Lời Trần Tình
Đối với
hàng Phật tử tại gia, một nguyên tắc gần
như bất di bất dịch là không được xem,
đọc giới luật của hàng xuất gia, huống
chi là chuyển ngữ cho mọi người cùng xem. Sa Di Luật
Nghi là giới luật của hàng xuất gia; do vậy, lẽ
đương nhiên người Phật tử tại gia
không nên lạm xem, lạm dịch. Tuy thế, trong các buổi
thuyết giảng hoặc khai thị, Hòa Thượng Tịnh
Không thường đặc biệt nhấn mạnh:
Người tu Tịnh Tông sở dĩ niệm Phật
không đạt được nhất tâm, hay tối thiểu
không thể “niệm Phật thành phiến” là vì thiếu một
cơ sở vững chắc là Tịnh nghiệp Tam Phước.
Để thực hiện viên mãn Tịnh nghiệp Tam Phước,
các đồng tu Tịnh Tông phải học và hành
được những gì Thập Thiện Nghiệp Đạo
Kinh, Sa Di Luật Nghi và Đệ Tử Quy đã dạy.
Hòa Thượng nhấn mạnh, không những người
xuất gia phải học kỹ Sa Di Luật Nghi mà tại
gia đệ tử cũng phải học Sa Di Luật Nghi
vì Sa Di Luật Nghi chính là chi tiết của việc thực
hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo. Khi pháp sư
Ngộ Sanh yêu cầu chúng tôi chuyển ngữ bài giảng
này của Hòa Thượng Tịnh Không về Sa Di Luật
Nghi sang tiếng Việt, chúng tôi cũng rất đắn
đo, không biết có nên làm hay không. Tình cờ đọc lại
lời Tổ Ấn Quang khuyên dạy ông Từ Úy Như
trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên:
“Người
chưa thọ giới chẳng được xem Luật
Tạng:
1)
Một là vì sợ kẻ chưa hiểu lý sâu, trông thấy
hành vi của những người phạm giới cấm,
chẳng biết là bậc Đại Quyền Bồ Tát thị
hiện, vì mong Phật chế giới hòng lợi lạc
cho đời sau, bèn hiện tướng chẳng như
pháp để Phật có dịp chế lập giới, nêu
khuôn phép. Do chẳng hiểu lý này, chỉ căn cứ vào
những hành vi trước mắt, cho là khi Như Lai tại
thế, các đệ tử Phật phần nhiều chẳng
như pháp. Từ đấy, khởi lên tà kiến miệt
thị Tăng chúng, tội đó chẳng nhỏ.
2)
Hai là những chuyện trong Luật Tạng chỉ Tăng
được biết, nếu để kẻ chưa phải
là Tăng đọc được, rất có thể có kẻ
ngoại đạo giả vờ dự vào hàng Tỳ-kheo,
làm chuyện sai pháp, vu báng Phật pháp thì hại chẳng nhỏ.
Do
vậy, nghiêm cấm như thế là để dự phòng.
Còn như kẻ hảo tâm hộ pháp, giảo chánh, lưu
thông, há có nên cứ tuân theo thường lệ chăng? Nếu
chấp chặt vào lời ấy thì Luật phải do
Tăng chép, Tăng khắc, Tăng in, Tăng truyền mới
khỏi trái nghịch cấm chế của Phật. Vạn
sự trong thiên hạ đều có lý nhất định,
làm điều gì phải thuận theo cái lý nhất định,
nhưng cách thực hiện thì phải tuân theo cái đạo
thích nghi thời tiết, nhân duyên. Lý khế hợp với
Quyền, pháp phù hợp cùng đạo mới nên”. Dựa
theo lời dạy này, chúng tôi cảm thấy yên tâm chuyển ngữ mà không
sợ làm chuyện trái phận vượt lẽ.
Hơn nữa, những
gì được giảng dạy trong phần Sa Di Luật
Nghi này, theo ngu ý, rất thiết thực trong vấn đề
trì giới cho tất cả mọi người con Phật,
có thể vận dụng làm
cương lãnh cho việc tu trì của Tịnh nghiệp
hành nhân nói riêng và thọ trì giới luật nói chung, nên chúng
tôi mạo muội dịch ra với tâm nguyện góp phần
tạo chút tư lương thô thiển cho các đồng
tu. Tiếc là do một lý do nào đó, có lẽ vì thời
gian hạn chế, Hòa Thượng Tịnh Không chỉ giảng
có năm buổi, rồi không tiếp tục giảng nữa.
Nếu việc làm đường đột, vượt
pháp này có chút công đức nào thì xin hồi hướng cho
pháp giới chúng sanh cùng được dự vào hải hội
của đức từ phụ A Di Đà. Trân trọng cảm
tạ công sức giảo chánh và nhuận sắc của hai
đạo hữu Minh Tiến và Huệ Trang khiến cho dịch
phẩm này được gãy gọn và lưu loát hơn. Nguyện
lịch đại oán thân và các đồng tu Tịnh nghiệp
nhờ công đức này đều cùng vãng sanh Cực Lạc.
Bửu Quang Tự đệ tử Như
Hòa kính bạch
Phần 1:
Phương
pháp nghiên cứu của chúng ta là chỉ giảng kinh
văn, còn phần chú giải [quý vị] tự xem, thấy
chỗ nào thắc mắc thì nêu lên [câu hỏi]. Nếu không
có câu hỏi nào, chúng tôi sẽ giảng tiếp đoạn
kinh văn kế đó. Phần kinh văn được in
theo lối đảnh cách[1],
còn phần chú giải thấp hơn một chữ, rất
rõ ràng, rất dễ thấy. Để cho tiện xem, mọi
người đều nên đánh số từng đoạn
kinh văn, để sau này chúng tôi nói đến đoạn
mấy, mọi người mở ra đều đúng chỗ
ngay. Chúng ta xem từ đoạn thứ nhất. Đoạn
thứ nhất nằm trong trang thứ hai. Bản chúng ta dùng đây không in số
trang, số trang ghi bên cạnh, tức là từ nửa phần
sau trang thứ nhất đếm ngược lên ba hàng.
Nhất, Phạn
ngữ Sa Di, thử vân Tức Từ, vị: Tức ác hành
từ; tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã.
Diệc vân Cần Sách, diệc vân Cầu Tịch.
(Một: Tiếng Phạn “Sa Di”,
ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành
điều từ, dứt nhiễm ô thế gian mà từ bi
cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch
là Cầu Tịch)
Đây là đoạn thứ nhất,
ở đầu câu ghi chữ Nhất, tức là đoạn
thứ nhất. “Sa-di” là dịch âm tiếng Phạn. “Phạn ngữ
Sa-di”: Tiếng Ấn Độ thời cổ gọi là
Sa-di, dịch sang tiếng Trung Quốc có ba nghĩa. Đây
cũng là vì thời xưa dịch kinh có cái lệ như thế
này: Một chữ bao gồm nhiều nghĩa thì không dịch.
Danh từ này có rất nhiều ý nghĩa, chẳng phải
chỉ có một ý nghĩa; trong từ vựng tiếng Trung
Quốc không tìm được chữ thích đáng để
phiên dịch bèn dịch âm, sau đó kèm thêm chú giải, cách phiên
dịch là như vậy đó. Ý nghĩa phổ biến nhất
[của chữ Sa Di] là “Tức Từ”, nên giảng chữ
Tức Từ như thế nào? Tiếp theo đó, [chánh
văn] chú giải rất rõ ràng, “vị: Tức ác hành từ” (ý nói: Dứt ác, hành điều từ). “Ác”
chỉ cho nhiễm ô thế gian, thế gian nhiễm ô tâm
địa của chúng ta, nhiễm ô tư tưởng, kiến
giải của chúng ta. Chữ “Ác” chỉ cho những điều
đó, chúng ta phải đoạn trừ những ô nhiễm
ấy. Ý nghĩa này hoàn toàn giống như trong kinh Vô Lượng
Thọ, đức Phật đã dạy chúng ta “tẩy
tâm dịch hạnh” (rửa lòng đổi hạnh): Phải
rửa cho những ô nhiễm trong tâm sạch làu làu, phải
sửa đổi cho đúng hết thảy những hành vi
lầm lạc của chúng ta, đó gọi là “đổi
hạnh”. Câu này luận về nguyên tắc, nguyên lý, chứa
đựng ý nghĩa rất sâu, cảnh giới rất rộng.
Hãy đặc biệt ghi nhớ: Pháp thế gian nhiễm ô
tâm tánh chúng ta, pháp xuất thế gian cũng nhiễm ô tâm
tánh của ta! Vì thế, Đại Thừa Phật pháp dạy
chúng phải vượt khỏi pháp thế gian lẫn xuất
thế gian. Không những chúng ta phải xa lìa pháp thế
gian, mà pháp xuất thế gian cũng phải xa lìa, có
như vậy mới hòng thật sự thành tựu.
Trong Phật giáo, chúng ta thường
thấy nhất là hoa sen, dùng hoa sen để biểu thị
pháp. Chúng ta thấy hình tượng Phật, Bồ Tát được
đắp nặn [trong tư thế] đứng thì đứng
trên hoa sen, ngồi thì ngồi trên hoa sen. Hoa sen tượng trưng
cho điều gì? Tượng trưng cho sanh ra từ bùn lầy
mà chẳng nhuốm nhơ, biểu thị ý nghĩa của
chữ “Tức Ác” (dứt ác). Bùn cát dưới mặt
nước tượng trưng cho lục phàm[2],
nước trong ở phía trên bùn cát tượng trưng cho
tứ thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Lục
phàm, tứ thánh hợp thành mười
pháp giới. Hoa sen nở trên mặt nước, ngụ ý cả
lục phàm lẫn tứ thánh thảy đều không nhiễm;
do vậy, học Phật chớ nên bị ô nhiễm bởi
Phật pháp.
Ô nhiễm là gì? Phân biệt, chấp
trước, vọng tưởng chính là ô nhiễm. Do vậy,
người học Phật hiện thời (chẳng phải
chỉ hiện tại, thời cổ cũng chẳng ngoại
lệ) chẳng nhiễm pháp thế gian, buông xuống
được [pháp thế gian], nhưng không buông Phật
pháp xuống được. Ở nơi Phật pháp bèn khởi
phân biệt, chấp trước thì lại bị ô nhiễm
bởi Phật pháp. Chẳng tham pháp thế gian, tâm tham buông
xuống được, nhưng tham lam Phật pháp! Quý vị
hãy suy nghĩ đi: Đức Thế Tôn dạy chúng ta
đoạn trừ tâm Tham, chứ không dạy chúng ta thay
đổi đối tượng của tâm Tham! Lòng tham của
quý vị vẫn còn, không tham pháp thế gian mà tham Phật
pháp, quý vị nói xem có sai quấy hay là không? Do vậy, chúng
ta trông thấy hình tượng Phật, Bồ Tát, trông thấy
hoa sen, phải nghĩ pháp thế gian hay pháp xuất thế
gian đều chẳng được nhiễm, đấy
mới là đạt được Nhất Chân pháp giới,
mới là chân chánh thanh tịnh.
Mấy
bữa nay chúng tôi đang giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao, nay
giảng đến đoạn này, Liên Trì đại sư
cũng giảng ý nghĩa này rất rõ ràng, minh bạch. Tức
là giảng đến phần Ngũ Giáo của ngài Hiền
Thủ[3],
Tứ Giáo[4]
của Thiên Thai.
Trong Ngũ Giáo nói đến Viên Giáo, Đốn Giáo, đấy
là pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều thật
sự buông xuống được. “Tức Ác” ở đây nghĩa là cái gì cũng
buông xuống được! Biệt Giáo Bồ Tát trong Tứ
Giáo của tông Thiên Thai được gọi là Chung Giáo
trong Hiền Thủ Ngũ Giáo. “Nhất tâm bất loạn”
của Chung Giáo tuy nói là buông xuống, nhưng Năng và Sở
vẫn tồn tại. Nói cách khác, tâm vẫn chưa thật
sự thanh tịnh. Bồ Tát từ Sơ Địa trở
lên trong Biệt Giáo mới là “minh tâm kiến tánh” như Thiền
Tông đã nói, nhưng vẫn chưa đạt đến viên
mãn. Nói đến rốt ráo viên mãn thì kể cả một
phẩm sanh tướng vô minh tối hậu cũng phải
buông xuống, dứt như vậy là dứt sạch sành
sanh, dứt ác mới sạch làu làu. [Điều này] cho thấy
ý nghĩa chữ Sa Di quyết định chẳng hạn
cuộc nơi Sơ Phát Tâm, “dứt
ác” giảng đến rốt ráo phải bao gồm cả
Đẳng Giác Bồ Tát thì mới là thật sự đạt
đến thanh tịnh vô nhiễm.
Ở đây nói đến “thế nhiễm” (nhiễm ô thế
gian), sợ mọi người nẩy sanh hiểu lầm
nên nói là “pháp thế gian”. Pháp thế gian là gì? Pháp xuất thế
gian là gì? Nếu chúng ta không phân biệt rõ ràng, sẽ làm hỏng
đại sự! Tôi cũng thường nói: Văn tự
Trung Quốc [là một loại văn tự mà] bất cứ
một dân tộc nào thuộc một quốc gia nào trên cả
thế giới cũng đều không có được. Văn
tự Trung Quốc là một loại phù hiệu đầy
ắp trí huệ. Quý vị xem kỹ chữ “thế gian”:
“Thế” chỉ thời gian. “Thế” là ba mươi, ba
mươi năm là một “thế”. Ba mươi năm
tượng trưng cho quá khứ, hiện tại, vị
lai. “Gian” là giới hạn. “Thế gian” và “thế giới”
có cùng một ý nghĩa là giới hạn. Ý nghĩa của
hai chữ này là: Thế là chấp trước, Gian là phân biệt.
Nói cách khác, chúng ta còn có phân biệt, chấp trước thì
là thế gian. Quý vị học Phật pháp, học Đại
Thừa Phật pháp hay học Nhất Thừa Phật pháp
đều trở thành pháp thế gian. Vì quý vị vẫn
có phân biệt, chấp trước, nên Nhất Thừa Phật
pháp cũng bị biến thành pháp thế gian; do vậy quý
vị mới bị ô nhiễm. Nếu như đối với
hết thảy pháp chúng ta không phân biệt, không chấp
trước thì pháp thế gian cũng là Phật pháp,
cũng là pháp xuất thế gian, xuất thế hết! Mặc
áo, ăn cơm, trẻ nhỏ trong vườn
trẻ (ấu trĩ viên - kindergarten) đọc “mèo con kêu, chú cún nhảy” đều là
giảng pháp xuất thế gian cho quý vị. Xuất thế
gian như thế nào? Vượt thoát phân biệt, chấp
trước, phải hiểu ý nghĩa “tức thế
nhiễm” (dứt nhiễm
ô thế gian) này. Nếu không, dù quý vị chẳng bị
pháp thế gian ô nhiễm, cũng sẽ bị Phật pháp
ô nhiễm, Phật pháp cũng thành pháp thế gian! Do vậy,
nếu quý vị không hiểu Phật pháp, Phật pháp
cũng trở thành thuốc độc, Phật pháp cũng
hại người, nhất định phải hiểu ý
nghĩa này.
Do vậy, trong hội Bát Nhã
đức Phật giảng rất rõ ràng: Chẳng những
đức Phật không có pháp nhất định nào để
nói, mà đức Phật cũng chẳng thuyết pháp. Ý
nghĩa [của lời dạy] này nhằm dạy quý vị
đối với hết thảy các pháp đức Phật
đã nói chẳng nên chấp trước, quý vị chỉ
nên hiểu được ý nghĩa này, hiểu rõ ý
nghĩa là tốt rồi, nhưng cũng chớ nên chấp
vào ý nghĩa. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã
Minh Bồ Tát dạy chúng ta những thái độ cơ bản
để học Phật:
1) Thứ nhất là “ly ngôn
thuyết tướng” (lìa tướng nói năng): Thích
Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, chớ chấp
trước những ngôn thuyết ấy. Sau khi đức
Phật diệt độ, hàng đệ tử chép lại
những lời Phật giáo huấn, trở thành kinh điển
như hiện tại. Những lời nói ấy biến
thành văn tự, chớ nên chấp trước lời
nói; cũng giống như thế, đừng chấp
trước văn tự!
2) Thứ hai là “ly danh tự
tướng” (lìa tướng danh tự). Chữ “danh tự
tướng” chỉ rất nhiều danh từ, thuật ngữ
trong kinh Phật. “Sa-di” là một danh từ, “thế gian”
cũng là một danh từ. Quý vị hiểu ý nghĩa bên
trong những danh tự ấy, đừng chấp trước
chúng.
3) Thứ ba là “ly tâm duyên
tướng”: Càng nói sâu hơn nữa! Nói cách khác, hết
thảy Phật pháp chúng ta có thể suy nghĩ, nghiên cứu
được hay chăng? Không thể nào được!
Nghiên cứu là rớt vào thức thứ sáu, tức Ý Thức,
bị ô nhiễm rồi, quý vị bị ô nhiễm bởi
Phật pháp rồi!
Chúng ta thường nghe câu nói
sau đây: Nhà Phật thường nói “y văn giải tự,
tam thế Phật oan” (y theo câu văn hiểu nghĩa
theo mặt chữ, ba đời Phật bị oan): Cứ
chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải
thích thì tam thế chư Phật (quá khứ Phật, hiện
tại Phật, vị lai phật) đều kêu oan uổng,
quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi! Tôi
cũng đã từng nói: Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện
giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người
hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải
Như Lai chân thật nghĩa” (hiểu cong vạy ý
nghĩa chân thật của Như Lai), hoặc “ngộ giải
Như Lai chân thật nghĩa” (hiểu lầm lạc ý nghĩa
chân thật của Như Lai). Quý vị xem: Có phải là
Như Lai kêu “oan uổng” hay không? Đấy chính là điều
không may, bị ô nhiễm bởi Phật pháp! Khó lắm! Phật
pháp khó là khó ở chỗ này. Chúng ta phải dùng được
nó, chớ đừng bị nó ô nhiễm, vậy thì quý vị
phải học cho ổn thỏa, học đúng vào đường
lối.
Học Phật pháp chẳng bị
ô nhiễm bởi Phật pháp, hết thảy Phật pháp
đều phải quy về tự tánh, điều này khẩn
yếu lắm. Nói cách khác, giúp cho chúng ta đạt
được tâm thanh tịnh, giúp chúng ta mở mang trí huệ,
đấy chính là Phật pháp. Chúng ta tu học không đạt
được tâm thanh tịnh, chẳng thể mở mang
trí huệ, [nghĩa là] chúng ta đã học Phật pháp lệch
lạc, có sai lầm. Do vậy, ý nghĩa của từ ngữ
“tức thế nhiễm”
(dứt nhiễm ô thế gian) rất sâu, phạm vi rất
rộng, nhất định phải hiểu cho rõ. Nếu
không, quý vị thọ Sa Di Giới, học thuộc nhuyễn
nhừ Sa Di Luật Nghi cũng vô ích. Quý vị bị Sa Di
Luật Nghi ô nhiễm rồi, vậy thì đáng tiếc
quá! Phải biết điều này!
“Hành từ”: Từ là từ
mẫn (thương yêu, xót thương) chúng sanh. Chúng sanh
luân hồi trong lục đạo, thật hết sức
đáng thương. Thoạt chìm thoạt nổi trong sáu
đường, người không biết chân tướng
sự thật nhiều lắm, rất ư là nhiều! Chỉ
có Phật, Bồ Tát, A La Hán trở lên mới thấy
được chân tướng ấy, các Ngài trông thấy,
thấy được rồi biết là khổ, mới hiểu
sự tình ấy đáng sợ. Người thế gian mờ
mờ mịt mịt, hồ đồ, không hiểu chân
tướng sự thật ấy. Chư Phật, Bồ
Tát biết chân tướng sự thật ấy,
thương xót hết thảy chúng sanh, toan nghĩ
phương pháp giúp cho những chúng sanh ấy giác ngộ,
giúp cho những chúng sanh ấy nhận thức chân tướng,
giúp cho họ thoát được biển khổ. Đấy
chính là sự nghiệp của Phật, Bồ Tát, chúng ta
thường gọi là “Như Lai gia nghiệp”. Như
Lai gia nghiệp tức là sự nghiệp của Như Lai,
sự nghiệp ấy chính là giúp cho chúng sanh lìa khổ
được vui. “Lìa khổ”
chính là thoát ly lục đạo luân hồi, đấy
đúng là đại sự. Quý vị nói xem: Có sự việc
nào trong thế gian lớn hơn được hay
chăng?
Vì thế, xuất gia không
đơn giản! Cổ nhân thường nói: “Xuất
gia phi tướng tướng chi sở năng vi” (tạm
dịch: Xuất gia không phải là chuyện hạng thống
soái, tể tướng có thể làm được). Tướng (將) là gì? Thống soái của ba quân. Tướng
(相) là gì? Tể tướng!
Do trong quá khứ là thời đại đế chế nên
chẳng thể nói là hoàng đế [không thể xuất
gia được], con người thông thường khi phú
quý đến cực điểm thì quan văn là tể
tướng, quan võ là thống soái, sự nghiệp xuất
gia này bọn họ không làm được. Sự nghiệp
của người xuất gia là phải nối gót đức
Phật, phải cứu độ hết thảy chúng sanh
khổ nạn, không thể nào so sánh được. Do vậy,
người xuất gia là Thiên Nhân Sư (thầy của trời
lẫn người).
Nay chúng ta xuất gia đã làm
được hay chưa? Giống hay không giống? Làm
không được, thậm chí đối với sự
hành trì, chúng ta còn làm càn làm quấy, thua cả người tại
gia; về phương diện này, người xuất gia
còn thua cả người tại gia. Quý vị phải lắng
lòng quán sát, vì sao tướng trạng lúc mất của người
xuất gia thường đều không tốt đẹp,
thường không bằng người tại gia? Tại Đài
Loan trong mấy năm qua, người tại gia đứng
vãng sanh, ngồi vãng sanh, biết trước lúc mất,
riêng tôi biết được mười mấy người,
những người tôi không biết, không nghe nói đến
còn nhiều hơn nữa! Vì sao? Người tại gia học
Phật chỉ cầu vãng sanh, họ không gánh vác Như Lai
gia nghiệp, nhưng người xuất gia phải gánh
vác Như Lai gia nghiệp, phải tận tâm tận lực
lay tỉnh người tại gia, lay tỉnh những kẻ
mê hoặc, điên đảo. Chúng ta có sứ mạng ấy,
có trách nhiệm ấy. Trong số những vị tại
gia, có vị thân không xuất gia nhưng tâm xuất gia,
cũng gánh vác Như Lai gia nghiệp như lão cư sĩ Lý
Tế Hoa ở Đài Loan, vãng sanh hiện tướng lành
hết sức tốt. Cụ là người sáng lập Liên
Hữu Niệm Phật Đoàn, làm vị đoàn trưởng
đầu tiên, như lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở
Đài Trung. Thân phận họ không khác gì người xuất
gia, hoàn toàn gánh vác Như Lai gia nghiệp.
Quán Trưởng hiện nay của
chúng ta cũng mang thân phận ấy, cũng gánh vác Như
Lai gia nghiệp, không xuống tóc, nhưng chúng ta coi bà
như Hòa Thượng. Thân thể bà thường hay bị
bệnh, tôi bảo bà: “Cái thân bệnh tật của bà đây
tôi có thể trị được, chỉ cần bà chịu
nghe lời, bảo đảm trị lành mọi bệnh tật
nơi thân. Phương pháp gì vậy? Cạo đầu láng
o đi, bệnh gì cũng không còn nữa!” Đầu bà ta cũng
không đau nữa. Đau đầu là vì đầu tóc chưa
cạo! Do vậy, tiểu đạo tràng này của chúng ta
quả thật gánh vác sứ mạng của Như Lai.
Đặc biệt là trong thời
kỳ Mạt Pháp, chư Phật Như Lai đều khuyên
chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng
ta tu học pháp môn này, hoằng dương truyền bá
cũng là pháp môn này, chúng ta phải tận tâm tận lực
hoằng dương pháp môn này cho được lớn
lao, rạng rỡ trong thời đại này. Chúng ta nghiêm
túc thực hiện, nỗ lực thực hiện, chúng ta
biết trong thời đại này có tai nạn rất lớn.
Tuy số người của chúng ta hoằng dương
pháp môn này không nhiều, nhưng nếu mỗi người
thật sự có thể tận tâm tận lực tự
hành, hóa độ người, dẫu chẳng thể hóa
giải tiêu trừ tai nạn ấy thì cũng có thể làm
giảm nhẹ tai nạn đó. Vì thế, phải nghiêm túc
tu học, nghiêm túc hoằng dương, đừng làm cho
có hình thức, đừng làm cho dễ coi, làm vậy vô ích,
hết thảy mọi sự phải cầu lấy thực
tế mới được, đấy là đúng. Đấy
chính là “từ tế chúng sanh”.
Ngoài ra, còn có hai ý nghĩa nữa,
một là Cần Sách, hai là Cầu Tịch. Hai ý nghĩa này
đều thuộc về tự lợi. “Tức Từ”
là tự lợi và lợi tha, Tức Ác (dứt ác) là tự
lợi, Từ Tế (từ bi cứu giúp người khác)
là lợi tha. Do vậy, ý nghĩa này rất viên mãn, giải
thích theo cách này rộng hơn. “Cần” (siêng năng)
là tinh tấn, “Sách” nghĩa là “cảnh sách” (nhắc nhở,
đốc thúc) chính mình, cổ vũ chính mình. “Cầu Tịch”:
Tịch là tâm thanh tịnh. Do vậy, người học Phật
chẳng cầu gì khác, chỉ cầu tâm địa thanh tịnh,
chẳng bị ô nhiễm; không ô nhiễm là thanh tịnh, ô
nhiễm là không thanh tịnh. Do vậy, chúng ta học Phật
phải đặc biệt chú ý sao cho không bị ô nhiễm
bởi Phật pháp. Pháp thế gian phải buông xuống,
đối với Phật pháp chúng ta cũng phải học
tập để buông xuống được, cũng
đừng chấp trước! Kinh Kim Cang nói rất hay: “Pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống gì phi
pháp). “Phi pháp” chỉ
cho pháp thế gian, “pháp” là Phật
pháp; Phật pháp lẫn thế gian pháp đều phải
buông xuống hết.
Nay chúng ta không phải là thánh
nhân, cũng chẳng phải là hạng căn tánh rất
bén nhạy, nghiệp chướng, tập khí, phiền não
hết sức sâu nặng. Trong Phật pháp, chúng ta chỉ
chọn lấy Tịnh tông, chỉ chấp lấy Tịnh
tông, bởi lẽ hoàn toàn không chấp trước thì hiện
nay chúng ta chưa thể làm được, không có cách nào cả!
Chỉ chấp trước Tịnh tông, còn hết thảy
kinh điển Đại Thừa khác chúng ta đều
buông xuống hết, như vậy là tốt! Với trình
độ, hoàn cảnh hiện thời của chúng ta, chỉ
có thể làm được như vậy. Kiên quyết chỉ
trì ba kinh một luận, hoặc là năm kinh một luận
của Tịnh Tông, hạ công phu nơi đó. Phải hạ
“độn công phu” (công phu kém cỏi, cùn nhụt), chúng tôi
thường nói là phải hạ “tử công phu”, [tức là] chết lòng trọn ý tu
học. Trong phần chú giải có câu hỏi gì hay không? Không
có câu hỏi thì chúng ta xem tiếp đoạn thứ hai.
Hỏi: Nói là “phát tâm từ bi”,
có phải là chúng ta đợi đến khi nào tâm địa
đối với tất cả mọi người đều
điều chỉnh thành bình đẳng rồi thì mới
phát tâm từ bi hay không?
Đáp: Phát tâm từ bi,
thương xót hết thảy chúng sanh phải làm ngay trong
hiện tại! Nếu đợi đến khi tâm mình bình
đẳng rồi mới làm thì sẽ biến thành Tiểu
Thừa. Phải làm ngay trong hiện tại, phải giúp
đỡ người khác, tận tâm tận lực giúp
người, làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu.
Lúc làm cũng chẳng chấp tướng, đừng mong
người khác báo đáp. Chúng ta bố thí ân huệ cho
người ta không cầu báo đáp thì tâm chúng ta bèn thanh tịnh,
cũng chớ nên nhớ canh cánh bên lòng “tôi làm bao nhiêu là việc
tốt, tôi giúp đỡ bao nhiêu là chúng sanh”, tâm quý vị bị
ô nhiễm, mất thanh tịnh rồi! Do vậy, đức
Phật dạy chúng ta “tam luân thể không”[5],
phải làm, tận sức làm, làm xong quên đi, chớ nên
chấp trước. Như vậy thì tâm mới thanh tịnh.
Đoạn thứ hai nơi
trang thứ ba, chúng ta xem dòng được in cao hơn:
Nhị, luật nghi giả,
thập giới luật, chư oai nghi dã.
(Hai: Luật nghi là mười
giới luật và các oai nghi)
Đoạn này giảng về
giới luật của Sa Di. Giới Sa Di tổng cộng gồm
mười điều. Trong Phật pháp, đặc biệt
là với người xuất gia, mười giới
điều này được gọi là Căn Bản Đại
Giới, bắt buộc phải tuân thủ. Mọi người
nhất định phải hiểu: Những người
mới học phải thọ Căn Bản Giới,
người đã tu lâu cũng phải thọ. A La Hán, Bích
Chi Phật cũng phải tuân thủ, Bồ Tát cho đến
tận địa vị Đẳng Giác Bồ Tát vẫn
phải tuân thủ. Chẳng được nói kẻ nọ
đã là Tỳ-kheo, đã là Bồ Tát, luật nghi Sa Di này có
thể không cần phải thọ nữa. [Nói] vậy là lầm
lẫn quá đỗi! Giống như cất nhà, dựng
nhà trước hết phải đắp nền, rồi mới
xây tầng thứ nhất, tầng thứ hai, tầng thứ
ba. Xây đến tầng thứ ba rồi không cần hai tầng
dưới nữa, có được hay không? Không có đạo
lý ấy! Do vậy, Căn Bản Giới từ lúc sơ
phát tâm cho đến khi thành Phật đều phải thọ
trì kiên cố, phải biết điều này. Nói cách khác, Bồ
Tát Giới có thể không cần thọ. Ta xây nhà có thể
không cần xây tầng thứ ba, còn có hai tầng dưới
thì vẫn có thể ở được. Giới Tỳ
Kheo có thể không cần thọ; ta vẫn có tầng trệt
để ở được. Quý vị phải hiểu
đạo lý này! Làm Tỳ-kheo không cần luật Sa Di nữa
giống như ta ở tầng hai, không cần đến
tầng trệt nữa, xong ngay, quý vị ngã lăn chiêng!
Hiểu rõ sự thật này thì quý vị mới hiểu được
tánh chất quan trọng của luật nghi Sa Di.
Nói thật ra, chúng ta thực hiện
tốt đẹp mười điều này, giới Tỳ
Kheo, giới Bồ Tát có thể gác qua một bên, có thể
không cần đến. Nếu không, sẽ là giả Tỳ-kheo,
giả Bồ Tát, hữu danh vô thực, ấy là dối
mình lừa người. Chúng ta trọng thực chất,
không làm cho có hình dáng. Trì giới niệm Phật có thể
đạt đến Thượng Thượng Phẩm
vãng sanh, quý vị thật sự làm được. Thọ
Bồ Tát giới chưa chắc được vãng sanh, vì
sao? Là Bồ Tát giả, chưa phải là Bồ Tát thật!
Phải biết, phải hiểu rõ điều này. Do vậy,
chúng ta phải thật sự làm, nghiêm túc, chất phác tu
hành.
Sa Di có mười giới
điều và hai mươi bốn oai nghi. Nay ta gọi “oai nghi” là những “khuôn mẫu
sanh hoạt”. Trong cuộc sống thường ngày, xử
sự, đãi người tiếp vật, chúng ta phải
tuân thủ những quy củ nào? Những nguyên tắc nào? Hai
mươi bốn môn ấy chính là quy củ, là nguyên tắc.
Nhưng những điều ấy do Thích Ca Mâu Ni Phật
định ra lúc Ngài còn tại thế, đã cách thời
gian hiện tại ba ngàn năm. Nay chúng ta đang sống ở
Đài Loan, còn thời ấy là Cổ Ấn Độ; do vậy,
phương thức sống của chúng ta khác hẳn, hết
thảy cách nghĩ, cách nhìn đều khác với tiền
nhân. Chúng ta phải làm thế nào để hiểu rõ tinh thần
Luật Nghi, thấu suốt đạo lý, rồi ứng dụng
vào cuộc sống thường nhật của con người
hiện tại, như vậy thì mới đúng. Giống
như pháp luật, ngay cả hiến pháp cũng không là ngoại
lệ, cứ cách bao nhiêu năm đó lại phải tu chỉnh
một lần, vì sao? Thời đại khác rồi. Có những
điều khoản được quy định chỉ
thích hợp cho thời ấy, không phù hợp với hiện
tại, cần phải tu chỉnh.
Căn Bản Giới siêu việt
thời gian lẫn không gian, chẳng thể biến đổi.
Căn Bản Giới chỉ gồm bốn điều:
Không sát sanh, không dâm dục (đây là đối với
người xuất gia mà nói), không trộm cắp, không nói
dối. Bốn điều ấy gọi là Căn Bản
Giới, siêu việt thời gian lẫn không gian, bất luận
ở khu vực nào, bất luận trong thời đại
nào cũng đều chẳng thể biến đổi.
Những điều khác có thể do thời gian, địa
phương, tập quán sanh hoạt bất đồng, chỉ
tuân thủ nguyên tắc tinh thần, có thể tu chỉnh những
điều khoản ấy. Ở Trung Quốc gọi những
điều ấy là Thanh Quy. Như trong đời
Đường, Mã Tổ Đạo Nhất hòa thượng
đề xướng lập tùng lâm, tức là đề
xướng “mọi người cùng tu chung”. Bách Trượng
đại sư lập Thanh Quy, Thanh Quy ấy chính là Giới
Luật được “bổn thổ hóa” (tức địa
phương hóa Giới Luật, diễn dịch Giới Luật
cho phù hợp với văn hóa, quy củ của một
đất nước). Hiện đại hóa Giới Luật,
đem tinh thần, nguyên tắc bất biến của Giới
Luật ứng dụng vào cuộc sống của con
người hiện đại. Đấy là [đại
sư] đã vì người Trung Quốc mà chế định
một bộ Tân Giới Luật đại quy mô, mọi
người chúng ta đều phải tuân thủ. Từ thời
Bách Trượng đến nay cũng đã gần một
ngàn bốn trăm năm, tình hình của chúng ta hiện thời
không còn giống với một ngàn bốn trăm năm
trước. Do vậy, mỗi một đạo tràng, mỗi
một chùa miếu của chúng ta đều có “Thường
Trụ Công Ước”, đều có quy củ. Đó đều
là những chuyện thuộc về việc hiện đại
hóa, bổn thổ hóa Giới Luật thích hợp cho đại
chúng cùng tu trong một đạo tràng, lập ra một quy
củ.
Nói riêng về thành phố
Đài Bắc, quy củ của mỗi một chùa miếu
không giống nhau, Thường Trụ Công Ước của
mỗi một chùa miếu cũng khác nhau, [miễn sao] thích
hợp với hoàn cảnh tu học của chính chúng ta. Những
quy củ, công ước ấy đều thuộc vào Luật
Nghi, do vậy, nhất định phải hiểu. Không hiểu
sự thật này, chúng ta không thể thực hiện thông
suốt những Luật Nghi ấy được. Do vậy,
chúng ta đọc chúng, nghiên cứu chúng phải hiểu rõ
tinh thần ở chỗ nào, phải thấu hiểu nguyên
lý, nguyên tắc của chúng.
Thượng thiên Giới
Luật môn
(Thiên đầu là phần Giới
Luật)
Sa Di Luật Nghi chia thành hai bộ
phận: Thiên đầu giảng về Giới Luật,
thiên sau giảng về Oai Nghi. Tiếp theo đây, trước
hết giảng về phần Giới Luật. Giới Luật
là căn bản, do Giới đắc Định, Oai Nghi
nhằm phụ trợ Giới Luật, chúng là những
khuôn phép trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta phải nhận thức
rõ ràng hai chữ Giới và Luật. Trong trang này, đếm
ngược lên là hàng thứ tư, [có ghi]: “Giới vi cấm
giới, Luật tức pháp luật” (Giới là ngăn cấm, Luật tức pháp luật).
Chữ Giới chỉ cho “cấm giới”, tức là
ngăn cấm. Phật dạy chúng ta không được
làm những chuyện nào, nên làm những chuyện nào. Do vậy,
trong Giới Luật lại chia thành hai loại lớn: Một
loại là Chỉ Trì (những điều không nên làm), loại
kia là Tác Trì (những điều nên làm). Phật dạy
chúng ta làm gì, chúng ta phải làm điều đó, không làm là Phạm
Giới. Phật chẳng chấp nhận cho làm, chúng ta chớ
nên làm, đó là Trì Giới. Không cho quý vị làm, quý vị cứ
làm thì phạm giới rồi. Dạy quý vị làm mà quý vị
không làm, cũng là phạm giới! Do vậy, Giới Luật
có hai loại: Một là cấm chỉ, hai là dạy những
điều quý vị phải làm. Luật là sau khi quý vị
phạm giới rồi, giống như phán xét quý vị tội
nặng hay nhẹ, đấy chính là pháp luật: Dùng luật
pháp để đoán định quý vị tội nặng
hay nhẹ. Đó gọi là Luật.
Tiếp đó là câu giải
thích: “Phòng phi chỉ ác viết
Giới, xử đoán khinh trọng, khai - giá - trì - phạm
viết Luật” (Ngăn
điều sai, dứt điều ác là Giới. Xử
đoán nặng nhẹ, mở, ngăn, giữ, phạm, gọi
là Luật). Giới là gì? “Phòng
phi chỉ ác”. Luật là gì? Phán xử nặng - nhẹ, Khai,
Giá, Trì, Phạm, chính là Luật. Quý vị chỉ cần nhớ
kỹ hai câu này là được rồi.
Ở
đây phải thuyết minh về “Khai - Giá - Trì - Phạm”.
Mỗi một điều Giới Luật đều sống
động, phương thức trì giới khác nhau, không giống
nhau, phải biết điều này. Đấy là đức
Phật đối với căn tánh bất đồng của
hết thảy chúng sanh mà phạm vi của Khai - Giá - Trì - Phạm
sẽ cạn, sâu, rộng, hẹp đều khác nhau. Giống
như chúng ta dạy học trò, đối với học
trò Tiểu Học chúng ta phải quản thúc rất nghiêm,
vì sao? Do chúng nó chưa hiểu chuyện; không dạy dỗ,
quản thúc nghiêm nhặt, chúng sẽ gây ra chuyện, bị
tổn hại. Đối với học sinh Trung Học,
chúng nó đã dần dần hiểu biết, cho nên hơi nới
lỏng quy củ quản lý một chút. Đến bậc
sinh viên Đại Học, chúng nó có năng lực phân biệt
đúng - sai, hiểu rõ lợi - hại rồi, phạm vi dạy
dỗ, quản thúc chúng càng được nới rộng
hơn nữa.
Giới luật nhà Phật
cũng cùng một đạo lý này. Đối với những
phàm phu mới học, phải quản thúc thật nghiêm, thật
gắt. Trong Phật pháp, như Tiểu Thừa giáo quản
thúc rất nghiêm ngặt, hết sức bảo thủ.
Đối với người Đại Thừa mà nói thì tương
đối dễ dãi hơn. Vì sao? Người Đại
Thừa có trí huệ, có năng lực phân biệt chân - vọng,
có năng lực phân biệt tà - chánh, đúng - sai, thiện
- ác, chính quý vị có năng lực phân biệt rồi, nên
nới rộng rất nhiều. Đợi đến khi
quý vị minh tâm kiến tánh, Kiến Tư, Trần Sa đều
đoạn sạch, vô minh cũng phá được mấy
phẩm, bèn nhập vào cảnh giới Hoa Nghiêm, “lý sự
vô ngại, sự sự vô ngại”, đến lúc đó
Giới Luật này mới được thật sự
trì đến thanh tịnh viên mãn.
Thanh
tịnh viên mãn thì có còn trì giới nữa hay không? Vẫn
trì giới! Như chúng tôi thường hay nói: “Trì
nhưng không trì, không trì mà trì”. Người ấy nhập
cảnh giới này, tự nhiên chẳng phạm lầm lỗi,
không có lầm lỗi. Về mặt sự tướng, Bồ
Tát vẫn nghiêm túc chấp trì như thế để nêu
gương cho những người mới học, tức
là “hành trì” như trong phần trên đã nói. Chính bản thân
vị đó đạt đến Sự Sự Vô Ngại,
vì sao vẫn còn phải trì giới như thế? Làm cho
người sơ học trông thấy, khiến cho kẻ
sơ học thấy Bồ Tát luôn trì giới, vậy thì
chúng ta không trì giới đâu có được! Nếu
không, Bồ Tát đều không trì giới, chúng ta trì giới
làm gì? Gây ra tác dụng ngược, hiệu quả ngược
cho hàng sơ học thì chẳng phải là từ bi! Do vậy,
Phật, Bồ Tát cũng trì giới, trì giới rất
nghiêm, làm cho hàng sơ học trông thấy, phải hiểu
các Ngài quả thật “lý sự vô ngại, sự sự vô
ngại”, họ làm như vậy là hành trì. Các ngài đã
đoạn sạch hết ác rồi, ác đã không còn nữa,
những gì các ngài làm đều thuộc về Hành Trì.
“Khai” là khai duyên, chữ Duyên có
nghĩa là điều kiện. Dưới một điều
kiện nào đó thì có thể khai giới, khai giới chứ
không phá giới! Nếu không nhằm đúng những điều
kiện ấy, Phật cấm ngặt quý vị làm, quý vị
cứ khai là phá giới đó nghe! Nếu dưới một
điều kiện hợp tình hợp lý nào đó, quý vị
phá giới ấy thì chẳng gọi là “phá giới” mà là
“khai giới”. Khai giới không có tội, chẳng những
không có tội mà còn có công đức. Trong kinh Phật Thuyết
Vị Tằng Hữu Nhân Duyên[6]
có nêu một thí dụ, sách Pháp Uyển Châu Lâm, Chư Kinh Yếu
Tập[7]
cũng có dẫn thuật. Đương thời có một
ông vua rất nóng nảy, hầu như đầu bếp nấu
thức ăn không ngon, vua ăn vào không vừa ý, toan giết
gã đầu bếp. Ngày hôm ấy, nhằm lúc Phu Nhân
đang trì Bát Quan Trai Giới, thấy tình hình đó, vì muốn
cứu gã đầu bếp, bà liền đặc biệt
trang điểm thật lộng lẫy, khuyên quốc
vương ca hát nhảy múa, hy vọng quốc vương
thay đổi ý niệm, quên đi chuyện đó. Do vậy,
Bát Quan Trai Giới của bà trong ngày ấy hoàn toàn bị
phá sạch. Đấy có phải là phá giới hay không? Bà vì
muốn cứu mạng một gã đầu bếp, vì để
cứu một người, nên hành động ấy thuộc
về khai giới, chẳng những phá sạch giới
không bị tội, lại còn có công đức lớn.
Đoạn văn này ghi chép rất tỷ mỉ, chúng tôi nhớ
không rõ lắm, chắc là trong những bản chú giải
đều có kể về chuyện Bát Quan Trai Giới này.
Do vậy, phải hiểu “khai duyên” (duyên để khai giới)
là gì? Nếu không có khai duyên mà tự mình muốn tìm cơ hội
[để phạm giới] thì là sai mất rồi! Ấy
là phá giới, chẳng phải là khai giới! Do vậy,
chuyện Khai hay Giá này chính mình phải có trí huệ để
phán đoán.
Chiều hôm qua, một người
bạn cũ mời tôi ăn cơm tối, tôi không biết
là sinh nhật ông ta, cứ đường đột
đi đến. Cũng không đến nỗi nào là hôm qua
tôi mang mấy bộ Vô Lượng Thọ Kinh đến tặng
ông ta, chúc ông ta vô lượng thọ, cũng rất hay! Trong
thời kỳ kháng chiến, ông ta gặp phải chuyện
sau đây: Ba người bọn họ cùng thực hiện
công tác bí mật tại Nam Kinh, bị hiến binh (cảnh
sát) Nhật Bản phát giác. Hiến binh Nhật Bản liền
truy đuổi họ. Họ chạy đến ngôi chùa ở
ngoài cửa Trung Hoa thành Nam Kinh, nhằm lúc chùa đang làm
pháp hội, ba người bọn họ chạy vào cầu
cứu lão hòa thượng. Vị lão hòa thượng ấy
rất có trí huệ, ngay lập tức bảo họ cạo
đầu, mặc áo hải thanh, cùng mọi người
niệm Phật. Do vậy, khi đội hiến binh Nhật
đuổi tới nơi, cũng không sao tìm được
ba người ấy, ba người bọn họ giữ
được tánh mạng vẹn toàn.
Sau
khi [kháng Nhật] thắng lợi, nghĩ đến ân cứu
mạng của lão hòa thượng, bọn họ đặt
một tiệc rượu hết sức linh đình mời
lão hòa thượng nhằm tỏ chút lòng cảm tạ. Lão
hòa thượng cũng đến; tới rồi, bọn
họ mới nghĩ hòa thượng thì ăn chay, mà ở
đây toàn là gà, vịt, cá, thịt chất đống,
đều là đồ mặn, đúng là rượu nồng
thịt béo. Không ngờ vị lão hòa thượng ấy thật
bất phàm, lão hòa thượng nghiễm nhiên ngồi xuống,
chuyện gì cũng không hỏi đến, nâng chén vui vẻ
cùng uống với họ, khiến cho bọn họ trong
tâm bội phục, rất cảm động. Đó gọi
là khai duyên, là khai giới, không phải là phá giới! Lão hòa
thượng không có tâm ý gì, nhưng Ngài biết bọn họ
thành tâm cảm kích, trọn chẳng phải là bỡn cợt
người xuất gia; do vậy, Ngài thỏa ý họ, khiến
cho lòng họ vui vẻ. Đấy là khai duyên, nhất định
phải hiểu điều này.
Có rất nhiều đồng
tu tại gia tự mình học Phật, phát tâm ăn chay,
nhưng người trong nhà không học Phật. Thọ Bồ
Tát giới rồi, người ấy có nên nấu những
món thịt thà cho cha mẹ ăn
hay không? Đã nói là cắt thịt cũng phạm giới
mà, điều này không sai! Quý vị cúng dường cha mẹ,
lúc cha mẹ vẫn chưa tin Phật thì đó là “khai duyên”,
chứ không phải phá giới. Quý vị phải từ chỗ
này mà cảm hóa người trong nhà quý vị. Muốn cảm
hóa người ta, trước hết quý vị phải làm
cho họ có cảm nghĩ tốt đẹp đối với
Phật giáo, sanh tâm hoan hỷ đối với Phật
pháp thì quý vị mới có thể cảm động họ
được. Nếu quý vị “làm như thế này không
đúng, làm thế kia cũng không đúng”, bảo họ: “Ngươi
ăn thịt chúng sanh, tương lai ngươi phải
đền mạng”. Quý vị càng nói người nhà càng
phiền não, càng nói càng nổi nóng hơn, chẳng những
không giáo hóa, cảm hóa được họ mà trái lại
còn tạo khá nhiều khẩu nghiệp, vậy là sai lầm
lớn rồi! Như vậy là thiếu trí huệ. Quý vị
thuận theo hết thảy, người ta cảm thấy
Phật giáo tốt đẹp, Phật giáo thật sự tốt
đẹp! Cách một thời gian sau sẽ dần dần
cảm hóa được họ, phải vận dụng
trí huệ. Thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào
phương tiện thiện xảo của quý vị, mà cũng
tùy thuộc thiện căn, phước đức của
người nhà quý vị. Do vậy, phải có tâm nhẫn nại,
phải có phương tiện, làm như vậy mới
đúng. Tự nhiên người ta sẽ hồi đầu,
sẽ hướng thiện, muôn vàn chẳng được
cậy mình học Phật mà đối địch với
người nhà, làm vậy là sai, hoàn toàn sai lầm.
Phật pháp được kiến
lập trên cơ sở hiếu đạo. Câu thứ nhất
trong Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng”. Câu đầu tiên là
“hiếu dưỡng phụ mẫu”. Vì thế, phải có
trí huệ, phải có phương tiện thiện xảo,
phải có tâm nhẫn nại để cảm hóa người
nhà, quyết định chẳng được đối
lập. Trước khi người ta chưa hiểu rõ, chưa
thấu suốt, người ta muốn gì đều nên tùy
thuận. Trong lúc tùy thuận, chúng ta có tâm nhẫn nại,
có trí huệ, có phương pháp để dần dần
chuyển biến họ, vậy mới là đúng! Đây gọi
là hiếu dưỡng chân chánh!
“Giá” là cấm ngăn, quyết
định chẳng được vi phạm. Vì thế,
phải hiểu Khai - Giá mới có thể trì giới. Lúc nào
nên Khai mà không Khai, cũng gọi là phạm giới! Lúc nào
nên Giá mà không Giá thì cũng gọi là phạm giới! Đủ
thấy hai chữ “trì giới” nói dễ dàng ư? Chấp
chết cứng vào giới điều thì không phải là
trì giới, giới luật điều nào cũng sống
động. Nếu như quý vị không hiểu Giới Luật,
không hiểu vì sao Phật đặt ra giới điều
ấy, dụng ý ở chỗ nào, đạo lý là đâu, làm
sao ứng dụng được trong cuộc sống
thường ngày? Trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta có thuận cảnh, có nghịch cảnh, những cảnh
giới ấy sai biệt rất lớn, trong những hoàn
cảnh hết sức rắc rối, phức tạp, áp dụng
giới điều này như thế nào? Đấy chính là
Khai - Giá. Quý vị hiểu rõ Khai - Giá sẽ ứng dụng
linh hoạt, sống động, ứng dụng hết sức
viên mãn, tự lợi, lợi tha, đấy mới là trì giới.
Do vậy, [trì giới] không phải là chuyện đơn
giản. Không phải chấp chết cứng vào giới
điều là trì giới, quý vị đã làm hoàn toàn trái ngược,
sai lầm mất rồi!
Tôi vừa mới nêu thí dụ:
Lão hòa thượng thuận theo mọi người cũng
ăn thịt, cũng uống rượu, bọn họ cảm
động rất mạnh, đối với Phật pháp
thật sự khởi sanh tâm cung kính, biết vị xuất
gia ấy vĩ đại, người xuất gia bất
phàm, mười mấy người bọn họ đều
được độ. Nếu vị lão hòa thượng
ấy theo quan niệm trì giới như mọi người
đã nói thì rượu làm sao uống được? Phải
bỏ ngay đi! Đúng vậy, không sai, tợ hồ chính
mình rất trì giới, nhưng khiến cho mọi người
đối với Phật giáo có ấn tượng kém ác,
mang ấn tượng cự tuyệt bài xích, vậy là sai
mất rồi! Do vậy, Khai - Giá - Trì - Phạm hết sức
quan trọng, không hiểu thì đừng bàn đến trì
giới. Nhất định phải hiểu điều
này. Hôm nay chúng tôi giảng đến đây thôi!
Hỏi: Xin hỏi có phải là
mỗi giới điều đều có Khai - Giá - Trì - Phạm?
Đáp: Đúng vậy! Nay quý vị
hiểu rõ Khai - Giá - Trì - Phạm, coi trọng; sau này trong mỗi
một giới điều đều có giảng đến.
Trước hết là phải xây dựng quan niệm, hiểu
trì giới hoàn toàn không phải là như kiểu trì giới
mà mọi người thường nói, trì giới kiểu
đó thì kết quả là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt
mất trong thế gian này.
Hỏi: Không thọ giới thì
không có vấn đề, hễ thọ giới sẽ có cả
đống vấn đề, xin hỏi nên làm như thế
nào?
Đáp: Đúng vậy! Vì thế,
phải nghiêm túc nghiên cứu Sa Di Luật Nghi Yếu Lược,
nhất định phải hiểu rõ. Quý vị hiểu rõ
được bộ sách này rồi, người ta hỏi
quý vị câu gì, quý vị đều có thể giải
đáp được, lại còn hiểu trường hợp
nào là thích đáng, tự mình phải nên làm theo cách nào.
Phần 2:
Đoạn thứ tư, trang
thứ sáu:
Tứ, thị cố Sa Di thế
lạc, tiên thọ Thập Giới. Thứ tắc
đăng đàn Cụ Túc. Kim danh vi Sa Di, nhi bổn sở
thọ giới. Ngu giả mang hồ bất tri, cuồng giả
hốt nhi bất học, tiện nghĩ liệp đẳng,
vọng ý cao viễn, diệc khả khái hỹ!
(Bốn, vì thế, Sa Di xuống
tóc, trước hết thọ mười giới. Kế
đó đăng đàn thọ giới Cụ Túc. Nay gọi
là Sa Di, có bổn phận phải thọ giới. Kẻ ngu
mờ mịt không biết, kẻ cuồng coi thường
không học, lại toan học lung tung, mơ tưởng
cao xa, cũng đáng cảm khái lắm thay!)
Chúng ta tu học, bất luận
là kinh, luật, luận hoặc ngữ lục của tổ
sư, người biết học sẽ gạn lấy những
khai thị trọng yếu, giống như Hoằng Nhất
đại sư trích lục [kinh điển tạo thành] bộ
Vãn Tình Tập, Ngài sao chép lại những giáo huấn trong
kinh, luận, ngữ lục đối trị căn bệnh,
tập khí của chính mình. Mỗi một người sao lục
cũng hầu như không giống nhau vì mỗi người
tập khí bất đồng. Tập khí nào nặng nhất,
nếu câu nói này nói đến căn bệnh của ta thì
ta bèn ghi lại, tự mình thường xem, thường dùng
nó để phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi
đổi mới, đó gọi là “chân chánh tu hành”. Trong Giới
Luật, những chỉ dạy để đối trị
tập khí rất nhiều; do vậy, chúng ta đọc
đến bản kinh này và chú giải phải biết trích
lục, tự mình trích lục chép vào một cuốn sổ
nhỏ, đó mới là “chân chánh tu hành”.
Đoạn này nói về người
mới xuất gia. “Thế lạc” nghĩa là cạo
tóc, xuống tóc. Hễ xuất gia thì “tiên thọ Thập
Giới” (trước hết
thọ mười giới). Đây chính là như trong phần
trên đã nói: Đó là giáo dục dành cho học sinh mới
bước vào cửa Phật. Học làm một người
đệ tử xuất gia của Phật, nhất định
phải tuân thủ Mười Giới, lại còn có hai
mươi bốn Oai Nghi ở phía sau nữa. Hai
mươi bốn môn Oai Nghi chính là những quy củ chúng
ta phải tuân thủ trong cuộc sống thường
ngày, đấy chính là quy phạm (quy củ, khuôn mẫu) cuộc
sống. Có cơ sở tu học ấy rồi, sau đó mới
có thể thọ Cụ Túc Giới[8],
trở thành Tỳ-kheo.
Trong
phần trước, chúng tôi đã nói thời gian tu học
Sa Di Giới là năm năm, còn nay thọ giới (tức
Tam Đàn Đại Giới[9])
thọ hết luôn một lần. Trước kia, không phải
như vậy. Xưa kia, Sa Di Giới, Tỳ Kheo Giới, Bồ
Tát Giới cách nhau một thời gian rất dài, không thọ
cùng một lần. Thọ rồi giữ không được
thì có khác gì dạy cho quý vị tạo tội nghiệp
đâu? Vì thế, phải học Sa Di Giới năm
năm, học rất giống, rất có quy củ rồi,
năm năm sau mới được thọ Cụ Túc Giới,
tức là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni Giới. Lại phải cách
ba năm nữa mới được xin thọ Bồ Tát
Giới. Giữ Tỳ Kheo Giới rất khá, lại mở
rộng tâm lượng, hành Bồ Tát đạo, như vậy
mới là chánh xác. Giống như chúng ta đi học, Sa Di
là Tiểu Học, Tỳ Kheo là Trung Học, Bồ Tát là Đại
Học, là ba tầng cấp, nhất định phải có
khoảng cách tương đương, chẳng thể học
chương trình Tiểu Học, Trung Học, Đại Học
cùng một lúc được. Không có đạo lý ấy!
Chúng ta phải hiểu rõ điều này.
“Thứ” (kế đến)
là giai đoạn thứ hai, mới bèn “đăng
đàn thọ Cụ”: “Cụ” chính là Cụ Túc Giới.
Câu này dạy chúng ta hành môn (trình tự tu hành) phải có thứ
tự.
“Kim danh vi Sa Di” (nay gọi
là Sa Di): Nay chúng ta vừa mới xuống tóc xuất gia thì
là Sa Di.
“Bổn sở thọ giới”:
Bổn là bổn phận, “thọ” là phải thọ
trì những giới pháp được nói trong kinh này, tức
là Mười Giới và hai mươi bốn Oai Nghi.
Rất đáng tiếc, “ngu giả
mang hồ bất tri” (kẻ ngu mờ mịt không biết):
Có rất nhiều kẻ thọ giới xong, Tam Đàn Đại
Giới đều thọ xong, không biết Giới là gì cả.
Thọ trên mặt hình thức, chứ thực tế chẳng
hiểu rõ nội dung, vì vậy “hữu danh vô thực”.
“Cuồng giả hốt nhi bất
học” (Kẻ cuồng coi thường chẳng học):
“Cuồng giả” là những kẻ cuồng huệ, chữ
“cuồng huệ” chỉ cho ai? [Kẻ ấy tưởng]
những giới này nhỏ nhặt không quan trọng, dẫu
có biết những giới ấy cũng không chịu làm
theo.
“Tiện nghĩ liệp đẳng”
(lại toan học lung tung). Một đằng là ngu, một
đằng là cuồng, tức cuồng vọng! Không nghiêm
túc tu học, lại còn học tràn lan lung tung. “Liệp
đẳng” nghĩa là kẻ ấy thọ giới Tỳ
Kheo, thọ giới Bồ Tát. Tu học tầng cấp thứ
nhất chưa tu hành nên thân, lại muốn học qua tầng
cấp thứ hai, tầng cấp thứ ba. Tầng cấp
thứ hai là Tỳ Kheo Giới, tầng cấp thứ ba là
Bồ Tát Giới, kẻ ấy muốn thọ hết.
Như vậy là “liệp đẳng”.
“Vọng ý cao viễn”: Đây
là điều được thế tục gọi là “ham
cao chuộng xa”, không thực tế! Do vậy, kinh bảo “diệc
khả khái hỹ!” (cũng đáng cảm khái thay!): “Khái” là cảm khái, than thở.
Người thật sự hiểu rõ trông thấy những
hiện tượng ấy hết sức cảm khái.
Do vì bản in này không đánh số
trang, số chương theo thứ tự, vẫn dùng theo
nguyên bản. Nguyên bản thì mỗi tờ gồm hai
mươi dòng, mặt trước mười dòng, mặt
sau mười dòng. Chúng tôi lấy hai mươi dòng làm
đơn vị để nói, như đến hàng thứ
mười một thì bảo là trang thứ hai. Chúng tôi dùng
phương pháp này cho mọi người dễ tìm. Trong phần
chú giải có hai câu rất quan trọng, ở đây tôi nhắc
nhở mọi người chú ý. Xin hãy xem hàng thứ hai
mươi trong trang thứ sáu, tức là hàng cuối cùng.
Hãy xem từ chữ thứ ba trở đi: “Học Ký
vân: Ấu giả thính nhi phất vấn, học bất liệp
đẳng dã” (Thiên Học Ký [trong sách Lễ Ký] nói: “Trẻ
nhỏ nghe chứ không hỏi, chẳng học tràn lan”).
Đây là một câu trích trong thiên Học Ký của sách Lễ
Ký, ý nghĩa hoàn toàn tương đồng với những
điều đã nói ở trên. “Ấu giả” là kẻ
mới học, mới học thì phải tuân thủ quy củ,
không có ý kiến. Thầy dạy thế nào, chúng ta học
như thế ấy, nhất định phải tuân theo
quy củ, theo thứ tự thuận mà làm. Điều này hết
sức quan trọng.
Trước kia, tôi đã
thưa cùng quý vị: Trong quá khứ tôi học với thầy
Lý; trước khi học với thầy, tôi học với
Chương Gia đại sư ba năm. Thầy Lý hoàn
toàn không chấp nhận chuyện ấy, [bảo tôi] phải
bỏ toàn bộ đi, học lại từ đầu. Do
nguyên nhân nào? Những gì anh học trong quá khứ, anh có một
tiêu chuẩn, tục ngữ thường nói “tiên nhập
vi chủ” (cái gì học ban đầu là chính), người
ta đã có thành kiến rồi. Lúc nghe thầy giảng khác
với Chương Gia đại sư chúng tôi sẽ khởi
nghi hoặc, muốn hỏi. Vì thế, thầy bảo: “Những
gì anh đã học trước kia tôi không chấp nhận”.
Nói cách khác, chỉ có nghe lời thầy, không có chỗ
để hoài nghi! Những gì đã học trước kia
chẳng chấp nhận, vứt bỏ toàn bộ. Thật
thà, ngoan ngoãn nghe lời thì mới nên. Như vậy thì sẽ
có thể thành tựu.
Hiện
nay gặp khó khăn là vì hiện thời tự do, dân chủ,
cởi mở, không ai có thể hạn chế được
bất cứ một ai nên học rất nhiều, học
rất tạp. Nghe lời thầy giảng ắt có so sánh,
chuyện này phiền phức lắm. Do vậy, kẻ mới
học phải học điều gì? Không học Giáo. Giáo
thì có thể thảo luận. Phật pháp chủ
trương nghiên cứu thảo luận, hy vọng quý vị
sẽ nêu lên câu hỏi để cùng nhau nghiên cứu. Thế
nhưng kẻ mới học không học Giáo, cũng không học
Giải, kẻ mới học phải học Định,
tức là học thanh tịnh cái tâm. Nói cách khác, trong tâm có
nghi vấn, có phân biệt, có thành kiến, sẽ không đắc
Định. Vì thế, mục đích là ở chỗ này.
Chúng ta mới học Phật pháp thì dốc sức nơi
Định. Giới là “thủ đoạn” (phương cách),
do Giới đắc Định, mục tiêu là đắc
Định. Đắc Định rồi sẽ khai ngộ.
Trước kia, cách dạy học của Nho Gia cũng giống
như vậy. Phương pháp của họ cũng là tu
Định; do vậy, tông chỉ dạy học của Nho
Gia đối với Tiểu Học là “đắc Định”.
Hiện
thời chúng ta rất ít nghe nói tới, [chứ trong] quá khứ,
tôi học Tiểu Học, khi học Sơ Trung, các thầy
lúc ấy thường cùng nhau chuyện trò. Chúng tôi vẫn
còn nghe thầy nói trò nào có ngộ tánh, vẫn còn nghe nói
như thế, nay thì hình như không nghe như vậy nữa.
“Ngộ tánh” là nói về người có tâm địa thanh tịnh,
người ấy có “thể ngộ” (thấu hiểu),
trong Phật pháp chúng ta gọi là “khai ngộ”. Có tiểu ngộ,
có đại ngộ, như vậy mới thật sự
có hiệu quả. Tâm càng thanh tịnh, ngộ tánh càng cao. Giới
luật Sa Di là Tiểu Học trong Phật pháp, tông chỉ
tu học là Định, nhằm giúp cho quý vị tu tâm thanh
tịnh. Tâm địa đạt đến mức độ
thanh tịnh nhất định thì Phật pháp gọi là
“pháp khí”, cũng có nghĩa là nói “người ấy có
tư cách tiếp nhận Phật pháp”. Do đây biết được
rằng: Năm năm Sa Di ấy hoàn toàn là công phu dự bị,
là cơ sở để tu học Phật pháp, là sự chuẩn
bị để tu học Phật pháp, Phật pháp dùng thời
gian dài như thế để tạo nên cơ sở giáo dục
ấy. Cơ sở được xây dựng vững vàng
rồi, quý vị nghe kinh sẽ khai ngộ, sẽ lãnh ngộ,
tham Thiền sẽ đắc Định, niệm Phật
sẽ được Nhất Tâm. Nay chúng ta học Giáo chẳng
thể khai ngộ, tham Thiền chẳng thể đắc
Định, niệm Phật chẳng thể đạt Nhất
Tâm, nguyên nhân là gì? Là vì học tràn lan, không xây dựng cơ
sở kỹ càng. [Do vậy], quý vị mới hiểu
cơ sở rất quan trọng.
Chúng ta muốn tương lai có
thành tựu, tự mình có thành tựu cũng như có thể
giúp đỡ người khác, tự hành hóa tha thì cơ sở
của chúng ta nhất định phải hết sức ổn
thỏa. Điều này phải cậy vào sự nỗ lực
của chính mình, tự mình giác ngộ, tự mình nghiêm túc tu
học. Do trong thời đại này chẳng thể có thầy
nghiêm khắc đốc thúc, răn dạy như trước
kia, cả xã hội tiến vào dân chủ, tự do, cởi
mở; do vậy, đối với việc [xây đắp]
cơ sở giáo dục [cho chính mình] ngày càng khó khăn, hoàn
toàn phải cậy vào thiện căn của chính mình. Tự
mình có thiện căn, tự mình hiểu rõ chuyện này, tự
động, tự phát, chẳng thể cậy vào sự
đốc thúc, chỉ dạy của thầy được
nữa! Thầy thấy quý vị tự động tự
phát đương nhiên rất vui mừng, sẽ toàn tâm
toàn lực giúp đỡ quý vị. Không thể tự động
tự phát thì cũng không làm sao được hết. Phải
biết điều này!
Lại xem đến hàng thứ
mười trong trang thứ bảy, câu cuối cùng: “Phật
tạng kinh vân”, [nghĩa là] đây chính là điều
được ghi trong kinh Phật: “Bất tiên học Tiểu
Thừa, hậu học Đại Thừa giả, phi Phật
đệ tử” (Nếu trước hết không học
Tiểu Thừa rồi mới học Đại Thừa
thì không phải là đệ tử Phật). Câu này luận
về thứ tự tu học. Trước hết học
Tiểu Thừa, sau đó học Đại Thừa, tức
là chiếu theo thứ tự thuận, tu học theo lớp
lang, như thế là đệ tử Phật. Nghe lời
Phật, tôn trọng lời thầy giáo huấn, tôn sư
trọng đạo, đấy là đệ tử Phật.
Phật pháp sau khi truyền
đến Trung Quốc, vào giai đoạn đầu của
các đời Tùy, đời Đường, Tiểu Thừa
đã từng có lúc hưng thịnh, nhưng thời gian rất
ngắn, không lâu. Về sau, pháp Tiểu Thừa mất hẳn
tại Trung Quốc. Hiện thời ở Trung Quốc, những
tông Tiểu Thừa như Thành Thật Tông[10],
Câu Xá Tông[11]
đã biến thành danh từ lịch sử, không thấy
đạo tràng Tiểu Thừa nữa. Giai đoạn
đầu đời Đường còn có, về sau không
còn. Thế nhưng kinh điển Tiểu Thừa trong
Đại Tạng Kinh có thể nói là khá hoàn chỉnh vì hiện
tại đem Tam Tạng Tiểu Thừa Nam Truyền so với
những kinh Tiểu Thừa trong Đại Tạng Kinh
Trung Quốc (chúng tôi không làm công việc này, có người
khác làm, họ bảo cho tôi biết) thì chỉ sai khác với
kinh điển Tiểu Thừa của chúng ta khoảng chừng
hơn năm mươi mấy bộ. Nói cách khác, năm
mươi mấy bộ ấy phân lượng quá nhỏ!
Kinh luận Tiểu Thừa rất ngắn, gần như
có chừng một, hai ngàn bộ. Giữa một hai ngàn bộ
kinh [của hai tạng Hán Truyền và Nam Truyền] chỉ
khác biệt năm mươi mấy bộ. Do vậy, có thể
biết là chúng ta đã phiên dịch kinh điển Tiểu
Thừa khá viên mãn. Nhưng hiện thời những kinh Tiểu
Thừa không có ai đọc, chúng ta học tập kinh Tiểu
Thừa làm cơ sở, đương nhiên không cần phải
đọc hết toàn bộ kinh điển Tiểu Thừa.
Đại Thừa phân tông phái, Tiểu Thừa cũng có thể
chọn đọc. Trong quá khứ, khi chúng tôi cầu học
ở Đài Trung, thầy Lý cũng chọn ra mười mấy
bộ kinh điển Tiểu Thừa dạy cho chúng tôi, như
vậy là đủ rồi. Như hiện tại chúng ta
đọc A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, đấy
chính là kinh Tiểu Thừa, kinh Tiểu Thừa có thể chọn
ra vài bộ để đọc.
Tiểu Thừa mất đi ở
Trung Quốc là vì có nguyên nhân. Nguyên nhân ấy chính là vì người
xưa đọc những sách vở của Nho Gia, Đạo
Gia Trung Quốc, Khổng Tử, Lão, Trang. Những điều
Khổng Tử, Lão, Trang nói quả thật không kém Tiểu
Thừa. Nói cách khác, bị Nho Gia, Đạo Gia Trung Quốc
thay thế. Do vậy, từ Nho, Đạo mà vào Phật
pháp, chẳng cần phải học pháp Tiểu Thừa, trực
tiếp tiến vào Đại Thừa, đạo lý là
như vậy.
Trước kia, Tàng Kinh Lâu (lầu
trữ kinh) trong tự viện (nay gọi là Đồ
Thư Quán) không chỉ có kinh Phật mà còn có kinh của Nho
Gia, Đạo Gia, thảy đều có hết. Vì vậy,
trước kia người có học trong thế gian đến
đâu để đọc sách? Ở nơi đâu cất
giữ nhiều sách vở như vậy để cho họ
đọc? Tự viện! Chúng tôi đọc Phạm Trọng
Yêm Truyện, đọc Nghĩa Điền Ký [là những
sách] kể về tiểu sử của Phạm Trọng
Yêm. Phạm tiên sinh lúc tuổi trẻ là một chàng Tú Tài
đọc sách ở tự viện. Trong tự viện cất
giữ rất nhiều sách vở hoàn bị, hầu như
người đọc sách thời đó muốn tìm sách vở
gì đều có thể tìm được nơi chùa miếu.
Vì thế, Tàng Kinh Lâu chính là thư viện. Người xuất
gia đều đọc sách Nho Gia, những sách vở của
Nho Gia họ đều đọc qua, đọc lan qua cả
những sách của Đạo Gia, bách gia chư tử họ
đều thông đạt. Đọc sách ở chùa miếu,
không những tìm được sách vở rất thuận
tiện mà còn nếu như có câu hỏi nghi nan nào, cũng
có thể thỉnh giáo pháp sư. Pháp thế gian hay xuất
thế gian pháp sư đều thông đạt, đều
có thể hướng dẫn, đều có thể giúp cho
người ta. Vì thế, chùa miếu chính là trường học,
khác với hiện tại, khác hẳn! Đây chính là lý do vì
sao Tiểu Thừa bị biến mất ở Trung Quốc.
Nhưng đến thời hiện
tại, sách Nho gia cũng không đọc, sách Đạo gia
chúng ta cũng không xem, lại coi thường Tiểu Thừa,
vừa học Phật bèn vào thẳng ngay Đại Thừa,
lăn lộn với Đại Thừa suốt đời
mà có thành tựu gì hay chăng? Nếu nói thành tựu thì
đúng như Thanh Lương đại sư đã bảo:
“Tăng trưởng tà kiến”. Thanh Lương
đại sư nói như vậy đó. Nay chúng tôi nói cho dễ
nghe hơn một chút thì là kiến thức Phật học
rất phong phú giúp cho kẻ ấy ăn nói linh hoạt,
giúp kẻ ấy viết lách. Ngoại trừ việc ấy
ra, đối với đức hạnh, tu trì, tâm thanh tịnh,
trí huệ, kẻ ấy hoàn toàn không có gì! Do vậy, chúng ta
thường thấy người học Phật, bất
luận xuất gia hay tại gia, khi chưa thông đạt
Phật pháp, họ rất thật thà, rất kiền thành,
nhưng hiểu được chút ít Phật pháp rồi
bèn kiêu căng ngã mạn, coi thường người khác, vậy
là sai mất rồi! Không những học Phật sai mà học
Nho cũng sai luôn! Quý vị thấy Nho gia nói rất hay: “Học
vấn thâm thời ý khí bình” (lúc học vấn sâu xa, tính
tình điềm đạm). Học vấn của một
người phải nhìn từ đâu? Tâm bình khí hòa thì
người ấy có học vấn. Viết thì một tay
văn chương lỗi lạc, giảng đến nỗi
hoa trời rơi lả tả, nhưng trong tâm ngạo nghễ,
ngã mạn, ghen ghét, nóng giận, người ấy có học
vấn hay chăng? Không có học vấn, đó là kiến
thức nông cạn! Quý vị muốn tu học pháp thế
gian, xuất thế gian vì sao tu học lại trở thành
như vậy? Do đánh mất cơ sở, không chiếu
theo cơ sở ấy để tu học!
Trước kia bậc Tiểu Học
của Nho Gia học cuốn Ngũ Chủng Di Quy[12]
do Trần Hoằng Mưu biên soạn vào thời Thanh xưa
kia. Trong quá khứ tôi đã từng bảo mọi người
đọc; do đấy, chúng ta có thể thấy tông chỉ
dạy học của nền giáo dục Tiểu Học thời
cổ quả thật là tu Định. Lúc tôi ở Đài
Trung, thầy Lý chọn cuốn sách này làm sách tham khảo phải
đọc trong việc tu thân. Trong quá khứ, tôi đã mua rất
nhiều bản Ngũ Chủng Di Quy, mua đến hai ba chục
bản, mỗi người một bản, trước kia
đã từng phát ra rồi, nay Ngũ Chủng Di Quy cũng
không thấy nữa, tôi thấy trong tủ sách cũng hoàn
toàn không có cuốn này.
Nếu
quý vị chẳng khéo dạy dỗ trẻ nhỏ thì cái đầu
nhỏ bé của chúng cũng suy nghĩ lung tung. Làm thế
nào để dạy chúng tu Định? Đương
nhiên chẳng thể bắt chúng khoanh chân ngồi yên. Trẻ
nhỏ không ở yên một chỗ được thì có thể
dạy nó học thuộc sách. Thuộc sách là tu Định
ư? [Hễ phải] học thuộc sách thì nó không thể
suy nghĩ lung tung. Vì thế, Tứ Thư, Ngũ Kinh, bách
gia chư tử, bộ nào cũng dạy chúng nó học thuộc,
không giảng giải. Trước kia, từ bảy tuổi
đến mười hai tuổi là Tiểu Học, những
thứ học ở Tiểu Học là quét dọn[13],
ứng đối, toàn là học làm người như thế
nào, nói năng như thế nào. Giáo dục Tiểu Học
nhắm vào đức hạnh, ngôn ngữ, mỗi một cử
chỉ hành động phải có quy củ, nói năng phải
có chừng mực. Do được huấn luyện
như vậy, những đứa nhỏ mười một,
mười hai tuổi ấy rất giống với
người lớn, chúng cũng có oai nghi, mỗi một cử
chỉ đều chững chạc. Đấy là giáo dục
về cách sống, dưỡng thành từ nhỏ. “Tiểu
thành nhược thiên tánh” (tập thành từ nhỏ nên
giống như là bẩm sinh vậy). Bồi dưỡng tập
thành từ nhỏ, nên giống như được thiên
phú. Từ nhỏ đã được bồi dưỡng
giáo dục cách sống, hầu hạ phụng sự cha mẹ
như thế nào, cư xử với huynh trưởng ra
sao, quan hệ giữa người và người được
dạy rất rõ ràng, phân chia vai vế rất rành mạch,
hiểu được lễ tiết. Đấy chính là
cơ sở thật sự của xã hội trật tự,
gia đình hòa thuận, xã hội an định. Ngoài ra là
đọc sách, đọc sách phải học thuộc, thầy
phải dạy từng câu. Do vì sách thời cổ không có ký
hiệu chấm câu; lúc đọc, thầy chấm câu cho nó.
Hiện thời, quý vị thấy [những tác phẩm]
trong Tứ Khố Toàn Thư không có ký hiệu chấm câu. Do
vậy, lúc đọc thầy phải dùng bút đỏ
để khuyên[14]
từng câu, dạy đọc từng câu. Đó là vì trước
kia sách vở không chia thành từng đoạn, [mỗi
đoạn] có tựa đề nhỏ (tiểu tiêu đề)
giống như hiện thời. Chẳng hạn kinh Vô
Lượng Thọ của chúng ta được chia thành bốn
mươi tám đoạn, mỗi đoạn đều có
tựa đề. Xưa kia không có, cách này do người
đời sau đặt ra. Vì thế, thầy phải dạy
đọc từng câu, rồi đốc thúc trẻ nhỏ
học thuộc.
Trước kia, tiêu chuẩn
đọc sách là đọc đến mười lượt
mà chưa thuộc được thì có nghĩa là đứa
trẻ ấy chưa thể dạy [như vậy]
được, nó chưa tiếp nhận được. Vậy
thì làm sao? Mỗi người thiên phú khác nhau. Xưa kia trong
mỗi buổi học, đứa trẻ nào thiên phú tốt,
căn tánh lanh lợi, thông minh, mỗi một ngày có thể
dạy cho nó số lượng nhiều hơn một chút,
có thể cho nó học mười dòng, học hai
mươi dòng. Hai mươi dòng là một trang, mỗi một
trang của chúng ta đây là hai mươi dòng. Khi đọc
hai mươi dòng đó mười lượt mà đứa
trẻ ấy nhất định thuộc được,
tức là với sức nó, có thể dạy cho nó hai
mươi dòng. Mười lần không thuộc thì giảm
bớt đi, dạy mười dòng thôi. Nếu mười
dòng vẫn không thuộc được thì dạy năm dòng.
Năm dòng vẫn không thể thuộc thì dạy ba dòng, dùng
phương pháp ấy. Do đó, một vị thầy
thường dạy mười, hai mươi đứa học
trò, mỗi trò đọc mấy dòng khác nhau tùy theo năng lực
của từng đứa. Nếu năm sáu lần nó đã
thuộc thì là đứa có thiên phận (bẩm tánh) tốt,
thầy phải đốc thúc nó học một trăm lần,
phải đọc cho lớn tiếng, như vậy thì nó sẽ
vĩnh viễn không quên. Đứa kém hơn, thiên tư tệ
hơn một chút, nhất định phải đọc tới
mười lần mới thuộc được thì thầy
phải đốc thúc nó đọc hai trăm lần. Do vậy,
căn tánh so ra kém cỏi hơn một chút thì phải siêng
năng, phải học nhiều hơn; như câu nói: “Nhân
nhất năng chi, kỷ thập chi”, [tức là] người
ta một lần là được, mình phải dụng công
mười lần, dùng siêng năng để bù vụng về,
thầy đốc thúc trò học nhiều lần hơn.
Đến
hôm sau vào lớp, trước buổi học, phải nhẩm
lại những bài hôm trước một lượt rồi
mới học bài ngày hôm nay. Như vậy, ngày nào cũng phải
ôn luyện bài hôm trước, ngày ngày đều phải nhẩm
lại bài hôm trước, đem những điều
đã được dạy lần trước nhẩm lại
hết một lượt. Học tới hết cuốn
sách đó, phải đọc lại những phần
trước một lượt rồi mới cho quý vị
học cái mới. Vì thế, ngày ngày phải nhẩm lại
sách, ghi nhớ vào tâm. Sách nhất định không giảng,
không có ý nghĩa gì cả, học trò nhỏ không hiểu được
đạo lý ấy, mục đích nhằm huấn luyện
cái Định, huấn luyện ký ức, cho nên dùng
phương pháp này.
Đại
khái đến năm mười hai tuổi, đứa nào
thiên phận tốt thì đã đọc mười ba kinh[15],
đọc tác phẩm của chư tử. Tác phẩm của
chư tử phải chọn lựa. Rồi lại còn học
một phần Sử, tức là đọc hai mươi
lăm bộ sử. Hai mươi lăm bộ sử ấy
không thể đọc toàn bộ, cũng phải chọn lựa,
hoặc là đọc Cương Giám Dị Tri Lục[16],
tức là sách viết về đại cương lịch
sử Trung Quốc. Nếu là đứa có thiên phận cao,
có căn bản thì đọc bộ Thông Giám Tập Lãm[17],
mọi thứ đều phải đọc thuộc. Từ
năm bảy đến mười hai tuổi liền hoàn
thành toàn bộ. Quý vị hỏi nó câu nào nằm trong cuốn
sách nào, trang thứ mấy, dòng thứ mấy nó đều
biết cả. Đúng là thuộc nhuyễn nhừ. Nó không
khởi vọng tưởng, tâm định rồi. Do vậy,
xưa kia cổ nhân lúc mười hai, mười ba tuổi,
tâm rất thanh tịnh, rất định, do dùng
phương pháp này để huấn luyện vậy.
Bây giờ khó lắm, hoàn cảnh
quá tệ hại. Trẻ nhỏ hiện thời đều
coi TV, chơi video game, bảo chúng nó học thuộc sách
chúng không thể làm được: “Ai cũng đi chơi
hết, kêu mình con đọc sách thôi à!”, nó bèn không làm. Hoàn cảnh
hiện thời đã khác hẳn, quá khác biệt so với
hoàn cảnh dạy học xưa kia. [Thế nên] quý vị
hiểu cổ nhân vì sao có thể khai ngộ, vì sao có thể
chứng quả. Con người hiện tại rất
thông minh, hết thảy hoàn cảnh đều tốt
đẹp hơn trước, vì sao tu mấy chục
năm vẫn không thể khai ngộ, không thể chứng
quả, nay quý vị đều thấy rõ ràng, quý vị hiểu
được căn bệnh phát sanh từ đâu. Cổ
nhân tôn sư trọng đạo, thầy dạy sao trò học
vậy, thật thà đọc sách, thật thà học thuộc
sách. Do vậy, giai đoạn Tiểu Học chính là học
Định.
Học Huệ thì Huệ là gì?
Đọc, đọc rất thuộc thì gọi là Căn
Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Kinh Bát Nhã giảng là “Bát
Nhã vô tri”, vô tri là Căn Bản Trí. Trước hết
là vô tri, cái gì cũng đều học thuộc hết, cái
gì ta cũng không hiểu, hoàn toàn là học cho thật thuộc
làu. Thời cổ trường học không có bậc Trung Học,
học Tiểu Học xong liền lên Thái Học, nay chúng ta
gọi Thái Học là Đại Học. Tiểu Học kết
thúc, mười ba tuổi bèn vào Thái Học. Trong Thái Học
dạy những gì? Giảng giải, nghiên cứu, thảo
luận. Chẳng hạn như giảng giải Tứ
Thư, nghiên cứu, thảo luận Tứ Thư, không
đọc thuộc, hoàn toàn là giảng giải. Cổ nhân
nói “đọc sách vui”, thật vui sướng lắm!
Giảng giải là thầy dẫn cả đám học sinh
hằng ngày du sơn ngoạn thủy, “có việc học
trò phải ra sức”, thầy ngồi xe, học trò phải
đẩy xe cho thầy, chuẩn bị rượu, thức
ăn lên đường du hành. Vì sao? Thầy lẫn trò
đã thuộc làu làu những sách vở ấy rồi, mọi
người chẳng cần phải mang theo sách. Giảng
đến chương thứ mấy, trang thứ mấy,
vừa đi vừa nghiên cứu, thảo luận, đi
rong chơi cả hai ba tháng, là dạy xong khóa trình ấy.
Xưa kia học hành vui vẻ chứ không khổ sở
như hiện thời, [quá trình học] được chia
thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là học
thuộc sách, giai đoạn thứ hai là giảng giải.
Lúc nhỏ không hiểu chuyện thì chuyên học thuộc;
đến năm mười ba, mười bốn tuổi
trí huệ mở mang, có thể nghiên cứu, thảo luận.
Cách dạy học ấy quả thật cao minh hơn cách dạy
học hiện thời nhiều lắm!
Từ khi [chế độ] Dân
Quốc được thành lập đến nay, lối dạy
học truyền thống của Trung Quốc bị phế
bỏ, chọn theo cách giáo dục của Tây Phương, tệ
hẳn đi. Căn Bản Trí không có, Hậu Đắc
Trí khỏi cần bàn đến nữa! Căn Bản Trí
là vô tri, Hậu Đắc Trí là Vô Sở Bất Tri (không gì
không biết). Quý vị thấy trong cách dạy học
trước kia: Trẻ con mới mười mấy tuổi,
chưa đến hai mươi tuổi (hai mươi tuổi
sẽ làm lễ Gia Quan, tức lễ đội mũ), đi
thi đậu Cử Nhân, đỗ Tiến Sĩ (Cử
Nhân là thi ở tỉnh, Tiến Sĩ là thi ở cấp quốc
gia), thường được phái đi làm quan, mười
mấy tuổi đã làm huyện trưởng, làm huyện
thái gia (ông quan huyện)! Người ta coi sóc việc cai trị
có lớp lang, hợp lý. Nay những đứa trẻ
mười mấy tuổi, chuyện gì cũng không biết!
Phương pháp, chế độ giáo dục khác nhau, thâu
được hiệu quả khác nhau.
Tại Đài Loan,
ông Trương Linh soạn bài Tổng Thống Kỷ Niệm
Ca cũng là một Phật giáo đồ kiền thành. Trong
quá khứ, khi tôi giảng kinh, hai vợ chồng ông mỗi
buổi đều đến nghe, chưa hề thiếu
buổi nào. Nay hai vị đều đã khuất bóng cả
rồi. Cư sĩ Trương Linh năm mười chín
tuổi làm huyện trưởng, [trong số những người]
làm huyện trưởng dưới thời Dân Quốc, e
rằng ông ta là người trẻ tuổi nhất. Đấy
là cách dạy dỗ giáo dục khác nhau, phương thức
khác nhau; cho nên chúng ta hiểu trước kia giáo dục của
Nho Giáo và Phật giáo tốt đẹp, quá tốt đẹp!
Quý vị chiếu theo phương pháp ấy mà tu học,
có thể nói là những hạng thiên bẩm từ bậc trung
trở lên đều có thể thành tựu. Vứt bỏ,
không chiếu theo quy củ ấy, không chiếu theo quy củ
sẽ không thành vuông - tròn[18]
được! Nhất định phải tuân thủ quy
củ!
Hiện
tại chúng ta có cần bắt đầu học từ Tiểu
Thừa hay chăng? Vấn đề này hết sức
nghiêm túc, phải xây dựng cơ sở từ đây. Do vậy,
chúng tôi buộc mọi người đọc Tứ
Thư, tôi định ra bảy môn học cho các đồng
tu Tịnh Tông. Trong bảy môn học ấy, ba môn là căn
bản của Tông chúng ta: Vô Lượng Thọ Kinh, A Di
Đà Kinh Yếu Giải và Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, tức là chọn ra ba kinh quan trọng nhất
trong năm kinh. Tôi chọn lựa như vậy, không bàn bạc
mà hợp ý các cụ Hạ Liên Cư, Hoàng Niệm Tổ.
Chúng tôi không thương lượng trước, tôi chọn
lấy những bộ đó, họ cũng chọn các bộ
ấy. Ngoài ra, thêm vào bốn thứ tương
đương những kinh luận của Tiểu Thừa.
Về kinh Tiểu Thừa, chúng tôi chọn bộ A Nan Vấn
Sự Phật Cát Hung Kinh; ngoài ra, chúng tôi chọn Tứ
Thư của Nho Gia Trung Quốc, Liễu Phàm Tứ Huấn
và Cảm Ứng Thiên Vựng Biên. Gộp lại, tổng cộng
có bảy loại. Nho, Phật, Đại, Tiểu Thừa
đều có, phân lượng không nhiều. Thật sự
từ bảy môn này mà thâm nhập, đủ cho chúng ta dùng
suốt cả một đời rồi! Sau đấy, thật
thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, không ai
không thành tựu.
Chúng tôi chọn hai bộ sách Liễu
Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên Vựng Biên thay cho
Giới Luật. Đương nhiên hiện thời mọi
người phát tâm học Sa Di Luật Nghi Yếu Lược
là chuyện hết sức khó có. Y theo bộ Sa Di Luật
Nghi Yếu Lược này mà tu học thì nói cách khác, chúng ta
có thể bỏ qua Cảm Ứng Thiên Vựng Biên và Liễu
Phàm Tứ Huấn, một bộ Sa Di Luật Nghi này có thể
thay cho hai bộ sách kia, chúng ta phải nghiêm túc học tập
bản luật này.
Nhưng tôi hy vọng mọi
người phải thông thuộc hai bộ Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên và Liễu Phàm Tứ Huấn, vì sao? Chúng có
thể giúp cho các đồng tu tại gia, có thể phổ
cập trong xã hội. Đặc biệt là Liễu Phàm Tứ
Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên đều do
người Hoa viết. Người Hoa đọc sách của
người Hoa sẽ cảm thấy đặc biệt
thân thiết, vui lòng thọ trì. Chúng ta phải thấu hiểu,
phải biết rõ điều này. Vì thế, Ấn Quang đại
sư không đề cao Giới Luật mà lại hướng
về quảng đại xã hội đề cao Liễu
Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên, thâu được
hiệu quả rất tốt, khiến cho mọi người
hiểu rõ nhân quả, tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện.
Liễu Phàm Tứ Huấn dạy
quý vị nhận thức nhân quả, tin sâu nhân quả. Cảm
Ứng Thiên dạy quý vị đoạn ác tu thiện. Cảm
Ứng Thiên viết về tiêu chuẩn thiện - ác. Nói cách
khác, tông chỉ của hai bộ sách này là “Chớ làm các
điều ác, vâng làm các điều lành”. Sa Di Luật
Nghi Yếu Lược cũng thuộc về loại này.
Giống như mấy câu quan trọng, chúng ta nhớ
được mấy câu là được rồi, thường
dùng mấy câu đó để phản tỉnh, kiểm
điểm, đó là chân chánh tu hành. Chúng ta lại xem tiếp
đoạn kinh văn thứ năm kế đó:
Ngũ: Nhân thủ Thập
Giới, lược giải sổ ngữ.
(Năm, do giữ Thập Giới,
lược giải mấy lời)
Do vì những đạo lý trên
đây là tiêu chuẩn giáo học nhà Phật, là nguyên tắc
của giáo học Phật giáo; căn cứ vào những
nguyên tắc này, lấy Thập Giới làm tiêu chuẩn,
thêm vào những giải thích đơn giản, nên gọi
là “Lược Giải”. Liên Trì đại sư soạn
lược giải, Hoằng Tán đại sư soạn lời
giải thích chi tiết. Như vậy, những lời chú
thích ở dưới là của Hoằng Tán đại
sư[19]
chú thích thêm. Hoằng Tán đại sư là người
đời Thanh, sợ chúng ta xem Lược Giải vẫn
chưa thể thấu hiểu ý nghĩa của kinh, chẳng
biết thực hiện từ chỗ nào. Do vậy, Ngài chú
giải tường tận cho chúng ta. Chúng ta thấy Liên
Trì đại sư soạn phần Lược Giải rất
vắn tắt, không đầy mấy trang, thấy phần
Tăng Chú (chú thích bổ sung) chú thích rất nhiều. Những
dòng in theo lối “đảnh cách” đều là do đại
sư Liên Trì đã viết, tức là phần Lược Giải.
Những dòng in thấp xuống một chữ chính là lời
Tăng Chú của Hoằng Tán đại sư.
Lục, sử mông học
tri sở hướng phương.
(Sáu, để kẻ mới học
biết được phương hướng)
“Mông học” tức là
sơ học. Những kẻ sơ học chúng ta biết
được phương hướng, biết tông chỉ
tu học, biết phải dụng công từ nơi đâu.
Điều này quả thật rất quan trọng.
Thất, hảo tâm xuất
gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật vi phạm.
(Bảy, kẻ hảo tâm xuất
gia, dốc ý tuân hành, cẩn thận chớ vi phạm)
Đoạn văn này hết sức
khẩn yếu. Cả ba câu đều rất quan trọng.
“Hảo tâm” là chân chánh phát tâm, “xuất gia” vì
để liễu sanh tử, vì độ chúng sanh. Đấy
là hảo tâm xuất gia; chứ chẳng phải vì trốn
tránh thực tại mà xuất gia, chẳng phải vì ở
trong thế gian bị đủ mọi vùi dập, [vì bị
thất bại mà xuất gia] thì gọi là “tiêu cực”.
Không phải vậy, hảo tâm xuất gia là tích cực, đối
với Phật pháp có trình độ hiểu biết, giác ngộ
kha khá. Trong các nghề nghiệp của thế gian, chúng ta
chọn lựa nghề nghiệp này, chúng ta biết trong hết
thảy các nghề nghiệp hiện thời, nghề nghiệp
này thù thắng nhất. Đây là hạnh nghiệp giác ngộ,
là hạnh nghiệp liễu sanh tử, xuất tam giới,
giúp cho hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp cho hết thảy
chúng sanh liễu sanh tử, xuất tam giới. Hạnh nghiệp
này chính là hạnh nghiệp vĩ đại nhất, tích cực
nhất. Chúng ta phát tâm theo đuổi công tác giáo dục Phật
giáo, tuyệt đối chẳng phải là tiêu cực, tuyệt
đối chẳng phải là trốn tránh hiện thực
xã hội, người thế gian không hiểu đạo
lý này, hiểu lầm Phật pháp, nhìn thành ra như vậy
đó!
Đương nhiên, quả thật
có không ít những kẻ vì trốn tránh hiện thực xã hội
mà xuất gia, tạo thành khá nhiều hiểu lầm cho
người khác. Những kẻ ấy chúng ta không bàn đến;
còn bản thân chúng ta xuất gia là vì lẽ gì? Chúng ta hiểu
rõ, chúng ta nhận thấy nền giáo dục này tốt
đẹp, có giá trị, phải nên hoằng dương
cho rạng rỡ, rộng lớn, đáng tiếc không có ai
làm! Không có ai làm thì mọi người không biết, không hiểu,
không nhận thức. Chúng ta hiểu rõ, hiểu trọn vẹn,
nhận thức thì bản thân chúng ta phải gánh vác trách nhiệm,
nghiêm túc nỗ lực làm, làm cho tốt. Chúng ta xuất gia
là vì vậy!
Phát tâm xuất gia như thế,
quý vị nhất định phải tôn sư trọng
đạo. Chúng ta đọc cuốn sách này thì Liên Trì đại
sư là thầy của chúng ta, Hoằng Tán đại
sư là thầy của chúng ta, chúng ta phải tôn trọng
những giáo huấn của các Ngài trong cuốn sách này. Chúng
ta phải kính trọng thầy, phải tôn trọng lời
các Ngài giáo huấn, phải chú tâm lãnh hội nghiên cứu, y
giáo phụng hành. Đấy là tôn sư trọng đạo.
Do vậy, phải “thiết ý tuân
hành” (dốc ý tuân hành), dùng ý chí khẩn thiết tuân thủ
phụng hành. “Thận vật
vi phạm” (cẩn thận chớ vi phạm): Chẳng
được trái nghịch, chẳng được vi phạm
lời thầy giáo huấn. Lại xem tiếp đoạn
thứ tám:
Bát,
nhiên hậu cận vi Tỳ Kheo giới chi giai thê, viễn
vi Bồ Tát Giới chi căn bản.
(Tám, sau đấy gần thì là bậc
thang cho giới Tỳ Kheo; xa thì là căn bản cho giới
Bồ Tát)
Đây là ba giai đoạn. Cơ
sở trong giai đoạn thứ nhất không tốt thì
đừng mong chi giai đoạn thứ hai, giai đoạn
thứ ba càng khỏi cần phải nói đến nữa.
Do vậy, phải khéo tu giai đoạn này mới có thể
tiếp nhận giới Tỳ Kheo. Giới Tỳ Kheo tu tốt
đẹp rồi mới có thể tiếp nhận giới
Bồ Tát. Đây là ba giai đoạn, ba nấc thang. Chúng ta
chân tu, không trọng hình thức. Do vậy, mọi người
hảo tâm xuất gia, “chúng tôi muốn mau được thọ
Tam Đàn Đại Giới, ngay lập tức làm Bồ
Tát”, ấy là giả, không thật đâu! Chúng ta làm Sa Di suốt
đời trọn chẳng nhục nhã, chúng ta tu thật, chúng
ta là Sa Di thật sự, còn họ là Bồ Tát giả, khác hẳn!
Do vậy, thực hiện công phu chậm chạp, thật
thà, chất phác nơi cơ sở mới là chân thật.
Đoạn tiếp theo nói:
Cửu, nhân Giới sanh
Định. Nhân Định phát Huệ. Thứ kỷ thành
tựu thánh đạo, bất phụ xuất gia chi chí hỹ.
(Chín: Nhân Giới sanh Định,
nhân Định phát Huệ. Ngõ hầu thành tựu thánh đạo,
chẳng phụ chí xuất gia)
Đây là thứ tự. Trình bày
thứ tự thật rõ ràng, minh bạch. Do vậy, cơ sở
của chúng ta là Giới - Định. Sa Di Luật Nghi là tu
đại căn bản Giới và Định. Tu Giới
và Định ấy nơi đâu? Tu trong cuộc sống hằng
ngày, tu nơi khởi tâm động niệm. Đó gọi
là tu hành! Chứ không phải mỗi ngày cầm lên đọc
mấy biến là tu hành, không phải vậy! [Tu Giới]
nơi khởi tâm động niệm, xử sự, đãi
người, tiếp vật, tu Giới trong ấy. Giới
là tuân thủ quy củ, hết thảy đều làm đúng
pháp. Tu Định như thế nào? Tu tâm thanh tịnh trong
những điều ấy. Tôi vừa mới trình bày cùng
quý vị rồi đó: Hai mươi bốn môn oai nghi là những
khuôn mẫu sanh hoạt, mà cũng là cuộc sống thường
nhật, chúng ta phải dùng những tâm thái gì để
đối xử với con người, đối sự,
đối vật.
Tuy trên văn tự nói là “sự
sư” (thờ thầy), tức là đối với thầy,
nhưng theo như hết thảy các kinh dạy thì là đối
với Phật, Phật đại biểu cho đại
chúng. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện dạy “lễ kính chư Phật”,
chư Phật là ai? Hết thảy chúng sanh đều là
chư Phật. Không chỉ hữu tình chúng sanh là chư Phật,
mà vô tình chúng sanh cũng là chư Phật. Bàn ghế, thực
vật, khoáng vật đều là chư Phật. Hữu
tình chúng sanh có Phật Tánh là chư Phật, vô tình chúng sanh
có Pháp Tánh, cũng là chư Phật. Pháp Tánh và Phật Tánh là
một tánh. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình và vô tình, đồng
viên chủng trí”. Lấy Phật làm đại biểu, đối
với đức Phật chúng ta cung kính nhất thì đối
với hết thảy mọi người cũng phải có
cùng một cái tâm cung kính giống hệt như vậy.
Đối sự, đối vật quyết định
không có sai khác, cùng một cái tâm cung kính.
Hai mươi bốn Oai Nghi
được nói đến ở đây chính là những
khuôn mẫu sanh hoạt thường nhật. Sách này dạy
“thờ thầy”, thì Thầy ở đây cùng một ý
nghĩa với chữ Phật được nói trong Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Chúng ta tôn kính thầy,
dùng cùng một cái tâm tôn kính thầy đối với hết
thảy đại chúng, đối với hết thảy
mọi người, đối với hết thảy sự,
đối với hết thảy vật thì quý vị mới
biết học Phật! Cung kính Phật, cung kính thầy,
nhưng những ai không phải thầy mình bèn khinh mạn
họ một chút là trật rồi! Làm sao quý vị đắc
Định cho được? Làm sao quý vị đạt cái
tâm thanh tịnh cho được? Do vậy, kinh nói đến
Phật, nói đến thầy là nói đến đại
biểu. [Hiểu] như vậy mới là đúng.
Đoạn văn này nêu rõ thứ
lớp, thứ tự theo chiều thuận, mục tiêu tu học.
Chúng ta dựa vào mười giới, hai mươi bốn
oai nghi này, chúng đều nằm trong một chữ Giới.
Dựa vào phương pháp này mới hòng đắc Định,
đắc tâm thanh tịnh, đắc Căn Bản Trí.
Đắc Định xong rồi mới có thể nghe kinh,
mới có thể tham Thiền, mới có thể niệm Phật,
mới có thể học rộng nghe nhiều, thành tựu Hậu
Đắc Trí cho chính mình. Hậu Đắc Trí không gì không
biết: “Bát Nhã vô tri, không gì không biết”. Do vậy,
trước hết phải đạt được Vô
Tri, sau đấy mới sẽ không gì không biết. Thứ
tự thuận này chẳng được đảo lộn.
Nếu đảo lộn thì Căn Bản Trí không có, Hậu
Đắc Trí hoàn toàn không có. Chẳng thể coi tà tri tà kiến
là “không gì không biết”; nếu vậy là lầm lẫn quá
đỗi rồi! “Không gì không biết” là Chánh Tri Chánh Kiến,
phải hiểu điều này!
Hôm nay chúng tôi giảng đến
đây. Những điều này không cần giảng nhiều,
quan trọng là phải thật sự thấu hiểu
được ý nghĩa, hiểu rõ chúng ta nên làm như thế
nào? Tu học như thế nào thì sẽ đạt được
lợi ích lớn lao ấy!
Phần 3:
Xin xem đoạn mười
thuộc trang chín. Câu cuối cùng trong phần chú giải cho
đoạn chín chính là một câu nói của Đàm Nhất[20]
luật sư: “Tam thế Phật pháp, Giới vi căn bản,
bản chi bất tu, đạo viễn hồ tai” (Giới là căn bản, không tu
cái gốc thì xa cách đạo lắm thay). Câu này rất
quan trọng. Trong cả một đời này, chúng ta
thường nghe nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp
nan văn” (Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe). Được
thân người, nghe Phật pháp, quả thật chẳng dễ
dàng, quả thật là may mắn lớn lao. Trong kinh thường
nói đến điều này, như bài kệ Khai Kinh có câu:
“Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm ngàn muôn
kiếp khó gặp gỡ!), cổ đức nói: “Vô
lượng kiếp lai hy hữu nan phùng đích nhân duyên” (Nhân duyên hy hữu khó gặp
được từ vô lượng kiếp đến
nay). Những câu nói ấy không giả chút nào hết! Nhưng
mọi người thường rất hờ hững, rất
vô tâm bỏ lỡ qua, không để ý đến! Nói cách
khác, hoàn toàn chẳng thể nghiệm tánh chân xác, tánh trọng
yếu của những câu nói này. Nếu ai thật sự
hiểu rõ, người ấy nhất định quý tiếc
cuộc đời này vô cùng, cuộc đời này cũng
là một cơ duyên, cơ hội cho chúng ta phá mê khai ngộ,
liễu sanh thoát tử. Chúng ta gặp được cơ
hội thì phải làm sao mới có thể vượt thoát luân
hồi lục đạo, thật sự liễu sanh thoát tử?
Nhất định phải y giáo phụng hành! Nếu tự
cậy mình thông minh, tự mình muốn làm theo một cách
[riêng] thì uổng phí công phu, mà cũng là kẻ cuồng vọng,
ngu si như người xưa đã nói! Không thể tin
tưởng, đấy là ngu si! [Tuy] tin tưởng
nhưng ỷ mình thông minh, muốn làm theo cách khác, đấy
là cuồng vọng! Hai điều ấy đều là
nguyên nhân gây nên thất bại.
Mấy câu nói này của Đàm
Nhất luật sư hết sức hay: “Tam thế
chư Phật" là quá khứ, hiện tại, vị
lai. “Giới vi căn bản” (Giới là căn bản): Giới ở đây
được dùng theo nghĩa rộng, không phải là [hiểu
theo] nghĩa hẹp, nhất định phải hiểu
cho rõ ràng! Theo nghĩa rộng, điều quan trọng nhất
là phải tuân thủ lời thầy dạy răn, đó
chính là cái mà xưa kia chúng ta gọi là “sư thừa”.
Học như thế nào? Mới học, nhất định
phải học theo một người thì quý vị mới
có thành tựu, đấy gọi là “học theo một
nhà”. Vừa bắt đầu liền học rất nhiều
mà nghiễm nhiên có thành tựu thì những người thành
tựu ấy đều là thiên tài, là bậc tái lai, chắc
chắn không phải là phàm phu. Xem trong lịch sử, chúng
ta thấy người vừa bắt đầu bèn học
rộng nghe nhiều, được thành tựu thì trong lịch
sử có lẽ chỉ có một mình Vĩnh Gia thiền
sư. Vĩnh Gia là thiên tài, vừa bắt đầu Ngài
đã nghe rất nhiều pháp sư giảng kinh thuyết
pháp. Trước ngài Vĩnh Gia, sau ngài
Vĩnh Gia, chúng ta đều chưa từng thấy [có ai
được như vậy]. Ngài đúng là một bậc
thiên tài. Ngài đến gặp Lục Tổ, Lục Tổ
ấn chứng cho Ngài, vấn đề được giải
quyết ngay khi ấy. Được ấn chứng rồi,
Ngài bèn muốn đi ngay, Lục Tổ giữ ở lại
một đêm, bảo Ngài: “Vì sao ông đi lẹ như thế?
Hãy ở lại một đêm!” Do đó, Ngài bèn ở lại
Tào Khê một đêm, đấy chính là câu chuyện “nhất túc giác” (một
đêm giác ngộ) rất nổi tiếng của Thiền
Tông. Vị này là bậc tái lai, là thiên tài, chúng ta không thể
học theo được, chúng ta không phải là thân phận
ấy, không có tư cách đó. Vì thế, nhất định
phải thật thà học theo một người, học
theo lời dạy của một nhà mà thôi!
Hiện thời, khó gặp
được thiện tri thức, chúng ta học với
ai? Ai là thiện tri thức chân chánh? Ai có năng lực chỉ
dạy chúng ta? Trong tâm chúng ta khâm phục ai? Nếu chẳng
phải là người trong lòng chúng ta ngưỡng mộ
nhất, dù người ấy đã thành Phật rồi hay
là bậc tái lai thì quý vị theo người ấy suốt
đời cũng vô dụng! Người ấy cái gì
cũng không thông, đạo đức, học vấn
đều không có, nhưng quý vị hết sức tôn trọng
người ấy, hết sức kính ngưỡng thì quý vị
học với người ấy sẽ được
thành tựu. Do đây, biết được rằng: Trong
sự thành tựu tu học của một người thì
thầy dạy là thứ yếu, quan trọng nhất là
thái độ tu học của chính mình, có thể thành tựu
hay không là do chính mình quyết định.
Trong kinh Phật cũng có câu
chuyện nhỏ thế này. Đây cũng là chuyện thật
xảy ra tại Cổ Ấn Độ: Có một vị
xuất gia muốn cầu đắc quả A La Hán, có một
vị xuất gia khác biết được, bỡn cợt
bảo ông ta: “Tôi có thể truyền pháp cho ông. Tôi truyền
cho ông thì ông phải lo rượu ngon, thức ăn ngon
để cúng dường tôi!” Vị xuất gia ấy thật
sự đem y bát, hành lý bán sạch hết, chuẩn bị
rượu ngon, những món thức ăn ngon để
cúng dường người kia, mời ông ta xơi. Ăn
uống xong, vị pháp sư cợt nhả ngồi trong
phòng, kêu vị kia ngồi xổm trong một góc phòng, cầm
trái banh da ném vào đầu, kêu: “Ông chứng quả Tu Đà
Hoàn rồi!” Chọc ghẹo vị ấy như vậy, vừa
ném vị ấy thì Ngài bèn thật sự chứng đắc!
Được! Lại đổi sang góc khác, lại ném
banh vào Ngài lần nữa, nói: “Ông chứng đắc Nhị
Quả rồi!” Ném banh cả bốn góc xong, nói: “Ông chứng
đắc A La Hán rồi!” Vị xuất gia kia lập tức
dập đầu, cảm tạ ân đức pháp sư. Vị
pháp sư đùa cợt bảo: “Tôi giỡn chơi với
ông thôi mà!” Vị xuất gia kia nói: “Tôi thật sự chứng
đắc rồi!”
Nguyên
nhân nào vậy? Tổ Ấn Quang giảng: “Thập phần
cung kính đắc thập phần lợi ích” (Mười phần cung kính
được mười phần lợi ích). Do vậy,
thành tựu của một cá nhân là do sự chân thành của
chính mình, không chút dính dáng gì đến thầy cả! Tục
ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Có học trò Trạng Nguyên, chứ không nghe nói có thầy
của Trạng Nguyên”. Thầy là Tú Tài, học trò đậu
Trạng Nguyên, đó gọi là “thanh xuất ư lam, nhi
thắng ư lam” (màu xanh phát xuất từ chất chàm,
nhưng lại trội hơn chất chàm). Chướng ngại
lớn nhất cho đạo và học là gì? Chính là tâm khinh
mạn, không cung kính. Chư Phật Như Lai ở nơi
đây, quý vị không tin tưởng các Ngài, xem thường,
không tôn trọng thì quý vị đều không đạt
được! Quý vị tôn trọng kẻ ngu, kẻ ác
thì quý vị sẽ thành tựu đạo nghiệp trong tay
họ.
Như vậy
thì thiện tri thức ở chỗ nào? Thiện tri thức
phải cầu từ lòng chân thành, cung kính của chính mình,
hết thảy mọi người đều là thiện
tri thức. Năm mươi ba lần tham học trong kinh
Hoa Nghiêm đã chỉ ra rõ ràng cho chúng ta. Trong năm
mươi ba lần tham học ấy, trên thực tế
là dạy chúng ta đối với các nghề nghiệp, nam
- nữ - già - trẻ trong xã hội, nếu quý vị dùng
lòng chân thành, cung kính cầu pháp để tiếp xúc họ
thì đều có thể tăng cao địa vị Bồ
Tát của chính mình. Quý vị xem năm mươi ba vị ấy
là những người như thế nào? Trong số đó
có ngoại đạo, ngày nay chúng ta nghe nói đến ngoại
đạo bèn xem thường, khinh rẻ, lầm rồi!
Phật pháp tu điều gì? Tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình
đẳng, tu tâm chân thành. Năm mươi ba lần tham học
dạy chúng ta “trải qua sự việc để luyện
tâm”, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh
cũng được, thiện duyên cũng tốt, ác duyên
cũng xong, chúng ta tu hành tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng
từ trong ấy, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
Do vậy,
cảnh giới thiện - ác, cảnh duyên thiện - ác không
gì chẳng phải là thiện tri thức, tâm của chính chúng
ta thanh tịnh rồi, bình đẳng rồi thì tất cả
hết thảy mọi người, cảnh giới thiện
- ác đều là cảnh giới Phật. Trong mắt Phật
thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật; trong
mắt phàm phu thấy hết thảy Phật, Bồ Tát
đều là phàm phu. Đấy là sự thật! Chúng ta tạc
hình tượng Phật, Bồ Tát; người không học
Phật đối với những hình tượng ấy
chẳng có chút cung kính nào, coi đó là những ngẫu
tượng bằng đất nặn, gỗ khắc. Do vậy,
trong mắt phàm phu, Phật, Bồ Tát đều là phàm phu,
Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật.
Khi nào quý vị thành Phật? Lúc nào quý vị thấy hết
thảy chúng sanh đều là Phật, quý vị bèn thành Phật!
Thấy hết thảy chúng sanh tâm đều thanh tịnh,
tâm người lành thanh tịnh, tâm kẻ ác cũng thanh tịnh,
không có gì không thanh tịnh thì quý vị đã thanh tịnh
được cái tâm rồi! Tu hành thì phải tu ở chỗ
này.
Ở
đây nói “Giới là căn bản", Giới ở
đây là nghĩa rộng, không phải nghĩa hẹp, nhất
định phải tuân thủ lời răn dạy của
thầy, tuân thủ phương pháp của thầy. Nếu
thầy thật sự có trí huệ, có thiện xảo, có
hiểu biết, ông ta cũng sẽ không bó buộc, đòi
hỏi quý vị vô lý, không bao giờ có chuyện đó! Thời
xưa, thầy ước thúc học trò theo nguyên tắc
chung là năm năm, nhưng năm năm cũng không phải
là nhất định, có thể dài hơn hay ngắn
hơn, hoàn toàn tùy thuộc vào sự thành tựu trong tu học
của học trò. Học trò căn cơ nhạy bén thì thời
gian rút ngắn lại, chẳng hạn như Vĩnh Gia thiền
sư tôi mới vừa nhắc đến đó. Vĩnh
Gia thiền sư chỉ cần một ngày, không cần
đến năm năm. Lục Tổ đại sư
cũng có rất nhiều học trò theo Ngài học suốt
ba mươi năm. Quý vị đọc Đàn Kinh thấy
có những vị ba mươi năm chẳng lìa thầy,
họ cũng chưa chắc là độn căn, có những
vị tuy đã được khai ngộ, nhưng vì báo đáp
ân đức thầy, chẳng muốn rời khỏi thầy,
tình hình ấy cũng có. Đương nhiên có vị
căn khí chậm lụt hơn nên theo thầy trong một
thời gian khá dài. Do vậy, năm năm ấy hoàn toàn
không phải là một tiêu chuẩn cố định, thời
gian có thể kéo dài hay có thể rút ngắn, hoàn toàn tùy thuộc
vào thành tựu. Nói cách khác, chưa thành tựu thì chẳng
được rời khỏi thầy, thành tựu rồi
thì có thể tách lìa thầy lúc nào cũng được!
Như thế
nào mới được coi là thành tựu? Trong Thiền
Tông là “minh tâm kiến tánh”, đó mới tính là thành tựu,
trong Giáo Hạ là “đại khai viên giải”, đó mới
kể là thành tựu; trong pháp môn Tịnh Độ là “nhất
tâm bất loạn”, đấy mới kể là thành tựu.
Nói một cách nghiêm ngặt, tiêu chuẩn này của Tịnh
Độ là thấp nhất, vì theo tiêu chuẩn của Thiền
và Giáo đều cần phải đoạn phiền não, phải
phá một phẩm vô minh mới tính là thành tựu được,
chứng đắc Tứ Quả La Hán đều không tính
là thành tựu. Quý vị thấy trong kinh điển của
đức Phật, Thường Tùy Chúng (những vị
thánh giả thường theo đức Phật) của Phật
là một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị,
đều đã chứng được quả A La Hán,
nhưng vẫn chẳng thể lìa khỏi thầy, vì sao vậy?
Chưa kiến tánh! A La Hán chỉ là thành tựu Cửu Thứ
Đệ Định[21],
đoạn Kiến Tư phiền não chứ chưa đoạn
hết Trần Sa phiền não, Vô Minh chưa phá được,
không thể thành tựu, nên phải theo thầy. Trong số
các đệ tử Bồ Tát của đức Phật, họ
đều là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại
ngộ, có thể tách rời thầy, tiêu chuẩn là ở
chỗ này. Kiến tánh rồi, có thể thay Phật giáo hóa
chúng sanh, có thể đi giáo hóa tại một phương,
nơi nào có duyên với quý vị, quý vị liền đến
nơi đó, “Phật độ
người hữu duyên”. Không có duyên, quý vị đến
cũng uổng công! Phật độ người hữu
duyên mà! Do vậy, ở đây chúng ta phải nhớ kỹ
“Giới là căn bản”, phải
tu học từ căn bản thì mới là đúng!
Chúng tôi
khuyên mọi người học một bộ kinh, học
một bộ kinh là học với một vị thầy. Ở
Đài Trung, tôi thờ cụ Lý Bỉnh Nam làm thầy,
nhưng Ngài không công nhận như thế. Lão nhân gia rất
khiêm hư, cụ xem chúng tôi như đồng học, cụ
lớn tuổi hơn một chút, có thời gian học lâu
hơn chúng tôi, đến dạy kèm chúng tôi, chẳng dám nhận
lấy thân phận làm thầy, đấy chính là đức
hạnh của cụ. Cụ răn dạy chúng tôi thờ Ấn
Quang đại sư làm thầy, Ấn Quang đại
sư là thầy cụ; nói cách khác, chúng tôi mang thân phận
đồng học kẻ trước người sau, cùng ở
một chỗ với nhau như thế đó. Quý vị thấy
lão nhân gia rất khiêm hư, chúng tôi không bằng được
thầy Lý, sao dám nhận thân phận làm thầy? Thầy Lý
dạy tôi học Ấn Tổ (tổ Ấn Quang),
đương nhiên Ấn Tổ thật phi thường,
[Ngài là] Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai mà, làm sao lầm
lẫn được! Quyết định không lầm!
Nhưng
hiện thời chúng ta tu học, chiếu theo nguyên tắc
cơ bản thầy đã nói, chúng ta chọn ra một bộ
kinh, căn cứ theo một bộ chú giải, bộ chú giải
ấy do ai viết thì vị ấy là thầy ta, như vậy
là không sai. Trực tiếp nương theo kinh thì Phật là
thầy của chúng ta. Chúng ta chuyên học Vô Lượng Thọ
Kinh thì A Di Đà Phật là thầy chúng ta. Cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ soạn một cuốn chú giải cho kinh Vô
Lượng Thọ, cụ Hoàng cư sĩ là đồng học
của chúng ta, cụ là trưởng tràng của chúng ta, vì
chúng ta chọn lọc, tổng hợp rất nhiều tài
liệu quý báu. Nhưng chẳng thể chiếu theo bản
chú giải ấy để giảng giải kinh, dựa
theo bản chú giải ấy để giảng kinh chắc
chắn quý vị sẽ thất bại. Tôi đã giảng
kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần, quý vị
nghe kỹ lời tôi giảng rồi đem so sánh với những
gì cụ chú giải, tôi chẳng hề chọn dùng những
lời chú giải của cụ. Tôi thường nói: Đối
với người mới học, bản chú giải ấy
có tác dụng như là đại từ điển của
kinh Vô Lượng Thọ, bất luận đối với
danh tướng hay đối với nghĩa lý đều
có rất nhiều tài liệu tham khảo. Cụ tập hợp
những lời giải thích kinh Vô Lượng Thọ của
cổ đại đức, có đặc tánh rất gần
giống với bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của
cư sĩ Giang Vị Nông. Bộ Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa của Giang lão cư sĩ cũng có thể coi
như là một bộ đại từ điển của
kinh Kim Cang.
Chúng ta học
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, [thấy] Thiện
Đạo đại sư chú giải khác hẳn, Ngài không
tổng hợp toàn bộ [những chú giải] của mọi
nhà, bản thân Ngài quả thật có những kiến giải
độc đáo, thật khác hẳn. Mọi người
đều biết ngài Thiện Đạo chính là hóa thân của
A Di Đà Phật tái lai. Trong lịch sử Trung Quốc,
hóa thân của Phật A Di Đà là Thiện Đạo đại
sư, Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, Phong Can hòa
thượng. Trong lịch sử, ba vị này gần
như chắc chắn [thật sự là hóa thân của Phật
A Di Đà]. Ngài Thiện Đạo là A Di Đà Phật tái
lai, bản chú giải của ngài Thiện Đạo là A Di
Đà Phật đích thân tự chú giải, há còn lầm
chăng? Do vậy, chúng ta phải học kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, chúng ta phải y chỉ Thiện Đạo
đại sư, làm học trò của Thiện Đạo
đại sư.
Chúng ta
nghiên cứu kinh A Di Đà, kinh A Di Đà có hai bản chú giải,
một là cuốn Sớ Sao của Liên Trì đại sư,
còn bản kia là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư. Học Sớ Sao, chuyên chú dụng công nơi Sớ Sao
thì ngài Liên Trì là thầy. Học Yếu Giải, bèn chuyên chú
dụng công nơi Yếu Giải thì ngài Ngẫu Ích là thầy.
Thời cận đại, sách Yếu Giải có bộ Giảng
Nghĩa của pháp sư Viên Anh[22],
bộ Thân Văn Ký của pháp sư Bảo Tịnh[23],
chúng ta coi sư Viên Anh, Bảo Tịnh như trưởng
lớp, kèm cặp chúng ta, chúng ta thờ ngài Ngẫu Ích làm
thầy, còn sai được chăng? Chúng ta thật sự
tìm được thiện tri thức, thật sự tìm
được thầy.
[Đối
với] Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên
Thông Chương, chúng ta nương theo bản Sớ Sao của
pháp sư Từ Vân Quán Đảnh[24],
bản ấy chúng tôi đã in rất nhiều. Với Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm thì chúng ta nương theo
bản Sớ Sao của Thanh Lương đại sư.
Thanh Lương, Tông Mật là thầy, quyết định
không sai. Cả một đời chuyên chú dụng công, chuyên
tu, phải như vậy mới có thể thành công, đừng
học loại thứ hai nào nữa! Những thứ
được tôi giảng đây chỉ nhằm để
cung cấp tài liệu tham khảo cho quý vị, giúp cho quý vị
thâm nhập lý giải, nhất định phải thâm nhập
một môn, y giáo phụng hành, đấy mới là hữu dụng!
Nhất
định phải hiểu mỗi một bộ kinh bao gồm
bốn bộ phận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thứ nhất
là Giáo, Giáo là văn tự, chúng ta thường nói “tiêu
văn” [tức là] thông đạt văn tự không
chướng ngại, đó là Giáo, đấy là bước
tu học thứ nhất. Thứ hai là Lý, [tức là] những
lý luận được giảng trong [bộ kinh] ấy,
phải hiểu rõ đạo lý đã được giảng
bởi kinh ấy, hiểu rõ lý luận, tự nhiên quý vị
sẽ có tín nguyện. Thứ ba là Hạnh, phải biến
lý luận thành tư tưởng, hành vi của chúng ta, biến
giáo huấn thành chỗ dựa, thành căn cứ để
chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật.
Tư tưởng, lời lẽ, hành trì của chúng ta
đều là những gì quý vị đã học từ bộ
kinh ấy. Nói cách khác, quý vị học kinh Vô Lượng
Thọ, quý vị liền biến thành Vô Lượng Thọ
Phật, quý vị học kinh A Di Đà liền học thành
A Di Đà Phật, quý vị học Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm liền thành Phổ Hiền Bồ Tát, quý
vị học Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương, quý vị liền là Đại Thế
Chí Bồ Tát. Ấy mới gọi là học, học
được giống như các Ngài. Chúng ta có giống như
Phật hay chăng? Giống như Bồ Tát hay chăng?
Trong khởi tâm động niệm, xử sự đãi
người, tiếp vật [phải học] như thế
thì mới gọi là “Giới là căn bản", mới
gọi là “học từ căn bản”. Do vậy, Giới
ở đây là nghĩa rộng, chứ không phải
nghĩa hẹp. Đấy là nói học theo một nhà, dốc
sức nơi một bộ kinh. Chúng ta cùng một tông phái,
cùng một phương hướng, cùng một mục
tiêu, tuy học kinh không giống nhau, nhưng phương
hướng, mục tiêu hoàn toàn nhất trí. Chúng ta lấy Lục
Hòa Kính làm cơ sở, mọi người cùng tu, cùng nhau học
tập, đây - kia khuyến khích lẫn nhau, dùi mài, gọt
giũa lẫn nhau.
Cổ
đức giảng kinh, tuyên giảng, còn chúng tôi không dám.
Tôi giảng kinh bên ngoài từ trước đến nay chẳng
dám nói là giảng kinh, tôi chỉ báo cáo sự tu học, tôi
dùng thái độ, tâm tưởng này. Đồng học
chúng ta tụ lại một chỗ, mỗi một người
báo cáo sự tu học của chính mình, mọi người ở
cùng một chỗ cùng nhau thảo luận. Tôi báo cáo kinh Vô
Lượng Thọ, các quý vị nghe xong đối với
nội dung kinh Vô Lượng Thọ đều hiểu rõ
ràng, quý vị báo cáo kinh A Di Đà, chúng tôi cũng nghe. Những
kinh điển như thế ấy của tông này chúng ta
đều học hết, nhưng tôi chỉ phát huy tại
một bộ kinh. Tôi nghe năm kinh một luận, lúc tôi
báo cáo sự nghiên cứu tu tập bên ngoài, đem tất cả
những gì nghe được gộp vào trong kinh Vô Lượng
Thọ để báo cáo. Quý vị học A Di Đà Kinh Yếu
Giải, quý vị dung hội quán thông những gì đã nghe
được từ năm kinh một luận, đều
gộp hết vào Yếu Giải để báo cáo. Chúng ta
đem ý nghĩa kinh, đem sự tu học giới thiệu
với đại chúng như thế, dâng lên đại
chúng, khiến cho người ta nghe đến đều
vui vẻ tiếp nhận thì chúng ta tu học thành công.
Chúng ta lắng
lòng quán sát, trình độ học Phật trong thế giới
hiện thời cao nhất là ở Trung Quốc đại
lục. Qua những sách vở và băng thâu âm được
gởi đến Đại Lục, quý vị có thể thấy
được [điều ấy]: Họ có chọn lựa,
họ có so sánh. Có rất nhiều băng thâu âm được
gởi sang Đại Lục, họ nghe một lần bèn
bảo quý vị: “Sau này các vị không cần phải gởi
những băng thâu âm này nữa, chúng tôi không muốn nghe.
Những loại sách này chúng tôi đã đọc rồi, về
sau không cần gởi nữa”. Từ chỗ này biết
được rằng trình độ học Phật của
họ so ra cao hơn chúng ta. Chúng ta học thứ này thứ
nọ loạn cả lên, học hỗn tạp, bọn họ
đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Đầu óc tỉnh
táo, sáng suốt nên phân biệt dễ dàng. Nay chúng ta không phân
biệt dễ dàng [là vì] học quá nhiều, quá tạp, quá loạn,
khả năng phân biệt bị mất đi rồi, đáng
tiếc quá chừng! Nói thật ra, chúng ta không bằng
người ta! Phải chú ý chỗ này. Đoạn thứ
mười nói:
Thập,
nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt
Luật Tạng Toàn Thư.
(Mười,
nếu thích đọc rộng, hãy tự xem Luật Tạng
Toàn Thư)
“Nhược
nhạo quảng lãm”: Chữ Nhạo nên đọc theo
Khứ Thanh[25],
đọc giống chữ Dược (yàu)[26],
có nghĩa là yêu thích. Quý vị ưa thích học rộng
nghe nhiều thì hãy “tự đương duyệt Luật
Tạng Toàn Thư” (hãy tự
xem Luật Tạng Toàn Thư) vì ở đây Liên Trì
đại sư giới thiệu hết sức giản
lược cho chúng ta, giới thiệu đại
cương. Cái hay của đại cương là chúng ta dễ
thực hiện được trong sanh hoạt thường
ngày. Nếu quý vị có hứng thú nơi Giới Luật,
muốn thâm nhập nghiên cứu, đương nhiên phải
cần đến Luật Tạng Toàn Thư. Đây
cũng chính là Luật Tạng trong Tam Tạng kinh điển,
nội dung rất rộng, rất phong phú.
Đây là
đoạn văn dẫn nhập mở đầu, mà
cũng là phần khái luận như trong các sách vở hiện
thời, phần dẫn nhập đến đây là hoàn tất,
câu cuối cùng là lời tổng kết của phần dẫn
nhập. Từ đoạn mười một trở
đi, chúng ta có thể coi như là phần Chánh Tông của
cuốn sách này, chánh thức giới thiệu với chúng
ta.
Thập nhất, hậu Thập Giới, xuất
Sa Di Thập Giới Kinh, Phật sắc Xá Lợi Phất,
vị La Hầu La thuyết.
(Mười
một, mười giới sau đây trích từ kinh Sa Di Thập
Giới, Phật bảo Xá Lợi Phất nói cho La Hầu La)
“Hậu
Thập Giới, xuất Sa Di Thập Giới Kinh” (mười giới sau đây
trích từ kinh Sa Di Thập Giới): Cho biết Sa Di
Luật Nghi Yếu Lược là từ nơi đâu mà có,
Liên Trì đại sư có căn cứ, Ngài trích lục từ
kinh Sa Di Thập Giới[27]
ra. Giống như chúng ta thấy thể loại trích lục
tinh hoa của một bộ kinh hiện thời, đây là một
sách trích lục tinh hoa của Sa Di Thập Giới Kinh do
Liên Trì đại sư vì chúng ta trích lục. Cuốn sách
này không phải là Sa Di Thập Giới Kinh hoàn chỉnh, mà
là trích lục [từ kinh ấy] ra. Việc trích lục này
nhằm để thuận tiện cho sự tu trì.
“Phật sắc Xá Lợi Phất,
vị La Hầu La thuyết” (Phật bảo Xá Lợi Phất nói cho La Hầu La): Sa Di Thập
Giới Kinh không phải do đức Phật nói, mà do tôn giả
Xá Lợi Phất nói. La Hầu La xuất gia y chỉ với
hòa thượng là ngài Xá Lợi Phất. Do vậy, trong
Tăng đoàn, sư ông của La Hầu La là Phật,
sư phụ là Xá Lợi Phất. Trong Tăng đoàn, La Hầu
La mang thân phận như vậy, có vai vế rất nhỏ,
chúng ta phải biết điều này. Đoạn lịch
sử này Hoằng Tán đại sư cũng trích lục
vài phần; lời chú giải này cũng do Hoằng Tán
đại sư trích lục. Mọi người xem đi,
nếu có chỗ nào chưa hiểu rõ thì hãy nêu câu hỏi,
không hỏi thì chúng tôi sẽ lướt qua. Hãy xem tiếp
điều thứ mười hai kế đó, đây chính
là [một giới trong] Thập Giới.
Thập nhị, nhất viết
bất sát sanh.
(Mười
hai, một là không sát sanh)
Điều
thứ nhất trong Mười Giới. Giới Luật có
hai thứ, một thứ là thuần vì tự lợi, một
loại khác là lợi tha - tự lợi cả hai đều
đầy đủ. Trong giới tự lợi thì điều
thứ nhất là không dâm dục, trong giới lợi tha thì
điều thứ nhất là không sát sanh. Không sát sanh nhằm
bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình, đại
từ đại bi. Phật pháp là “từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”. Không có đại từ
bi sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo. Do vậy,
muốn được thành Phật phải khởi sự
tu từ tâm từ bi, tu dưỡng cái tâm từ bi chân thật
của chính mình. Trong tự lợi thì không dâm dục nhằm
bồi dưỡng cái tâm thanh tịnh của chính mình, quyết
định vượt thoát tam giới, liễu thoát sanh tử.
Phật
dạy vì sao một cá nhân bị lưu chuyển trong tam giới?
Do vì dâm dục! Dâm dục là căn bản của tam giới
lục đạo. Cổ đức thường nói: “Ái
bất trọng bất sanh Sa Bà, niệm bất nhất bất
sanh Tịnh Độ” (Ái
chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà, niệm chẳng chuyên nhất
chẳng sanh Tịnh Độ). Muốn vãng sanh Tịnh
Độ, niệm phải chuyên nhất. “Nhất” nghĩa
là nhất tâm bất loạn; đạt đến nhất
tâm bất loạn thì không ai chẳng vãng sanh! Ái dục không
đoạn sẽ chẳng thể vượt thoát sanh tử
luân hồi được! Quý vị phải hiểu: Chẳng
những không thể vượt thoát, mà trong tam giới quý
vị chỉ có thể ở trong Dục Giới, không thể
sống trong Sắc Giới. Sắc Giới là ngũ dục
đều đã đoạn hết, [tức là] năm
điều Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy (của cải, sắc
dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) đều
không có. Nhưng họ không thật sự đoạn; nếu
thật sự đoạn liền ra khỏi tam giới. Bọn
họ chỉ “phục đoạn” (đoạn bằng
cách đè nén, khuất phục), bọn họ có định
lực, dùng công năng của Định để chế
ngự khuất phục phiền não, chẳng cho chúng dấy
lên, chẳng khởi tâm động niệm, họ dùng công
năng định lực khuất phục, chế ngự,
nên mới có thể sanh lên Sắc Giới, sanh lên Vô Sắc
Giới. Nếu không chế ngự được những
ý niệm ấy, dù tu giỏi đến đâu vẫn ở
trong Dục Giới. Cao nhất trong Dục Giới là Tha
Hóa Tự Tại Thiên.
Do vậy,
phải hiểu rõ tự lợi và lợi tha. Vì sao Phật
dạy điều thứ nhất là không sát sanh? Có Giới
kinh dạy điều thứ nhất là không dâm dục, trọng
điểm không giống nhau. Do vì Sa Di Giới là căn cơ
của Bồ Tát, của Phật, tự lợi, lợi tha
[gồm đủ], điều thứ nhất là không sát
sanh, bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình.
Phần
chú giải có lời giải thích đơn giản: “Đoạn
mạng viết Sát, hữu tình viết Sanh” (Dứt mạng
là Sát, có tình thức là Sanh). Nói rất rõ ràng! Chữ “Sanh” chỉ
cho hữu tình chúng sanh, hữu tình chúng sanh là động vật,
đối với tất cả hết thảy động
vật chúng ta phải có tâm thương xót, chẳng nên sát
hại. Trong kinh Tân Ước và Cựu Uớc của
Cơ Đốc Giáo, Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christ)
cũng có bốn điều răn, hết sức giống
với bốn giới trọng ở đây. Điều thứ
nhất là “không được giết người”, phạm
vi của điều này rất nhỏ, không nên giết
người thôi, không bao gồm những loài động vật
vào trong đó. Kế đến là “không tà dâm”, “không trộm
cắp” và “không nói dối”, đều giống với Tại
Gia Ngũ Giới của chúng ta. Trong Ngũ Giới của
chúng ta có giới “không uống rượu”, bọn họ
không có. Chúng ta nói “không sát sanh”, bọn họ nói “không
được giết người”, sai khác ở chỗ
này.
Thập
tam, giải viết
(Mười ba, giải
rằng)
Dưới
đây là phần giải thích.
Thập
tứ, thượng chí chư Phật, thánh nhân, sư
tăng, phụ mẫu.
(Mười
bốn, trên đến chư Phật, thánh nhân, sư
tăng, cha mẹ).
Thập
ngũ, hạ chí quyên phi nhụ động, vi tế côn
trùng.
(Mười
lăm, dưới đến những loài cựa quậy,
bay, bò, côn trùng nhỏ nhặt)
Thập
lục, đản hữu mạng giả, bất đắc
cố sát.
(Mười
sáu, chỉ cần có mạng thì không được cố
ý giết).
Đây là
giảng về phạm vi không sát sanh. Quý vị thấy rất
đơn giản, nói rất rõ ràng rành mạch, mọi
người phải học tập điểm này. Đặc
biệt là trong thời đại này, khoa học kỹ thuật
phát đạt, thông tin phát triển, sự tiếp xúc giữa
người với người hết sức dày đặc;
do vậy, ngôn ngữ, văn tự phải sao cho đơn
giản, càng đơn giản càng hay, càng đơn giản
càng được hoan nghênh. Không nên trường thiên đại
luận, cà kê dài dòng, phải biết giảm bớt thời
gian cho người ta. Do vậy, Đông - Tây đều yêu
cầu “giản, yếu, tường, minh” [tức là] đơn giản,
nêu được những điểm quan trọng, nhưng
phải rất tường tận, rất rõ ràng. Các quý vị
thấy mấy câu [giải thích] trên đây rất phù hợp
với [yêu cầu] “giản, yếu, tường, minh” Khi chúng ta giảng kinh hay báo cáo
bên ngoài đều phải biết “giản, yếu,
tường, minh”
Phạm
vi của giới này trên là đến “chư Phật,
thánh nhân”, “thánh nhân” chỉ [những vị] từ A La
Hán trở lên; do vậy, phạm vi của nó rất rộng.
Từ Tiểu Thừa Sơ Quả trở lên đều gọi
là “thánh nhân”. Có những vị Sơ Quả đã đoạn
được tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc[28]
trong tam giới, chứng đắc Vị Bất Thoái trong
Tam Bất Thoái, các ngài tuyệt đối chẳng đọa
thành phàm phu trở lại. Từ trong kinh, chúng ta thấy rất
rõ ràng: Tuy Ngài chưa ra khỏi tam giới, qua lại bảy
lần trong cõi trời, cõi người, chẳng cần biết
có gặp được Phật pháp hay không, Ngài đều
thành tựu. Gặp được Phật pháp, ngài thành
Thanh Văn, chứng quả A La Hán; không gặp được
Phật pháp, ngài thành Bích Chi Phật, thành Độc Giác. Do
vậy, Ngài tuyệt đối không phải [thọ sanh]
đến lần thứ tám, Ngài nhất định qua lại
bảy lần trong cõi trời, cõi người, bèn chứng
quả. Ấy là thánh nhân, quyết định chẳng
đọa lạc trong tam đồ. Do vậy, Sơ Quả
là Dự Lưu, từ địa vị này trở đi
đều gọi là “thánh nhân”. Cúng dường thánh hiền
là đại phước báo, há nên sát hại?
Từ
thánh hiền trở xuống, có ân đức lớn nhất
đối với chúng ta là thầy. “Thầy” ở đây
chúng ta thường gọi là “hòa thượng”, ngài là
Thân Giáo Sư của chúng ta. Ta theo học Phật pháp với
ngài, đó là Thân Giáo Sư. Ân đức thầy vượt
trội [ân đức] cha mẹ. Ân đức cha mẹ
đối với chúng ta là ân dưỡng dục trong một
đời, ân đức của thầy đối với
chúng ta là ân đức giúp chúng ta khôi phục Pháp Thân Huệ
Mạng; vì thế, ân đức thầy cao hơn cha mẹ,
đấy là ân thầy!
Thầy
dạy trong thế gian của chúng ta không có năng lực ấy
cho nên địa vị của thầy dạy trong thế
gian kém hơn cha mẹ. Không như trong Phật pháp, Phật
pháp xếp thầy dạy trên cha mẹ. Trong quá khứ
chúng tôi ở Đại Lục, ở nhà mỗi người
tại Đại Lục đều thờ bài vị tổ
tiên, nghèo hèn hay phú quý đều giống nhau, người
như thế nào đi nữa cũng nhất định
thấy có thờ bài vị tổ tiên trong nhà họ. Hiện
thời đều không còn nữa, hiện tại ở
Đại Lục cũng không thờ bài vị tổ tiên nữa.
Ở Giang Nam, bài vị tổ tiên đề “thiên địa
quân thân sư” (trời, đất, vua, cha mẹ, thầy),
thờ như thế đó! “Thân” là cha mẹ, thầy
được thờ ở dưới cha mẹ. Cách thờ
như vậy là đúng vì thầy dạy trong thế gian
không giúp chúng ta thoát khỏi tam giới, không giúp chúng ta lìa khỏi
lục đạo luân hồi. Ân thầy và ân cha mẹ bình
đẳng, nhưng chúng ta vẫn đặt cha mẹ lên
trên. Hòa Thượng trong Phật pháp khác hẳn, Ngài giúp
chúng ta liễu sanh tử, thoát tam giới, ân đức ấy
cha mẹ không thể làm được, thầy dạy
trong thế gian chẳng thể làm được; vì thế,
đặt thầy lên trên cha mẹ, hãy nên chú ý điều
này.
Dưới
Sư là Tăng, Tăng là người xuất gia, là người
truyền thừa Phật pháp. Tuy không trực tiếp dạy
dỗ chúng ta, họ có thể giáo hóa hết thảy chúng
sanh, giúp chúng sanh liễu sanh tử, xuất tam giới. Vì
thế, trong chữ “Sư Tăng” này, Sư là Hòa Thượng
đích thân chỉ dạy chúng ta, [còn Tăng là] những vị
xuất gia không chỉ dạy ta, nhưng đức hạnh,
năng lực, sứ mạng của họ chẳng khác gì
Hòa Thượng của ta. Tuy không trực tiếp chỉ dạy
ta, ta cũng phải tôn kính họ. Tiếp đến là “phụ
mẫu”.
Thánh nhân
có thế gian thánh nhân, có xuất thế gian thánh nhân, ở
đây giải thích rất hay. Tổng hợp các ý nghĩa
lại, chúng ta có thể dùng bốn câu để bao quát toàn
bộ: “Có đức hạnh, tâm quang minh, hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Tâm địa thanh tịnh,
quang minh, ngôn hạnh hữu đức
(lời nói lẫn hành vi đều có đạo đức
- tiêu chuẩn là đạo đức), bốn câu này bao trọn
tất cả những ý nghĩa trong lời chú giải. Quý
vị nên xem kỹ trong phần chú giải.
Chúng ta
xem đoạn thứ mười lăm, “hạ chí quyên
phi nhụ động, vi tế côn trùng” (cho đến
những loài côn trùng cựa quậy, bay, bò, nhỏ nhặt).
Đã nói những hạng cao rồi lại nói bậc thấp,
bao gồm tất cả trong ấy, lược bớt phần
giữa. “Quyên phi nhụ động” là những loài
trùng nhỏ, những thứ côn trùng bé nhỏ như muỗi
mòng, kiến... Tuy là tiểu trùng, nó vẫn có thần thức,
là một chúng sanh, cũng đều có một cái mạng!
Chỉ là vì nghiệp chướng nặng nề, đọa
lạc trong đường súc sanh, biến thành tiểu
trùng. Trong loài súc sanh, chúng bị sanh tử nhiều lần,
đấy là do nghiệp chướng biến hiện.
Chúng ta phải hiểu “kiến, muỗi cũng có thể
thành Phật”. Khi chúng trả hết nghiệp báo, chúng sẽ
chuyển sanh vào loài người, chúng ta cũng chớ nên coi
thường chúng.
Trong Giới
Kinh kết tội sát nghiệp nặng - nhẹ bất
đồng. Chẳng hạn như Phật, Bồ Tát, thánh
hiền, sư tăng, phụ mẫu đã nói trong phần
trên, sát hại những vị ấy tội cực nặng.
Không thông qua sám hối, không có cách sám hối thì thành tội
Ngũ Nghịch. Trong Giới Kinh đã dạy: Quả báo của
tội Ngũ Nghịch là tại A Tỳ địa ngục,
muốn thoát ra hết sức khó khăn! Thật sự phải
trải qua vô lượng kiếp, nên biết điều
này! Còn như sát hại những loài côn trùng nhỏ nhặt,
phạm những tội ấy thì có thể sám hối. Hễ
sám hối thì tội ấy liền nhẹ đi, chẳng nặng
như trong phần trên. Nói cách khác, người có ân đức
càng nặng đối với chúng ta mà quý vị muốn
sát hại thì tội ấy càng nặng. Hết thảy
chúng sanh có quan hệ thật nhẹ, thật mỏng đối
với chúng ta thì tội [sát hại] ấy cũng nhẹ.
Sát hại
chư Phật, Bồ Tát, thánh hiền, chữ “thánh hiền” ấy bao gồm
cả thánh hiền thế gian, kết thành tội trong A Tỳ
địa ngục. Điều này chẳng thuộc nơi
cá nhân chúng ta. Chúng ta không qua lại với họ, họ
cũng không có ân đức gì với ta, vì sao sát hại họ
lại mắc tội nặng đến như thế? Vì
họ là khuôn mẫu cho tất cả đại chúng trong một
xã hội, trong một địa phương, họ ở
nơi ấy có thể làm cho nơi ấy thay đổi
phong tục, làm cho lòng người được thanh tịnh,
công đức ấy lớn lắm. Vì thế, thánh hiền
thế gian hay xuất thế gian công đức vô cùng lớn,
đáng gọi là “nhân thiên nhãn mục” (tròng mắt cho
trời người), hạnh phúc của đại chúng, an
toàn xã hội đều dựa vào sự chỉ dạy của
họ. Giết hại họ là tội nặng! Do vậy,
kết tội với họ là kết tội nơi thân
chúng sanh.
Phật
là tam giới đạo sư cho nên giết Phật là tội
nặng nề nhất. Phật là đại thánh nhân; nói thật
ra, phước báo của Ngài quả thật rất lớn,
không ai có thể giết được Phật, chẳng
thể nào! Vì thế, hễ “làm thân Phật chảy máu”
chính là có tâm ác đối với Phật, giống hệt
như giết hại Phật, tội đó là tội A Tỳ
địa ngục. Quý vị phải biết: Tuy chúng ta vô
ý giết hại những động vật nhỏ, tội
lỗi rất nhẹ, nhưng chúng nó có ôm lòng báo thù trong
tương lai hay không? Chắc chắn có! Chúng ta giết lầm
người khác, tương lai cũng sẽ bị giết
lầm. Quý vị nhớ ngài An Thế Cao là người
phiên dịch kinh Bát Đại Nhân Giác, quý vị xem trong truyện
ký của ngài An Thế Cao: Đời trước An Thế
Cao từng giết lầm người, không phải cố
ý, chỉ là giết lầm, đời này vẫn phải
đền mạng, cũng bị người khác giết
lầm. Quả thật, một miếng ăn, một hớp
uống đều có nhân quả, chẳng thể không biết,
chẳng thể không lưu ý.
Quý vị
muốn được thuận buồm xuôi gió trên con
đường Bồ Đề, phải nghiêm trì giới
luật, phải đại bi thanh tịnh thì mới có thể
đạt được. Nếu không, đời đời
kiếp kiếp oán gia trái chủ sao không gây rắc rối
cho quý vị được? Vì thế, người thật
sự tu hành hiểu rõ đạo lý này, biết sự thực
này thì “cảnh nghịch xảy đến bèn vâng chịu”.
Gặp phải nghịch cảnh, gặp phải nghịch
duyên, biết là trong quá khứ mình đối xử với
người ta không ra gì, đương nhiên đời này
họ gây khó khăn cho mình, quý vị dùng tâm thanh tịnh,
tâm nhu hòa để tiếp nhận. Chúng ta tính sổ xong
xuôi, thanh toán xong, về sau không còn nữa. Nếu như tâm
bất bình thì oán ấy càng kết sâu, rắc rối càng lớn.
Hôm nay chúng tôi giảng đến đây thôi!
Phần
thứ tư:
Chúng ta
xem đến đoạn mười sáu “đản hữu
mạng giả, bất đắc cố sát” (chỉ cần
có mạng, thì chẳng được cố ý giết). “Hữu
mạng”, trong phần chú giải Mạng được
định nghĩa là “sáu căn sáu thức liên tục sanh
ra”, đó gọi là Mạng. Nói cách khác, ở đây [chữ
Mạng] chỉ động vật, chứ không phải là
thực vật. Thực vật không có sáu căn sáu thức,
chỉ động vật mới có sáu căn sáu thức. “Sáu
căn” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chỉ những
thứ đó. Phàm là động vật thì “bất đắc
cố sát” (chẳng
được cố ý giết), chú trọng nơi chữ
Cố. “Cố” là cố ý giết hại chúng, như vậy
là phạm giới. Nếu chẳng cố ý làm thì có khai
duyên, cho nên ở đây chú trọng đến chữ Cố.
Nói cách khác, dưới một điều kiện nào đó
thì có thể giết mà không phá giới, có lúc chẳng những
không có tội mà lại còn có công đức. Tiếp theo là
nói về thủ đoạn giết hại, cũng nêu ra rất
nhiều thí dụ:
Thập
thất, hoặc tự sát
(Mười
bảy, hoặc tự mình giết)
Tự
mình ra tay, bất luận dùng thủ đoạn,
phương thức gì, chỉ cần chính mình ra tay thì
đều là “tự giết”.
Thập
bát, hoặc giáo tha sát.
(Mười
tám, hoặc dạy người khác giết)
“Giáo
tha sát” là ra lệnh, giống như người chủ
nhà kêu người làm, đầy tớ sát sanh, ra lệnh
cho đầy tớ chấp hành. Trách nhiệm sát nghiệp
thuộc về người ra lệnh; tuy kẻ ấy
không đích thân động thủ giết, nhưng đã
ra lệnh, sát nghiệp quả thật là trách nhiệm của
hắn. Vì vậy, kẻ ra lệnh có tội, người
chấp hành mắc lỗi; tội và lỗi khác nhau, tội
thì nặng, còn lỗi thì là gì? Do kẻ ấy chấp hành mạng
lệnh, là chuyện bất đắc dĩ, không phải
là kẻ ấy có tâm muốn giết, có khác biệt. Ví
như tòa án chấp hành lệnh tử hình, quan tòa là người
phán quyết, người chấp hành phục tùng mạng lệnh.
Quan tòa xử án nếu xét xử người ta oan uổng
thì ông ta có tội, nhưng người chấp hành chỉ
bị lỗi. Vì sao? Anh ta là kẻ chấp pháp. Nếu quan tòa
chánh trực, không xử oan uổng, ông ta không có tội, mà
người chấp hành cũng không mắc lỗi. Vì vậy,
phải hiểu rõ chỗ này. Đấy là “dạy
người khác giết”.
Thập
cửu, hoặc kiến sát tùy hỷ.
(Mười chín, hoặc thấy giết
bèn vui theo)
Trông thấy
sát sanh, dẫu không tự mình giết, cũng không phải
là mình chấp hành, trông thấy chuyện sát sanh ấy bèn
sanh lòng hoan hỷ. Đấy đều là phạm giới.
Trong cửa Phật, Phật, Bồ Tát trông thấy chúng
sanh tuy là có tội bị xử tử hình, tội đáng
phải chịu, Bồ Tát cũng sanh lòng thương xót,
cũng sanh lòng buồn thương. Nếu như sanh lòng
hoan hỷ tức là đánh mất lòng từ bi, trái nghịch
tâm từ bi. Vì vậy, trong Luật phán định tội
có nặng - nhẹ khác biệt, điều này cũng giống
như pháp luật thế gian định tội, cân nhắc
xử phạt.
Nhị
thập, quảng như Luật trung, văn phiền bất
lục.
(Hai
mươi, nói rộng như trong Luật, do kinh văn
rườm rà nên không sao chép).
Trong Giới
Luật, nói rất tường tận về sự khác biệt
nặng - nhẹ. Chữ “Luật” chỉ Sa Di Thập Giới
Kinh và Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới, những bộ
luật lớn ấy giảng về sát pháp, kết tội
nặng - nhẹ, tâm cảnh bất đồng, nói rất
tường tận. Đoạn tiếp theo:
Nhị
nhất, kinh tải: “Đông
nguyệt sanh sắt, thủ phóng trúc đồng trung, noãn
dĩ miên nhứ, dưỡng dĩ nị vật, khủng
kỳ cơ đống nhi tử dã”.
(Hai
mươi mốt, kinh chép: “Tháng
mùa Đông sanh rệp, bắt bỏ vào trong ống tre, giữ
cho nó ấm bằng bông gòn, nuôi bằng chất dơ, sợ
nó đói lạnh chết đi”)
“Kinh tải” là trong kinh Phật
có một đoạn ghi chép [như thế]. “Đông nguyệt sanh sắt”
(tháng mùa Đông sanh rệp), hiện thời hoàn cảnh sống
của chúng ta được cải thiện, thiết bị
vệ sinh tốt, gần như những thứ ký sinh trùng
khá hiếm thấy. Phật pháp thường nói “khế
cơ khế lý”, Cơ trên thực tế chính là nói về
hoàn cảnh sống, đặc biệt là hoàn cảnh tinh
thần. Trong hoàn cảnh sống của chúng ta có hoàn cảnh
tinh thần và hoàn cảnh vật chất, có thể thích ứng
với hết thảy đại chúng thì là đúng, Phật
pháp như thế sẽ có thể hoằng dương thuận
lợi. Tuy trên mặt lý không có vấn đề gì, tức
là Khế Lý, nhưng nếu không Khế Cơ, sẽ tạo
ra phản ứng trái ngược nơi đại chúng, sẽ
dẫn đến chuyện đại chúng bài xích Phật
pháp, ấy là sai rồi. Vì thế, Phật pháp truyền bá
trong thế gian, chư Phật, Bồ Tát cũng phải uyển
chuyển cầu toàn thì mới lưu hành được.
Phật
pháp có Ngũ Thừa Phật Pháp, bốn thứ đầu
đều là uyển chuyển cầu toàn, hằng thuận
chúng sanh. Pháp chân chánh chính là “duy
hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, hựu vô tam” (chỉ
có pháp Nhất Thừa, không hai cũng không ba). Thế
nhưng bản lãnh của mỗi một cá nhân có cao như
thế hay không? Chưa đạt đến cảnh giới
ấy, quý vị nói pháp Nhất Thừa với bọn họ,
họ chẳng thể tiếp nhận. Vì thế, đối
với người có thể tiếp nhận Đại Thừa,
bèn giảng Đại Thừa cho người ấy. Kẻ
đó tiếp nhận được Tiểu Thừa thì giảng
Tiểu Thừa cho. Chẳng thể tiếp nhận Tiểu
Thừa, nhưng tiếp nhận được Nhân Thiên thừa
thì quý vị bèn giảng pháp Nhân Thiên cho kẻ ấy. Trong xã
hội hiện tại thì ngay cả người tiếp nhận
được pháp Nhân Thiên cũng không nhiều, con người
hiện tại muốn gì? Muốn danh văn, lợi dưỡng,
cầu danh văn, lợi dưỡng, nói toàn tham - sân - si.
Nói cách khác, trong Phật pháp đã nói về thứ tâm hạnh
ấy rất rõ ràng, đó là tâm hạnh tam ác đạo! Vì
thế, thật sự giảng được Nhân Thiên
đã là hết sức khó được. Đấy là một
sự thật chúng ta nhất định phải hiểu
rõ, phải hiểu rõ ràng tình trạng hoàn cảnh, nên tu học
như thế nào.
Khuyên
chúng sanh thì các Giới Kinh đều chẳng nên để
cho người mới học xem. Vì sao? Kẻ mới học
xem đến những thứ ấy nhất định
bài xích. Kẻ ấy muốn sát sanh, muốn ăn thịt,
quý vị lại bảo hắn đừng sát sanh, đừng
ăn thịt, lại bảo hắn [sát sanh] tội nặng
như thế đó, hắn lập tức biến sắc
mặt bỏ chạy. Vì thế, thầy Lý dạy học
suốt cả một đời, chẳng khuyên người
khác thọ giới, chẳng khuyên người khác ăn
chay, như vậy thì mới có thể tiếp dẫn quảng
đại quần chúng. Nói cách khác, nếu nhất định
phải coi trọng giới luật, nhất định phải
coi trọng ăn chay, 80% con người sẽ đều bỏ
đi. Đây là phương tiện thiện xảo của
đại Bồ Tát: Đến khi họ đã tiến vào
được cửa Phật, họ sẽ dần dần
hiểu rõ, họ sẽ tự nhiên làm theo. Vì thế, suốt
đời thầy Lý khuyên người khác học Phật,
khuyên người ta quy y, không khuyên người ta thọ giới,
không khuyên người khác ăn chay, không khuyên người
khác ăn đúng Ngọ, hàng sơ học hết sức
khó thể tiếp nhận những điều ấy. Như
những điều đã được nói trong đoạn
này, rất khó làm cho người thế gian tiếp nhận
được, lại còn dễ dàng dẫn khởi những
phần tử tri thức bài xích Phật giáo. Vì thế,
chúng ta cần phải hiểu: Trong trường hợp nào
thì cần phải tránh né, không nhắc đến thì tốt
hơn, nhưng chính chúng ta nhất định phải hiểu
rõ.
Nhị
nhị, nãi chí lự thủy, phú đăng, bất súc miêu
ly đẳng, giai từ bi chi đạo dã. Vi loại
thượng nhiên, đại giả khả tri hỹ.
(Hai
mươi hai, cho đến lọc nước, che đèn,
chẳng nuôi mèo, chồn v.v... đều là đạo từ
bi. Đối với loài nhỏ nhặt mà còn như thế
thì đối với loài lớn ắt có thể biết
được)
“Nãi chí lự thủy, phú
đăng” (cho đến lọc nước, che
đèn), trong xã hội hiện tại cũng không còn cần
đến những điều này nữa. Nay chúng ta uống
nước, mọi người đều biết ăn uống
hợp vệ sinh, nước đều phải lọc,
chẳng cần phải dùng đãy lọc nước.
Đãy lọc nước không lọc nước sạch bằng
máy lọc hiện thời. “Phú
đăng” (che đèn) là sợ buổi tối có loài
trùng nhỏ, thiêu thân bay vào đèn dầu để tiếp
cận ánh đèn, thường bị thiêu chết. Vì thế,
đèn phải dùng cái chụp. Đấy cũng là tâm từ
bi. Nay đều dùng đèn điện, không dùng đèn dầu
nữa.
“Bất
súc miêu ly đẳng” (không
nuôi mèo, chồn v.v...): Nói theo hiện thời là khuyên
con người không nên nuôi những con thú cưng. Hiện
thời người ngoại quốc, người Trung Quốc
rất nhiều người thích nuôi thú cưng. Vì sao không
nên nuôi những con thú cưng hay những động vật
ấy? Là vì những động vật nhỏ ấy có thể
sát sanh! Tuyệt đại đa số những con thú
cưng là loài ăn thịt, chúng ta ăn chay, lại phải
chuẩn bị thịt cho nó ăn, vậy là thương tổn
tâm từ bi. Đồng thời, quý vị nuôi những con
thú cưng phải tốn tinh thần, tốn thời gian
chăm sóc chúng. Hiện thời, ngay cả thời gian niệm
Phật chúng ta còn cảm thấy không đủ, nào còn có thời
gian để chăm sóc những con thú cưng đó? Phải
hiểu điều này!
Những
ai nuôi thú cưng, thật ra chẳng ngoài hai thứ tâm lý: Một
là nuôi làm cảnh, trông chúng rất đáng yêu, rất
đáng cưng nên nuôi chúng làm cảnh. Ngoài ra là có những
người lớn tuổi tinh thần không có chỗ gởi
gắm, giống như khi chúng tôi ở tại Dallas, Mỹ
Quốc, đối diện nhà số 422 là một cụ
già, cụ nuôi khoảng một trăm con mèo, nuôi nhiều
như thế đó! Cụ gởi tâm tư vào chúng. Nhưng
trên thân những con mèo ấy có bọ chét, chúng tôi đến
sống tại Dallas, bao nhiêu lần bị bọ chét cắn.
Lại nghe nói trong quá khứ có người bị bọ
chét cắn khắp thân, đấy là tự hại mình lẫn
hại người khác.
“Giai từ bi chi đạo dã. Vi
loại thượng nhiên, đại giả khả tri hỹ”
(Đều là đạo từ bi vậy, đối với
loài nhỏ còn thường như thế, đối với
loài lớn ắt có thể biết được): Vì vậy,
người học Phật phải hiểu được
đạo lý này, chúng ta yêu thương che chở động
vật, chứ không nuôi nấng động vật. Đối
với động vật đều bảo vệ thì
đối với người đương nhiên lại
càng phải nẩy sanh tâm từ bi. Chúng ta xem đoạn thứ
hai mươi ba:
Nhị
tam, kim nhân bất năng như thị hành từ, phục
gia thương hại khả hồ?
(Hai
mươi ba, người hiện thời chẳng thể
thực hành lòng từ như thế, lại còn gây thêm tổn
hại, há có nên chăng?)
Ở
đây, đại sư cảm thán, con người hiện
thời chẳng từ bi như chư Phật, Bồ Tát,
thương xót hết thảy chúng sanh, cái tâm từ bi ấy
chẳng hề có, trái lại còn tổn thương, tàn hại
chúng nó, vậy là sai rồi. Nhưng trong xã hội hiện
thời, nếu nghe chúng ta vẫn đọc những thứ
này, mọi người sẽ chê cười, nói chúng ta quá
lạc hậu, đầu óc quá cũ kỹ, mê tín đấy
mà! Bọn họ nói có sai hay không? Đương nhiên nói sai
rồi! Nhưng quý vị phải ghi nhớ: Mọi người
đều sai thì đấy là đúng! Nói thật đấy!
Ai nấy đều nói như vậy, họ cho rằng
đấy mới là đúng, coi chúng ta là sai lầm. Trong tâm
của chính chúng ta hiểu rõ thì chúng ta tự làm, nhưng chắc
chắn chẳng đòi hỏi người khác phải làm.
Quý vị bó buộc người khác làm thì quý vị đã
sai rồi, chính quý vị muốn làm thì quý vị cũng sai
rồi. Chính mình phải học Phật, y giáo phụng hành,
ta không cần đòi hỏi người khác phải y giáo
phụng hành. Phật pháp như vậy thì mới đề
xướng, phát triển thuận lợi trong thế gian
được! Phải hiểu điều này!
Đạo
tràng của chúng ta ở nước Mỹ trước mỗi
lần tổ chức một hoạt động với
quy mô lớn, nhất định phải tìm một công ty
sát trùng (pest control) để tiệt trùng triệt để
nhà, viện của chúng ta một lượt. Việc này
nhìn vào là sát sanh. Đúng là giết không ít những loài động
vật nhỏ: muỗi, kiến, gián, bọ chét.... quả
thật rất nhiều. Nguyên nhân là đâu? Là vì để
Phật pháp được thúc đẩy thuận lợi
tại nước Mỹ. Những người ngoài tiểu
bang đến chỗ chúng ta dự Phật thất, nếu
những loài động vật nhỏ ấy lan truyền
bệnh truyền nhiễm, họ mang bệnh trở về
làm sao chúng ta không thẹn với họ cho được?
Lần sau còn ai dám đến đạo tràng này nữa?
Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này!
Nhưng
trước khi làm chuyện ấy, chính quý vị nhất
định phải hiểu rõ: Ba ngày trước đó phải
niệm Phật ở nơi ấy, niệm chú Vãng Sanh hồi
hướng cho chúng, bảo chúng nó dọn đi: Ba hôm sau
tôi muốn sát trùng chỗ này, phun thuốc sát trùng, mời
chúng nó dọn đi. Nếu càng viên mãn hơn thì một tuần
lễ trước đó làm một lần, ba ngày trước
đó làm lần nữa, [tức là] làm hai lần. Tâm chúng ta
chân thành, chúng sẽ thật sự dọn nhà, quả thật
có cảm ứng. Tuy chúng đã dọn nhà, chúng ta vẫn phải
làm chuyện này, vì sao? Hàng xóm nhìn vào biết chúng ta rất
để ý đến vệ sinh, bảo vệ hoàn cảnh,
người bên ngoài đến chỗ chúng ta tham gia pháp hội
rất yên tâm, chuyện này là đúng!
Trong Giới
Kinh nói Tỳ-kheo thanh tịnh trong quá khứ dựng một
gian lều tranh sống trên núi, tìm thợ bên ngoài không ra, dựng
lều tranh cũng do chính mình làm, muốn đốn cây
để làm vật liệu xây dựng. Đốn cây thì
ba ngày trước đó phải tụng kinh, niệm chú,
cúng bái thần cây, mời vị ấy dọn nhà.
Đương nhiên trên cây có rất nhiều động vật
nhỏ sống bám vào, cũng phải mời chúng nó rời
khỏi. Ba ngày sau chúng ta đến đốn cây, như vậy
là đúng. Như vậy thì mới không có chuyện gì, chúng
ta đã thông báo trước, đã thông báo mời họ dọn
nhà. Thông thường chúng ta tụng A Di Đà Kinh, chú Vãng
Sanh, niệm Phật hồi hướng cho họ. Chúng ta
truyền Tam Quy cho chúng, dùng [nghi thức] Tam Quy trong [lễ]
Phóng Sanh: “Quy y Phật, chẳng
đọa địa ngục; quy y Pháp, chẳng đọa
ngạ quỷ; quy y Tăng, chẳng đọa bàng sanh”.
Dùng cách ấy.
Nhị
tứ, cố kinh vân: “Thi ân tế phạp, sử kỳ
đắc an. Nhược kiến sát giả,
đương khởi từ tâm”.
(Hai
mươi bốn, vì thế, kinh nói: “Ban ân giúp đỡ kẻ thiếu thốn khiến
cho được yên ổn. Nếu thấy kẻ giết
hại, nên khởi từ tâm”)
Chúng ta phải
nỗ lực học tập bốn câu này. Hai câu trước,
chúng ta thấy kẻ thiếu thốn thì phải giúp đỡ
họ. Hiện thời, tại những quốc gia đã
phát triển, nói chung cuộc sống vật chất đều
chẳng đến nỗi thiếu thốn, nhưng cuộc
sống tinh thần hết sức thiếu thốn, chúng ta
phải giúp đỡ họ. Thiếu thốn về mặt
vật chất thì xã hội hiện thời có rất nhiều
tổ chức từ thiện đang làm, điều này cần
phải có tài lực và nhân lực kha khá thì mới có thể
thực hiện được. Đoàn thể của chúng
ta ít người, tài lực cũng chẳng nhiều, chuyện
hiện thời chúng ta có thể làm được chỉ
là về mặt cuộc sống tinh thần, đặc biệt
là bố thí Phật pháp. Trong Phật pháp, chúng ta đã bỏ
nhiều năm để quan sát, lãnh hội, học tập
mới thật sự hiểu rõ sự thù thắng của
Tịnh tông. Chúng ta giới thiệu cho người khác,
đương nhiên là đem thứ thù thắng nhất giới
thiệu với người ta. Nói chung, chớ nên dành món tốt
nhất cho chính mình, đem món hạng hai, hạng ba
đưa cho người ta, làm như vậy chẳng xứng
với người khác. Nếu họ không thể tiếp
nhận được, chúng ta cũng chớ nên miễn
cưỡng, quý vị ưa thích tu học pháp môn nào, chúng ta
cũng tán thán, cũng cổ vũ, khích lệ.
Chớ
nên nói pháp môn này của tôi là hạng nhất, pháp môn kia của
quý vị là hạng nhì. Nghĩa lý đúng đắn trong
nhà Phật là môn nào cũng đều là hạng nhất,
không môn nào hạng nhì! Quý vị thấy hai mươi lăm
môn Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, có môn Viên Thông nào gọi là hạng
nhì hay chăng? Không có! Môn nào cũng đều là hạng nhất.
Đấy chính là “pháp môn bình
đẳng, vô hữu cao hạ” (pháp môn bình đẳng,
không có cao - thấp), thật đấy! Nhưng chúng sanh
căn tánh chẳng giống nhau, tuy môn nào cũng đều
là pháp môn bậc nhất, có những pháp môn chúng ta không học
được nổi, không đạt được kết
quả. Học không nổi thì không đạt được
kết quả, đối với chúng ta mà nói, pháp ấy
không phải là bậc nhất. Một người có thể
thật sự đạt đến chỗ tốt đẹp,
thật sự đạt thành tựu [nơi pháp môn nào] thì
pháp môn ấy đối với chính họ được
gọi là bậc nhất. Giống như thuốc
được bán trong tiệm thuốc, mấy trăm, mấy
ngàn thứ thuốc, vị thuốc nào cũng là bậc nhất
cả, đều trị được bệnh. Trị
được chứng bệnh [của ai] thì người
đó cũng coi [thuốc ấy] là bậc nhất; thuốc
không trị được chứng bệnh, tuy là thuốc
bậc nhất, người bệnh ấy không coi thuốc
đó là bậc nhất, nhất định phải hiểu
điều này.
Tuy Tịnh
tông thích hợp trọn khắp ba căn, chúng ta đọc
kinh thấy được rằng: Nếu không phải là
thiện căn, phước đức, nhân duyên đã tu
nhiều đời nhiều kiếp thì người ta chẳng
thể tiếp nhận được pháp môn này, họ nhất
định bài xích. Chúng ta nên hiểu rõ những sự thật
này: Chúng ta tiếp nhận pháp môn này, ưa thích pháp môn này,
đấy là thiện căn, phước đức, nhân
duyên của chúng ta chín muồi! Chúng ta giới thiệu với
người khác, người khác chẳng thể tiếp
nhận, chúng ta hiểu rõ là thiện căn, phước
đức, nhân duyên của người ấy chưa chín
muồi. Chưa chín muồi thì Phật, Bồ Tát đều
chẳng thể độ được, chúng ta cực
trí, nóng ruột làm chi?
Mọi
người thường nghe nói “Phật
bất độ vô duyên chi nhân” (Phật chẳng độ
kẻ không có duyên), “vô duyên” ở đây chẳng phải là
không có duyên gì với Phật, đối với hết thảy
chúng sanh Phật đều có duyên, “vô duyên” là gì? Ý nói duyên của
kẻ ấy vẫn chưa chín muồi. Duyên của kẻ
ấy chưa chín muồi, Phật không độ được
kẻ ấy, Phật đến giảng cho kẻ ấy,
hắn không tiếp nhận, hắn đâu có nghe! “Phật độ hữu duyên
nhân”, “hữu duyên” là gì? Duyên người ấy đã
chín muồi rồi, giảng cho hắn thì hắn hoan hỷ
tin nhận, đấy là hữu duyên, duyên đã chín muồi.
Do vậy, hữu duyên hay vô duyên tức là nói duyên đã chín
muồi hay chưa. Chưa chín muồi thì giúp đỡ hắn,
cổ vũ, khích lệ hắn, mong hắn được
chín muồi; đã chín muồi rồi thì khuyên hắn niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chưa chín muồi
bèn giúp cho hắn chín muồi, vậy là đúng! Không có thiện
căn, giúp cho hắn gieo thiện căn. Hắn niệm
được một câu A Di Đà Phật, thấy tượng
A Di Đà Phật, thấy sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật”,
chính là “lạc tại bát thức
điền lý diện, vĩnh vi đạo chủng” (rớt
vào trong ruộng tám thức, vĩnh viễn là hạt giống
đạo), đấy là gieo chủng tử cho hắn.
Chúng ta làm như vậy thì độ được hắn,
đời này hắn chưa thể chín muồi, nhưng
nhiều đời nhiều kiếp sau hạt giống ấy
của hắn sẽ hiện hành, sẽ khởi tác dụng.
Do vậy, người học Phật niệm niệm
đều nhằm giúp đỡ chúng sanh, đấy là Bồ
Tát đạo, đấy chính là điều được
nói ở đây “thi ân tế phạp,
sử kỳ đắc an” (ban ân, giúp đỡ người
thiếu thốn, khiến cho được yên ổn).
Chúng ta in
rất nhiều tấm sticker [với bốn chữ] A Di
Đà Phật, mục đích là ở chỗ này: Trồng
thiện căn, gieo chủng tử cho hết thảy những
người chưa có chủng tử thiện căn. Những
ai đã tu nhưng chưa chín muồi, chẳng tin tưởng
điều này, tu theo bất cứ một tông phái nào, y theo
bất cứ kinh điển nào, chúng ta đều tán thán.
Trong sự tán thán ấy, khuyến khích, cổ vũ họ,
đem công đức tu học của người ấy cầu
sanh Tịnh Độ, quyết định được
sanh [Tịnh Độ]. Đoạn cuối cùng của phẩm
Tam Bối Vãng Sanh trong kinh Vô Lượng Thọ nói tất
cả những ai đọc tụng Đại Thừa muốn
hồi hướng vãng sanh đều được vãng
sanh. Do vậy, pháp môn Tịnh Độ vô cùng rộng lớn,
tuyệt đối chẳng phải chỉ có người
tu Tịnh nghiệp mới được vãng sanh, người
học Thiền cũng có thể vãng sanh, người học
Mật cũng có thể vãng sanh, người học Giáo
cũng có thể vãng sanh, ai cũng đều có thể vãng
sanh! Điều kiện là Tín - Nguyện - Hạnh, quý vị
tin tưởng, muốn đi, lúc lâm chung một niệm
hay mười niệm đều được.
Nhưng
tu hành có một nguyên tắc: Bất luận tu theo một
tông hay một phái nào, bất luận niệm kinh gì, niệm
danh hiệu một đức Phật hay Bồ Tát nào,
đều phải niệm đến nhất tâm bất loạn,
phải biết điều này! Chúng ta niệm A Di Đà Phật,
phải cầu nhất tâm bất loạn. Niệm Quán Âm Bồ
Tát cũng phải cầu nhất tâm bất loạn. Niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng phải cầu
nhất tâm bất loạn, vậy mới là đúng! Nhất
tâm bất loạn là cái nhân để vãng sanh (năng sanh
chi nhân), Tây Phương Cực Lạc thế giới là cái
quả ngõ hầu sanh về đó (sở sanh chi quả). Do
vậy, một niệm hồi tâm thảy đều
được vãng sanh, đấy gọi là “công phu”. Nhất
tâm ấy chính là thanh tịnh tâm, trong nhà Thiền gọi là Thiền
Định, bên Giáo Hạ gọi là Chỉ Quán, có công phu ấy,
có năng lực ấy mới được. Đấy
chính là điều chúng ta có nghĩa vụ phải báo cáo với
những người tu hành theo các tông phái khác.
Trong chú
giải có hai câu: “Tài bố thí
năng linh thân an, pháp bố thí năng linh tâm an” (Tài bố
thí khiến cho thân yên, pháp bố thí khiến cho tâm yên).
Đây chính là đem nhân quả bố thí đều trình bày
hết cả ra. Chú giải dẫn một câu chuyện từ
Tạp Bảo Tạng Kinh[29],
câu chuyện này nên xem kỹ càng, khi lên tòa giảng kinh có thể
dùng làm dẫn chứng, những chuyện ấy đều
là sự thật. Những nhân duyên quả báo tương tự
như đã nói ở đây thì trong kinh điển, trong lịch
sử Trung Quốc cũng không hiếm. Vì thế, những
sách nhân quả trong thời đại này càng phải giảng
nhiều, loại này mọi người rất thích nghe. Đặc
biệt là đối với người trẻ tuổi,
đang độ tuổi học sinh, tục ngữ thường
nói: “Tiên nhập vi chủ”
(cái gì được biết đến đầu tiên thì
cái đó là chánh yếu). Họ đọc được
nhiều sự tích cảm ứng, sự tích nhân quả báo
ứng thì mai sau khôn lớn ra đời khởi tâm động
niệm đều có kiêng dè, như vậy thì tốt lắm.
Nếu những nhân quả báo ứng có thể kết hợp
với khoa học hiện đại thì tốt nhất, thật
sự có thể khiến cho người ta tin phục, khiến
cho mọi người tin tưởng. Sự bố thí ấy
tuy nhỏ, nhưng nếu tâm địa thanh tịnh từ
bi thì công đức rất lớn, trong Giới Kinh dẫn
chứng những chuyện ấy rất nhiều.
Cổ
nhân đem những chuyện ấy gom soạn lại, càng
tiện cho chúng ta tham khảo, tác phẩm ấy chính là Kinh
Luật Dị Tướng[30].
Kinh Luật Dị Tướng tổng hợp những câu
chuyện nhân duyên quả báo trong kinh điển, còn có một
bộ sách nữa là Pháp Uyển Châu Lâm. Do vậy, người
giảng kinh trong buổi giảng phải chêm vào những
câu chuyện xưa, xen vào những chuyện nhân duyên. Hai bộ
sách ấy biên tập rất hoàn chỉnh, đấy là công
sức của cổ nhân. Trong lịch sử Trung Quốc,
những giáo huấn về nhân duyên quả báo cũng [được
ghi chép] rất nhiều. Lịch sử đáng tin cậy,
chẳng thể tùy tiện chép vào, không phải là sự thật
thì chắc chắn chẳng ghi chép. Người xưa
cũng đã tổng hợp lại, đấy chính là bộ
Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, hình như hiện
thời cũng có cho in lưu hành riêng. Lịch Sử Cảm
Ứng Thống Kỷ[31]
rất hay, đấy là [chuyện] quá khứ. Trong hiện
tại, từ báo chí, tạp chí hễ có những câu chuyện
như vậy, quý vị nên cắt ra [để dành], đấy
là chuyện hiện tại. Nêu thí dụ, đương
nhiên càng gần đây càng hay, càng hiện đại thì
người hiện đại chẳng có chút hoài nghi nào.
Quá khứ thì kinh có kinh điển làm chứng cứ, sử
có lịch sử làm chứng cứ, rất xác thực, đấy
chẳng phải là nói tùy tiện, đều đáng cho
đại chúng tin tưởng, khiến cho chúng ta thấu
hiểu sâu xa nhân quả báo ứng.
Nhị
ngũ, Y! Khả bất giới dư!
(Hai
mươi lăm, ôi! Chẳng nên răn dè ư?)
Trong điều
[giới thứ nhất] này, đại sư Liên Trì hết
sức cảm thán trước chuyện này. Trong phần
chú giải trích dẫn Đại Trí Độ Luận, Phật
nói sát sanh có mười thứ tội, sát nghiệp nặng
nề dường như luôn luôn có, đấy cũng là sự
thật. Hôm nay chúng tôi giảng đến đây thôi.
Phần
5:
Xin mở
sách đến trang mười bảy, dòng thứ nhất,
chú giải ghi: “Đại Luận
vân” (Đại Trí Độ Luận chép), thông thường
chúng ta thấy trong chú sớ của cổ nhân ghi như vậy
thì quá nửa là chỉ Đại Trí Độ Luận. Có
khi ghi là “Trí Luận”, hết sức rõ ràng là Đại Trí
Độ Luận. Có khi viết là “Đại Luận”, chữ
Đại Luận này cũng chỉ Đại Trí Độ
Luận, điều này chúng tôi giới thiệu sơ qua là
được rồi. Trong Đại Trí Độ Luận,
đức Phật nói sát sanh có mười thứ tội,
điều này rất rõ ràng, không cần phải nói cặn
kẽ. Chúng ta xem đoạn thứ hai mươi sáu:
Nhị
lục, nhị viết bất đạo.
(Hai
mươi sáu, điều thứ hai là không trộm cướp)
Đây là
điều thứ hai trong mười giới, khóa học
của chúng ta phải hoàn tất trước tết Âm Lịch,
sau Tết chúng ta không có nhiều thời gian. Do vậy, phần
chú giải quý vị tự xem, chỗ nào không rõ có thể
nêu câu hỏi. Nếu không hỏi, chúng tôi sẽ lướt
qua, không đọc. Do vậy, chính mình nhất định
phải đọc, trong ấy có chữ khó thì phải tra
[tự điển], phải chú thích âm đọc ra. Trong
khoảng thời gian ngắn ngủi này, chúng tôi gần
như là dạy đọc, hướng dẫn cho quý vị
đọc, còn thâm nhập nghiên cứu quý vị sẽ thể
nghiệm trong hành trì sinh hoạt thường nhật, nhất
định phải biến [Luật Nghi này] thành cuộc sống
hiện thời của chúng ta thì giới luật này mới
hành được thông suốt. Chúng ta không thể xoay
ngược cỗ xe lại được, chẳng thể
khôi phục thời đại xa xưa, cũng chẳng thể
chiếu theo phương thức của cổ nhân, phải
biết điều này. Chú giải do cổ nhân chú thích, những
gì kinh điển đã nói đều là nguyên lý, nguyên tắc
siêu việt thời gian, siêu việt không gian, chúng ta phải
thấu hiểu tinh thần, biết được nguyên tắc,
rồi mới biết áp dụng sao cho vô cùng thích đáng, thật
viên mãn trong cuộc sống của chính mình. Đấy gọi
là “chân chánh trì giới”. Tiếp theo là phần giải thích:
Nhị
thất, giải viết: “Kim
ngân trọng vật, dĩ chí nhất châm, nhất thảo,
bất đắc bất dữ nhi thủ”.
(Hai
mươi bảy, giải thích: “Từ vật đáng giá
như vàng bạc cho đến một cây kim, một ngọn
cỏ, chớ nên không cho mà lấy”)
“Không trộm cắp”
được nói trong Phật pháp, nếu nói đơn giản
nhất, rõ ràng chính xác nhất thì là “không cho mà lấy”. Đây đều là nói về vật
có chủ, những vật có chủ nhân. Chủ nhân không cho
chúng ta, chúng ta cứ tùy tiện lấy thì là trộm cắp.
Nói thật ra, giới “trộm cắp” này hết sức nhỏ
nhiệm, bất luận đồ vật gì dù quý trọng
hay rẻ mạt, “kim ngân trọng
vật” là vật quý trọng, “nhất châm, nhất thảo” là vật tầm
thường, đều chớ nên “không cho mà lấy”. Phần hai mươi tám, hai
mươi chín, ba mươi tiếp theo là giảng rõ cho
chúng ta biết về giới cấm trộm cắp, ở
đây là nói trong nhà Phật.
Nhị
bát, nhược thường trụ vật.
(Hai
mươi tám, nếu là vật thường trụ).
Thế
nào là “thường trụ vật”? Thường Trụ là
những gì thuộc về đạo tràng của chúng ta,
đấy là “thường trụ vật”, phàm ai là người
xuất gia đều có phần. Muốn dùng vật thường
trụ thì phải dùng theo cách như thế nào? Theo
phương thức trước kia là phải “làm Yết-ma”.
Yết-ma (karma) nói theo cách chúng ta bây giờ là “mở cuộc
họp”, mọi người đều đồng ý thì
chúng ta có thể lấy dùng. Mọi người không đồng
ý thì chẳng được lấy dùng. Do vậy, khi chúng
ta muốn sử dụng vật thường trụ thì phải
được đại chúng đồng ý. Chuyện nhỏ
nhặt tầm thường mà phải được
đại chúng đồng ý thì phiền phức quá, nhất
là trong những tự viện tùng lâm lớn, mấy
trăm, mấy ngàn người ở, gom hết lại mở
cuộc họp rất phiền toái. Do vậy, vị “chủ
tịch” của tùng lâm tự viện, [tức là] vị hiện
thời chúng ta gọi là Trụ Trì, hoặc Quán Trưởng
của Đồ Thư Quán chúng ta, có thể thay mặt
đại chúng phân xử. Đương nhiên chuyện nhỏ
thì vị ấy có thể quyết định, chuyện lớn
thì vị ấy cũng phải mở cuộc họp toàn
thể. Ví dụ như phân xử bất động sản
thuộc đạo tràng chúng ta là chuyện lớn, vị ấy
nhất định phải kêu gọi đại chúng họp
lại. Củi, gạo, dầu, muối tầm thường,
một cây kim, một ngọn cỏ là chuyện nhỏ nhặt,
vị ấy có thể toàn quyền thay mặt đại
chúng quyết định, phải biết điều này!
Trộm
của thường trụ, tội lỗi ấy hết sức
nặng nề, vì chẳng phải là kết tội với
một cá nhân mà là kết tội với toàn bộ Tăng đoàn.
Nhất là nếu đạo tràng ấy là thập
phương đạo tràng, sự phiền phức càng lớn
hơn nữa, tội lỗi nặng nề nhất.
Nhưng hiện thời thập phương đạo
tràng gần như không có, mang danh nghĩa là “thập
phương đạo tràng”, chứ trên thực tế vẫn
y như cũ, không phải là thập phương đạo
tràng! Thập phương đạo tràng thì bất cứ
người xuất gia nào đều có thể “quải
đơn” (cư trú). Hiện thời người xuất
gia đến [đạo tràng] quải đơn không dễ
dàng chi, đấy cũng là xu thế của thời đại.
Trước kia lòng người ai cũng nặng về
đạo, thuần hậu, xã hội có trật tự, xã
hội an toàn, người phát tâm xuất gia đều là
thiện tâm. Xã hội hiện thời kẻ gian dối, phạm
tội quá nhiều, trong số người xuất gia
cũng chẳng đàng hoàng. Nếu kẻ ấy đến
phá hoại đạo tràng thì sự việc phiền phức
lắm.
Trong thời
kỳ Mạt Pháp này, trong kinh đức Phật giảng rất
rõ ràng, con cháu của Ma đều xuất gia, hiện
tướng Tỳ-kheo, gia nhập Tăng đoàn để
phá hoại Phật pháp. Trong khi đức Phật còn tại
thế, Ma vương Ba Tuần[32]
thưa với Phật: “Trong tương lai, tôi sẽ phá hoại
pháp của Ngài”. Đức Phật nói: “Chánh pháp của
Như Lai không một ai có cách chi phá hoại được!”
Ma nói: “Đợi đến thời kỳ Mạt Pháp, khi
pháp vận của Ngài đã suy, tôi kêu con Ma, cháu Ma đều
xuất gia hết, hiện tướng Tỳ-kheo để
phá hoại Phật pháp của Ngài”. Đức Phật nghe
xong, không nói một câu nào, ứa nước mắt. “Thí như sư tử trùng, hoàn phệ
sư tử nhục” (Ví như trùng trong thân sư tử
lại rỉa thịt sư tử). Đấy là con cháu của
Ba Tuần, chứ không phải là con cháu của Phật,
đến phá hoại Phật pháp, chúng ta phải nâng cao tâm
cảnh giác đối với điều này. Do vậy,
trong giai đoạn hiện tại, khi [có ai] muốn gia nhập
Tăng đoàn, chúng ta không thể không chú ý, không cẩn thận.
Do tình huống
xuất gia hiện thời khác hẳn trước kia,
trước kia xuất gia phải đậu cuộc thi do
quốc gia tổ chức, đúng là “phẩm đức kiêm ưu” (tài lẫn đức
đều cao); hơn nữa, cuộc thi do nhà vua chủ
trì. Vì thế, người xuất gia xưa kia được
xã hội tôn trọng là có lý vậy. Về mặt đức
học thông thường, quý vị nhất định có
trình độ tiến sĩ, lại còn phải thi đậu
về Phật pháp, hoàng đế sẽ ban một tờ
độ điệp cho quý vị. Quý vị cầm
được tờ độ điệp ấy mới
có tư cách xuất gia. Quý vị nói với vị pháp
sư hữu duyên của một tự viện nào đó:
“Tôi muốn xuất gia”. Vị ấy sẽ hỏi trước:
“Anh có độ điệp hay không?” Có độ điệp
thì có thể cho quý vị xuống tóc, không có độ
điệp thì không thể thâu nhận, bởi như vậy
là phạm pháp. Người xuất gia được đế
vương công nhận, thừa nhận: “Ngươi có thể
làm thầy ta, ngươi có thể thay ta giáo hóa bá tánh”. Do vậy,
người xuất gia gọi là “đế vương
sư” (thầy của vua chúa), được xã hội tôn
trọng, hoàng đế tôn trọng. Trong thời đại
ấy, người xuất gia phạm pháp, chẳng dùng
pháp luật thế gian để xét xử mà dùng giới luật
của Tăng đoàn để xét xử.
Hoàng
đế Thuận Trị nhà Thanh phế bỏ chế
độ cấp độ điệp, chế độ
thi cử; sau đấy, người xuất gia trình độ
không ngang nhau nữa. Có rất nhiều kẻ phạm tội
không chạy đi đâu được bèn xuất gia. Phẩm
chất của người xuất gia hiện thời suy
sụp cả ngàn trượng, chắc chắn chúng ta chẳng
thể dùng những tiêu chuẩn xưa kia để cân nhắc.
Do vậy, hiện thời đạo tràng này chẳng thể
làm thập phương đạo tràng là có lý, có cội nguồn
lịch sử sâu xa vậy. Chúng ta làm như vậy không
sai, người ta đến quải đơn với chúng
ta ở nơi đây, muốn đến ở với chúng
ta vài ngày, nhất định phải quan sát. Nếu kẻ
ấy lai lịch bất minh, tốt nhất là chúng ta đừng
thâu nhận. Cổ nhân thường nói: “Thỉnh thần dung dị, tống thần nan”
(mời thần dễ, tiễn thần khó). Vì sự an toàn
của đạo tràng chúng ta, nhất định phải
rất thận trọng, phải biết điều này! Từ
xa đến, đãi họ ăn một bữa cơm là
được rồi, chẳng giữ họ ở lại.
Ở tại nơi đây thì nhất định có người
thân thuộc, có người chúng ta biết rất rành giới
thiệu thì có thể ở lại vài ngày. Chuyện này phải
biết, chuyện này chẳng phạm giới. Thời
đại này khác với thời đại trước, Phật
pháp khế cơ khế lý, “cơ” là hoàn cảnh hiện tiền,
nhất định phải biết hoàn cảnh hiện tiền.
Nhị
cửu, nhược tín thí vật.
(Hai
mươi chín, nếu là vật của tín thí)
“Tín thí vật” chính là vật
do tín đồ cúng dường cho thường trụ. Cúng
dường thường trụ, nhưng còn chưa chia cho
mọi người, thì vật ấy là của tín đồ,
là của tín chúng. Khi còn chưa chia thì thuộc về “tín
thí vật”. Tuy vậy, cúng dường cho chúng ta, chúng ta
chia cho mọi người rồi thì [vật ấy] thuộc
về loại nói ở dưới đây là “tăng chúng vật”.
Tam
thập, nhược Tăng chúng vật.
(Ba
mươi, nếu là vật của Tăng chúng)
“Tăng chúng vật” là vật
đã chia cho mỗi một người, thuộc về mỗi
cá nhân. Những điều này chúng ta đều phải hiểu
rõ, đều phải rành rẽ. Tiếp theo còn có ba điều
nữa, nhưng không thuộc về Tăng đoàn.
Tam
nhất, nhược quan vật.
(Ba mươi mốt, hoặc là quan vật)
“Quan vật” nói theo cách bây giờ
là vật thuộc về quốc gia, thuộc xã hội, thuộc
về chánh quyền địa phương, nay chúng ta gọi
là những “thiết bị, công trình công cộng”. Thiết
bị công cộng đều được xây dựng từ
tiền đóng thuế của nhân dân. Chúng tôi nêu một thí
dụ nhỏ, như điện thoại công cộng,
điện thoại công cộng do chánh phủ lắp đặt,
hoặc do chánh quyền thành phố lắp đặt, hoặc
do công sở của một khu vực lắp đặt,
đều do tiền nộp thuế của dân chúng mà có. Nếu
muốn ăn trộm thứ ấy thì sẽ mắc tội
với nhân dân cả thành phố, tội ấy rất nặng.
Phàm là vật thuộc của công phải nhất định
yêu tiếc, quý vị không yêu tiếc đều có tội,
nhất định phải biết điều này.
Bình
thường chúng ta nói đến tu phước, tích
lũy công đức, thực hiện từ đâu? Yêu tiếc
vật thường trụ, yêu tiếc của công. Những
vật thuộc về của công phải coi trọng
hơn những vật thuộc về chính mình. Những vật
của chính chúng ta nếu làm hỏng không sao cả, phải
biết những vật thuộc về của công là vật
thuộc đạo tràng, thuộc về thập
phương thường trụ, chúng ta phải làm sao cho xứng
với người xuất gia mười phương. Nếu
những thiết bị công cộng chúng ta không cẩn thận,
không chú ý làm hỏng thì làm sao xứng đáng với dân chúng
của cả thành phố. Quý vị nghĩ được
như vậy thì tự nhiên sẽ sanh tâm cung kính, tự
nhiên rất chú tâm, rất cẩn thận. Đấy là
chúng ta tu phước, là đang tích đức!
Trong cửa
Phật cũng thường nói: “Địa
ngục môn tiền tăng đạo đa” (trước
cửa địa ngục, sư sãi, đạo sĩ
đông đảo). Vì sao người xuất gia dễ
đọa địa ngục như vậy? Không biết,
không hay, không có ý thức ấy, không có khái niệm ấy,
thường xuyên phạm lỗi! Tùy tiện làm hư hỏng
các thiết bị công cộng, coi thiết bị công cộng
rất thường, coi đồ đạc của chính
mình rất trọng, đấy là điên đảo, đấy
là lầm lạc! Nhất định phải dè chừng,
nhất định phải tiếc phước. Dùng điện
thoại thì trừ phi bất đắc dĩ, đừng
dùng! Khi dùng thì gắng hết sức tiết kiệm thời
gian, đấy là quý vị tiếc phước, [vì] đấy
chính là “thường trụ vật”. Không có phước báo
thì đạo tràng theo đúng chánh pháp có thần hộ pháp,
quý vị hưởng hết phước báo rồi, thần
hộ pháp trục đi, quý vị ở chỗ này không
được. Thân tâm quý vị không yên, đạo tràng
chúng ta không kêu quý vị đi, mà chính quý vị không đi
không được! Sức mạnh nào vậy? Thần hộ
pháp đuổi đi. Thần hộ pháp đuổi đi là
hoa báo, tương lai còn có quả báo, gặp phiền phức
rồi!
Đạo
tràng chúng ta là một đạo tràng hoằng pháp, trong
tương lai mọi người đều có cơ hội
ra ngoài hoằng pháp, bất luận là đạo tràng mời
quý vị, hay là các cư sĩ thỉnh riêng quý vị,
người ta tiếp đãi quý vị, đối với
đồ đạc trong nhà người ta cũng phải
quý tiếc giống hệt như vật của thường
trụ; quý vị mới được người khác lễ
kính. Phải có lòng từ bi, đừng làm phiền người
khác, dùng đồ vật của người ta phải kỹ
càng như dùng vật của thường trụ. Vậy mới
là đúng! Đấy là giống như người xuất
gia, giống như người trì giới.
Tôi có lần
ở tại nước Mỹ, cũng là đi các nơi
hoằng pháp, Quán Trưởng phái hai vị Ngộ Chiếu,
Ngộ Hạnh làm thị giả cho tôi. Đối với
sự hành trì của hai vị ấy, các cư sĩ phê bình
Ngộ Chiếu khinh phước, không biết tiếc
phước, gọi điện thoại quá lâu, gọi
điện thoại quốc tế về Đài Loan, cầm
điện thoại nói cả nửa tiếng
đồng hồ hay một tiếng đồng hồ,
quá đáng! Sau này, khi hóa đơn điện thoại gởi
về, quý vị nghĩ trong tâm người ta sẽ cảm
thấy như thế nào? Giống người xuất gia ở
chỗ nào? Vị này rất thông minh, phản ứng rất
lẹ làng, tôi và Quán Trưởng đều rất tán
thưởng ông ta. Đối với chuyện ông ta bỏ
đi, Quán Trưởng nuối tiếc sâu đậm, chúng
tôi cũng mong giữ được ông ta ở nơi
đây, chúng tôi thật sự không muốn để ông ta
đi, nhưng thần hộ pháp đẩy đi! Ông ta rời
bỏ nơi này của chúng ta hoàn toàn chẳng phải do ý
của tôi và Quán Trưởng, chúng tôi đều mong mỏi
ông ta có thể chất phác tu học siêng năng và đạt
thành tựu trong Tăng đoàn chúng ta. Khăng khăng không
nghe, cứ muốn đi, khuyên thế nào ông ta cũng không ở
lại. Do vậy, tôi bảo Quán Trưởng: “Đừng
buồn, thần hộ pháp đẩy đi, đây là chuyện
không làm chi được hết! Không biết tiếc
phước, thần hộ pháp đẩy đi ấy mà!”
Những chuyện giống như vậy đều thuộc
về giới trộm cắp, quý vị làm quá đáng rồi!
Do vậy, phải quý tiếc đồ dùng công cộng.
Tam
nhị, dân vật.
(Ba
mươi hai, đồ vật của dân)
“Dân vật” là mọi đồ
đạc của dân chúng. Tôi vừa mới
nói đó, chúng ta đến nhà cư sĩ, được
người ta tiếp đãi, hết thảy những vật
dụng trong nhà người ta chúng ta phải yêu quý như
đồ vật thuộc về thường trụ, vậy
mới là đúng!
Tam
tam, nhất thiết vật.
(Ba
mươi ba, hết thảy vật)
“Nhất thiết vật” là những
vật thuộc về quỷ thần, cầm thú, thường
gọi là “vật vô chủ”, thật ra là không phải không
có chủ, chẳng qua chúng ta không thấy được
đó thôi. Nêu một ví dụ, chẳng hạn như cây cối,
cây cối là vật thuộc quỷ thần. Trong Giới
Kinh có nói, cây cao hơn chiều cao một người đều
có quỷ thần nương gá trong ấy. Quỷ thần
không có chỗ ở, sống trong cây, chúng ta kêu là “thọ thần”
(thần cây). Cây nào có thần? Mà chính là quỷ thần sống
nương gá vào chỗ ấy.
Trước
kia, người xuất gia sống trên núi cất một lều
tranh, dùng vật liệu ngay nơi ấy. Do vậy, quý vị
phải nhớ kỹ: Người xuất gia chuyện gì
cũng phải biết. Chớ có nói chuyện này không biết,
tợ hồ tỏ vẻ chính mình thanh cao, lầm rồi!
Giặt quần áo, nấu cơm, may vá, ngay cả cất
nhà, dựng lều tranh, xưa kia đều do chính mình làm.
Dựng lều tranh đương nhiên phải đốn
cây để làm vật liệu. Trong Giới Kinh nói: Ba hôm
trước khi đốn cây phải đến nơi
đó cúng tế, tụng kinh, niệm chú cho họ, bảo
họ ba ngày sau tôi muốn dùng thứ này làm vật liệu,
xin thần cây dọn nhà, nhường cho tôi, vậy là
đúng pháp. Đấy là cung kính đối với hết
thảy mọi vật.
Cây cối
hoa cỏ đều có thần nương gá; do vậy, chúng
ta đối với những vật ấy có thể
thưởng thức, nhưng chớ nên chấp trước,
chớ nên yêu thích chúng quá đáng. Yêu thích quá đáng, yêu thích
hoa thì đời sau có thể biến thành thần hoa; yêu
thích cây có thể biến thành thần cây. Vì vậy, Phật
dạy chúng ta đối với hết thảy vạn vật
đều phải dùng tấm lòng bình đẳng để
đối đãi, chớ nên ham đắm, vật gì chúng
ta dùng đến nó chớ nên ham đắm, phải buông bỏ
được. Hễ ưa thích một thứ gì sẽ biến
thành một loại ham đắm, phiền phức lớn
lắm! Người xuất gia có kẻ ưa thích tượng
Phật, tượng Phật xưa có giá trị vô cùng, coi
như đồ quý báu để tom góp, chẳng chịu
buông bỏ. Đời sau sẽ đi về đâu? Tượng
Phật lại chẳng thể sanh con đẻ cái, trong
tượng Phật có ký sinh trùng, trong tượng Phật
có chuột. Chúng tôi có lần sống ở chùa Long Hoa tại
Hương Cảng, trong tượng Phật có ổ chuột.
Nếu quý vị yêu mến quá mức không bỏ được,
tương lai sẽ biến thành loại ấy. Trong chùa
miếu có gián, có chuột là do đâu? Đều là những
hòa thượng đời trước không bỏ
được, lưu luyến nơi ấy, biến thành
những loài đó! Ưa thích sách thì trong sách có loài mọt
sách, sẽ biến thành loài mọt sách. Đấy đều
là sự thật!
Do vậy,
chúng ta phải đổi cái tâm hoan hỷ đó, nhất
tâm nhất ý ưa thích A Di Đà Phật, ưa thích Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đó là
đúng! Lúc lâm chung, ý niệm nào mạnh, ý niệm có sức
mạnh hơn sẽ lôi quý vị đi đầu thai
trước hay đi thọ sanh trước. Người
niệm Phật chẳng thể vãng sanh là vì có tâm tham luyến
đối với pháp thế gian, ắt [là vì] có chuyện
không buông xuống được, đấy chính là cội
nguồn khiến quan trọng đến cùng cực, cội
nguồn của việc người ấy chẳng thể
vãng sanh. Vì vậy, mọi việc buông xuống hết,
điều gì cũng dùng được nhưng chẳng
chấp trước một điều gì, khi mất đi
chắc chắn chẳng đau lòng. Vậy là quý vị
đại tự tại rồi! Đấy là đem giới
cấm nói ra, tiếp theo là nói đến những hành vi trộm
cắp.
Tam tứ,
hoặc đoạt thủ.
(Ba
mươi tư, hoặc đoạt lấy)
“Đoạt thủ”, mọi
người thường hiểu lầm điều này, nghĩ
đây đâu phải là trộm cắp, chứ thật ra
đấy là [phạm] giới trộm cắp. Ví dụ
như hiện thời ông Giản Phong Văn đang làm nghề
kiến trúc, chiều hôm qua đến thưa với tôi: “Bạch
sư phụ! Chiều nay con không thể đến nghe kinh
được” “Vì sao?” “Con phải đi tặng bao lì-xì”.
Có phải là cam tâm tình nguyện hay không? Không phải! Chẳng
phải là cam tâm tình nguyện, nhưng không tặng đâu
có được, người nhận lấy đã phạm
giới trộm cắp. Thế nhưng phạm vi [của
giới này] lớn lắm! Quý vị địa vị càng
cao, người ta có chuyện cầu cạnh quý vị, chẳng
thể không biếu xén, nhưng hoàn toàn chẳng phải do
cam tâm tình nguyện, đều thuộc về giới trộm
cắp hết! Người thời xưa làm quan, hai ống
tay áo thênh thang gió mát, quyết định chẳng nhận
những vật gì không nên nhận, quý vị mới hiểu
phạm vi rộng lớn của giới trộm cắp! Hễ
chẳng phải là do tôi cam tâm tình nguyện, mà là bất
đắc dĩ không biếu xén không xong, đấy đều
gọi là “đoạt thủ”
(đoạt lấy), lươn lẹo ỷ thế đoạt
lấy, quý vị không dám không biếu, không dám không bợ
đỡ. Đấy đều là giới trộm cắp.
Tam
ngũ, hoặc thiết thủ
(Ba
mươi lăm, hoặc lén lấy)
“Thiết thủ” là lén lút lấy,
nay chúng ta gọi là “ăn trộm”.
Tam lục,
hoặc trá thủ.
(Ba
mươi sáu, hoặc gạt lấy)
“Trá thủ” là dùng phương
pháp lừa đảo để đạt được,
đều thuộc về trộm cắp. Trong xã hội hiện
thời [chuyện này] rất nhiều: Làm đồ giả
mạo nhãn hiệu [nổi tiếng] để bán kiếm
lời, không thành thật, lừa dối là thuộc về
loại này. Đấy đều là phạm giới trộm
cắp.
Tam
thất, nãi chí thâu thuế mạo độ đẳng,
giai vi thâu đạo.
(Ba
mươi bảy, cho đến trốn thuế, làm đồ
giả, đều là trộm cắp)
Do vậy,
giới trộm cắp này rất nhỏ nhiệm, chẳng
dễ gì giữ được! Có rất nhiều tín đồ
thọ giới xong đến hỏi tôi: “Bạch sư phụ!
Nay chúng con buôn bán, không trốn thuế không thể có lời
được. Mọi người đều trốn thuế,
chúng con làm sao đây?” Đương nhiên tốt nhất là
đừng thọ giới. Thế nhưng không thọ giới
cũng chớ nên làm, vậy làm như thế nào? Tôi bất
đắc dĩ giới thiệu phương pháp của
Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư. Vĩnh Minh Diên Thọ
đại sư lấy trộm, lấy trộm tiền
tài từ công quỹ, để làm gì? Phóng sanh. Không phải
để tự mình hưởng thụ mà là thay thế quốc
gia tu phước, thay thế xã hội tu phước. Chuyện
trộm cắp ấy là [hạnh] Bồ Tát, chứ không phạm
giới trộm cắp, Ngài không mắc tội. Vì sao? Quốc
gia chúng ta không tin Phật pháp, không biết tu phước
báo; đại chúng xã hội không hiểu Phật pháp, không
biết tu phước. Chúng ta trộm lấy một ít
để tu phước thay cho xã hội, tu phước
thay cho quốc gia. Đấy là tâm Bồ Tát, Vĩnh Minh
Diên Thọ như vậy đấy. Như vậy thì
được!
Nếu
trốn thuế để chính mình hưởng thụ thì
quý vị có tội lỗi lớn rồi, vì tiền thuế
thâu từ nhân dân. Quý vị phải hướng về nhân
dân cả nước mà sám hối, khi trả nợ trong
tương lai, nhân dân cả nước đều có phần,
quý vị phải trả khi nào? Chuyện này hết sức
phiền phức! Quý vị ăn trộm của một
người, tương lai trả nợ là trả cho một
người, còn được đi! Quý vị ăn trộm
của dân cả nước, vậy thì phiền quá, đấy
là chuyện rất đau đầu. Vì thế, trộm của
thường trụ và trộm của công, ăn trộm vật
công cộng, tội lỗi ấy nhất định đọa
địa ngục A Tỳ. Nếu các vị ăn trộm
của đối tượng nào đông quá, ăn trộm
của dân cả nước, vấn đề hết sức
nghiêm trọng! Chúng ta ắt phải biết, ắt phải
hiểu rõ.
“Mạo độ” được
giải thích trong phần sau. Chúng ta mở sách xem dòng mười
hai trong trang mười chín, “mạo
độ” là giả mạo. Trong xã hội chúng ta ngày nay
thường nghe đến chuyện làm giả, làm nhái.
Đấy là tham lợi mà xâm phạm quyền lợi của
người khác. Đấy đều thuộc về trộm
cắp.
Chúng ta hiểu
rõ đạo lý này, phạm vi của nó hết sức rộng
lớn, hết sức tỉ mỉ. Sau khi thật sự
hiểu rõ xong, người ấy nhất định sẽ
hết sức yêu mến vật dụng thuộc thường
trụ, hết sức quý tiếc thiết bị công cộng,
coi vật của thường trụ và đồ công cộng
nặng gấp mười lần đồ của chính
mình không chừng. Nhất định phải hiểu
điều này, đây là đạo lý chân chánh, là sự thật
chân chánh. Bất luận quý vị có thọ giới hay
không, nếu quý vị phạm thì đều mắc tội,
mà tội còn rất nặng! Tiếp theo là nêu những quả
báo do phạm tội trộm cắp:
Tam
bát, kinh tải nhất sa-di đạo thường trụ
quả thất mai, nhất sa-di đạo chúng tăng bính
sổ phiên, nhất sa-di đạo chúng tăng thạch mật
thiểu phần, câu đọa địa ngục.
(Ba
mươi tám, kinh chép một sa-di trộm bảy trái cây của
thường trụ, một sa-di lấy trộm mấy cái
bánh của chúng tăng, một sa-di ăn trộm chút thạch
mật của chúng tăng, đều đọa địa
ngục)
Những
chuyện này phát xuất từ kinh Phật. Chúng ta thấy
[ăn cắp] rất ít, trong phần chú giải sau đó
đã viết rất tường tận, quý vị hãy tự
xem. “Kinh tải nhất sa-di
đạo thường trụ quả thất mai”. Vị
sa-di này cũng kể như là có lòng tốt, ăn trộm
bảy trái cây để cúng dường sư phụ, “nhất sa-di đạo tăng
bính sổ phiên” ăn trộm mấy tấm bánh nướng.
“Nhất sa-di đạo chúng
tăng thạch mật thiểu phần”: Thạch mật
là đường mía, giống như đường phèn
hiện thời, từng khối từng khối một,
giống như đá vậy. “Câu
đọa địa ngục” (đều đọa
địa ngục), quý vị thấy chuyện nhỏ xíu
xiu như vậy, chẳng đáng kể chi, vì sao mắc tội
nặng như vậy? Quý vị phải biết là vì những
đồ ấy là vật thuộc thường trụ, là
vật của chúng tăng, chứ không phải của một
cá nhân. Quý vị ăn trộm của một cá nhân, không mắc
tội nặng dường ấy, trả nợ cũng dễ
dàng, sám hối cũng thuận tiện. Quý vị phải
hiểu: Thường Trụ, Tăng Chúng không chỉ là một
tăng đoàn của chúng ta vì Tăng không có giới hạn,
người xuất gia trong tận hư không trọn pháp
giới là một Tăng đoàn. Do vậy, “phá hòa hợp
Tăng” là trọng tội!
Tuy chúng
ta ngày nay là trên hình thức, khi mọi người xuất
gia đến nơi chúng ta không thâu nhận họ, đây là
thời kỳ bất thường, là biện pháp tạm
thời. Người thật sự xuất gia thật sự
có lòng tốt, chúng ta cầu còn không được, hoan
nghênh họ đến còn không kịp. Do vậy, chúng ta quả
thật là Tăng đoàn thật sự, quả thật là
thập phương đạo tràng; hiện thời giống
như biện pháp bất đắc dĩ trong thời kỳ
chiến tranh, loạn lạc, trong thời kỳ bất
thường, để bảo vệ sự an toàn của
tăng đoàn chúng ta nên mới làm như vậy. Đấy
là chánh xác! Vì thế, đây là thời kỳ không bình thường,
là thủ đoạn bất thường. Nhưng phải
nhớ kỹ, hết thảy những gì được
trang bị trong Tăng đoàn chúng ta đều thông khắp
mười phương, đều trọn khắp pháp giới,
chúng ta và trọn khắp hư không pháp giới cùng là một
thể thì quý vị mới hiểu khi trộm một cây
kim, một ngọn cỏ, tội ấy đều là A Tỳ
địa ngục!
Nếu
đạo tràng của chúng ta đây do tư nhân thiết lập,
do tôi truyền cho đồ đệ của tôi, truyền
cho đồ tôn của tôi, gọi là “tử tôn đạo
tràng” (đạo tràng truyền cho con cháu) thì tội lỗi
chẳng nặng nề đến thế, mà nhẹ thôi! Vì
sao vậy? Đạo tràng này của quý vị là một gia
đình, là một gia tộc, chẳng thông khắp mười
phương, chẳng thông khắp ba đời, nên kết
tội khác nhau.
Trong xã hội hiện thời, tử
tôn đạo tràng rất nhiều. Đạo tràng này của
chúng ta không phải là tử tôn đạo
tràng, đạo tràng này do đại chúng quyên tặng cúng
dường, không phải do một người bỏ tiền
ra, không phải do một người làm chủ. Ở
Đài Loan có một người, gia tộc của chính ông
ta có tiền bèn lập ra một đạo tràng. Tuy tạo
dựng một đạo tràng, ông ta cũng nhận hết
thảy cúng dường của tín đồ, chẳng hiểu
cách tính sổ sách trong đó ra sao, chúng ta cũng không biết
tính toán, nhưng nhất định biết tính toán sổ
sách.
Vì thế,
thập phương thường trụ là trân quý nhất,
chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ. Chuyện
cảm ứng trong đạo tràng của chúng ta rất nhiều,
nhưng chúng tôi không nói, trên những bản tin chúng ta
cũng không viết. Vì sao? Đạo tràng chánh pháp không làm
những chuyện ấy. Hiện thời rất nhiều
đạo tràng dùng những chuyện cảm ứng để
dụ hoặc tín đồ. Trong những chuyện cảm
ứng của chúng ta thì có rất nhiều quỷ thần
thỉnh cầu muốn đến đạo tràng của
chúng ta, chuyện này thường xảy ra. Năm trước
vào đúng mồng một Tết, chín giờ sáng gọi
điện thoại muốn vào trong đạo tràng của
chúng tôi, chúng ta thờ bài vị của vị đó tại
đây. Chuyện này chúng tôi thường chẳng kể ra,
đều không nhắc đến. Quý vị nói đạo
tràng này không thù thắng, vì sao [quỷ thần] khăng
khăng đến đây? Yêu cầu được đến
đây? Quán Trưởng nói: “Vì sao gọi điện thoại
cho tôi?” Tôi nói: “Bà là chủ nhân, bà đồng ý mới
được! Gọi điện thoại cho tôi, vô ích! Nhất
định phải gọi bà, bà bằng lòng vị ấy mới
vô được chớ!” Chuyện kiểu này rất nhiều.
Quý vị mới hiểu rằng đạo tràng này quả
thật được chư Phật hộ niệm, long
thiên ủng hộ. Quý vị chớ nghĩ rằng cánh cửa
đó mở toang, [nếu] chúng ta ở đây không đồng
ý, mọi quỷ thần không vào được! Họ yêu
cầu chúng ta chấp thuận, thờ bài vị, họ mới
vô đây được, nhưng chúng tôi không nói ra. Những
đạo tràng có chuyện nhỏ nhặt đều tuyên
dương rầm rộ; không có thì bịa đặt
đồn thổi, mục đích của họ là gì? Mong mỏi
tín đồ đều tới. Phàm là những chuyện cảm
ứng ấy, một chữ chúng tôi không nhắc tới,
chỉ có một số ít thường tới đây là biết,
quyết định chẳng tuyên dương. Mọi
người nỗ lực tu học, tương lai đều
có thành tựu. Vì thế, với phần chú giải ở
chỗ này, bản thân [quý vị] nhất định phải
xem kỹ. Chúng ta xem đoạn ba mươi chín:
Tam cửu,
cố kinh vân: “Ninh tựu đoạn thủ, bất thủ
phi tài”.
Tứ thập.
Y! Khả bất giới dư!
(Ba
mươi chín, vì thế kinh nói: “Thà chặt tay, chẳng lấy
của sai trái”.
Bốn
mươi! Ôi! Chẳng nên răn dè ư!)
Phải
biết lợi - hại ở chỗ này, rồi quý vị
mới biết tu phước ra sao, tiếc phước
như thế nào, vun bồi phước như thế nào,
quý vị mới có thể phước huệ song tu. Quý vị
không biết, không hiểu rành cách tu phước huệ song
tu ra sao? Đúng là “tu mù luyện đui”. A! Hôm nay hết giờ
rồi, chúng tôi giảng tới đoạn này.
Hỏi: “Nhược
đạo tha kinh quyển, kế chỉ mặc trị phạm
tội” (Hỏi: Nếu trộm quyển kinh của
người khác, tính tội đã phạm theo giá trị của
giấy và mực), dường như tội không nặng
lắm! Phía trước nói: “Đạo
tăng man vật giả, quá sát bát vạn tứ thiên phụ
mẫu đẳng tội” (trộm tràng hoa của Tăng,
tội nặng hơn giết tám vạn bốn ngàn cha mẹ),
sao mà sai biệt quá xá vậy?
Đáp: “Đạo tha kinh quyển” là
vật của một người thôi, nên tội rất nhẹ.
Một quyển kinh bao nhiêu tiền, tôi chỉ thiếu quý
vị bao nhiêu đó tiền. Tôi trả quý vị cũng tiện
lắm. Nhưng vật của thường trụ thì nặng
nề lắm! Vật của thường trụ là gì?
Thường trụ là mỗi một người đều
có phần. Ví dụ như một quyển kinh của
thường trụ là mười đồng, đấy
là của thường trụ, quý vị ăn trộm.
Thường trụ có bao nhiêu người? Vừa mới
nói đấy thôi, đạo tràng này của chúng ta thông khắp
mười phương ba đời, chẳng biết rõ
con số nữa! Quý vị thiếu mỗi người
mười đồng, quý vị cũng không biết rõ [con
số là bao nhiêu nữa]. Nếu quyển kinh này là của
cá nhân tôi, quý vị lấy trộm, quý vị trả cho tôi
mười đồng là xong rồi. Nặng - nhẹ khác
nhau như vậy đó!
Vì thế,
vật của thường trụ quyết định chẳng
được trộm, vật thuộc công cộng chớ
nên ăn trộm. Nếu khi quý vị ăn trộm đồ
vật công cộng, nếu vật ấy do quốc gia lắp
đặt, quý vị kết tội với dân cả nước.
Nếu do chính quyền Đài Bắc lắp đặt, quý
vị kết tội với người dân cả thành phố
Đài Bắc. Vậy là phiền phức lắm, nặng vậy
đó! Vì thế, ăn trộm của một người
tội rất nhẹ, ăn trộm vật của thường
trụ kết tội nặng nề. Quý vị thấy một
sa-di ăn trộm bảy trái cây, có đáng kể chi, vì sao
đọa địa ngục? Do là vật của thường
trụ! Một cây kim, một cọng cỏ tội thuộc
về vật của thường trụ tội đều
nặng cả, thuộc về một cá nhân thì tội rất
nhẹ; do vậy, chớ nên trộm vật của thường
trụ. Quyết định chẳng được ăn
trộm vật thuộc công cộng, mắc tội rất
nặng. Người ta thường không hiểu, chẳng
biết đạo lý này, tự cậy mình thông minh, gây tạo
tội nghiệp lớn lao, quả báo trong tương lai
chẳng thể nghĩ tưởng được!
SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC
TRỌN BỘ
[1] Đảnh cách có nghĩa là in một
dòng cao hơn những dòng khác, những dòng kế đó in
thấp xuống một chữ.
[2] Lục phàm: thiên, nhân, A Tu La, súc sanh,
địa ngục, ngạ quỷ.
[3] Hiền Thủ Ngũ Giáo (ngũ giáo
theo cách phán định của ngài Hiền Thủ): Ngài Hiền
Thủ chính là tam tổ của tông Hoa Nghiêm. Ngài phán định
giáo pháp của đức Phật được chia thành
năm loại, tức là: Tiểu Thừa Giáo (ngu pháp Thanh
Văn giáo), Đại Thừa Thỉ Giáo (Quyền giáo),
Đại Thừa Chung Giáo (Thật Giáo), Đốn Giáo,
Viên Giáo (theo Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương, quyển 1). Sở dĩ gọi
là Hiền Thủ Ngũ Giáo để phân biệt với
Ngũ Giáo được phán định bởi ngài Khuê
Phong Tông Mật cũng thuộc tông Hoa Nghiêm.
[4] Tứ Giáo là cách phán định giáo pháp của tổ
Trí Khải (Trí Giả đại sư) tông Thiên Thai, gồm:
Tạng, Thông, Biệt, Viên.
[5] Tam luân thể không: Bản thể của
người thí, người nhận, vật được
bố thí đều là không.
[6]
Trong Đại Tạng Kinh có hai bản Phật Thuyết Vị
Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh:
1. Bản
thứ nhất gồm một quyển được dịch
vào thời Đông Hán, tên người dịch đã thất
lạc. Vị Tằng Hữu chỉ thiện căn của
Như Lai rộng lớn, hiếm có. Kinh này xiển
dương công đức vô lượng của việc kiến
tạo Phật tháp và Phật tượng.
2. Bản
thứ hai gồm 2 quyển, do ngài Đàm Cảnh dịch
vào thời Nam Tề. Nội dung tường thuật chuyện
Phật sai Mục Kiền Liên đến thành Ca Tỳ La
thuyết phục Da Du Đà La cho La Hầu La xuất gia. Rồi
đức Phật giảng cho vua Ba Tư Nặc và đình
thần công đức của việc nghe pháp, lại giảng
cho bốn tên “thạch nữ” (đàn bà không thể có con
được, thân hình ô dề, thô kệch, sức vóc
như đàn ông, chuyên lo khiêng kiệu cho hoàng hậu, phi tần)
hiểu do nghiệp báo nào họ lại là thạch nữ,
cũng như nói những phương tiện Khai - Giá của
Ngũ Giới cho vương tử Kỳ Đà nghe.
Bản
kinh được hòa thượng Tịnh Không nhắc
đến ở đây chính là bản kinh thứ hai.
[7]
Chư Kinh Yếu Tập còn có tên là Thiện Ác Nghiệp Báo
Luận, do ngài Đạo Thế (có thuyết nói là ngài
Đạo Tuyên là tác giả) được soạn vào
năm Hiển Khánh thứ tư (659) đời Đường.
Tác phẩm này bao gồm những trích
đoạn quan trọng từ các kinh, nhưng chú trọng
nhiều nhất về nghiệp báo thiện ác, rồi chia
thành từng loại. Sách gồm 20 quyển, chia thành 815 tiểu
mục. Sách này có tính chất gần như một tiểu
từ điển bách khoa về Phật giáo. Dựa trên cấu
trúc và ý tưởng của sách này, về sau, Pháp Uyển
Châu Lâm được biên soạn chi tiết và đầy
đủ hơn.
[8] Cụ Túc Giới (Upasampana), còn phiên là Ô
Ba Bát Na, dịch nghĩa là Cận Viên (gần với sự
viên mãn), tức là thân cận với Niết Bàn. Đôi khi
còn dịch là Cận Viên Giới, Cận Cụ Giới, hoặc
chỉ gọi vắn tắt là Đại Giới, tức
là giới luật của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. So sánh với
giới của Sa Di, giới phẩm Tỳ-kheo phức tạp,
chi tiết hơn nên gọi là Cụ Túc Giới. Tỳ kheo
có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới. Các nước theo
truyền thống Đại Thừa và chịu ảnh
hưởng của Phật giáo Trung Hoa dùng Tứ Phần
Luật làm căn bản cho Cụ Túc Giới. Muốn
được thọ Cụ Túc Giới, giới tử phải
thân thể khỏe mạnh, các căn đầy đủ,
không bị đui, mù, câm, điếc v.v.. không phạm tội,
không phạm giới hủy nhục Tỳ-kheo-ni, Sa-di-ni
v.v… tuổi từ 20 đến 70.
[9]
Tam Đàn Đại Giới là giới đàn truyền cả
ba cấp giới cho giới tử gồm: Sơ Đàn:
Truyền Sa Di, Sa Di Ni Giới; Nhị Đàn: Truyền Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo ni giới; Tam Đàn: truyền xuất gia Bồ
Tát Giới. Theo truyền thống của Phật giáo Trung
Quốc, người xuất gia phải thọ đủ
cả ba giới đàn này mới được coi là
người xuất gia có tư cách Đại Thừa. Thời
gian truyền giới thường bắt đầu từ
hôm 30 tháng trước đến 14 tháng sau. Một đại
đàn truyền giới như vậy phải có một vị
Đắc Giới hòa thượng, Yết Ma A Xà Lê Sư,
Giáo Thọ A Xà Lê Sư, gọi chung là “tam sư hòa thượng”,
ngoài ra là bảy vị tôn sư chứng minh. Do đó, có thuật
ngữ “tam sư thất chứng”.
[10] Thành Thật Tông có tên gọi này là do lấy
bộ Thành Thật Luận của ngài Ha Lê Bạt Ma
(Harivarman) làm kinh điển chủ yếu. Ngài Ha Lê Bạt
Ma sống vào khoảng từ bảy trăm cho đến
tám trăm năm sau khi Phật nhập diệt. Thoạt
đầu, Sư học giáo nghĩa Tiểu Thừa của
bộ phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ với
Cứu Ma La Đà, rồi học tập các bộ giáo
nghĩa Đại Thừa, Tiểu Thừa. Bộ Thành Thật
Luận nhằm phê phán lý luận của Hữu Bộ.
Năm Hoằng Thủy thứ 14 đời Diêu Tần
(412), pháp sư Cưu Ma La Thập dịch bộ này sang tiếng
Hán. Môn nhân của ngài La Thập là Tăng Đạo viết
Thành Thật Luận Nghĩa Sớ, Đạo Lãng viết
Thành Thật Luận Sớ. Về sau, ngài Tăng Đạo
đi về phương Nam, hoằng pháp mạnh mẽ,
chuyên giảng Tam Luận và Thành Thật Luận. Đồng
thời, ngài Huệ Long do được Tống Minh Đế
cầu thỉnh cũng giảng luận này. Giới
tăng sĩ, trí thức Trung Hoa thời ấy đặc
biệt yêu thích Thành Thật Luận nên có rất nhiều vị
pháp sư giảng luận này, ngoài ra còn có Trí Tạng soạn
Thành Thuật Luận Đại Nghĩa Ký, Thành Thật Luận
Nghĩa Sớ, Viên Đàm Doãn soạn Thành Thật Luận
Tụ Sao, Hồng Diệm soạn Thành Thật Luận Huyền
Nghĩa… Hứng thú đối với Thành Thật Luận
của Phật Giáo Trung Hoa kéo dài mãi đến đời
Đường. Ngay cả ngài Huyền Trang trước
khi sang Thiên Trúc thỉnh kinh cũng từng học luận
này với ngài Triệu Châu Đạo Thâm. Sau khi các bộ
luận như Thập Địa Kinh Luận, Nhiếp
Đại Thừa Luận được phiên dịch,
ngài Đạo Tuyên, một môn đệ nổi tiếng của
ngài Huyền Trang phán định tông này thuộc Tiểu Thừa,
vì không vượt ngoài trình độ lý luận của hệ
thống Tỳ Bà Sa, hứng thú nghiên cứu đối với
bộ luận này giảm dần và đến giữa
đời Đường hầu như không còn ai giảng
giải nữa. Tông này mất hẳn. Giáo nghĩa chính yếu
của tông này có thể tạm nêu như sau: Nhân không và pháp
không, tức là ba đời thật có nhưng quá khứ, vị
lai không có bản thể thật sự, chỉ là thể dụng
của pháp hữu nhân duyên sanh trong từng sát-na. Pháp do nhân
duyên sanh, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng
phải thường, chẳng phải đoạn, chủ
trương Trung Đạo. Tông này phủ nhận thuyết
Trung Ấm, chủ trương thánh đạo bất
thoái, tức là A La Hán vĩnh viễn đoạn được
ái căn nên không thoái chuyển. Tứ Đại là giả
danh, nếu lìa sắc thì không có Tứ Đại. Các
căn là giả danh, lìa Tứ Đại sẽ không có các
căn v.v… Tông này chia chi ly các hiện tượng giả hữu
thành 84 pháp. Nói chung, tông này chủ trương Không Tánh theo
kiểu Chiết Pháp Không, tức là chia sự vật nhỏ
nhặt đến vi trần, rồi chia vi trần thành nhỏ
mãi đến thành hư không; nhưng không phải là “chân
không diệu hữu” như trong Duy Thức. Trong cách lập
luận của tông này, có dung hợp rất nhiều giáo
nghĩa của Bát Nhã, Pháp Hoa, nên trong một thời gian
dài, nó được coi là một tông phái Đại Thừa.
[11]
Câu Xá Tông là tông phái y cứ vào luận Câu Xá mà thành lập.
Thành Thật Tông được gọi là Không Tông, còn Câu Xá Tông
gọi là Hữu Tông. Câu Xá Luận gọi đủ là A Tỳ
Đàm Đạt Ma Câu Xá Luận do ngài Thế Thân trước
tác, tổng hợp các giáo nghĩa từ Đại Tỳ
Bà Sa Luận và giáo nghĩa của Kinh Lượng Bộ,
phê phán giáo nghĩa Nhất Thiết Hữu Bộ. Bộ luận
này do ngài Chân Đế dịch vào năm Thiên Gia đời
Trần (564), Ngài còn soạn sớ chú thích. Các vị Huệ
Khải, Huệ Tịnh, Đạo Nhạc cũng soạn
sớ giải. Năm Vĩnh Huy thứ sáu đời
Đường (654), pháp sư Huyền Trang dịch lại
bộ luận này. Môn nhân là Thần Thái, Phổ Quang, Pháp Bảo
đều viết chú giải. Chính bản dịch của
ngài Huyền Trang và ba bộ chú giải của môn nhân mới
là kinh điển y cứ căn bản của tông này. Từ
sau thời Đường, tông này dần dần thất
truyền, dù đã được truyền sang Nhật.
Ngoài Câu Xá Luận, tông này còn lấy Tứ A Hàm và Đại
Tỳ Bà Sa Luận, A Tỳ Đàm Tâm Luận, Tạp A Tỳ
Đàm Tâm Luận làm kinh điển y cứ. Giáo nghĩa
tông này chủ yếu thuyết minh chánh lý nhân duyên của
các pháp, phá kiến chấp của phàm phu ngoại đạo,
coi việc đoạn Hoặc để chứng thánh quả,
xuất ly tam giới là mấu chốt. Họ phân định
các pháp gồm hai loại lớn hữu vi và vô vi, rồi lại
phân tích tỉ mỉ thành 75 pháp, tức là Sắc Pháp gồm
11 thứ, tâm pháp 1 thứ, tâm sở hữu pháp 46 thứ, bất
tương ưng hành pháp 14 thứ v.v… Đồng thời,
tông này còn đề xướng giáo nghĩa sáu căn nhân
và 4 trợ duyên, cũng như thuyết minh chi ly về Kiến
Hoặc, Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc v.v… Nói chung, tông
phái này chủ trương các pháp đều thật có,
nhưng lại cho rằng chúng không thường hằng.
Tóm lại, giáo nghĩa rất phức tạp đến nỗi
các học giả Nhật Bản cho rằng giáo nghĩa Tiểu
Thừa tại Trung Hoa thất truyền không phải vì quá
đơn giản, nông cạn như người đời
thường lầm tưởng, mà vì quá phức tạp,
chi ly, quá nặng phần triết học, trở thành huyền
học thanh đàm, thiếu thực tiễn trong việc tu
học, chỉ thích hợp cho những học giả, nên
không thu hút được quảng đại quần chúng
Trung Hoa, Nhật Bản.
[12] Tác phẩm này được gọi là
Ngũ Chủng Di Quy vì gồm có năm phần: Dưỡng
Chánh Di Quy, Huấn Tục Di Quy, Giáo Nữ Di Quy, Tùng Chánh Di
Quy, Tại Quan Cầu Pháp Lục, nội dung tổng hợp
những giáo hóa về xử thế, làm người
cũng như những khuôn mẫu huấn luyện đạo
đức của Nho Gia, chẳng hạn như trong phần
Dưỡng Chánh Di Quy, Trần Hoằng Mưu trích yếu
những phần trong Châu Tử Trị Gia Cách Ngôn, Châu Tử
Đồng Mông Tu Tri v.v… Tác phẩm này được hoàn thành
vào năm Càn Long thứ bảy (1742).
[13] Quét dọn ở đây không có nghĩa
là dọn dẹp nhà cửa mà là tập tành uốn nắn
theo khuôn phép, bỏ đi những thói quen lười nhác, cẩu
thả, vội vàng, bộp chộp.
[14] Khuyên là vẽ một vòng tròn, bên cạnh
một chữ, có ý nghĩa giống như dấu chấm
hiện thời.
[15] Thập Tam Kinh là mười ba bộ
kinh điển trọng yếu của Nho Gia theo Tống
Nho, gồm kinh Thi, kinh Thư, Châu Lễ, Nghi Lễ, Lễ
Ký, Châu Dịch, Tả Truyện, Công Dương Truyện,
Cốc Lương Truyện, Luận Ngữ, Nhĩ Nhã, Hiếu
Kinh, Mạnh Tử
[16] Đây là một bộ sử do Ngô Thừa
Quyền chủ biên, chép tóm tắt lịch sử Trung Quốc
từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến vua
Sùng Trinh nhà Minh.
[17] Thông Giám Tập Lãm, có tên gọi đầy
đủ là Ngự Phê Lịch Sử Thông Giám Tập Lãm, do
các văn thần soạn vào thời Càn Long nhà Thanh, chủ
yếu chép sự kiện lịch sử từ cuối
đời Minh đến cuối thời Ung Chánh.
[18]
Theo nghĩa gốc, Quy và Củ là hai loại thước của
thợ mộc. Quy là thước tròn, Củ là thước
vuông.
[19]
Hoằng Tán (1611-1685) là một vị cao tăng thuộc
tông Tào Động sống vào cuối đời Minh, đầu
đời Thanh, Sư là người xứ Tân Hội, tỉnh
Quảng Đông. Thuở nhỏ Sư học Nho, thông thạo
kinh điển, đến năm 20 tuổi được
bổ làm “học sinh viên” của huyện. Sau khi Mãn Thanh chiếm
Trung Hoa, Sư xuống tóc làm Tăng, chuyên nghiên cứu tu tập
Thiền, tham học với ngài Đỉnh Hồ Đạo
Khâu, được ấn khả. Thoạt đầu,
Sư trụ tại chùa Bảo Tượng Lâm ở Quảng
Châu, sau kế vị ngài Đỉnh Hồ làm trụ trì
chùa Triệu Khánh. Suốt đời Sư chú trọng tu tập
thực tiễn, tuy chuyên tu Thiền, nhưng Sư đau
lòng trước tình trạng tu tập phô trương, sáo rỗng,
khẩu đầu Thiền của chốn Thiền môn thời
ấy, nên tuyệt không bao giờ nói đến Thiền mà
chuyên hoằng dương luật nghi, đề xướng
giới hạnh, coi đó là trách nhiệm của cả
đời mình. Sư thị tịch năm Khang Hy 21 (1685),
thọ 75 tuổi, còn để lại những tác phẩm
như Đỉnh Hồ Sơn Mộc Nhân Cư, Thiền
Sư Sát Cảo, Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết
Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích, Tâm Kinh Luận, Tứ
Phần Giới Bổn Như Thích, Quy Giới Yếu Tập,
Bát Quan Trai Pháp, Lễ Phật Nghi Thức v.v…
[20] Đàm Nhất (692-771) là cao tăng đời
Đường, người xứ Sơn Âm, xuất gia
vào niên hiệu Cảnh Long, tinh thông nội điển lẫn
ngoại điển. Lúc đầu, Sư theo học bộ
Hành Sự Sao với ngài Đàm Thắng, sau lên Trường
An, thờ ngài Thái Lãng của tông Tướng Bộ làm thầy,
soạn sách Phát Chánh Nghĩa Ký, xiển dương sự
khác biệt trong giáo nghĩa của hai tông Nam Sơn (Luật
Tông) và Tướng Bộ. Sau Sư về trụ trì chùa
Khai Nguyên ở Cối Kê, trước sau giảng Tứ Phần
Luật ba mươi lăm lần, giảng Hành Sự Sao
hơn hai mươi lần, độ chúng đến
mười vạn người. Người
đương thời xưng tụng Sư là “Nhân Trung
Sư Tử”. Sư thị tịch năm Đại Lịch
thứ sáu, thọ 80 tuổi, đệ tử có những bậc
nổi tiếng trong Luật Tông như Lãng Nhiên, Thần Hạo,
Biện Tú, Đạo Ngang v.v…
[21]
Cửu Thứ Đệ Định (navānupūrva-samāpattayah), có
nghĩa là chín loại Định được tu theo thứ
tự không gián đoạn. Còn gọi là Vô Gián Thiền, hoặc
Luyện Thiền, gồm Tứ Thiền trong Sắc Giới,
Tứ Xứ trong Vô Sắc Giới và Diệt Thọ Tưởng
Định. Do chẳng xen lẫn với những tâm khác,
theo thứ tự nhất định từ định này
tiến vào định kia nên gọi là Thứ Đệ
Định. Do không có niệm khác xen tạp nên gọi Vô
Gián Thiền. Lại do dùng những môn Thiền này để
luyện cho thiền hạnh thanh tịnh, giống như
luyện vàng nên gọi là Luyện Thiền.
[22] Viên Anh (1878-1953) là một vị cao
tăng thời cận đại, người xứ Cổ
Điền, tỉnh Phước Kiến. Pháp danh Hoằng
Ngộ, hiệu Thao Quang. Sư sanh vào năm Quang Tự thứ
4 đời Thanh, mồ côi từ bé. Năm 19 tuổi đến
Cổ Sơn xin xuất gia, chuyên tu theo tông Thiên Thai. Sau sang
chùa Thiên Ninh ở Ninh Ba học Thiền. Năm 26 tuổi,
tham học với Kính An Hòa Thượng chùa Thiên Đồng.
Sau đi giảng kinh khắp vùng Phước Kiến, Chiết
Giang. Năm Quang Tự 32 (1906), Sư quen thân với ngài Thái
Hư, kết nghĩa huynh đệ. Khi ấy, Sư
đã 29 tuổi, Thái Hư mới 18. Sư tận lực tổ
chức Trung Quốc Phật Giáo Hội cũng như vận
động bảo vệ tài sản của tự viện
trước những âm mưu “thâu đoạt chùa chiền
biến thành trường học” của chính quyền Quốc
Dân Đảng. Sư từng đứng đầu hội
Phật Giáo Trung Quốc. Khi cuộc kháng Nhật nổ ra,
Sư tích cực vận động quyên góp thuốc men hỗ
trợ quân đội. Sư đặc biệt chú trọng
sáng lập những cơ cấu từ thiện, phục
hưng chùa chiền các nơi, lập ra những tạp chí
Phật giáo, cứu trợ đồng bào bị nạn.
Tuy bận rộn với công tác tổ chức giáo hội,
Sư vẫn tích cực hoằng pháp, trước tác rất
nhiều, nhất là chú giải kinh Lăng Nghiêm. Trước
tác gồm có Viên Anh Văn Tập, Viên Anh Đại Sư
Pháp Vựng.
[23] Bảo Tịnh (1899-1940) là một vị
cao tăng thời cận đại, người xứ
Thượng Ngu, tỉnh Chiết Giang. Thuở nhỏ
Sư đọc Cao Tăng Truyện bèn có chí hướng
xuất gia. Sau khi tốt nghiệp đại học,
Sư liền xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Về
sau, thân cận Đế Nhàn Pháp Sư để tham học
giáo nghĩa Thiên Thai Giáo Quán. Năm 1927, Sư sáng lập tờ
Hoằng Pháp Nguyệt San, thường qua lại giảng
kinh thuyết pháp ở Thượng Hải, Hàng Châu,
Hương Cảng, Quảng Đông v.v… Sư thị tịch
năm 1940 tại chùa Ngọc Phật tại Thượng
Hải, trụ thế 41 năm. Những trước tác nổi
tiếng nhất của Sư là Đại Thừa Khởi
Tín Luận Giảng Nghĩa, Tu Tập Chỉ Quán Tọa
Thiền Pháp Yếu Giảng Thuật, Phổ Môn Phẩm
Dư Giảng, Phật Di Giáo Kinh Giảng Nghĩa, A Di Đà Kinh Yếu Giải
Thân Văn Ký…
[24]
Tục Pháp (1641-1728), người đời Thanh, quê ở
Nhân Hòa (Hàng Châu), tỉnh Chiết Giang, họ Trầm, tự
Bá Đình, hiệu Quán Đảnh, còn có hiệu là Thành Pháp.
Năm lên chín tuổi xuất gia với ngài Minh Nguyên tại
chùa Từ Vân núi Thiên Trúc, Hàng Châu, thọ Cụ Túc năm 19
tuổi, 20 tuổi bắt đầu giảng kinh,
được ngài Minh Nguyên phó pháp kế tục đời
thứ năm thuộc pháp hệ của tổ Liên Trì Châu
Hoằng. Sư bác lãm kinh điển, dung thông các học
thuyết, không câu nệ. Mỗi lần Sư lên giảng
tòa, tứ chúng tụ về nghe rất rộng. Sư thị
tịch năm Ung Chánh thứ sáu, thọ 88 tuổi, các
đệ tử trứ danh nhất là Bồi Phong, Từ
Duệ, Trung Chánh, Thiên Hoài. Trước tác Sư để
lại gồm những bộ Hiền Thủ Ngũ Giáo
Nghi, Viên Giác Chiết Nghĩa Sớ, Hoa Nghiêm Tông Phật Tổ
truyện v.v.. Tác phẩm Đại Thế Chí Niệm Phật
Viên Thông Chương Sớ Sao của Sư được
coi là tác phẩm chú giải chương Đại Thế
Chí Viên Thông hay nhất từ trước đến nay. Do
ngài trụ trì chùa Từ Vân nên khi nhắc đến ngài,
người ta thường gọi là Từ Vân Quán Đảnh
chứ ít khi gọi thẳng pháp danh.
[25] Khứ Thanh trong tiếng Quan Thoại có
nghĩa là âm đọc lên giọng, nhẹ hơn dấu sắc
của tiếng Việt.
[26] Trong âm Quan Thoại, chữ Dược 藥 có âm đọc
là Yàu. Chữ Nhạo (樂) có ba âm đọc là Nhạc (yuè), Lạc
(lè) và Nhạo (yàu).
[27]
Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật
thuyết Sa Di Thập Giới Nghi Tắc Kinh, do ngài Thi Hộ
dịch, được xếp vào Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng mang số 1473, tập 24.
Ngài
Thi Hộ (Dānapāla), là một vị phiên dịch kinh
nổi tiếng thời Tống. Ngài vốn là người
xứ Ô Điền Nẵng (Udyāna) ở Bắc Ấn Độ,
được người đời xưng tụng là Hiển
Giáo đại sư. Không rõ năm sanh và năm mất.
Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) đời
Tống Thái Tổ, Sư cùng ngài Thiên Tức Tai cùng đến
Biện Kinh (nay là Khai Phong), ngụ tại viện dịch
kinh ở chùa Thái Bình Hưng Quốc, tận lực phiên dịch.
Số lượng kinh do Ngài dịch rất nhiều, đủ
mọi thể loại, nổi tiếng nhất là các bộ
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Cấp
Cô Trưởng Giả Đắc Độ Nhân Duyên Kinh, Quảng
Thích Bồ Đề Tâm Luận, Đại Thừa Thập
Nhị Tụng Luận, Lục Thập Tụng Như Lý Luận,
Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại
Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo
Vương Kinh, Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp
Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương
Kinh, Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Độ Kinh, Biến
Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh v.v…
[28] Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc:
Kiến Hoặc còn gọi là Kiến Phiền Não, Kiến
Chướng, hay Kiến Nhất Xứ Trụ Địa.
Những tên gọi này đều hàm nghĩa Kiến Hoặc
là những phiền não, mê hoặc khiến cho hành nhân không
thấy được đạo, mê chấp không thấy
được Tứ Thánh Đế, không thấy
được Phật Tánh. Do khi tu tập thánh đạo,
hành nhân phải đoạn trừ những Hoặc này mới
thấy được tánh nên còn gọi là Tu Hoặc. Theo
luận Câu Xá, Kiến Hoặc về căn bản chính là
mười Sử gồm năm lợi sử (thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm
thủ kiến) và năm độn sử (tham, sân, si, mạn,
nghi). Trong Dục Giới thì với Khổ Đế phải
đoạn cả 10 Sử, Tập Đế và Diệt
Đế mỗi Đế phải đoạn bảy Sử
(tức là loại trừ Thân Kiến, Biên Kiến, và Giới
Cấm Thủ Kiến ra), Đạo Đế có tám Sử
(không có Thân Kiến và Biên Kiến). Do vậy, trong Dục Giới,
phối hợp với Tứ Thánh Đế như trên, ta
phải đoạn 32 phẩm Kiến Hoặc. Với Sắc
Giới và Vô Sắc Giới, cách tính cũng gần giống
như trên, nhưng mỗi Đế đều loại
thêm Sân Sử, do đó mỗi Giới phải đoạn
28 Sử. Do vậy, 32 Sử của Dục Giới + 28 Sử
của Sắc Giới + 28 Sử của Vô Sắc Giới
= 88 món Sử, tức 88 món Kiến Hoặc.
[29]
Tạp Bảo Tạng Kinh (Samyukta Ratnapitaka sūtra), gồm
10 quyển, do ngài Cát Ca Dạ và Đàm Diệu dịch chung
vào thời Nguyên Ngụy, được xếp trong quyển
thứ bốn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh. Kinh này chép về những chuyện liên quan đến
đức Phật, đệ tử Phật và những
duyên sự sau khi đức Phật nhập diệt. Kinh
được chia thành 121 chương, đại bộ
phận là những chuyện liên quan đến đức
Phật. Trong kinh này còn ghi cả cuộc vấn đáp giữa
vua Mi Lan Đà xứ Hy Lạp và Na Tiên Tỳ Kheo khoảng
200 năm sau khi đức Phật nhập diệt, cũng
như những cuộc vấn đáp giữa vua Chiên
Đàn Kế Ni Tra xứ Đại Nhục Chi với tôn
giả Kỳ Dạ Đa. Nói cách khác, kinh này là tổng hợp
của nhiều bài kinh ngắn được trích từ tạng
A Hàm, chủ yếu dùng thí dụ nhân duyên để nêu rõ mối
quan hệ giữa nhân và quả.
[30]
Kinh Luật Dị Tướng do ngài Bảo Xướng soạn,
hoàn thành vào năm Thiên Giám thứ 15 đời Lương
(516), nội dung ghi chép những tướng trạng lạ
lùng hiếm có trong các bộ kinh luật. Thoạt đầu
Lương Vũ Đế sai Tăng Mân sao chép những
chuyện lạ trong kinh luận, sau giao hẳn cho ngài Bảo
Xướng chủ trì và sắc truyền các ngài Tăng
Hào, Pháp Tánh phụ tá. Sách được chia làm hai
mươi mốt loại: trời, đất, Phật, Bồ
Tát, Thanh Văn, quốc vương, hoàng hậu, thái tử,
công chúa, trưởng giả, Ưu Bà Tắc v.v… cho đến
địa ngục. Bộ sách này khá lớn, chiếm đến
năm mươi quyển trong tập năm mươi ba
của Đại Tạng Kinh.
[31] Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ
do ông Nhiếp Vân Đài biên soạn, Hứa Chỉ Tịnh
ghi lời bàn định. Nội dung thâu thập những
câu chuyện trong lịch sử, trích từ các bộ sử
nổi tiếng của Trung Hoa từ Sử Ký cho đến
Minh Sử, khởi đầu bằng chuyện vua Thuấn,
kết thúc bằng chuyện Cáp Lập Ma (tức Karmapa của
Phật giáo Tây Tạng) thời Vĩnh Lạc nhà Minh.
[32]
Ba Tuần (Pāpīyas,
hoặc Pāpman), còn dịch là Ba Duyện,
Ba Duyên, Ba Bệ, Pha Duyện, Ba Tỳ, Bát Bễ. Danh
xưng thường được kinh điển xử
dụng nhất là Ma Ba Tuần hay Thiên Ma Ba Tuần (Mara Pāpman). Dịch ý là Sát Giả, Ác Vật, Ác
Trung Ác, Ác Ái, đều hàm nghĩa ác ma phá hoại thiện
căn và sanh mạng. Theo Thái Tử Thụy Ứng Bổn
Khởi Kinh, quyển thượng, thì Ba Tuần chính là
Thiên Chúa tầng trời thứ sáu trong Dục Giới.
Đại Trí Độ Luận quyển 56 giảng Ma có
tên là Tự Tại Thiên Vương. Theo sách Huệ Lâm Âm
Nghĩa và bộ Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm
Chương, chữ Tuần 旬 đúng ra phải
là chữ Duyện, tức chữ Mục目
dưới bộ Câu bị viết sai thành chữ Nhật
日,
nên Duyện bị ghi sai thành Tuần. Do bị ghi sai lâu
ngày, hầu như không còn sách nào ghi là Ba Duyện nữa!