệu Khai Hoàng thứ 14 (Tây lịch 594), kinh Phạm Võng
bị liệt vào hạng các luật đáng nghi hoặc,
lại có nơi cho: “Chư gia cụ lục, đa nhập
nghi phẩm”, nghĩa là: Các nhà ký lục ngày xưa phần
nhiều liệt kinh Phạm Võng vào loại kinh luật
đáng nghi ngờ.
Chính vì lẽ đó nên về sau,
một số học giả nghi kinh Phạm Võng không
phải do đức La Thập Pháp Sư chính tay phiên
dịch. Từ mối nghi ngờ về dịch giả,
tiến đến sự nghi kinh Phạm Võng là ngụy tạo.
Những vấn đề quan hệ đến quyển
kinh, thiết tưởng không nên nói nhiều để
tránh cho vấn đề càng thêm phức tạp. Vì sự
việc ấy rốt ráo như thế nào, xin đợi
hàng học giả khảo chứng.
Căn cứ vào chư thượng
đức trong nhiều thời đại đã y cứ
theo kinh Phạm Võng truyền giới Bồ Tát, cho nên chúng
tôi hiện nay cũng công nhận kinh Phạm Võng này chính
từ đức La Thập Pháp Sư phiên dịch.
* Việc La Thập Pháp Sư phiên
dịch kinh Phạm Võng như sau:
Tương truyền kinh Phạm Võng
ở Ấn Ðộ có mười vạn bài tụng,
nếu y theo kinh văn dịch hết ra thì có tất
cả một trăm hai mươi quyển, sáu mươi
mốt phẩm. Khi đức La Thập Pháp Sư dịch
kinh này, chỉ dịch một phẩm thứ mười,
thuyết minh về Bồ Tát Tâm Ðịa Giới Phẩm.
Phiên dịch xong, Ngài lại cho chép ra
tám mươi mốt bộ để lưu thông nơi
đời. Việc này trong bài tựa kinh Phạm Võng
lại ghi: “Triều Hậu Tần tại Trường An,
Thích Tăng Triệu thuật”. Nhưng sự thật không
phải Thích Tăng Triệu thuật, mà chỉ nói
rằng:
“Cho nên niên hiệu Hoằng Thỉ
năm thứ ba, gió thuần hòa thổi đến Ðông
Ðộ” (Câu này ám chỉ chánh pháp Như Lai truyền
đến Ðông Ðộ).
Bấy giờ, Thiên Tử hạ
chiếu, kính thỉnh Pháp Sư Cưu Ma La Thập
nước Thiên Trúc, đến ở chùa Thảo
Ðường, nơi Trường An, để cùng các sa môn
Nghĩa Học, hơn ba ngàn vị Pháp Sư, tay cầm
bản Phạn văn, miệng thì phiên dịch, giải
thích tất cả hơn năm mươi bộ. Trong
đó, có kinh Phạm Võng gồm một trăm hai
mươi quyển, sáu mươi mốt phẩm, và
Bồ Tát Tâm Ðịa Phẩm, là phẩm thứ mười
trong kinh này, chuyên thuyết minh những công hạnh của
Bồ Tát.
Lúc bấy giờ, quý sa môn Ðạo Dung,
Ðạo Ảnh v.v... tất cả gồm ba trăm vị,
đều thọ giới Bồ Tát. Mỗi người
đều có tụng phẩm Tâm Ðịa này để làm
chỗ thù hướng cho tâm mình. Cho nên thầy trò tâm ý
khế hợp, đồng nhau kính cẩn, tả phẩm
Tâm Ðịa này, tất cả tám mươi mốt bộ
để lưu truyền trong nhân gian”.
Căn cứ vào đoạn văn
tự thuật trong kinh Phạm Võng vừa dẫn trên thì
thấy đó là một bằng chứng hiển nhiên chứng
tỏ chính Pháp Sư La Thập phiên dịch bộ kinh này,
không một luận thuyết nào có thể bác bỏ
được. Có thể nói đó là một bằng
chứng vững vàng như núi, không một thế lực
nào có thể xô ngã được. Thế mà hàng học
giả không xem kỹ lời tựa trong kinh đã nói,
lại cho rằng do ngài Tăng Triệu thuật,
đến nỗi khiến cho mọi người hoài nghi,
cho rằng kinh Phạm Võng không phải chính tay đức
La Thập dịch.
Kinh Phạm Võng hiện nay có hai
quyển: Thượng và Hạ.
Có người cho rằng: “Quyển
thượng không phải do La Thập Pháp Sư dịch,
việc ấy miễn tranh luận. Quyển Hạ mới
chính là Pháp Sư La Thập dịch và cần phải
hết lòng tin chắc”. Ðây chẳng qua là một cách nói dung
hòa, cũng là một dụng tâm duy trì giới pháp. Nhưng
nếu khảo sát thật sự trên lịch sử thì
thuyết dung hòa này đúng hay không? Chúng ta nên có thái
độ dè dặt, và hãy đợi khi nào có tài liệu
khả dĩ tin tưởng được, sẽ xét
lại sau.
Lại còn có sự tương
truyền rằng kinh Phạm Võng là do đức La Thập
phiên dịch từ trước đến nay gọi:
“Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Ðịa Giới Phẩm”,
cũng có nơi bỏ bớt chữ Giới mà gọi:
“Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Ðịa
phẩm”.
Bồ Tát Tâm Ðịa Phẩm này lại
chia làm hai phẩm: Thượng và Hạ.
- Theo kinh văn, phẩm Thượng
do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ở cung trời
Ðệ Tứ Thiền kình tiếp (4) tất cả
đại chúng, đồng đi về cung Tử Kim
Cương Quang Minh ở thế giới Liên Hoa Tạng.
Nơi đó, đức Phật Lô Xá Na ở trên đài Liên
Hoa, đối trước ngàn trăm ức Phật,
Phật Thích Ca và Hoa Quang Vương Ðại Trí Minh Bồ
Tát, rộng giảng ba mươi tâm, pháp Thập Trụ
v.v... cùng với pháp môn Thập Ðịa. Do nơi thuyết
giả và thọ giả đều là Thánh Nhơn, nên
đối với căn cơ của phàm phu,
đương nhiên là khó khế hợp được
phần giảng pháp này.
- Phẩm Hạ là do Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Thế Tôn, sau khi thọ trì pháp môn Tâm Ðịa do
đức Lô Xá Na giảng (đã nói ở bên trên), từ
thế giới Liên Hoa Tạng ẩn thân, rồi ở
nơi 10 chỗ khác thị hiện thành Phật thuyết
pháp. Ðức Phật ngồi ở dưới cội
Bồ Ðề nơi cõi Diêm Phù Ðề, tại thế
giới Ta Bà này, tụng lại giới pháp Bồ Tát,
gồm mười giới trọng, bốn mươi tám
giới khinh, mà đức Phật Lô Xá Na đã kiết
giới và giảng giới. Hiện nay, chúng tôi đang
giảng kinh văn phẩm Hạ. Xưa gọi là
“Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Sở Thuyết Thập
Trọng, Tứ Thập Bát Khinh Giới”; ý ấy cũng
chính là do sự tích này.
Kinh này do chính đức La Thập Pháp
Sư phiên dịch, từ trước đến nay đã
lưu truyền như vậy. Phần lịch sử
của dịch giả, thiết tưởng cũng nên
giới thiệu sơ lược nơi đây.
Căn cứ theo bộ Trung Quốc
Phật Giáo Sử, đức La Thập Pháp Sư
đến Trung Quốc nhằm lúc mùa Ðông, triều Dao
Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ thứ ba (Tây lịch
401). Ngài ở tại Trường An đến niên
hiệu Hoằng Thỉ thứ mười lăm (Tây
lịch 413), tháng Tư năm ấy, Pháp Sư viên tịch.
Pháp sư đã ở tại Trung Quốc hoằng
truyền chánh pháp, giáo hóa chúng sanh chỉ trong thời gian
hơn 10 năm. Trong thời gian ngắn ngủi ấy,
công trình phu dương (5) thánh giáo và phiên dịch rộng
rãi các diệu điển của Pháp Sư thực là
một ảnh hưởng hết sức vĩ đại
đối với Phật giáo Trung Quốc.
Công đức này được
thể hiện rõ trong hai câu điếu văn của
Tăng Triệu Pháp Sư, khi đến phúng điếu
đức La Thập, như sau:
Pháp cổ trùng
chấn ư Diêm Phù,
Phạm luân tái
chuyển ư Thiên Bắc.
Dịch:
Trống chánh pháp rung chuyển cõi Diêm
Phù,
Xe phạm hạnh trở lại
vận chuyển miền trời Bắc.
Sự hưng thạnh pháp duyên của
đức La Thập đương thời có thể nói
rằng xưa nay ít có pháp tịch nào có thể sánh kịp.
Vì thế, khi đức La Thập vừa đến Quan
Trung, tất cả tăng tài tuấn tú của Phật giáo
quốc nội đương thời, đều vân
tập đến dưới pháp tòa của Ngài để
học hỏi và tùng sự phiên dịch kinh luận,
đồng thời cộng tác việc hoằng hóa chánh
pháp.
Kinh luận của La Thập Pháp Sư
phiên dịch lấy “tánh không, Bát Nhã học” làm chủ
yếu:
- Các kinh phiên dịch gồm có Ðại
Phẩm Bát Nhã, Tiểu Phẩm Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma, Tư
Ích...
- Các luận phiên dịch gồm có Trung
Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Ðại Trí
Ðộ Luận...
Ðức Pháp Sư La Thập cùng tất
cả môn nhân của ngài, những vị đã thấm
nhuần giáo lý và được huân đào từ lâu,
đều lấy Ðề Bà Luận của Long Thọ
Bồ Tát để xiển dương Trung Ðạo
Diệu Nghĩa, Bát Nhã Tánh Không. Chân nghĩa của Ðại
Thừa Phật pháp nhờ đó mới được
tỏ rạng ở Trung Quốc.
Nên trong bộ Trung Quán Luận Giảng
Ký giải rõ: “Sự dịch thuật của đức La
Thập ảnh hưởng cho Ðại Thừa Phật giáo
ở Trung Quốc vô cùng sâu rộng, dù trực tiếp hay
gián tiếp, đều được thọ nhận
ảnh hưởng của Ngài, nếu không có sự
truyền dịch của đức La Thập thì Phật
Giáo Trung Quốc hiện tại, quyết không
được như thế...”
Chúng ta đối với thành tích dịch thuật
của Ngài, cần phải từng giờ, từng phút tri
ân không quên! Phụ thân của La Thập Pháp Sư tên Cưu
Ma La Viêm, người nước Thiên Trúc. Mẫu thân ngài là
Kỳ Bà công chúa, em gái quốc vương nước Quy
Tư. Khi phụ thân của Pháp Sư đến Quy Tư,
quốc vương nước này đem em gái gả cho.
Sau khi kết hôn, bà đản sanh ra Pháp Sư. Ngài xuất
gia lúc bảy tuổi, sau đó du học các địa
phương ở Ấn Ðộ, việc này các kinh
thường nói, ở đây miễn thuật lại.
D. Bổn
kinh kinh đề - phẩm đề đích lược
thích
(lược giải thích đề mục kinh và đề
mục phẩm Tâm Ðịa)
Kinh này gọi là “Phật thuyết
Phạm Võng kinh”, chủ đích lấy Tâm Ðịa Giới Pháp
làm phép tắc thân tâm cho hành giả. Cho nên cả đến
các bậc chư thiên, chư tiên, biến hóa nhơn và
Bồ Tát, cũng không thể tuyên thuyết. Duy chỉ có
mỗi một mình đức Phật, là bậc đại
giác thánh giả, mới có thể tự thân phu dương.
Vì thế mà trên đề mục để là “Phật
thuyết”.
Bồ Tát giới kinh ở đây
chẳng những Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hiện
thuyết, mà chư Phật quá khứ cũng đã tuyên
thuyết.
Chẳng hạn giới kinh của:
- Ðức Câu Lưu Tôn Phật tuyên
thuyết gọi là Cam Lộ Cổ.
- Ðức Câu Na Hàm Mâu Ni Phật tuyên
thuyết gọi là Pháp Cảnh.
- Ðức Ca Diếp Phật tuyên
thuyết gọi là Phân Biệt Không.
- Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật tuyên thuyết gọi là Phạm Võng.
Nói như thế để thấy rõ
giới Bồ Tát này, chính bảy Ðức Phật
đồng phụng hành và dùng làm Nghi Quỹ (nghi thức
phép tắc). Chúng ta là phàm phu không nên có tâm niệm xem
thường.
Nếu nói kinh này do đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết là nói một cách
đơn giản nhất. Vì bảy đức Phật
đều trở lại truyền trì giới này, cho nên có
nơi cho là đức Bổn Sư Thích Ca không phải là
vị Phật bổn nguyên của Giới Kinh. Chẳng
qua, Ngài vì chúng ta mà tụng giới.
Có nơi nói quyển Thượng
của bộ kinh này là do đức Phật Lô Xá Na tuyên
thuyết, quyển Hạ là do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật tuyên thuyết. Có nơi nói kinh này do ba thân Phật
đồng tuyên thuyết. Ba thân Phật thuyết pháp
nghĩa là: Ðầu tiên, y nơi Căn Bổn Trí của Pháp
Thân mà khởi Hậu Ðắc Trí. Từ Hậu Ðắc Trí hiện
Báo Thân để làm vị chủ thuyết pháp. Kế
đó, Báo Thân hiện ra ngàn hóa thân Phật Thích Ca và ngàn
trăm ức Phật Thích Ca làm thính chúng.
Sau cùng, đức Phật Lô Xá Na
lại bảo ngàn Phật Thích Ca và ngàn trăm ức
Phật Thích Ca ở các thế giới làm vị chủ
thuyết pháp. Hàng nhân, thiên, phàm thánh v.v... là thính chúng.
Ba thân Phật như thế bất
luận ở thời gian nào, địa phương nào,
đều có thể tùy thuận căn cơ bất
đồng của các loại chúng sanh mà tuyên thuyết
Phạm Võng Giới Pháp, năm mươi tám giới – trong
trăm nghìn pháp môn. Vì thế, ba thân Phật về mặt
ứng cơ, dù rằng có chỗ sai khác, nhưng về
mặt bản thể vẫn tương đồng.
Y chiếu theo Tam Thân Phật giảng
nói Tâm Ðịa Giới Pháp, chúng ta thấy có ba tầng
lớp rõ ràng:
- Ðức Lô Xá Na truyền pháp cho ngàn
Phật Thích Ca thừa thọ.
- Ngàn Phật Thích Ca truyền pháp cho
trăm ngàn ức Phật Thích Ca thừa thọ.
- Ngàn trăm ức Phật Thích Ca
truyền pháp, tất cả chúng sanh đồng thừa
thọ.
Cứ như thế mà suy diễn,
triển chuyển xuống mãi, thì chúng sanh hiện tại
truyền pháp, chúng sanh tương lai thứ lớp
thừa thọ, miên viễn không cùng tận... nên gọi là
Vô Tận Pháp Giới.
Về sự lưu truyền kinh Phạm
Võng trên thế giới hiện thực của chúng ta
đang cư trú, không ai còn có thể nghi ngờ. Vì chính
thực là do đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
thuật lại mới có. Cho nên đề mục của
kinh là “Phật thuyết”.
Như thế, chúng tôi quyết
định thừa nhận kinh này đích xác chỉ do
đức Bổn Sư Thích Ca tuyên thuyết. Nếu
như không phải là do đức Thế Tôn thuật
lại, thì trên thế gian này, không bao giờ có kinh Phạm
Võng lưu truyền. Và ngày hôm nay, chúng ta chẳng những
không được nghe Tâm Ðịa giới pháp này là bổn
nguyên của chư Phật, lại không có nhơn duyên gì
để được nương theo tâm địa
giới pháp này mà bẩm thọ Bồ Tát đại
giới!
- Hai chữ “Phật thuyết” là
chỉ cho người năng thuyết.
- Hai chữ “Phạm Võng” chỉ rõ
nghĩa “sở thuyên” (thuyên giải), tức là nêu thí dụ
để thuyết minh giới pháp.
Tâm địa giới pháp của
chư Phật đồng tuyên dương, ngàn Thánh
đồng thực hiện, cũng là huệ mạng
của chư Phật, là bổn nguyên của tất cả
chúng sanh.
Bổn nguyên tự tánh thanh tịnh nên
gọi là Phạm.
Huệ mạng khắp truyền
nơi trần sát nên gọi là Võng.
Trên đây là giải thích hai chữ
Phạm Võng một cách đơn giản. Nhưng trên
thực tế, lúc đương thời, đức
Phật lấy mành lưới bảo tràng dùng để
trang nghiêm bảo điện của Ðại Phạm Thiên
Vương ẩn dụ cho giới kinh Tâm Ðịa Pháp Môn
này. Nói một cách đơn giản là dùng mành lưới
của Ðại Phạm Thiên Vương để dụ cho
nghĩa Sở Thuyên.
Ðức Phật sở dĩ nêu lên thí
dụ này vì trong kinh văn thuyết minh: “Lúc đó, nhân khi
xem mành lưới bảo tràng của Ðại Phạm
ThiênVương, Ðức Phật vì đại chúng mà
giảng kinh Phạm Võng, ngài dạy rằng: Vô
lượng thế giới dường như là lỗ
lưới. Mỗi thế giới đều khác nhau, khác
nhau đến số vô lượng, giáo pháp của
Phật cũng như vậy”. Chính nơi thí dụ
Phạm Võng này hàm nhiếp nhiều ý nghĩa bên trong cho nên
từ nơi thí dụ mà lập đề mục kinh.
Y cứ theo kinh Phạm Võng quyển
thượng, Phạm Võng thì lúc đức Phật nói kinh
Phạm Võng không phải ở cảnh giới nhân gian
hiện thực này, mà Ngài ngự ở nội đình trong
cung của Ðại Phạm Thiên Vương. Vì đức
Phận nhận thấy Tâm Ðịa giới pháp sắp
giảng là pháp thậm thâm, bí mật, thanh tịnh, tối
thắng, độc tôn, vô thượng, không thể ở
trong cõi nhân gian này tuyên nói được nên đặc
biệt, Ngài ngự ở nơi nội đình, trong cung
của Ðại Phạm Thiên Vương mà tuyên thuyết.
Chính vì vậy Ngài mới lấy từ
Phạm Võng làm thí dụ. Mành lưới bửu tràng trong
cung của Ðại Phạm Thiên Vương mệnh danh là
Nhơn Ðà La Võng. Trung Hoa dịch là Thiên Xích Châu. Mành
lưới xích châu của Ðại Phạm Thiên Vương
này có từng lớp. Cứ mỗi lớp mà tính, lại có
đến nghìn lớp bên trong. Mỗi lớp đều có
mười đường hồng quang. Những
đường hồng quang ấy ưởng xạ
lẫn nhau, màu sắc của các bảo châu chói sáng lẫn
nhau, lớp lớp vô tận, không chướng ngại
nhau.
Tại sao được như
vậy? Lẽ đương nhiên đây là mối quan
hệ Nhơn Quả. Vì đức Ðại Phạm Thiên
Vương ở trong nhân địa tu tập các công
đức, nên phước báo được chiêu cảm,
có phạm võng trang nghiêm. Ðức Phật thấy trên mành
lưới bảo tràng này màu sắc các tia trùng trùng chói suốt
lẫn nhau. Hình tượng của nó giống như pháp
môn sự lý kết chặt lẫn nhau. Vì thế, Ngài
đặc biệt dùng vô lượng lỗ lưới
của mành bảo tràng ấy để thí dụ:
- Cho sự an lập vô lượng
thế giới trong mười phương cũng
giống như vậy.
- Cho sự thi thiết vô lượng
pháp môn trong mười phương cũng giống như
vậy.
- Cho chư Bồ Tát trong mười
phương y theo giới pháp tu chứng có vô lượng
giai cấp khác nhau, cũng giống như vậy
- Cho chư Phật trong mười
phương thọ dụng vô lượng cảnh
giới, cũng giống như vậy
- Cho tất cả chúng sanh trong
mười phương thế giới có vô lượng
tâm hạnh, cũng giống như vậy.
...Dù có nhiều thí dụ như trên,
nhưng thực ra đó chỉ là biểu thị cho tự
tâm của tất cả chúng sanh. Vì thế giới có vô
lượng sai khác đều do nơi tâm hạnh của
chúng sanh cấu thành.
Pháp môn của Ðức Phật nói có vô
lượng sai khác, thi thiết giai cấp của Thánh
Hiền có vô lượng sai khác, không pháp nào chẳng
phải là tùy theo sự cấu nhiễm trong tâm của chúng
sanh có khinh, có trọng mà phương tiện an lập.
Nếu như không có tất cả Tâm, nhọc chi Phật
nói tất cả Pháp?
Dù Phật nói pháp môn có nhiều,
nhưng đều là vốn ở trong tâm của chúng sanh,
và cũng không ra ngoài thí dụ Phạm Võng.
Chúng ta nghe được Phật nói
thí dụ này, nếu có thể vâng giữ Kim Cang Quang Minh
Bửu Giới thì nước Thiền Ðịnh đứng
lặng, gươm trí huệ sắc bén, xé rách các thứ
lưới kiến chấp. Giới quang minh liền
nơi đó có thể riêng hiển lộ, đấy là
diệu dụng của việc trì giới.
Như trên đã giải thích, Phạm
Võng có nhiều ý nghĩa. Nhưng lại còn có một
thuyết nữa:
- Phạm Võng là tóm tắt về ngôn
giáo của đức Như Lai.
Chữ Phạm ý nghĩa là thanh
tịnh, để biểu thị ngôn giáo của
đức Như Lai từ trong bể Ðại Giác thanh
tịnh mà lưu lộ ra, đều là có công năng
chỉ đạo cho mọi người hướng
thượng, hướng thiện, hướng quang minh,
thân tâm được thanh tịnh, là ngôn giáo tối
cực thanh tịnh trên thế gian. Nên bất luận loài
hữu tình nào được tiếp thọ ngôn giáo
ấy, đều có thể xa lìa tất cả cấu
uế.
Chữ Võng là ý nghĩa gạn lọc,
mò bắt, để biểu thị giáo pháp thanh tịnh
của Ðức Như Lai giống như cái lưới bắt
cá người thế gian dùng bắt cá. Giáo pháp của
Phật có công năng lựa lọc, mò bắt tất
cả chúng sanh đang lặn ngụp trong bể khổ
sanh tử, đem về cảnh giới Niết Bàn an
ổn, không còn bị nổi chìm trong bể khổ sanh
tử nữa.
Thí dụ này trong kinh Hoa Nghiêm thuyết
minh như sau:
Trương
đại giáo võng,
Cắng sanh tử
hải
Lộc thiên, nhơn,
long,
Chí Niết Bàn
ngạn.
Dịch:
Bủa giăng màng lưới pháp
Ðại Thừa,
Trùm suốt khắp cả bể sanh
tử,
Gạn bắt tất cả
người, trời, rồng,
Ðem về để trên bờ Niết
Bàn.
Bài kệ này chứng minh rõ ràng giáo pháp
của Phật như Phạm Võng rất quý báu vậy.
Cuối cùng, căn cứ vào giới
pháp để thuyết minh hai chữ Phạm Võng. Phật
pháp xưa nay thường nói “nghiêm trì giới cấm là
phạm hạnh”, nên giới pháp chính là Phạm. Vì giới
có công năng “phòng phạm chỉ ác” nên cùng một ý
nghĩa thanh tịnh với chữ Phạm, nhưng đó
là phân biệt mà nói.
Năm giới của chúng Phật
tử tại gia đang giữ gìn, không được
gọi là Phạm hạnh, tại sao vậy?
Vì quý Phật tử tại gia vẫn
chưa tuyệt đối ly khai vấn đề nam
nữ (theo việc kết hôn, vợ chồng chính thức
thông thường là không ở trong phạm vi cấm
chỉ). Còn giới điều của ngũ chúng Phật
tử xuất gia riêng giữ gìn thì được công
nhận là Phạm hạnh. Vì quý Phật tử xuất gia
vâng giữ mười giới Sa Di và giới Cụ Túc
của tỳ kheo, tỳ kheo ni; sự quan hệ giữa
nam nữ hoàn toàn không cho phép có sự tiêm nhiễm. Tuyệt
đối cấm chỉ vấn đề dâm dục,
bởi lẽ dâm dục chính là cội gốc của sanh
tử. Hành giả nếu có thể nghiêm trì tịnh
giới tức là tu Phạm hạnh.
Kinh Tăng Nhất A Hàm thuyết minh:
“Nhược hữu giới luật cụ túc nhi vô sở
phạm, thử danh thanh tịnh, đắc tu phạm
hạnh” (nghĩa là: “Nếu có người giữ giới
luật đầy đủ, không vi phạm, thì
người ấy được gọi là tu Phạm
hạnh rất thanh tịnh”).
Căn cứ vào đấy, chúng ta có
thể thấy nghiêm trì giới pháp thanh tịnh gọi là
tu Phạm Hạnh.
Trên đây là căn cứ vào việc
trì giới của hai chúng Phật tử tại gia và
xuất gia để phân biệt. Bây giờ, hãy tiến lên
một bước nữa, thuyết minh về sự trì
giới của Thanh Văn và Bồ Tát.
Luật nghi giới Thanh Văn của
hành giả thọ trì xem trọng hai nghiệp thân và
khẩu, tuyệt đối không được vi
phạm. Hễ khi nào hai nghiệp thân, khẩu thực hành
đúng pháp, đúng luật thì được cho là giữ
giới hạnh thanh tịnh. Trường hợp tâm ý
khởi những vọng niệm không chính đáng thế
nào chăng nữa thì cũng không thuộc vào trong hạn
lệ của phạm vi ngăn cấm. Nếu khi nào
bản thân thực sự giết người, miệng
thực sự nói lời không thật, dối gạt
người, đương nhiên là đã phạm giới.
Nhưng nếu nội tâm khởi
một niệm giết người, tư tưởng
muốn nói một câu dối gạt người, nhưng
vì chưa thực sự giết người, chưa
dối gạt người, như thế không thể
gọi là phạm giới. Vì hành giả Thanh Văn thừa
không phòng chỉ ác niệm của tâm ý, cũng không phá
trừ các kiến giải, cho nên dù giữ gìn tịnh
giới một cách nghiêm cẩn, nhưng xét một cách thâm
sâu vào bên trong, vẫn không được gọi là Phạm
hạnh.
Còn như Tam Tụ Tịnh Giới
của Bồ Tát tuân giữ, chẳng những hai nghiệp
thân khẩu tuyệt đối không được vi
phạm, mà đến ý nghiệp của tự tâm phát
khởi cũng không được trái phạm.
Nói một cách khác, trong lúc khởi tâm
động niệm, cũng quyết không được vi
phạm cấm giới của Như Lai. Như việc sát
sanh, nếu chính thân mình giết hại sanh mạng của
chúng sanh, tất nhiên phạm giới căn bổn sát sanh.
Nếu nội tâm chỉ khởi một niệm muốn
sát hại sanh mạng chúng sanh là đã vi phạm giới
sát căn bổn.
Có người cho rằng Giới
Bồ Tát chỉ căn cứ vào đại thể, không
câu chấp tiểu tiết. Ý nghĩa này thực sự sai
lầm vô cùng! Họ hẳn không biết rằng giới
Bồ Tát nghiêm cẩn đến mức ngăn cấm ngay
trong lúc khởi tâm động niệm những tư
tưởng phi pháp. Nếu đem so sánh Luật Nghi
Giới của Thanh Văn thừa, lại càng khó giữ
gìn cho được thanh tịnh.
Kinh Ðại Bảo Tích, Ưu Ba Ly tôn
giả từng nói: “Phật vì Bồ Tát thừa giảng
nói thâm tâm giới, vì Thanh Văn thừa giảng nói thứ
đệ giới”.
Căn cứ vào đó đủ
chứng minh Ðại Thừa Bồ Tát giới rất xem
trọng nội tâm thanh tịnh. Vì Bồ Tát giới căn
cứ nơi tâm mà luận việc phạm tội. Cho nên
hành giả Ðại Thừa cần phải phòng hộ trong
lúc khởi tâm động niệm.
Nếu có thể phòng hộ trọn
vẹn ba nghiệp, phá trừ các kiến chấp, chứng
nhập chân lý, thế mới được gọi là “chân
phạm hạnh”. Ðó là phân biệt rõ về nghĩa thế
nào là Phạm Hạnh và không phải Phạm Hạnh.
Về ý nghĩa chữ Võng, căn
cứ vào Giới để giải rõ, thì có thể phân
biệt như sau:
- Căn cứ vào giáo pháp thì Võng là
lựa lọc, mò bắt.
- Căn cứ về mặt Giới
Luật thì Võng cũng đồng công năng lựa
lọc, mò bắt.
Như
Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới
của Bồ Tát vẫn có công năng lựa lọc, mò
bắt chính mình và tha nhân ra khỏi bể khổ sanh
tử.
Nhiêu Ích Hữu Tình Giới lấy
sự cứu tế chúng sanh làm cội gốc, vì Bồ Tát
sở dĩ trở thành một vị Bồ Tát, danh phù
hợp với thật, chính ở chỗ phải làm
thế nào lợi tế hữu tình và lựa lọc, mò
bắt tất cả chúng sanh trong bể khổ sanh tử
đem ra. Một vị Bồ Tát đã phát Bồ Ðề
tâm, nếu như không tuân thủ giới điều này
thật nghiêm cẩn, buông bỏ việc làm lựa lọc,
mò bắt chúng sanh trong bể khổ sanh tử, chẳng
những vi phạm tịnh giới của Bồ Tát, mà còn
mất hẳn tư cách của Bồ Tát. Sở dĩ
gọi là Bồ Tát là do ý nghĩa như vậy. Cho nên Nhiêu
Ích Hữu Tình Giới có công năng lựa lọc, mò
bắt chúng sanh giống như màng lưới.
Nhiếp Thiện Pháp Giới lấy
sự rộng tu vô lượng thiện pháp làm chủ
đích, tức là từ trong vệc tu tập vô
lượng thiện pháp, hành giả có thể tự
lựa lọc, mò bắt chính mình ra khỏi bể sanh
tử. Ðó là mục đích duy nhất. Nếu hành giả
Bồ Tát không thể rộng tu vô lượng thiện pháp
thì muôn đời vẫn nổi chìm trong bể khổ sanh
tử, đâu còn khả năng lợi tế tất
cả chúng sanh? Cho nên Nhiếp Thiện Pháp Giới có
khả năng lựa lọc, mò bắt chính mình ra khỏi
biển khổ sanh tử giống như màng lưới.
Riêng về Nhiếp Luật Nghi
Giới đặc biệt ngăn cấm chúng sanh không cho
tạo ác, khác nào dùng cái lồng để nhốt chim, không
cho chúng mặc ý hoạt động. Chúng ta sở dĩ
thường hành động trái phạm giới luật là
do không dùng mành lưới Luật Nghi Giới để
nhốt tâm chúng ta cho chắc chắn, để nhờ
đó, chúng ta có thể hành động trong một phạm
vi thích đáng, không vi phạm Giới Luật.
Lại còn một thuyết nữa, cho
rằng “giới tướng Bồ Tát giới quá nhiều
như trần sa, vi tế khác biệt, xen lộn, xuất
nhập, khuất khúc, thật khó nhận thức
được, nên dụ như mành lưới”. Mành
lưới giới pháp này sẽ thúc đẩy hành giả
đi trên con đường giải thoát, chứ không
phải thúc phược (6) mình và người.
Bốn chữ “Phật thuyết
Phạm Võng” là thuộc về Biệt Ðề của kinh
này. Nhưng phần Biệt Ðề chỉ có hai chữ
Phạm Võng, còn hai chữ “Phật thuyết” là Thông Ðề,
vì rất nhiều kinh, trong phần tựa đều mang
hai chữ “Phật thuyết” ở phía trước như
Phật thuyết A Di Ðà Kinh, Phật thuyết Bát Ðại
Nhơn Giác kinh...
Phần cần giảng tiếp theo là chữ Kinh,
thường được đặt ở phần
rốt sau của tựa đề. Kinh là chữ thuộc
về Thông Ðề, vì nó mang tính chất phổ biến với
tất cả kinh điển Ðại Thừa lẫn
Tiểu Thừa, Hiển Giáo và Mật giáo. Tất cả
đại tạng giáo của đức Thế Tôn tuyên
thuyết đều gọi là Kinh. Chữ Kinh ở Ấn
Ðộ gọi là Tu-đa-la, Tu-đố-lộ, hay
Tố-đát-lãm, Trung Hoa dịch là Khế Kinh.
Khế kinh theo nghĩa thông
thường giải thích:
Thượng khế
chư Phật chi diệu lý,
Hạ khế chúng
sanh chi cơ nghi.
Nghĩa là: trên khế hợp với
giáo lý của chư Phật, dưới thì khế hợp
với cơ nghi của chúng sanh, nên gọi là Khế Kinh.
Nhưng thông thường gọi vắn tắt là Kinh,
ấy là bỏ bớt chữ Khế.
Thật ra, chữ Kinh mang ý nghĩa
chữ Tuyến (sợi chỉ), có tác dụng xỏ xâu
lại những vật rời rạc nhau. Chẳng
hạn, những đóa hoa trên bàn đang rời nhau, không
thể đeo vào cổ tay hay vòng lên đầu
được, nếu dùng sợi chỉ xâu tất cả
đóa hoa ấy lại, sẽ thành một vòng hoa, dùng làm
đồ trang sức.
Ngôn giáo của Phật cũng như
thế. Vốn là từ trong bể Ðại Giác lưu
lộ ra. Giảng xong là hết chuyện, nhưng nhờ
sự biên tập và ghi chép lại của các đệ
tử Phật, tập trung tất cả lời dạy
của đức Phật đã tuyên thuyết, tổ
chức lại cho có hệ thống, điều lý, quy
củ hẳn hòi, thành ra một đại tạng kinh.
Các tạng kinh này được
sắp xếp theo từng bộ, loại, khiến cho
mọi người nói chung, giới Phật tử nói riêng,
đều có thể thọ trì đọc tụng một
cách tiện lợi, đặc biệt đối với
ngôn giáo của Phật đã giảng, nhờ việc này mà
không đến nỗi “người hành pháp không còn”, nên
gọi là Kinh.
Căn cứ vào kinh Phạm Võng thì Tâm
Ðịa giới pháp bao gồm mười giới trọng,
bốn mươi tám giới khinh, vốn khác biệt vì
tính chất khinh và trọng. Nếu đem mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh
của đức Phật đã nói, quán xuyến và
nhiếp trì lại thành một bộ Bồ Tát Giới Kinh
duy nhất, cũng như những hạt ngọc trong mành
lưới của Ðại Phạm Vương, vốn là
những hạt ngọc rời rạc. Sở dĩ chúng
trở thành mành lưới báu là do dùng chỉ xâu lại
mới thành.
Trên đây, chữ Kinh đã
được giải thích là Tuyến. Ngoài ra, có những
danh từ để định nghĩa chữ Kinh như
Dũng Tuyến, Thằng Mặc v.v... ở đây giảm
bớt không đề cập nhiều, vì xét thấy không
quan hệ lắm.
Về phần Ðề Mục của
phẩm, cần phải hiểu tại sao là gọi là
Bồ Tát Tâm Ðịa Phẩm?
Theo kinh tạng từ trước
đến nay, phẩm này là phẩm thứ 10, trong số
61 bộ Quảng Luật Bồ Tát. Ðức La Thập khi
dịch phẩm này đã chia ra thành hai quyển
thượng và hạ:
- Quyển thượng giảng về
giai cấp tu chứng, lý trí quán hạnh của Bồ Tát,
nghĩa là gồm 30 tâm và Thập Ðịa.
- Quyển hạ giảng về Tâm
Ðịa Giới pháp của Bồ Tát. Chính là mười
giới trọng và 48 giới khinh.
Trước tiên, xin giải thích sơ
lược danh từ Bồ Tát. Bồ Tát là chữ gọi
tắt của tiếng Ấn Ðộ, nói đủ là
Bồ Ðề Tát Ðỏa, Trung văn gọi là Giác Hữu
Tình hoặc Ðại Ðạo Tâm Chúng Sanh, cũng gọi là Khai
Sĩ, hoặc Ðại Dũng Tâm.
Kinh Ðại Phẩm Bát Nhã thuyết minh:
“Người này có Ðại Ðạo Tâm không thể nào làm
hư hoại, cũng như kim cương (rất
cứng chắc). Ðầu tiên từ khi mới phát tâm
đến cuối cùng thành bậc Ðẳng Giác, đều
gọi là Bồ Tát”.
Vì thế, quá trình của một vị
Bồ Tát thật lâu dài. Trong quá trình dài xa ấy, trình
độ tu chứng của một vị Bồ Tát
được phân ra làm hai cấp cao, hạ khác nhau. Trong
kinh cũng như vậy, Bồ Tát được phân chia
thành nhiều giai cấp, địa vị sai khác như 30
tâm và Thập Thánh v.v...
Vì vậy, phàm người đã phát tâm
Bồ Ðề, tu hạnh Bồ Tát lợi mình, lợi
người, lấy việc cầu thành Phật
đạo làm mục đích, đều gọi là Bồ
Tát. Ðối với tất cả hành giả trong Phật pháp,
Bồ Tát là bậc quý nhất, hành giả bên Nhị
Thừa không thể bì kịp, nên trong kinh có câu: “Sơ phát
dĩ vi nhơn thiên sư; thắng xuất Thanh Văn,
Duyên Giác”. Nghĩa là: Người mới phát tâm Bồ
Ðề, đã là bậc thầy của nhân, thiên,
vượt lên trên bậc Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên
Giác, chính là ý nghĩa này vậy.
Tiếp theo xin giải thích hai chữ
Tâm Ðịa:
- Tâm Ðịa chính là chỉ thẳng vào
vùng đất bổn nguyên của tâm tất cả chúng
sanh.
- Cảnh giới chứng đắc
của chư Phật là chứng ngay Tâm Ðịa này.
- Chỗ mê muội của chúng sanh
cũng chính là sự mê muội ngay trong Tâm Ðịa này.
Cho nên
đức Như Lai đã qua lại trong tam giới hơn
tám nghìn lần, không lần nào lại không vì mục đích
duy nhất: Phát minh bổn nguyên Tâm Ðịa cho tất cả
chúng sanh. Vì vậy, Phật khuyên bảo tất cả chúng
sanh nên y theo Tâm Ðịa này bẩm thọ bảo giới
Phật Tánh, làm chỗ tu nhơn căn bản,
hướng về Phật Quả tối cao mà thẳng
tiến, cho nên mệnh danh là Tâm Ðịa.
Bổn nguyên Tâm Ðịa này là tâm của
chúng sanh, nhưng không thể dùng tai nghe, mắt thấy
được; cũng không thể dùng tâm thức mà suy
tư được. Nếu nói lớn thì nó rất
lớn, không có gì ra ngoài nó được. Nhược
bằng cho là nhỏ thì nó rất nhỏ không thể chứa
vật gì bên trong, rỗng rang, sáng suốt, vắng
lặng, thường hằng, tuyệt danh, tuyệt
tướng, vô cùng linh minh.
Tất cả pháp giới, tất
cả chúng sanh hữu tình và vô tình đồng nương
nơi Tâm này. Tâm tánh thanh tịnh này của chúng sanh, xưa
nay vẫn thanh tịnh, nhưng vì bị phiền não làm
nhiễm ô, nên biến thành cảnh tượng tạp
nhiễm. Những tạp nhiễm này chẳng qua là khách
trần.
Hiện tại chúng ta chỉ cần
nương nơi Tâm Ðịa giới pháp này, từ lúc
sơ phát tâm chho đến bực Ðẳng Giác đại
sĩ, mà tu tập theo từng giai cấp, địa
vị. Cứ lên mỗi giai cấp, địa vị,
những ô nhiễm khách trần sẽ dần dần
được tước bỏ khiến cho Tâm Ðịa giới
được thành tựu kiên cố. Một ngày kia,
chứng nhập quả vị Diệu Giác, giới thể
được viên tịch, tất cả ác pháp
được vĩnh viễn tịch trừ, muôn pháp lành
được hoàn thành mỹ mãn, ấy chính gọi là Lô Xá
Na Phật (7).
Như trong quyển thượng
của kinh này thuyết minh: “Ngã dĩ bá kiếp tu hành
thị Tâm Ðịa, hiệu ngô vi Xá Na” (Ta trải qua trăm
ngàn a tăng kỳ kiếp tu tập tâm địa này, ta
được hiệu là Lô Xá Na).
Ðức Lô Xá Na sở dĩ
được gọi như vậy, không phải ngẫu
nhiên mà được, mà là do tu tập tâm địa này và
được chứng đắc. Chư Bồ Tát trong
nhân vị tâm địa này, muôn đức đều tu,
chính là dùng bổn nguyên tâm địa giới làm diệu
dụng duy nhất. Quả vị thù thắng nhờ đó
phát sinh. Cũng như quả đại địa có công
năng trưởng dưỡng tất cả vạn
vật nên gọi là Tâm Ðịa.
Nếu phân chia mà nói, có người dùng
30 tâm để giải thích chữ Tâm; dùng Thập Ðịa
để giải thích chữ Ðịa. Họ không biết
rằng ba mươi tâm đều là chỗ đi quả
của chư Bồ Tát. Không có 30 tâm thì không thể nào
xuất sanh diệu quả thù thắng. Cho nên mỗi tâm
đều có thể gọi là Ðịa.
Ðến như thể tánh của
Thập Ðịa, mỗi mỗi địa đều
thống nhiếp vạn pháp, không địa nào chẳng
phải là diệu tâm của Bồ Tát. Cho nên mỗi
địa đều có thể gọi là Tâm.
Tóm lại:
Nếu muốn tu tập các pháp lành,
tăng trưởng Bồ Ðề tâm, chỉ có thể
nương theo Kim Cương Quang Minh Bảo Giới
sẵn có đủ trong Tâm Ðịa này, tu tập mới
chứng đắc diệu quả thù thắng.
Cuối cùng, xin lược giải
về ý nghĩa chữ Phẩm:
Chữ Phẩm nghĩa là thể
loại, nghĩa là đem từng loại, từng thứ
để tập hợp lại một chỗ mà giải
thích rõ ràng, nên gọi là Phẩm.
Chú thích:
(1) Hạng mục: Hạng là phần
phía sau của cổ, tục gọi là gáy hoặc ót;
Mục là đôi mắt. Hai thứ trọng yếu của
cơ thể con người, ám chỉ sự trọng
yếu của tịnh giới.
(2) Hoàng môn nhị hình: Người bán
nam bán nữ, làm thái giám trong cung vua nên gọi là hoàng môn.
(3) Kình tiếp: Kình là vác đồ
vật đưa lên cao, ở đây dùng hai chữ “kình
tiếp” để hình dung đức Bổn Sư lúc
ấy dùng thần thông tiếp dắt đại chúng,
chư Thiên, chư Bồ Tát v.v... Cũng như trong kinh Duy
Ma Cật thuyết minh đức Bồ Tát Duy Ma Cật
tiếp lấy toàn thế giới Hương Chúng của
đức Bất Ðộng Như Lai, luôn cả đức
Phật và chư Ðại Bồ Tát đem đến cõi Ta Bà
này. Ngài cầm trên tay cả đại chúng mà xem giống
như chỉ cầm một cái tràng hoa nhẹ nhàng.
(4) Phu dương: phu là bày ra, giăng
ra; dương là làm dấy lên, cất lên, khen ngợi.
Phơi bày, đăng ra làm cho mọi người
đều thấy biết được để tán
tụng, khen ngợi.
(5) Thúc phược: Thúc: buộc
lại thành bó; phược: lấy dây mà buộc.
(6) Từ Lô Xá Na: Kinh Văn quyển
Thượng có chép 2 đoạn:
Ðoạn 1:
Ðức Lô Xá Na tự thuật: “Ngã
dĩ bá a tăng kỳ kiếp, tu hành tâm địa, dĩ
chỉ vi nhơn. Sơ xả phàm phu, thành Ðẳng Chánh Giác,
hiệu vi Lô Xá Na” (Ta đã tu tập tâm địa, trải
qua trăm a tăng kỳ kiếp, lấy tâm địa làm
nhơn, ban sơ bỏ hẳn tâm phàm, thành bậc vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Do đó, ta
được danh hiệu Lô Xá Na).
Ðoạn 2:
Cũng chính đức Lô Xá Na tự
thuật: “Ngã dĩ bá kiếp tu hành thị tâm địa,
hiệu ngô vi Lô Xá Na” (ta đã trải qua thời gian
trăm kiếp tu tâm địa này, hiện thời gọi
ta là Lô Xá Na).
Trong Giới Bổn Việt văn
dịch hai câu trên là: “Ta đã từng trăm a tăng
kỳ kiếp tu tập tâm địa này, do đó ta
được hiệu là Lô Xá Na”.
Dù là không phù hợp với kinh văn,
vì đoạn này chỉ nói là “bá kiếp” chứ không nói “bá
a tăng kỳ kiếp”, nhưng thật sự không
phải sai, vì Hòa Thượng Vạn Ðức căn cứ
vào đoạn kinh văn bên trên. Sau đó, Hòa Thượng
có chú thích ở số 11, trong phần chú thích.
1. Lô Xá Na:
phiên âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Quang Minh
Biến Chiếu, có hai nghĩa:
- Bên trong dùng trí quang chiếu nơi
Chơn Pháp Giới. Ðây là chỉ về sự tự
thọ dụng thân để giải rõ.
- Bên ngoài dùng thân quang chiếu ứng
đại cơ. Ðại Cơ chỉ cho Ðại Thừa
Bồ Tát. Ðiều này chỉ về sự tha thọ
dụng thân để thuyết minh.
Ngoài ra, còn một từ dịch
chữ Lô Xá Na là Tịnh Mãn:
- Tịnh: tẩy trừ tất cả
các ác pháp. Ứng theo nghĩa Quả Báo là ngăn chặn
việc ác để thuyết minh.
- Mãn: Tất cả các công đức
đều được thực hiện một cách
trọn vẹn và đầy đủ. Ở đây căn
cứ vào Quả Báo hiện hành mà thuyết minh.
Tịnh Mãn nghĩa là căn cứ
phần lớn vào sự Tự Thọ Dụng mà mệnh
danh. Quang Minh Biến Chiếu nghĩa là căn cứ vào
nơi sự Tha Thọ Dụng để đặt
hiệu.
2. Phân tích về sự sai biệt
của hai từ “a tăng kỳ kiếp” và “bá kiếp”
trong hai đoạn kinh văn nêu trên:
Ðức Lô Xá Na tự thuật Ngài đã
tu hành trải qua trăm a tăng kỳ kiếp. Cũng
chính đức Lô Xá Na tự thuật là Ngài đã tu hành
trải qua trăm kiếp.
Theo trong bộ “Phật thuyết
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tâm Ðịa”, phẩm
hạ, phần sơ lược của Tổ Hoằng Tán
vào triều nhà Minh, thì Tổ giải thích rằng:
- Ý thứ nhứt: theo kinh văn
phần trước, đức Lô Xá Na tự thuật
rằng Ngài đã trải qua trăm a tăng kỳ
kiếp để tu tập pháp môn Tâm Ðịa.
Ðoạn kinh văn phần sau cũng
chính nơi Kim Khẩu của Ngài tự thuật, chỉ
nói có trăm kiếp.
Tổ Hoằng Tán cho đây là có lẽ
đức Lô Xá Na nói vắn tắt, nghĩa là muốn nói
cho đủ phải là trăm a tăng kỳ kiếp.
- Ý thứ hai: Tổ Hoằng Tán cho
rằng đức Lô Xá Na sau khi trải qua trăm a tăng
kỳ kiếp tu hành viên mãn. Sau đó, lại phải
trải qua trăm kiếp để tu nhân tướng
hảo.
Nam mô A Di Ðà Phật!
Dịch giả y theo các kinh, kính thuật những dòng
chú thích vừa nêu trên, là có ý thành khẩn, muốn cho
tất cả quý đại sĩ khi đọc bộ
Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn
Giảng Ký này nếu là người trí thì nên tự suy
tư với việc tu hành. Ðối với pháp môn của
Phật dạy, dù có 84.000 pháp môn, nhưng tóm tắt
lại, không ngoài hai môn Tự Lực và Tha Lực.
- Về pháp môn Tự Lực, như
đức Lô Xá Na tự thuật, Ngài đã tu hành trải
qua trăm a tăng kỳ kiếp.
- Về pháp môn Tha Lực, tức là
chỉ cho pháp môn Tịnh Ðộ, dùng Tín, Hạnh, Nguyện
làm ba món tư lương. Nếu y theo kinh pháp đức
Phật đã dạy mà thực hành, thì chỉ trong một
thời gian ngắn ngủi, sau khi xả báo thân, sẽ
được vãng sanh về Cực Lạc thế giới.
Khi đã được vãng sanh, liền vào ngôi Bất
Thối Chuyển.
Chính trong kinh Phật thuyết A Di Ðà,
đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thân tuyên: “Nhược
hữu chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí”
(đối với quả vị Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác không còn thối chuyển nữa).
Tu theo pháp môn Tịnh Ðộ này:
- Bực thượng căn,
thượng trí thì được nhất tâm bất
loạn.
- Bực hạ căn, hạ trí dù là
nghiệp chướng sâu dày, nhưng nếu dùng tâm chí thành
khẩn thiết, thâm tín phát nguyện mà niệm Phật thì
cũng nhất định được vãng sanh.
- Cho đến người suốt
đời tạo nghiệp, lúc lâm chung, được
gặp thiện tri thức nhắc nhở, dạy bảo,
chỉ xưng danh hiệu Từ Phụ A Di Ðà Phật trong
mười niệm cũng được vãng sanh. Khi
đã vãng sanh rồi, đều vào ngôi Bất Thối
Chuyển.
Nên trong kinh dạy: “Y theo pháp môn
Niệm Phật mà tu trì thì rất dễ dàng như
người đi thuyền, đã gặp nước xuôi,
gió thuận, mà lại trương buồm lên thì lo gì đi
không tới bến. Y theo pháp môn khác mà tu trì thì khác nào con
kiến trèo lên ngọn núi cao nghìn trượng. Thật hoàn
toàn vô hy vọng!”
Thưa quý đại sĩ!
Là người có trí, phải tự suy
tư trong hai con đường: một rất dễ, hai
rất khó, nên lựa chọn mà đi. Trong kinh Bổn
Nghiệp Anh Lạc bên trên đã thuyết minh về
thuật ngữ “a tăng kỳ kiếp” là để
nhấn mạnh ở trong vô số kiếp như thế,
nếu người nào phát tâm Bồ Ðề, thực hành
Bồ Tát đạo, được gặp chư Phật
thì mới có hy vọng đi trên đường giải
thoát và thành Phật. Còn những người nào chưa
ở trong số ấy thì hoàn toàn vô phận.
3. Thuật
ngữ A Tăng Kỳ kiếp:
Chữ Kiếp là gọi tắt
của tiếng Phạn, gọi đầy đủ là
“kiếp-bà bát-đà”, Trung Hoa dịch là Ðại Thời
Phần. Do vì thời gian quá lâu, không thể dùng năm tháng
thông thường để tính được.
Như trong kinh Anh Lạc Bổn
Nghiệp thuyết minh:
“Thí như dùng một tảng đá
vuông vức, cạnh dài một dặm, hai dặm, cho
đến bốn mươi dặm. Dùng một chiếc
thiên y, nặng chỉ ba thù (đơn vị đo
lường của Trung Hoa, tương đương
với năm lượng). Lấy đơn vị
thời gian của thế gian, cứ ba năm một
lần, dùng chiếc thiên y ấy phất qua một cái. Bao
giờ tảng đá này mòn hết thì chính là một tiểu
kiếp.
Nếu đem tảng đá vuông
vức, mỗi cạnh dài 80 dặm, dùng chiếc thiên y
của trời Phạm Thiên nặng ba thù. Lấy
đơn vị ở cõi trời Phạm thiên mà tính,
cứ đúng ba năm một lần, dùng chiếc thiên y
ấy phất qua một cái. Bao giờ tảng đá này mòn
hết thì tính là một trung kiếp.
Nếu đem tảng đá vuông
vức, mỗi cạnh dài 800 dặm, dùng chiếc thiên y
ở cõi trời Tịnh Cư, nặng ba thù. Lấy
đơn vị thời gian ở cõi trời Tịnh
Cư mà tính, ba năm một lần, dùng chiếc thiên y
ấy phất qua một cái. Bao giờ tảng đá này mòn
hết thì tính là một đại ta tăng kỳ
kiếp”.
Lưu ý:
Tiểu, trung, đại a tăng
kỳ kiếp khác với tiểu kiếp, trung kiếp và
đại kiếp trong các kinh thường nói. Vì tiểu,
trung và đại kiếp trong các kinh thường nói có
thể tính đếm được.
Cứ 20 tiểu kiếp hợp
lại thành một trung kiếp, 4 trung kiếp hợp
lại thành một đại kiếp. Như vậy,
cứ 80 tiểu kiếp là một đại kiếp. Niên
số tính như sau:
1 tiểu kiếp = 1.680 vạn năm =
1.680 x 10.000 năm.
1 trung kiếp = 1.680 x 10.000 x 20 =
336.000.000 năm.
1 đại kiếp = 336.000.000 x 4 =
1.344.000.000 năm.
Luận về đơn vị
thời gian tính bằng niên số thì hoàn toàn khác nhau
giữa các cõi nhân gian, trờiPhạm thiên và trời
Tịnh Cư.
Niên số ở nhân gian không cần
đề cập vì mọi người đều
biết.
Niên số ở cõi trời Phạm
Thiên, tức là trời Sơ Thiền, thuộc về cõi
Sắc, gồm có 3 tầng:
1) Tầng trời Phạm Chúng
2) Tầng trời Phạm Phụ
3) Tầng trời Ðại Phạm.
Trong kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp
chỉ nói Phạm Thiên tức là một trong ba tầng
trời cõi Sơ Thiền. Muốn biết niên số ở
cõi trời Phạm Thiên phải y cứ theo sáu cõi trời
ở Dục Giới mà tính. Thọ mạng của chư
Thiên nơi cõi trời Tứ Thiên Vương là năm
trăm năm. Một ngày một đêm ở cõi trời
Tứ Thiên Vương bằng nửa thế kỷ
chốn nhân gian. Thọ mạng của chư Thiên nơi
cõi Trời Ðao Lợi đúng một ngàn năm. Một ngày
đêm ở cõi trời Ðao Lợi bằng một trăm
năm ở thế gian. Cứ lấy các số
tương ứng này nhân lên thì tính được thọ
mạng của chư Thiên cõi trời Tứ Thiên
Vương và Ðao Lợi.
Thọ mạng của chư Thiên cõi
trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu là ba vạn hai ngàn
năm. Một ngày đêm ở cõi Trời Tha Hóa Tự
Tại tính theo niên số ở thế gian dài đến
một ngàn sáu trăm năm. Niên số này tăng gấp
đôi ở mỗi tầng trời Phạm Chúng, Phạm
Phụ và Ðại Phạm thuộc cõi Sơ Thiền,
nghĩa là:
Một ngày đêm ở cõi trời
Phạm Chúng = 1.600 x 2 = 3.200 năm của thế gian.
Một ngày đêm ở cõi trời
Phạm Phụ = 3.200 x 2 = 6.400 năm của thế gian.
Một ngày đêm ở cõi trời
Ðại Phạm = 6.400 x 2 = 12.800 năm của thế gian.
Cứ như vậy nhơn lên mãi
sẽ suy ra được thọ mạng của chư
Thiên cõi trời Tịnh Cư.
Trời Tịnh Cư gồm có năm
cõi:
- Vô Phiền Thiên.
- Vô Nhiệt Thiên.
- Thiện Kiến Thiên.
- Thiện Hiện Thiên.
- Sắc Cứu Cánh Thiên.
Năm cõi trời này trong kinh gọi là
Ngũ Tịnh Cư thiên, là nơi của Ðệ Tam Quả
A Na Hàm thánh nhân cư trú.